Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con. Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa". Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!" Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel. Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. – D0ó là lời Chúa. ---------------------------------
Sống là chấp nhận thuộc về. Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước. Càng: 2/2-1
Sống là chấp nhận thuộc về. Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước. Càng sống con người càng thấy mình thuộc về nhiều hơn. Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc...
Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái tim của họ thuộc về nhau. Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.
Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng mới sinh ra thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa. Cha mẹ cậu phải bỏ ra một món tiền tượng trưng để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16; Xh 13,13)
Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa.
Đức Giêsu đã sống nghiêm túc sự tiến dâng này suốt đời. Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn. Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói: "Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa." (Dt 10, 9)
Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại Đền Thờ, mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49).
Khi chịu phép rửa ở sông Giođan, Đức Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha, được Cha sai vào giữa lòng nhân loại (x. Mc 1,11).
Có biết bao cám dỗ trong những năm rao giảng, cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ. Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho mình, và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra" (Ga 14,10).
"Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì ngoại trừ điều Con thấy Chúa Cha làm" (Ga 5,19).
Đức Giêsu không tự mình nói, tự mình làm, vì Ngài đã vượt qua được cái tôi, và để cho Cha chiếm hữu toàn bộ cuộc sống.
Nếu chúng ta dám nói và làm theo ý Cha, chúng ta sẽ giống Đức Giêsu: thuộc trọn về Thiên Chúa.
Thuộc về Thiên Chúa phải là nền tảng chi phối mọi tương quan của ta với thụ tạo khác.
Cậu bé Giêsu được đưa lên Đền Thờ lần đầu tiên.
Chúng ta thấy một đôi vợ chồng nghèo với đứa con nhỏ, đứng lẫn trong đám đông, chờ đến phiên mình. Ai có mắt để thấy được sự lớn lao của mầu nhiệm?
Si-mê-on: một người công chính và mộ đạo, một người đầy Thánh Thần và sống trong chờ đợi. An-na: một góa phụ già nua phụng thờ Chúa đêm ngày, trong ăn chay và cầu nguyện.
Để thấy Chúa trong cái đều đặn, bình thường, buồn tẻ, cần có một đời sống đạo đức sâu xa.
Chúa có thể gặp ta như một sự tình cờ, nhưng thật ra lại là kết quả của những năm dài chuẩn bị.
Gia đình của Đức Giê-su tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?: 2/2-2
1. Gia đình của Đức Giê-su tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tôn trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se đã chu toàn những tập tục của luật Mô-sê liên quan đến việc hạ sinh Đức Giê-su. Luật Mô-sê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13,2.12-13; Ds 18,15-16). Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên con, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Ma-ri-a đã làm (x. Lv 5,7; 12,8). - Mặc dù biết Đức Giê-su, con của mình, là Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
2. Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pha-ri-sêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giê-su chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giê-su đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: « Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũng nói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: «Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Cv 7,53). - Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3. Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:
• Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này - tương tự như hiến pháp trong một quốc gia - là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Ki-tô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (Lc 10,27); «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh Phao-lô và Gia-cô-bê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Chính Đức Giê-su cũng tuyên bố rất rõ ràng: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,35).
• Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này - tương tự như luật pháp trong một quốc gia - gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp). Ki-tô giáo có vô số điều luật - trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo - nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát «mến Chúa, yêu người» nói trên. Mọi Ki-tô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4. Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Đó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc phải tuân theo. Chính Đức Giê-su đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi. Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Ki-tô giáo là «mến Chúa, yêu người», mà tóm gọn hơn nữa là «yêu người», hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Đức Giê-su thì: «Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23b).
5. Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.
Điều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Đức Giê-su lại đánh giá rằng «không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19), tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng họ lại «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành » (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng «chỉ là giới luật của phàm nhân» (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành «sôi hỏng bỏng không», hay như «công dã tràng»!
Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái «xác của lề luật», là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái «hồn của lề luật», tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ «quân bị nguyền rủa » (Mt 25,41), chỉ vì "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống, v.v...» (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ chỉ toàn lo giữ «luật của phàm nhân»!
Theo tập nhật ký hành hương của bà Egeria người Tây Ban Nha,[1] thế kỷ IV, lễ này được mừng: 2/2-3
Theo tập nhật ký hành hương của bà Egeria người Tây Ban Nha,[1] thế kỷ IV, lễ này được mừng đầu tiên sau lễ Hiển Linh 40 ngày tại Giêrusalem khoảng năm 381-384 trong đền thờ Chúa phục sinh với tất cả vẻ long trọng như lễ Phục sinh. Đến thế kỷ V, lễ này lan ra khắp Đông phương và được gọi là "cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với ông già Simêon", đến thế kỷ VII lan sang Rôma gọi là "lễ Tẩy uế của Đức Maria" mừng vào ngày hai tháng Hai, sau lễ Giáng sinh 40 ngày. Phụng vụ chú ý đến biến cố Mẹ Maria dâng Ấu Chúa trong đền thờ, nên ý nghĩa phụng vụ ngày hai tháng Hai là Lễ Đức Mẹ dâng Chúa hay là Hiến lễ của Chúa Giêsu. Đức Thánh Sergiô I thành lập một cuộc rước cho ngày lễ. Về sau cuộc rước này có tính cách thống hối, nên trước năm 1960, áo lễ Linh mục chủ sự cuộc rước và làm phép nến là áo mầu tím. Lễ nghi làm phép và rước nến bắt đầu từ thế kỷ X tượng trưng Chúa Giêsu là "Ánh Sáng muôn dân" (Lc 2:32).
