Thánh Barnabê gốc Do Thái, thuộc chi họ Lêvi, nhưng sinh ra tại đảo Chypre. Ngài đã có dịp 11/06-1
Thánh Barnabê gốc Do Thái, thuộc chi họ Lêvi, nhưng sinh ra tại đảo Chypre.
Ngài đã có dịp nghe Chúa Giêsu giảng và trở nên một trong số 72 môn đệ đầu tiên.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, Barnabê vâng lệnh các Tông đồ đi giảng Phúc Âm tại Antiokia, một địa điềm truyền giáo thịnh vượng nhất thời bấy giờ.
Được đầy Chúa Thánh Thần và nhờ tài lợi khầu, Ngài đã lôi cuốn được nhiều người trở về với Thiên Chúa.
Ngài đã tìm và mời Thánh Phaolô tới giảng day với Ngài tại dây. Sau dó, các Ngài trở lại Giêrusalem, mang theo món tiền quyên được và trao cho các kỳ mục cùng gặp gỡ các vị Tông đồ khác.
Nhưng ý Chúa muốn trao phó cho Barnabê và Phaolô sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, nên các Ngài đã trẩy đi Séleucie và Chypre. Các Ngài được dân bản xứ đón tiếp và tin theo.
Tuy nhiên ở một vài nơi, có những nguòi Do Thái thủ cựu ghen tương, đã thốt ra nhiều lời ngạo mạn đối với các Ngài.
Các Ngài cũng được Chúa ban quyền làm nhiều phép la, chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết sống lại.... đề củng cố lòng tin cúa tân tòng.
Hoat động cúa các Ngài được ghi lại trong sách Công Vụ Sứ Đồ.
Thánh Barnabê cùng vói Marcô ờ lai Chypre, tiếp tục giảng đạo và lãnh phúc tử đạo tại đây.
Chính những người Do Thái từ Syria âm mưu xúi dân ném đá và xử tử Ngài.
Nǎm 488, đời Hoàng đế Zenon, người ta đã tìm được hài côt thánh Barnabê tai Sa-lamine, đảo Chypre.
Ba-na-ba “là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin (Cv11,23). Ngài được sách công vụ 11/06-2
Ba-na-ba “là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin (Cv11,23). Ngài được sách công vụ nhận là Tông Đồ (14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Mười Hai.
Ngài là một người Do Thái, thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lê-vi và tên gọi là Giuse.
Chúng ta không biết lúc nào ngài gia nhập Kitô giáo.
Như Công Vụ ghi, ngài có lòng đại độ: “Giuse, người đã được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là con của sự an ủi, một người Lê-vi, người gốc Ky-prô, có một thửa ruộng, ông đã bán đi và đem bạc đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4,36-37)
Ngài là người hướng dẫn Saolô mới trở lại, đến gặp các vị Tông Đồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27).
Sau này, vào khoảng năm 42, đã tìm Saolô từ Tar-sô đưa sang An-ti-ô-ki-a, làm người cộng sự truyền giáo.
Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất, cả hai đi Ky-prô và mạn nam Tiểu Á.
Cả hai đã đi Giêrusalem dự Công Nghị Tông Đồ, để đấu tranh cho việc người ngoại, một khi gia nhập Ki-tô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật.
Sau đấy, có cuộc tranh cãi giữa hai người, chỉ vì Phao-lô không muốn đem theo Mác-cô, bà con của Ba-na-ba, trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai. Ba-na-ba đã đem Mác-cô đi với mình đến Ky-prô (Cv 15,39)
Theo truyền thuyết sau này, Ba-na-ba bị ném đá chết tại Sa-la-mít (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách đối xử của người được sai đi giảng Tin Mừng: - Công việc sẽ làm: “chữa lành” người đau yếu. - Trừ quỷ. - Tinh thần phục vụ quãng đại: Hãy cho cách nhưng không vì trước đó ta đã lãnh nhận cách nhưng không. - Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ đó. - Cũng đừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ. - Phải đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần”: nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho người ta tin rằng Thiên Chúa và Nước Trời đang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
2. “Chữa lành các bệnh nhân…, làm cho kẻ chết sống lại…, làm cho những người cùi được sạch… trừ quỷ…”: tông đồ là một con người chuyên làm lành: xoa dịu những đau khổ, đem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp đỡ những người bị xã hội khinh chê, giải thoát người ta khỏi tội lỗi…
3. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”: Làm tông đồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho đi.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau: lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì có mặt những người do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhưng sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, Banaba người đỡ đầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ đến sau, một người cấp dưới. Thế mà hôm nay người đến sau và người cấp dưới ấy công khai chỉ trích hai bậc trưởng thượng trước mặt cả người do thái lẫn người lương tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm gương về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần đụng độ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba đã cho Marcô nhập đoàn. Nhưng sau một số gian khổ, Marcô đã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Đến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là để Marcô đoái công chuộc tội. Nhưng Phaolô cương quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất định giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi người dẫn một đoàn truyền giáo riêng đi giảng một hướng riêng. Chuyện bất đồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng được đẩy mạnh hơn. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan điểm của Banaba là hợp lý, đó là ông đã thực sự cứu chữa được Marcô, Marcô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Đoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ trước khi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trong đó lời dặn đầu tiên là “Anh em hãy chữa lành” và lời dặn cuối cùng là “Đến đâu anh em hãy mang bình an tới đó”. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai điều này, Thánh Banaba đã thực hiện rõ nhất hai lời căn dặn này của Chúa:
- Ngài đã cứu chữa Phaolô khi đứng ra bảo lãnh Phaolô trước mặt các tông đồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài đã cứu chữa giáo đoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải được mối e ngại của Giêrusalem đối với những hoạt động truyền giáo của giáo đoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi dưỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ đối với giáo đoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo đoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo đoàn mẹ Giêrusalem, đem đồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc lương dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc lương dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi đụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng được thúc đẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ăn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ đã lỡ một lần lỗi phạm.