Năm 1969 lịch canh tân xác định hẳn lễ này là "lễ Đức Mẹ Dâng Chúa".[2]
II. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
1. Thánh Luca cặn kẽ trình thuật biến cố này đã diễn tiến theo luật (Lc 2:22, 23, 24, 39) để chú trọng đến việc Đức Mẹ và Thánh Giuse trung thành tuân hành luật Chúa truyền dạy và việc Chúa Giêsu là Trưởng tử tự hiến và thuộc về Chúa Cha: "Hãy hiến dâng cho Ta mọi con đầu lòng nơi con cái Israel" (Xh 13:2) và "Từ Ai cập, Ta đã gọi Con Ta" (Hs 11:1). Khi dâng Hài Nhi cho Chúa, Đức Mẹ và Thánh Giuse nhận biết Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa đã tuyển chọn (Lc 9:35) và thuộc về dân Do Thái đã được tuyển chọn và hiến thánh (xem Đnl 7:6). Hai sự kiện này ẩn chứa hai mầu nhiệm: Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể theo dòng giống Israel, được tuyển chọn và hiến dâng để cứu chuộc loài người.
Chính Chúa Giêsu tự hiến dâng mình cho Chúa Cha. Ngài nói: "Hy sinh và lễ vật Người chẳng màng, nhưng Người đã nắn nên con một thân xác" (Dt 10:5) để rồi vâng theo thánh ý Chúa Cha, Ngài hy hiến mạng sống để nên giá cứu chuộc loài người, nên Ngài nói: "Này con xin đến" (Dt 10:7). Do đó, Hiến lễ của Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem mở màn cho lễ Hy tế của Ngài sau này trên đỉnh đồi Canvê. Thánh Anphong suy luận: "Mẹ Maria ý thức rõ ràng Chúa Giêsu mà Mẹ dâng hôm nay làm lễ vật, một ngày kia sẽ chịu sát tế trên thánh giá ... Chúa sẽ không phải chịu chết trên thánh giá, nếu Mẹ không ưng thuận tự tình hiến dâng Con."[3]
Chúa Thánh Linh mạc khải cho ông già Simêon (Lc 2:25-26) biết và tiên báo sứ mệnh Cứu thế của Chúa Giêsu: "Mắt tôi đã thấy ơn Người Cứu độ. Người đã dọn sẵn trước mắt muôn dân ánh sáng mặc khải cho dân ngoại và vinh quang của Israel dân Người" (Lc 2:31-32). Sứ mệnh Cứu thế của Chúa Giêsu cũng đã được tiên tri Isaia loan báo 7 thế kỷ trước: "Ta sẽ đặt Người làm ánh sáng các dân tộc, để ơn Cứu độ của Ta đạt thấu khắp cùng cõi đất" (Is 49:6). Ông Simêon cũng biết và tiên báo sứ mệnh Đồng Công cứu chuộc rướm máu của Mẹ Maria: "Một mũi gươm sẽ đâm thâu lòng bà" (Lc 2:35). Từ đó, nỗi bi đát luôn dày vò tâm can Mẹ, nhất là trong cuộc khổ nạn bi hùng của Con Mẹ diễn ra giữa dân Người. Hiệp với hiến lễ của Chúa Giêsu, Mẹ Maria khiêm hạ vâng giữ luật tịnh tẩy như hiến lễ dâng lên Chúa. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ được đặc ân Vô nhiễm và toàn trinh cả sau khi sinh Con, Mẹ được miễn giữ luật tịnh tẩy. Nhưng Mẹ khiêm hạ tiến dâng hiến lễ danh thơm tiếng tốt đó mà giữ luật tịnh tẩy như tất cả các bà mẹ sinh con. Đức Khiêm hạ của Mẹ cũng như của Chúa Giêsu khởi đầu ơn Cứu rỗi, đối lập với tính kiêu ngạo của con cựu xà hỏa ngục và nguyên tổ là đầu mối sự đoạ trầm của loài người. Hiến lễ Khiêm hạ của Mẹ cùng với Hiến lễ Mẹ dâng Ấu Chúa Giêsu để Người chuẩn bị hy tế cứu đời, đã khởi đầu sứ mạng Đồng công cứu thế của Mẹ. Thánh Anphong nói: "Mẹ Maria hiến dâng Con chịu chết, không phải chỉ có một lần trong đền thờ, nhưng là ở từng giây phút trong cuộc đời".[4]
Lạy Mẹ Maria yêu dấu! Con xin dâng mình con như hiến lễ hợp với Chúa trên bàn tay Hiền Mẫu trinh trắng của Mẹ, cũng để đồng công với Chúa và Mẹ trong việc cứu rỗi chính mình con và các linh hồn.