7. “Đừng sắm vàng bạc hay tiến đồng để giắt lưng. Đi đường đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy” (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan đã lên đường. Họ tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh đồng Galilê.
Quê hương con, bao thế hệ cũng đã lên đường. Họ kiếm tìm bình đẳng, bác ái và tự do. Họ đấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều người đã bỏ mình vì Nước Chúa.
Còn con… Con cần đội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc đẹp. Con muốn xỏ đôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền năng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách công vụ tông 11/06-3
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách công vụ tông đồ, không phải cho mình, mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách.
Ngài là một người Do thái, được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo hội sơ khai ở Giêrusalem.
Chính ở địa vị này, mà khoảng năm 39, tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27).
Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26).
Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân.
Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo hội Giêrusalem (Cv 27-30).
Nơi đây, hai người lại được Gioan, Marô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn.
Ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14).
Từ đây, Barnaba dần dần ẩn mặt đi.
Dầu Chypre, là sinh quán của Ngài, nhưng chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn đầu cuộc truyền bá Phúc âm.
Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á.
Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes.
Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông.
Ba năm sau, Phaolô trở về và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35).
Năm sau, dự định hành trình truyền giáo thứ hai, có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre.
Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công vụ nữa.
Trong việc trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo hội Côrintô cho thấy: khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5).
Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan.
Tại Milan, Ngài là giám mục tiên khởi.
Một truyền thống đáng tin hơn cho biết: Ngài chết vì ném đá ở Salamis, sinh quán của Ngài.
Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana.
Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công vụ các tông đồ.
Cuốn gọi là thơ thánh Barnaba, mà nhiều giáo phụ chép vào thơ mục thánh kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Người ta nói rằng: mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu, mà chính thánh Barnaba đã chép tay.
Từ thế kỷ XI lễ nhớ thánh Barnaba được cử hành ngày 11 tháng 6 tại Rôma. Ngày tháng này được 11/06-4
Từ thế kỷ XI lễ nhớ thánh Barnaba được cử hành ngày 11 tháng 6 tại Rôma. Ngày tháng này được thống nhất chung cho cả Đông Phương lẫn Tây Phương, kỷ niệm ngày tìm thấy thi hài của người. Kinh Nguyện Thánh Thể của Giáo triều Rôma nêu tên Barnaba cùng với Stêphanô và Matthias.
Trong Công vụ Tông Đồ, ngài được gọi là Joseph và biệt hiệu là Barnaba (người có tài yên ủi). Ngài là một thầy Lêvi, quê quán ở đảo Cypre, xứng đáng mang danh “Tông Đồ” trong Giáo hội tiên khởi. Ngài lấy tiền bán đất đem đặt dưới chân các Tông Đồ (Cv 4, 37). Loan báo Tin Mừng ở Antiochia, thành phố thứ ba của đế quốc Rôma và đã tìm Phaolô thành Tarsus đến với cộng đoàn. Hơn một năm, ngài cùng Phaolô chuyên tâm rao giảng Tin Mừng cho cộng đoàn mới trong thành phố. Nơi đây, các tín hữu lần đầu tiên nhận danh hiệu “Ki-tô hữu”, nghĩa là “môn đệ của Đức Kitô” (tiếng Hy Lạp: Christianos).
Barnaba theo Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất (Cv13,2-4), đi khắp đảo Cypre và khắp bờ biển miền nam Tiểu Á. Nhưng sau Công đồng Giêrusalem, năm 49, Barnaba chia tay Phaolô để cùng người anh em họ Gioan Márcô trở lại đảo Cypre. Các tư liệu xưa cho chúng ta biết ngài đã qua Rôma và bị người Do Thái ném đá gần Salamine. Có lẽ người ta đã tìm thấy thi hài của ngài tại đó, vào thế kỷ V.
Truyền thống xem ngài là một trong bảy mươi môn đệ của Chúa và cho rằng ngài là tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái, cũng như Thư của Barnaba, có lẽ gửi từ Alexandrie. Ngược lại, chắc người ta đã đọc trong Giáo hội tiên khởi một bản Tin Mừng mang tên ngài, nhưng bản Tin Mừng này đã không đến tay chúng ta.
2. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời nguyện nhập lễ lấy lại lời ca ngợi của Công vụ khi gọi Barnaba là “Người đầy ơn Thánh Thần và lòng tin”: Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Barnaba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, vì ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin (Cv 11, 24).
b. Lời nguyện trên lễ vật nhắc đến “tình yêu nồng nàn đã thúc đẩy Barnaba chuyển trao ánh sáng Tin Mừng cho các dân tộc ngoại giáo”. Trước lòng hăng say hoạt động Tông Đồ của Phaolô thành Tarsus, Barnaba không phải là người đứng bên lề do khiêm tốn giả tạo, nhưng ngài muốn dành cho Phaolô tác vụ rao giảng lời Chúa (Cv 14, 12 b). Còn về phần mình, ngài vẫn tiếp tục hợp tác, nêu gương sẵn sàng hy sinh phục vụ. Chính Barnaba là người đi tìm Phaolô ở Tarsus để đưa về Antiochia và cho hội nhập vào một cộng đoàn đang dè dặt nghi kỵ, trước khi cùng nhau đem Tin Mừng cho các dân tộc ngoại giáo sống ở các bờ biển phía nam Tiểu Á.
c. Khi nhắc đến việc Đức Giêsu sai các Tông Đồ ra đi truyền giáo: Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước trời đã đến gần…, bài Tin Mừng Thánh lễ (Mt 10,7-13) cũng gợi lại tinh thần hành động của Hội thánh dựa trên ý muốn của Đấng sáng lập, như được mô tả trong Công vụ (xem bài đọc một: Cv 11, 21..13, 3): Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Barnaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm”. Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.
Như thế việc sai đi truyền giáo được thể hiện như một hành vi trang trọng của Hội thánh (kinh nguyện, chay tịnh, đặt tay…) dâng hiến con người để phụng sự Chúa.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông ðồ. Là một nguời Do Thái sinh truởng tại đảo 11/06-5
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông ðồ. Là một nguời Do Thái sinh truởng tại đảo Sýp vào khởi ðầu của ðạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem truớc khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân ðuợc các thánh tông ðồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là nguời con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.
Sau khi trở lại, thánh Phaolô ðến Giêrusalem, nhung cộng ðoàn tín hữu tại ðây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là nguời ðứng ra bảo ðảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông ðồ, nhung sau ðó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều nãm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông ðồ sai Barnaba ðến Antiokia ðể ðiều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba ðã nhận ra ngay on Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do ðể nối kết hai nguời lại với nhau trong cánh ðồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một nãm. Một trận ðói lớn ðã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô ðã quyên góp ðể mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một nguời bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tuong lai.
Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên ðuờng ði ðến ðảo Sýp, quê huong của Barnaba và từ ðó sang Tiểu Á. Tại một trạm ðầu tiên ở Tiểu Á, Marcô ðã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt ðầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một buớc ði là mỗi một lần bị chống ðối và bách hại từ phía những nguời Do Thái. Những nguời này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông ðồ.
Tại Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một nguời tàn tật, dân thành xem các ngài nhu những vị thần. Họ ðịnh giết bò ðể tế cho các ngài nhung liền sau ðó bị nguời Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thuong tích. Dù bị chống ðối và bách hại, hai vị tông ðồ vẫn hoán cải ðuợc nhiều nguời cũng nhu tổ chức ðuợc giáo ðoàn. Bị nguời Do Thái và dân ngoại chống ðối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khãn ngay cả từ phía cộng ðoàn Giêrusalem. Vấn ðề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này ðã tranh ðấu và cuối cùng ðã tìm ðuợc giải pháp trong cộng ðoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến ði trở lại ðể viếng thãm các cộng ðoàn, Barnaba và Phaolô ðã chia tay nhau mỗi nguời một ngả. Barnaba ði với Marcô ðến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một nguời môn ðệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những nãm tháng còn lại của Barnaba không còn ðuợc nhắc ðến nữa. Nhung cũng nhu thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô ðã trở thành môn ðệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục ðầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào ði nữa, tất cả mọi truyền thuyết ðều gặp nhau trong cùng một ðiểm là xem Barnaba nhu con nguời ðuợc mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô ðầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con nguời tốt, ðầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái ðộ của ngài ðối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và ðại luợng.
Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, ðóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta ðuợc biết ngài là nguời Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông ðồ ðã ðặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông ðồ cai quản.
Mặc dù Barnabas không phải là một nguời trong nhóm Muời Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài nhu vị tông ðồ vì ngài ðuợc lãnh nhận nhiệm vụ ðặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những ðóng góp quan trọng của Barnabas là ngài ðã ðảm bảo cho Saolô, một nguời mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt ðạo của Saolô. Sau ðó, Barnabas ðuợc sai ði rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas ðã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) ðến tiếp tay; cả hai ðã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà lần ðầu tiên các môn ðệ ðuợc gọi là Kitô Hữu.
Chính trong cộng ðoàn siêng nãng cầu nguyện này mà Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô ðể lo cho công việc mà Ta ðã kêu gọi hai nguời ấy. Sau ðó họ ãn chay cầu nguyện, rồi ðặt tay trên hai ông và tiễn ði. Do ðó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến ði truyền giáo ðầu tiên thực sự ở nuớc ngoài, truớc hết ðến Cyprus (là noi họ hoán cải một quan ðầu tỉnh nguời Rôma) và sau ðó ðến lục ðịa Tiểu Á. Lúc ðầu các ngài rao giảng cho nguời Do Thái, nhung bị chống ðối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và ðã thành công lớn. Trong một thành phố, nguời Hy Lạp quá mến mộ các ngài ðến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô nhu các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngãn cản ðuợc ðám ðông hiếu khách ấy ðừng dâng của lễ mà tế các ngài.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn ðề là nguời tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas ðã chống ðối tập tục này và lập truờng của các ngài ðã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.
Barnabas và Phaolô dự ðịnh tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhung ngay tối truớc khi khởi hành, một bất ðồng xảy ra là có nên ðem theo một môn ðệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn ðề này mà hai tông ðồ tách làm ðôi. Phaolô ðem Silas ði Syria, còn Barnabas ðem Máccô ðến Cyprus. Sau này, ba nguời: Phaolô, Barnabas và Máccô ðã làm hòa với nhau.
Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, duờng nhu Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, ðã trở về Cyprus. Ở ðây, theo truyền thuyết, ngài ðã chịu tử ðạo vào nãm 61.
Lời Bàn
Thánh Barnabas ðuợc ðề cập nhu một nguời tận hiến cuộc ðời cho Thiên Chúa. Ngài là nguời ðầy tràn Thánh Thần và ðức tin. Do ðó ðã lôi cuốn một số ðông nguời về với Chúa. Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ tràn ngập niềm vui và Thánh Thần.
Sau khi gọi 12 Tông đồ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng 11/06-6
Sau khi gọi 12 Tông đồ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền, Chúa Giêsu huấn dụ các Tông đồ nhiều điều khi sai các ông đi thực tập truyền giáo.
Trong huấn dụ truyền giáo, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ khi đi truyền giáo thì “đừng mang gì cả”. Người tông đồ của Chúa không được lệ thuộc vào vật chất, nhưng cần nhẹ nhàng thanh thoát như một người lữ hành. Hơn nữa, một người loan báo Tin mừng phải hoàn toàn tin tưởng, phó thác nơi Chúa quan phòng.
Bài Tin mừng hôm nay đặc biệt hoạ lên chân dung của một vị Tông đồ của Chúa Giêsu trong sứ vụ rao giảng Tin mừng: mang sứ điệp Nước trời, chữa lành người đau yếu, sống khó nghèo và đem bình an đến cho mọi người. Vậy Chúa Giêsu sai mười hai Tông đồ đi thực tập truyền giáo tới nơi nào? Dặn dò các ông mang những gì? Truyền cho các ông phải nói gì? Phải có thái độ nào khi người ta tiếp đón hay không tiếp đón, thậm chí còn bị người ta xua đuổi... Đó là những điều chúng ta cần tìm hiểu trong bài này.
Trước hết, Chúa bảo các ông phải rao giảng Nước trời. Đó là nội dung sứ điệp các ông phải giảng dạy. Nước trời đã được Ngài loan báo và thiết lập, nghĩa là với sự xuất hiện của Ngài, Nước trời không còn xa xôi, cũng không còn là lời hứa, nhưng đã hình thành trong thời gian qua sự hiện diện của Ngài, đã đến cùng với Ngài, chính Ngài thiết lập Nước trời ở trần gian.
Tiếp đến là khi đi truyền giáo, Chúa bảo các ông phải hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa, nghĩa là người môn đệ ra đi truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, của cải vật chất, phải thoát ly ra ngoài vòng kiềm tỏa của tiền bạc...
Sau cùng, Chúa cho các ông biết: công việc rao giảng của các ông không dễ dàng, có người chấp nhận, có người không. Vậy các ông phải có thái độ thế nào? Gặp được nhà nào tốt lành chính đáng, niềm nở đón tiếp, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành và biết ơn lòng hiếu khách...
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy một điểm khó hiểu đến phi lý, đó là Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi vào một nơi vô định với hai bàn tay trắng, ngay cả một chút tiền túi cũng không, tất cả đều nằm trong chờ đợi. Thật là nghịch lý và khó hiểu, nhưng đó lại là điều Chúa muốn nơi các môn đệ: Ngài muốn cho họ sống nghèo khó để rồi khám phá ra đâu là sự giàu có đích thực. Người môn đệ nghèo, không phải vì họ không có khả năng làm giàu hoặc không được phép hưởng dùng của cải. Nhưng trong sự nghèo khó, họ sẽ khám phá ra ý nghĩa đích thực của giàu có và cảm nghiệm được tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Và cũng nhờ đó họ sẽ an tâm dồn nỗ lực cho việc rao giảng Tin mừng cứu rỗi (Mỗi ngày một tin vui).