2. Lễ Mẹ dâng Chúa cũng gọi là Lễ nến, vì cây nến cháy tượng trưng Chúa Kitô là "Ánh Sáng muôn dân." Chủ tế làm phép nến rồi cộng đồng rước nến. Giáo dân dùng nến đã làm phép để thắp trong những trường hợp khó khăn hay bệnh hoạn. Rước nến thì trước năm 700, Đức Giáo hoàng tại Rôma thường phát nến cho giáo dân tham dự lễ Mẹ dâng Con và tổ chức cuộc rước nến, vừa để tôn vinh Chúa Kitô là "Ánh Sáng muôn dân", vừa để cải hóa hủ tục dân ngoại Rôma thường tổ chức hai cuộc rước đuốc linh đình:
* Cuộc rước đuốc rất dâm đãng tại Lupercal trên đồi Palatina gọi là Lupercalia từ ngày 2 tới 15 tháng 2 để kính thần Faunus là thần phong phú của người và súc vật.[5]
* Cuộc rước đuốc rất thần thoại kỷ niệm thần Céres cùng với thủ hạ cầm đuốc băng qua núi đồi tìm ái nữ Proserpina đã bị Pluton là diêm vương cưỡng đoạt.[6] Proserpina trong câu chuyện thần thoại này là hình bóng loài người đã bị diêm vương Satan cướp đoạt. Céres tượng trưng Thiên Chúa không nỡ bỏ con, liền đốt đuốc là Chúa Kitô tận tình tận lực đi tìm con.
Lạy Mẹ Maria dấu yêu! Chúa Kitô là Ánh sáng đã giãi chiếu chan hòa trên khắp thế gian, nhưng chưa tỏa chiếu được vào mọi tâm hồn. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa bật sáng bừng lên trong tâm hồn con và những người tội lỗi để phá tan bóng tối tăm mù mịt tội lỗi, tính hư nết xấu bao phủ tâm hồn chúng con; cho chúng con mặc lấy ánh sáng, biến đổi chúng con trở thành con cái sự sáng, trở thành ánh sáng. Được thông phần ánh sáng của Chúa, chúng con mới được thông phần sự sống của Người. (xem Ga 1:4 và 2 Tm 1:10)
* Theo ý nghĩa Phụng vụ Đông phương, lễ Mẹ dâng Chúa là cuộc trùng phùng gặp gỡ của Chúa Giêsu với loài người mà trung gian là ông già Simêon và nữ tiên tri Anna. Trong suốt cuộc đời công chính đạo hạnh, ông Simêon hằng ngóng đợi niềm an ủi của Israel cũng là ơn Cứu độ của muôn dân. Khi cuộc đời xế chiều, ông được linh cảm đến đền thờ gặp gỡ Ấu Chúa, được ẵm Chúa trên tay, nên ông được toại nguyện và chúc tụng Chúa là Đấng Cứu Thế, là Ánh Sáng muôn dân và là vinh quang của Israel (Lc 2:25-32). Bà Anna cũng gần một thế kỷ đêm ngày kiêng chay cầu nguyện trong đền thờ. Giờ đó, bà cũng được trùng phùng gặp gỡ Ấu Chúa. Bà tán tạ Chúa và nói về Ngài cho mọi người ngóng đợi sự giải thoát của Giêrusalem (Lc 2:36-38).
Thực ra, sau khi nguyên tổ loài người sa đoạ, Thiên Chúa đã mở cuộc đối thoại với loài người qua các tiên tri và sau hết qua Chúa Kitô (Dt 1:1-2) về chính mình Ngài và về thánh ý nhiệm mầu của Ngài liên quan tới phần rỗi loài người. Cuộc đối thoại của Thiên Chúa như vậy gọi là mặc khải và đã ghi chép lại trong Thánh kinh. Nhưng mầu nhiệm Nhập thể Giáng sinh mới là diệu kế và là địa điểm để Thiên Chúa chính thức gặp gỡ loài người do biến cố Ngôi Lời bỏ quên chức vị Thiên Chúa của Ngài mà hạ cố xuống trần gian kết hợp với bản tính loài người để xe duyên đất với trời, Thiên Chúa với loài người. Chẳng những gặp gỡ loài người, Chúa ở cùng loài người trong cuộc ký thế 33 năm và còn tiếp tục ở cùng loài người trong Bí tích Thánh Thể cho tới ngày thế mạt. Đó chính là diệu kế toại nguyện của tình Thiên Chúa yêu thương loài người chúng ta đến tận cùng.
III. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Malakia 3:1-4
Bài này ám chỉ rằng Hiến lễ của Chúa Giêsu trong đền thờ tiên báo sứ mạng Hy tế sau này của Người trên đồi Canvê. Ngài sẽ thiết lập việc tôn thờ Thiên Chúa "trong tinh thần và chân lý" (Ga 4:23).
Bài đọc II: Do Thái 2:14-18
Bài này nói lên việc Chúa Giêsu là Thầy cả Thượng phẩm sẽ dâng mình hiến tế trên thập giá vì tội lỗi loài người cũng như nay Người dâng mình trong đền thờ. Phúc âm: Luca 2:22-40
Bài Phúc âm này trình thuật hai lễ nghi:
a) Dù sinh Con mà còn đồng trinh, Mẹ Maria vâng giữ luật Maisen, khi hết ngày kiêng cữ, lên đền dâng lễ tẩy uế (Lc 2:22).
b) Cũng theo luật Maisen, Mẹ dâng Con Trai đầu lòng, với lễ tế là đôi chim bồ câu, vì Mẹ nghèo (Lc 23-24).
Tại đền thờ Giêrusalem, ông già Simêon ẵm bế Ấu Chúa.