Hôm ấy là lễ thánh Têrêsa Avila, dòng kín Carmêlô tại Lisieux mở cửa cho giáo dân và du khách viếng thăm. Có một người du khách không hiểu lý do đời sống khắc khổ của các nữ tu đã thầm nghĩ: chỉ có những người không đủ ăn đủ mặc mới dấn thân vào đây. Gặp một nữ tu tại hành lang, ông nói: “Này chị, giả như chị có toà nhà sang trọng như toà nhà ở ngoài cổng đối diện với nhà Dòng, chị có thể hy sinh chôn mình trong bốn bức tường Dòng Kín này không?” Chị nữ tu mỉm cười trả lời: “Thưa ông, nhà ấy chính là nhà của tôi”. Quả thật, đó là nhà của chị thánh Têrêsa Hài Đồng mà người du khách hiếu kỳ vừa chất vấn.
Đối với chúng ta ngày nay, mỗi người chúng ta khi nhận phép Rửa tội và phép Thêm sức, chúng ta đều được Chúa mời gọi và sai đi rao giảng Nước trời, tức là rao giảng về Chúa Giêsu, về tình thương của Ngài và những hồng ân của Thiên Chúa, có người bằng việc làm, có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều rao giảng bằng chính đời sống của mình.
Mới đây, với chủ đề nhạc thính phòng, trung tâm ca nhạc Thuý Nga có trụ sở tại Paris đã giới 11/06-7
Mới đây, với chủ đề nhạc thính phòng, trung tâm ca nhạc Thuý Nga có trụ sở tại Paris đã giới thiệu một số nhạc sĩ quen thuộc, trong đó nhạc sĩ Vũ Thành An được chú ý tới một cách đặc biệt. Người ta chú ý đến người nhạc sĩ này không phải vì những “Bài ca không tên” bất hủ của ông hồi trước năm 1975, mà vì cuộc hành trình đức tin mà ông đã chia sẻ trong cuốn băng.
Như một linh mục đứng trên bục giảng trong nhà thờ, nhạc sĩ Vũ Thánh An cho biết ông đã gặp gỡ Chúa Kitô. Với tất cả niềm vui và xác tín của mình, ông đã kể lại cho mọi người nghe tại sao ông đã trở lại với đức tin Công giáo? Tại sao ông đã chuyển hướng để chỉ sáng tác thánh ca và hiện đang phục vụ Giáo hội trong chức Phó tế vĩnh viễn.
Với những khán thính giả ngoài Kitô giáo, những điều chia sẻ của nhạc sĩ Vũ Thành An hẳn là một trong những bài giảng hay nhất và có sức thuyết phục nhất. Dù có dửng dưng và lạnh lùng đến đâu, có lẽ không ai mà không bị đánh động bởi cung cách tuyên xưng và rao giảng Tin mừng một cách vô cùng đơn sơ và cũng vô cùng can đảm của người nhạc sĩ này.
Truyền giáo là chia sẻ niềm tin mà mình đã và đang sống một cách xác tín và triệt để. Có lẽ nhạc sĩ Vũ Thành An đã thực thi đúng mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay: “Các con đã nhận lãnh nhưng không, các con cũng hãy cho nhưng không”.
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách ðối xử của nguời ðuợc sai ði giảng Tin Mừng: - Công việc sẽ 11/06-8
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách ðối xử của nguời ðuợc sai ði giảng Tin Mừng:
- Công việc sẽ làm: chữa lành nguời ðau yếu. - Trừ quỷ.
- Tinh thần phục vụ quảng ðại: Hãy cho cách nhung không, vì truớc ðó ta ðã lãnh nhận cách nhung không.
- Ðừng quá bận tâm ðến những phuong tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ ðó. - Cũng ðừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ. - Phải ðem bình an ðến cho những nguời mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. Các con hãy rao giảng rằng Nuớc Trời ðã ðến gần: nhiều nguời không tin có Thiên Chúa, nhiều nguời nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho nguời ta tin rằng Thiên Chúa và Nuớc Trời ðang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
2. Chữa lành các bệnh nhân , làm cho kẻ chết sống lại , làm cho những nguời cùi ðuợc sạch trừ quỷ : tông ðồ là một con nguời chuyên làm lành: xoa dịu những ðau khổ, ðem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp ðỡ những nguời bị xã hội khinh chê, giải thoát nguời ta khỏi tội lỗi
3. Các con ðã lãnh nhận nhung không thì hãy cho nhung không: Làm tông ðồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi ðã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho ði.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tuớc ðến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 ðồng vàng ðể ngài giúp những nguời nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một nguời ãn xin ðến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa ðộng lòng thuong, lấy cả số tiền 25 ðồng vàng ðem cho nguời ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tuớc ðích thân ðến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì ðã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông ðua tặng thêm 150 ðồng vàng nữa ngoài số 25 ðồng mà ông xin hoàn lại. Từ ðó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, luong thực và quần áo ðể thánh nhân giúp ðỡ những nguời nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba ðều là những tông ðồ nhung cá tính và cách ðối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế ðôi khi hai ông ðụng ðộ nhau: lần thứ nhất là về vấn ðề ãn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội ðã có quyết ðịnh rằng luong dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong ðó có tục lệ phân biệt những món ãn nào sạch những món ãn nào do. Bởi ðó các tông ðồ ðều hòa ðồng với luong dân, ãn chung bàn với họ. Nhung một lần kia vì có mặt những nguời do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô ðã tránh ngồi chung bàn ãn với những nguời luong tòng giáo. Lần ðó Phaolô ðã nổi giận ðứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhung sách thánh không viết gì về phản ứng nguợc lại của hai vị, tức là hai vị ðã nhịn. Phêrô vị lãnh ðạo Giáo Hội, Banaba nguời ðỡ ðầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ ðến sau, một nguời cấp duới. Thế mà hôm nay nguời ðến sau và nguời cấp duới ấy công khai chỉ trích hai bậc truởng thuợng truớc mặt cả nguời do thái lẫn nguời luong tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm guong về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần ðụng ðộ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba ðã cho Marcô nhập ðoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô ðã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Ðến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là ðể Marcô ðoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất ðịnh giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô ðành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một ðoàn truyền giáo riêng ði giảng một huớng riêng. Chuyện bất ðồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng ðuợc ðẩy mạnh hon. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan ðiểm của Banaba là hợp lý, ðó là ông ðã thực sự cứu chữa ðuợc Marcô, Marcô trở thành một tông ðồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi nguời chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Ðoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu cãn dặn các tông ðồ truớc khi sai các ông ði rao giảng Tin Mừng. Trong ðó lời dặn ðầu tiên là Anh em hãy chữa lành và lời dặn cuối cùng là Ðến ðâu anh em hãy mang bình an tới ðó. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai ðiều này, Thánh Banaba ðã thực hiện rõ nhất hai lời cãn dặn này của Chúa:
- Ngài ðã cứu chữa Phaolô khi ðứng ra bảo lãnh Phaolô truớc mặt các tông ðồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài ðã cứu chữa giáo ðoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải ðuợc mối e ngại của Giêrusalem ðối với những hoạt ðộng truyền giáo của giáo ðoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi duỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ ðối với giáo ðoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo ðoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo ðoàn mẹ Giêrusalem, ðem ðồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc luong dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc luong dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi ðụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng ðuợc thúc ðẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ãn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ ðã lỡ một lần lỗi phạm.
7. Ðừng sắm vàng bạc hay tiến ðồng ðể giắt lung. Ði ðuờng ðừng mang bao bị, ðừng mặc hai áo, ðừng ði giày hay cầm gậy (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan ðã lên ðuờng. Họ tức khắc bỏ chài luới mà lên ðuờng. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh ðồng Galilê.
Quê huong con, bao thế hệ cũng ðã lên ðuờng. Họ kiếm tìm bình ðẳng, bác ái và tự do. Họ ðấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều nguời ðã bỏ mình vì Nuớc Chúa.
Còn con Con cần ðội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc ðẹp. Con muốn xỏ ðôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền nãng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
Dù không phải là một trong số muời hai tông ðồ ðuợc Ðức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhung thánh Barnaba 11/06-9
Dù không phải là một trong số muời hai tông ðồ ðuợc Ðức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhung thánh Barnaba ðuợc thánh ký Luca gọi là tông ðồ trong sách Tông ðồ Công vụ của ngài. Vì nhu tông ðồ Phaolô, Barnaba cũng nhận ðuợc từ Thiên Chúa một sứ vụ ðặc biệt. Thánh nhân là nguời gốc Dothái, sinh tại ðảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse nhung các tông ðồ ðổi thành Barnaba. Danh xung này có nghĩa là con của sự an ủi.
Ngay khi trở thành Kitô hữu, thánh Barnaba ðã bán tất cả những gì ngài có và ðem tiền dâng cho các tông ðồ. Thánh nhân là nguời tốt bụng. Ngài rất nhiệt thành hãng say tin yêu Ðức Chúa Giêsu. Barnaba ðuợc sai ðến thành Antiôkia ðể rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành phố lớn thứ ba trong ðế quốc Rôma thời ấy. Tại ðây, những nguời tin theo Ðức Chúa Giêsu lần ðầu tiên ðuợc gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận thấy mình cần sự giúp ðỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài tin rằng Phaolô ðã thực sự ðuợc on trở lại. Chính Barnaba ðã ðứng ra thuyết phục thánh Phêrô và cộng ðoàn Kitô hữu; và ðã xin cho Phaolô ðến làm việc với mình. Barnaba là nguời khiêm tốn. Ngài không ngại chia sẻ nãng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân sủng rất ðặc biệt và ngài muốn thánh nhân có co hội ðể trao ban.
Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh ðã chọn Phaolô và Barnaba ðể thực hiện một sứ vụ quan trọng. Sau ðó không lâu, hai vị tông ðồ ðã lên ðuờng thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài ðã phải chịu nhiều ðau khổ và thuờng hay gặp nguy hiểm ðến tính mạng. Nhung giữa những thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài ðã thuyết phục ðuợc nhiều nguời trở về với Ðức Chúa Giêsu và Giáo hội của Nguời.
Sau ðó, thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác. Lần này với thánh Marcô, nguời bà con với ngài. Họ ði về Cyprô, quê huong của Barnaba. Qua việc rao giảng của thánh Barnaba, rất nhiều nguời ðã trở nên Kitô hữu ðến nỗi Barnaba ðuợc gọi là tông ðồ của ðảo Cyprô. Theo ý kiến chung, nguời ta cho rằng vị ðại thánh này ðã bị ném ðá chết vào nãm 61.
Thánh Barnaba ðã nhận một danh xung biểu hiệu ðúng con nguời của ngài: một nguời tốt luôn luôn khuyến khích nguời khác yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng ta cũng ðuợc trở nên những nguời con của sự an ủi nhu thánh nhân.
Mặc dù thánh Barnaba không phải là một nguời trong nhóm muời hai tông ðồ ðầu tiên của Chúa 11/06-10
Mặc dù thánh Barnaba không phải là một nguời trong nhóm muời hai tông ðồ ðầu tiên của Chúa Giêsu, nhung thánh Luca coi ngài nhu vị tông ðồ, vì ngài ðuợc lãnh nhận nhiệm vụ ðặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Thánh nhân là nguời gốc Do Thái, sinh tại ðảo Síp. Tên của ngài là Giuse, nhung các tông ðồ ðổi thành Barnaba sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông ðồ cai quản. Danh xung này có nghĩa là nguời con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.
Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội. Ngài ðóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Ðồng thời, chính ngài là nguời ðã ðứng ra ðảm bảo về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô truớc mặt cộng ðoàn Kitô hữu khi Phaolô mới trở lại ðạo. Sau ðó, Barnaba ðuợc sai ði rao giảng ở Antiôkia ðể rao giảng Tin Mừng. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnaba ðã xin Phaolô ðến giúp sức cho mình. Cả hai ðã xây dựng một Giáo Hội thật phát triển tại noi ðây. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà "lần ðầu tiên các môn ðệ ðuợc gọi là Kitô hữu".
Sau một thời gian, Chúa Thánh Thần ðã chọn thánh Barnaba và thánh Phaolô ðể thực hiện một sứ vụ quan trọng, ðó là ðem Tin Mừng ðến cho dân ngoại. Do ðó, hai ông ðã khởi hành chuyến ði truyền giáo ðầu tiên ở nuớc ngoài, truớc hết là ðến Síp và sau ðó là ðến lục ðịa Tiểu Á. Lúc ðầu các ngài rao giảng cho nguời Do Thái, nhung bị chống ðối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và ðã thành công lớn. Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh một vấn ðề là nguời tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Thánh Phaolô và Barnaba ðã chống ðối tập tục này và lập truờng của các ngài ðã ðuợc Công ðồng Giêrusalem chấp thuận, tức là những nguời ngoài Do Thái khi rửa tội không buộc phải chịu cắt bì.
Barnaba và Phaolô dự ðịnh tiếp tục công cuộc truyền giáo của mình, nhung ngay tối truớc khi khởi hành, một bất ðồng xảy ra là có nên ðem theo một môn ðệ nữa hay không, là ông Máccô, vị thánh sử tuong lai. Vì vấn ðề này mà hai tông ðồ tách làm ðôi. Phaolô ðem Silas ði Syria, còn Barnaba ðem Máccô ðến ðảo Síp. Sau này cả ba nguời là Phaolô, Barnaba và Máccô ðã làm hòa với nhau.
Tuy không có những dữ kiện rõ ràng, nhung theo truyền thuyết thì thánh Barnaba ðã ðuợc phúc tử ðạo tại Síp vào nãm 61. Ðồng thời, truyền thống Hội Thánh nhìn nhận ngài là vị sáng lập Hội Thánh tại ðảo Síp. Bên cạnh ðó, nguời ta nói rằng mộ Ngài ðuợc tìm thấy nãm 448 và trên ngực ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba ðã chép tay.
Thánh Barnaba là mẫu guong về lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng nuớc Thiên Chúa, và là mẫu guong về một ðời sống khiêm nhuờng, bác ái và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy cầu xin thánh nhân phù trợ cho mỗi nguời chúng ta, ðể trong ðời sống thuờng ngày chúng ta biết quan tâm và chia sẻ Tin Mừng tình yêu của Chúa ðến cho mọi nguời.