* Ca tụng Ngài là "Ánh Sáng muôn dân" (Lc 2:32).
* Tiên báo: "Con Trẻ này là duyên cớ cho nhiều người dân Israel hư hỏng hay được rỗi và sẽ là dấu hiệu gây mâu thuẫn" (Lc 2:34).
* Tiên báo với Mẹ Maria: "Còn Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Bà" (Lc 2:35).
IV. LỜI CÁC THÁNH
- Thánh Basiliô: Đức Trinh Nữ không phải lệ thuộc luật thanh tẩy trong Đệ nhị luật, vì không do sự tác sinh của nam nhân, mà Mẹ đã trở nên Mẹ của Emmanuel trinh trong, thánh thiện, và thanh khiết. Và khi đã trở nên Mẹ, Mẹ vẫn còn vẹn toàn đồng trinh.[7]
- Thánh Bênađô: Từ lúc hiến dâng Con, Mẹ có sống cũng là chết từng giây. Cứ nghĩ đến Giêsu chí ái của Mẹ phải chết là Mẹ lại cảm thấy một đau thương tàn khốc hơn bất cứ cái chết nào.[8]
- Thiên Chúa đã đặt nơi tay Mẹ tất cả giá cứu chuộc chúng ta.[9]
- Thánh Bônaventura: Trong lễ dâng Con hôm nay, Mẹ Maria phải can trường và quảng đại hơn là nếu chính Mẹ được dâng mình chịu đựng tất cả những đau thương mà Con Mẹ phải chịu.[10]
- Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ không cần phải thanh tẩy, vì Mẹ đẹp đẽ hơn mặt trời, trong sáng hơn mặt trăng, rực rỡ hơn rạng đông. Nhưng Mẹ vâng giữ luật Maisen.[11]
- Dịp lễ Mẹ dâng Chúa, Mẹ mời gọi chúng ta vâng giữ không những các giới luật, mà còn những ý muốn và lời khuyên dạy của Thiên Chúa.[12]
- Lễ Mẹ dâng Chúa nêu cao đức khiêm nhượng của Mẹ. Đức khiêm nhượng của Mẹ song song với đức khiêm nhượng của Chúa Giêsu. Hoàn toàn trinh trong vô nhiễm, Mẹ khiêm hạ vâng giữ điều luật không liên can tới Mẹ.[13]
- Chúng ta được hạnh phúc biết bao, nếu chúng ta bồng Chúa trên vai như thánh Christopher, và ẵm Chúa trên cánh tay như cụ già Simêon. Chúng ta hoàn toàn phó thác cho Người và để Người dìu dắt chúng ta đi đâu tùy ý Người muốn.[14]
- Thánh Anphong: Mẹ ý thức rõ ràng Chúa Giêsu mà Mẹ dâng hôm nay làm lễ vật, một ngày kia sẽ chịu sát tế trên thánh giá. Mẹ hy sinh sự sống Con của Mẹ như vậy, chính là Mẹ tự hiến toàn thân cho Thiên Chúa bằng một sự hy sinh cao cả.[15]
- Mẹ hối hả tiến mau tới bàn thờ hiến tế, và chính Mẹ mang trên tay lễ vật chí ái.[16]
- Cụ già Simêon được Chúa nhận lời hứa là cụ không phải chết tới khi được xem thấy Đấng Cứu Thế. Nhưng ơn đó cụ nhận được nhờ Mẹ Maria, vì cụ được thấy Chúa Cứu Thế trên cánh tay của Mẹ. Như vậy, ai muốn tìm thấy Chúa Giêsu, thì hãy nhờ Mẹ Maria.[17]
- Mẹ Maria hiến dâng Con chịu chết, không phải chỉ có một lần trong đền thờ, nhưng là ở từng giây phút trong cuộc đời. Mẹ đã mạc khải cho Thánh nữ Brigitta rằng lưỡi gươm oan nghiệt cụ già Simêon tiên báo đã không bao giờ ngừng xuyên qua tâm hồn Mẹ, cho đến ngày Mẹ linh hồn và xác lên trời.[18]
V. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
Đức Lêô XIII: Để tự hiến cho Thiên Chúa Cha làm lễ vật hy sinh bằng một lễ nghi công cộng, Chúa Kitô muốn được Mẹ Người đem Người đến đền thờ. Nhưng Người được hiến dâng cho Chúa nhờ sự trợ giúp của Mẹ Người.[19]
Đức Phaolô VI: Lễ mồng hai tháng Hai lấy lại tên cũ là lễ Dâng Chúa (vào Đền thánh) cũng được coi là cùng kỷ niệm Chúa Con và Mẹ Người, nếu chúng ta hiểu rõ ý nghĩa phong phú lễ kỷ niệm này. Đó là lễ mừng mầu nhiệm Cứu rỗi mà Chúa Kitô đã hoàn thành, và Rất Thánh Trinh Nữ mật thiết hợp tác, như là Mẹ của Người Tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Mẹ được coi như là Đấng thực hiện một sứ mạng thuộc dân Israel xưa kia, và là mẫu gương cho dân mới của Thiên Chúa luôn bị thử thách gian nan, bị bách hại trong đức tin và đức cậy.[20]
Đức Gioan Phaolô II: 1) Này đây Chúa vào đền thờ do Mẹ Maria và Thánh Giuse bồng bế. Người vào như một trẻ thơ 40 ngày để giữ trọn luật Maisen. Người ta đem Chúa đến đền thờ như nhiều trẻ em Do Thái: trẻ em nghèo. Người vào đền thờ mà ít người nhận biết và đợi trông vì Người là "Thiên Chúa ẩn mình" (Is 45:15) và hầu như bị chống đối như lời tiên báo của ngôn sứ Malachia. Ẩn mình trong xác thể loài người trong một hang bò lừa ngoại ô thành Bêlem, Chúa tuân phục luật chuộc lại như Mẹ Người tuân phục luật thanh tẩy.