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại nguời Sýp, gốc Do-thái 11/06-10
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại nguời Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhung các Tông Ðồ ðã ðổi tên cho Ngài thành Bác-na-ba, nghĩa là nguời có tài yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn ðể trở thành thành viên của nhóm Muời Hai, Ngài cũng là một trong hai ứng cử viên ðuợc ðề cử ðể thế chỗ cho Giu-ða Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Ðồ tổ chức rút thãm thì Ngài ðã không trúng, nhung thánh Mát-thi-a ðã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng ðoàn Giáo hội so khai, Thánh Nhân ðã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vuờn của mình ði, lấy tiền ðem ðặt duới chân các Tông Ðồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là nguời có tài khuyên bảo, ðầy Thánh Thần và Ðức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là nguời bảo lãnh ðể Cộng ðoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem ðón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Ðồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì ðuợc các Tông Ðồ cử ðến Antiochia (tức Antakya ngày nay), Thánh Bác-na-ba ðã trẩy ði Tác-xô ðể tìm Thánh Phao-lô. Sau ðó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt ðộng truyền giáo tại ðó trong suốt một nãm (Cv 11,22-26). Thánh Bác-na-ba cũng ðồng hành với Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo ðầu tiên tới ðảo Sýp, cũng nhu tới vùng Tiểu Á. Cả hai ðã cùng tham dự Công Ðồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Ðồng này, các Tông Ðồ ðã thống nhất quyết ðịnh sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cả ở noi nguời Do-thái lẫn noi nguời gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).
Một cuộc tranh cãi ðã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh Bác-na-ba vì vấn nạn liên quan ðến bổn phận phải tuân giữ những quy luật Do-thái giáo ðối với các Ki-tô hữu gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), và vì Gio-an Mác-cô, nguời em họ của Bác-na-ba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Ðồ ðã chia tay nhau. Sau ðó, Thánh Bác-na-ba cùng với Thánh Mác-cô ðã ðến thãm các Cộng Ðoàn tại ðảo Sýp, quê huong của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền thuyết có tính huyền thoại, Thánh Bác-na-ba ðã chữa lành nhiều bệnh tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, ðể ðặt lên ðầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh Bác-na-ba còn ðến truyền giáo tại Rô-ma, và ðã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này nguời tân tòng ấy ðã trở thành Giám mục của Rô-ma, tức Ðức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài ðến Mi-lan, và ðuợc coi là Giám mục tiên khởi của Giáo ðoàn này. Nhung theo một truyền thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba ðã trở lại ðảo Sýp, và tại ðó, Ngài ðã ðuợc phúc Tử Ðạo thông qua việc bị ném ðá ðến chết.
Một số chuyên gia ðã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Có một bức thu mang tên của Ngài, nhung nó ðuợc coi là mạo danh, và cũng ðuợc xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy Thu. Bức thu này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài nhu là sự tuong ứng và hài hòa với Cựu Uớc; trong thời Giáo hội cổ ðại, bức thu này ðôi khi ðuợc coi nhu thành phần của quy ðiển Tân Uớc. Thực tế thì bức thu ðó ðã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào nãm 130, và với cách giải thích Cựu Uớc có tính bài Do-thái của mình, nên bức thu này không ðuợc công nhận là của Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhung tiếc rằng nó ðã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhung mãi cho tới thế kỷ XVI nó mới ðuợc biên soạn. Theo một truyền thống truớc ðây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba ðuợc coi là tác giả của Thu gửi Tín Hữu Do-thái.
Các Giáo hội Chính Thống ðã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn ðệ do ðích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
Tuong truyền về việc Thánh Bác-na-ba ðuợc huởng phúc Tử Ðạo tại ðảo Sýp xem ra ðáng tin cậy hon. Theo ðó, Ngài ðã ðuợc phúc Tử Ðạo vào khoảng nãm 63 duới thời hoàng ðế Nero, và ðuợc an táng tại ðó trong một hang mộ của một nghĩa trang lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay (phía Ðông ðảo Sýp). Một ngôi Thánh Ðuờng của Giáo hội Sýp ðã ðuợc kiến thiết trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh ðạo của Giáo hội Sýp với Ðức Thuợng Phụ Giáo chủ Antiochia về tính ðộc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Ðồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ ðã ðua ra quyết ðịnh nghiêng về Giáo hội Sýp, nhung Antiochia ðã thu hồi quyết ðịnh ðó.
Theo tuong truyền, vào nãm 477, trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba ðã hiện ra với Ðức Tổng Giám Mục Anthemios của ðảo Sýp, và ðã chỉ cho Ðức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau ðó, thi hài của Thánh Nhân ðã ðuợc tìm thấy. Khai quật ngôn mộ của Ngài, nguời ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua ðời, nguời bạn ðuờng của Ngài là Thánh Mác-cô, ðã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh Bác-na-ba có ðặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Bác-na-ba chép lại. Ðức Tổng Giám mục Anthemios ðã cấp tốc báo cho triều ðình hoàng ðế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua ðó vị Giám mục của Giáo hội Sýp ðã thuyết phục ðuợc nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Sýp ðuợc thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hon Giáo hội Antiochia, và vì thế ðuợc coi là ngang hàng với Giáo hội ðó. Một nguồn suối ðã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này ðuợc cho là có khả nãng chữa lành cũng nhu có khả nãng kỳ diệu, ðặc biệt là ðối với những phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào nãm 1953, một nhà nguyện mới ðã ðuợc kiến thiết ngay trên phần mộ ðuợc cho là của Thánh Bác-na-ba.
Các Thánh Tích của Thánh Bác-na-ba ðã ðuợc tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau trên nuớc Ý, và tại một số noi khác nhu Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs (Ðức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).