2) Cụ già Simêon nói với Mẹ Maria, bắt đầu về Con của Người: "Con Trẻ này là duyên cớ cho nhiều người trong dân Israel hư hỏng hay được rỗi, và sẽ là dấu hiệu gây mâu thuẫn". Rồi với Mẹ Maria, ông nói thêm: "Còn Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu qua lòng Bà. Như vậy, những tư tưởng kín đáo của nhiều người sẽ phải tỏ lộ ra"... Mẹ ẵm bế Con Trẻ trong cánh tay Mẹ. Nhưng dù cách thức đó, Chúa Giêsu vẫn là Ánh sáng cho tâm hồn chúng ta, Ánh sáng soi chiếu bóng tối tăm của sự nhận biết và cuộc sinh tồn trí thông minh và tâm lòng người ta.[21]
3) Chúng ta hãy đi rước kiệu, cầm những cây nến cháy này là "dấu chỉ của Ánh Sáng soi sáng mọi người" (Ga 1:9). Hôm nay chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô bằng một dấu chỉ là Ánh Sáng, Con của Mẹ Maria là Chúa Kitô sinh ra tại Bêlem, được dâng hiến trong đền thờ. Chúa Kitô là Ánh Sáng của đời sống loài người. Người là Ánh Sáng, vì Người phá tan bóng tối trong đời sống người ta. Người là Ánh Sáng vì Người soi sáng những mầu nhiệm cuộc sống người ta, và Người trả lời minh bạch những câu hỏi căn bản. Người là Ánh Sáng vì Người cho ý nghĩa cuộc sống và Người làm cho người ta hiểu biết phẩm giá cao cả của họ.
Chúng ta hãy sống trong Chúa Kitô với ánh sáng của ngày lễ Đức Mẹ dâng Con.[22]
Công đồng Vatican II: Trong đền thánh, sau khi dâng hiến lễ vật ấn định cho người nghèo, Đức Maria dâng Con cho Thiên Chúa và đã nghe cụ Simêon báo trước Con Mẹ sẽ là dấu chỉ sự phản kháng, và một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Mẹ. Mẹ đã cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con chịu chết trên thập giá.[23]
VI. SUY NIỆM
SUY NIỆM A: Chúng ta hãy đón nhận ánh sáng huy hoàng vĩnh cửu.
Trích bài giảng của thánh Sôphrôniô, giám mục.
Tất cả chúng ta là những kẻ đang sốt sắng kính thờ mầu nhiệm Đức Kitô, nào ta hãy nhiệt tâm ra đón Người. Đừng ai vắng mặt trong cuộc đón rước này, và mọi người hãy mang theo nến sáng.
Chúng ta đem theo nến sáng cho mọi người thấy vẻ huy hoàng thần thiêng của Đấng đang đến. Người đẩy lùi bóng tối xấu xa, làm cho hoàn vũ nên rực rỡ huy hoàng và ngập tràn ánh sáng vĩnh cửu. Hơn thế nữa, đem theo nến sáng còn để cho thấy tâm hồn chúng ta cũng rực sáng. Chúng ta cần phải đi đón Đức Kitô với một tâm hồn như thế.
Đức Trinh Nữ vẹn tuyền, Mẹ Thiên Chúa, đã ẵm trong tay Ánh sáng chân thật và mang đến cho những ai chìm trong bóng tối. Cũng vậy, được ánh sáng Đức Kitô chiếu toả, chúng ta hãy cầm nến trong tay soi sáng cho mọi người và mau mắn ra nghinh đón Đấng thực sự là Ánh sáng.
Ánh sáng đã đến thế gian chiếu soi thế gian đang chìm trong bóng tối, và Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối. Vậy đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay; chúng ta hăm hở đi tới, mang theo nến sáng, để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa.
Người là Ánh sáng thật đã đến, Ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả sáng.
Đừng ai trong chúng ta đứng ngoài Ánh sáng rực rỡ đó như một kẻ xa lạ, cũng đừng ai đã được Ánh sáng ấy tràn ngập mà vẫn ở mãi trong đêm tối. Nhưng một khi đã được nên rạng rỡ, mọi người chúng ta hãy tiến bước; một khi đã toả sáng, mọi người chúng ta hãy cùng nhau tiến ra, và cùng với cụ Simêon đón nhận Ánh sáng huy hoàng vĩnh cửu. Cùng với cụ, chúng ta hãy hớn hở vui mừng hát lên bài thánh thi tạ ơn Chúa Cha, Đấng sinh ra Ánh sáng, Người đã gửi Ánh sáng thật đến, đã đẩy lui bóng tối, đồng thời làm cho chúng ta nên rực rỡ huy hoàng.
Nhờ Đức Kitô, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đã được thấy ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt muôn dân và đã bày tỏ cho mọi người. Đó là vinh quang của Israel mới là chính chúng ta. Lập tức, chúng ta đã được giải thoát khỏi bóng đêm tội lỗi xưa, cũng như cụ Simêon khi nhìn thấy Đức Kitô thì được thoát khỏi vòng tục lụy.
Cả chúng ta nữa, đang là dân ngoại, chúng ta đã được trở thành dân Thiên Chúa khi, nhờ đức tin, chúng ta ẵm lấy Đức Kitô từ Bêlem đến (vì chính Người là ơn cứu độ của Thiên Chúa là Cha). Chính mắt chúng ta được thấy một vị Thiên Chúa đã trở thành phàm nhân. Một khi đã thấy Thiên Chúa hiện diện, đã ẵm lấy Thiên Chúa trong đôi tay tâm hồn, chúng ta được gọi là Israel mới, và hàng năm, chúng ta mừng lễ để luôn luôn ghi nhớ sự hiện diện này.[24]
Cụ già Simêon nói với Mẹ: "Này Bà, một mũi gươm sẽ đâm thâu lòng Bà" (Lc 2:35). Lời này giãi bày ra trước mắt Mẹ cuộc khổ nạn chắc chắn trong tương lai của Chúa Giêsu Con Mẹ, và gieo vào lòng Mẹ nỗi trầm sầu man mác, triền miên trong 33 năm trường cho tới ngày Mẹ ôm xác Con tan nát dưới chân cây thánh giá.
Mỗi lời của cụ già Simêon giống như một lưỡi gươm phũ phàng đâm xé lòng bà Mẹ trẻ trung mà linh hồn trắng phau hơn tuyết, và trái tim tinh tế dịu dàng hơn mọi quả tim các bà mẹ. Chưa hề có khi nào Mẹ chứng kiến và cảm nghiệm những nỗi lòng như thế, nhưng Mẹ đã ưng thuận làm Mẹ Chúa Cứu Thế, và Mẹ cũng biết rằng công cuộc Cứu thế phải hoàn thành bằng khổ đau não nề, vì "Không có đổ máu, không có ơn tha thứ" (Dt 9:22). Lời "Con Mẹ sẽ nên dấu hiệu gây chống đối" càng làm cho lòng trinh trong đa cảm của Mẹ sôi lên nỗi đau đớn bồi hồi, vì Mẹ yêu Con như chưa từng có người mẹ nào yêu con như thế. Tại Bêlem, lòng Mẹ tràn ngập niềm vui thấy loài người sẽ được ơn Cứu rỗi đã được phán hứa từ ngàn xưa, và Chúa Giêsu Con Mẹ sẽ được hàng triệu con tim yêu mến tôn thờ. Nhưng giờ đây, lời tiên tri của cụ già Simêon giãi bày trước mắt Mẹ cảnh tượng nhiều người chống đối Con Mẹ và nhiều người liều lĩnh chối bỏ ơn Cứu chuộc, làm Mẹ bàng hoàng. Rồi trong 30 năm trong bầu khí dịu êm tươi mát của Thánh gia Nagiarét, mỗi lần thấy Con là Mẹ nhìn thấy hình ảnh cây Thánh giá kinh hoàngh lùng.
Khi nghĩ đến ngày khổ nạn để cứu chuộc loài người, Chúa Giêsu chẳng những đau những nỗi đớn đau của Ngài, mà cũng đau những nỗi thương đau của Mẹ cảm thông với Ngài. Đối lại, khi nghĩ đến cuộc khổ nạn chắc chắn trong tương lai của Con, lòng Mẹ héo hắt chẳng những xót xa cái đau của Con, mà cũng cảm nghiệm cái đau của lòng Mẹ thương Con. Hai tấm lòng của hai Mẹ Con như tấm gương phản chiếu nhau, trùng trùng điệp điệp, làm cho nỗi thương đau ray rứt dập dồn.
Có một người tìm được một miếng đất sét có mầu sắc và hương thơm hoa hồng. Vô cùng ngạc: 2/2-4
Có một người tìm được một miếng đất sét có mầu sắc và hương thơm hoa hồng. Vô cùng ngạc nhiên, ông ta hỏi miếng đất sét:
Đất sét ơi! Ngươi hãy nói cho ta biết ngươi là gì: là một viên ngọc quí giá, hay viên kim cương đắt tiền, hay viên đá kỳ diệu nào khác?
Không phải, đất sét trả lời, tôi chỉ là miếng đất sét tầm thường như bao miếng đất sét khác.
Thế sao ngươi có một vẻ đẹp kỳ lạ như thế?
Tôi sẽ nói cho ông biết điều bí mật đó: tôi sống gần một bông hồng.[26]
Mẹ Maria là Đóa Hồng mầu nhiệm, chúng ta là những miếng đất sét tầm thường. Nếu muốn đượm hương thơm và sắc đẹp của Hồng nhiệm, chúng ta hãy sống gần Mẹ, noi gương bắt chước các nhân đức của Người. Noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ là cách sùng kính Mẹ tuyệt hảo và chân thật. Công đồng Vatican II dạy: "Lòng sùng kính chân chính phát sinh từ đức tin chân thật dẫn chúng ta tới chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ".[27]
Trong ngày dâng Con trong đền thờ, Mẹ Maria nêu gương dạy chúng ta đức tuân phục và đức khiêm nhu.
1. Mẹ dạy ta đức tuân phục
Đức Tuân phục thánh ý Chúa là một trong những bài học quan trọng trong đời sống Mẹ Maria. Mẹ cho chúng ta bài học này bằng lời nói và gương sáng. Thái độ của Mẹ trong ngày dâng Con trong đền thờ kêu mời chúng ta tuân phục không những lệnh truyền của Chúa mà còn những lời khuyên dạy và ý muốn của Chúa.
Theo Luật Maisen, người phụ nữ sinh con trai phải ở cữ một thời gian rồi làm lễ tẩy uế. Con trẻ phải chịu phép cắt bì. Và mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh dâng kính Chúa; cha mẹ con trẻ dâng làm lễ tế một cặp chim gáy hay một đôi bồ câu tơ" (Lv 12:2-8; Xh 13:2-12). Mẹ Maria đẹp đẽ hơn mặt trời, trong sáng hơn mặt trăng và rực rỡ hơn rạng đông, nhưng Mẹ biết giữ luật là làm đẹp lòng Thiên Chúa và vì yêu mến Người, Mẹ đã lên đền làm lễ thanh tẩy và dâng Con. Thánh Phanxicô Salêsiô nói: "Rất Thánh Trinh Nữ tự ý tuân vâng luật thanh tẩy vì Mẹ yêu quí lệnh truyền. Mẹ hay Con Mẹ không buộc phải tuân vâng, nhưng vì tình mến làm cho Mẹ tuân vâng. Mẹ tuân giữ luật để làm gương xây dựng cho những người khác".[28]
2. Mẹ dạy ta đức khiêm nhu
Theo Thánh Phanxicô Salêsiô, lý do đức tuân phục hoàn hảo của Mẹ Maria là đức Khiêm nhu của Người, vì đức khiêm nhu chân thật là nguồn gốc đức tuân vâng. Và đức tuân vâng luôn là bạn đồng hành không thể vắng bóng của đức khiêm nhu. Chúng ta biết, dù được mọi đặc ân vượt mức trên mọi thụ tạo, Mẹ Maria hạ mình thẳm sâu dưới mọi tạo vật: Mẹ xao xuyến bối rối trước lời chào tán tụng của Thiên sứ Gabrie (Lc 1:29), và nhận mình là phận nữ tỳ thấp hèn của Chúa (Lc 1:48). Cả cuộc sống Mẹ Maria kết dệt b@ng đức khiêm nhu, nhất là từ ngày thiên sứ truyền tin qua ngày Mẹ thăm viếng thánh Elizabeth tới ngày Mẹ dâng Con trong đền thờ. Thánh Phanxicô Salesiô nói: "Đức khiêm nhu nào biết bao cao sâu hơn đức khiêm nhu mà Chúa chúng ta và Mẹ Maria đã thi hành khi đến đền thờ: Chúa đến đền thờ để được hiến dâng như tất cả các con trẻ của những người tội lỗi. Mẹ Maria đến để làm lễ thanh tẩy như tất cả các bà mẹ phàm trần. Cần gì mà Mẹ phải thanh tẩy, vì Mẹ đã không bị ô nhiễm do đặc ân tuyệt diệu từ lúc đầu thai mà các Minh thần (Cherubim) và các Luyến thần (Seraphim) không tài nào sánh ví".[29]
Đức khiêm nhu phát sinh từ hai điều nhận biết:
a) Nhận biết Thiên Chúa cao quang từ ái vô cùng với những ân ban dạt dào cao cả.
b) Nhận biết mình khốn nạn rất mực thẳm sâu với thân phận vô cùng hèn kém.
Sự nhận biết song phương như thế làm cho Mẹ Maria càng thêm khiêm nhu, càng thêm cảm mến Thiên Chúa. Do đó, Mẹ đã cất tiếng ngợi khen: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa... vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại" (Lc 1:46-49).
Sự nhận biết Thiên Chúa cao cả và nhận biết mình thấp hèn cũng như phẩm chức cao sang của Mẹ Maria và đức khiêm nhu của Mẹ là hai điều tương phản diệu kỳ, làm nổi bật lẫn nhau như những bóng tối tương phản với những bóng sáng trong một bức tranh hoạ.
Có khiêm nhu thẳm sâu, Mẹ Maria mới tuân vâng thiên sứ Gabrie để trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế.
Có khiêm nhu từ tốn, Mẹ Maria mới tuân giữ luật Maisen, hiến tế tình Mẫu tử mà dâng Con thượng tiến Chúa Cha để cứu chuộc loài người.
Có khiêm nhu trầm hạ, Mẹ Maria mới vâng giữ luật thanh tẩy, hiến tế danh thơm đức Toàn trinh để đặt mình trước dư luận như một sản phụ thông thường phải lên đền thanh tẩy.
Chúa và Mẹ Maria đã khiêm nhu tuân giữ luật không buộc phải tuân giữ, huống chi chúng ta. Ngày nay người ta ưa thích phóng khoáng tự do, muốn thoát vòng kỷ luật. Nhưng người ta quên rằng cần phải có luật để điều hòa và kiềm chế sự tự do, theo nguyên tắc "Tự do dưới pháp luật = Sub lege libertas". Dân nước Mỹ là dân có rất nhiều quyền tự do, nhưng nước Mỹ lại là nước có rất nhiều thứ luật.
Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và: 2/2-5
Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút, lôi cuốn đám đông đi theo đường hướng của họ.
Trước sự kiện này, một số các tín hữu nhiệt thành đã thiết lập phong trào thánh Christôphôrô. Những người gia nhập phong trào này không cần phải ghi tên hay đóng góp chi cả, miễn là cố gắng làm thế nào chứng minh cho kẻ khác biết được rằng: tất cả chúng ta đều được Chúa yêu thương và chăm sóc. Chính vì thế mà phải sống một cuộc sống chan hòa tình người, tôn trọng những quyền lợi của nhau, cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Điều mà phong trào này tâm niệm đó là:
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta ghi nhận điều này: Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.
Thực vậy, hôm nay trước cửa đền thờ, ông già Simêon đã nói tiên tri về Hài nhi Giêsu như sau:
- Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ, Chúa dọn ra trước mặt nhân trần, làm ánh sáng rạng soi dân ngoại, còn Israen dân Chúa được vinh quang.
Rồi trong cuộc sống công khai, chính Đức Kitô cũng đã từng công bố:
- Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn ngồi trong đêm tối.
Hay như thánh Gioan đã xác quyết:
- Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho muôn dân. Anh sáng đã chiếu soi trong u tối.
Một khi Đức Kitô đã là ánh sáng, thì Mẹ Maria chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giêrusalem, Mẹ bồng ẵm trong vòng tay của mình Hài nhi Giêsu, ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và biến đổi. Mẹ chính là tấm gương trung thực nhất phản ảnh mọi nhân đức của Chúa.
Trên trời cũng như dưới đất, không một tạo vật nào giống Chúa cho bằng Mẹ. Mẹ chính là người môn đệ đầu tiên đã đi trên dấu chân của Chúa, qua đau khổ và thập giá để tiến đến vinh quang. Mẹ hoàn toàn tin tưởng và phó thác để được trọn vẹn trung thành với thánh ý của Chúa.
Còn chúng ta thì sao ?
Tôi xin thưa:
- Chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên đèn cháy như Mẹ. Thực vậy, thánh Phaolô đã khuyên nhủ:
- Trước kia anh em là tối tăm, nhưng hiện nay anh em là ánh sáng trong Đức Kitô.
Phải chăng đây cũng chính là điều Đức Kitô mong ước nơi mỗi người chúng ta, khi Ngài phán:
- Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi, không thể giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới gậm giường, nhưng sẽ đặt trên giá, để nó chiếu sáng cho mọi người trong nhà.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải mang Đức Kitô, hay nói cách khác, phải mang ánh sáng của Ngài trong tâm hồn, rồi từ đó chiếu tỏa ánh sáng ấy cho những người chung quanh.
Là người tín hữu, chúng ta phải trở thành ngọn đèn cháy sáng, để những người còn ngồi trong tối tăm lầm lạc, nhờ chúng ta, sẽ tìm thấy đường ngay nẻo chính. Muốn được như thế, thì tâm hồn và cuộc đời chúng ta phải trong suốt như pha lê, cho ánh sáng Chúa chiếu qua.
Thế nhưng có kẻ lại nghĩ rằng: - Ánh sáng của tôi còn quá yếu ớt, làm sao có thể chọc thủng được đêm đen ?
Trong một buổi thuyết trình, vị linh mục được mời nói chuyện, đã bắt đầu bằng cách tắt hết các bóng điện, khiến cho tăm tối phủ kín khắp phòng. Rồi ngài đánh một que diêm và thắp lên một ngọn nến. Ánh sáng của ngọn nến tuy yếu ớt, nhưng cũng đủ để họ nhìn thấy được khuôn mặt của người bên cạnh. Và nếu người nào cũng thắp lên một ngọn nến như thế, thì hẳn căn phòng sẽ rực rỡ, sẽ chan hòa ánh sáng.
Đừng nói rằng:
- Mình chẳng làm gì được.
Trái lại, thay vì ngồi phê bình và chỉ trích, thở dài và bi quan, chúng ta hãy góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc đẩy lui ảnh hưởng của đêm tối, của tội ác. Nếu hoạt động của đêm tối là âm mưu, là thù oán, là tham vọng bất chính, thì hoạt động của ánh sáng phải là nhân hậu, phải là tha thứ, phải là khiêm cung.
Nếu một con én không làm nổi mùa xuân thì ít nữa nó cũng góp phần báo tin mùa xuân đang đến.
Chúng ta cũng vậy, thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. Theo luật Do Thái, mọi con trai đầu: 2/2-6
Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. Theo luật Do Thái, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Do đó, cha mẹ con trẻ phải chuộc lại đứa bé tùy theo khả năng của gia đình mình hoặc một con chiên tinh tuyền hoặc một cặp bồ câu. Những của lễ này được dùng dâng hiến cho Thiên Chúa thay thế các em.
MẸ MARIA VÂNG THEO LỀ LUẬT:
Như mọi người dân Do Thái, Mẹ Maria cũng hoàn toàn vâng theo lề luật. Vì thế, khi Chúa Giêsu đã đúng ngày luật định, Mẹ Maria và thánh cả Giuse đã đưa Chúa Giêsu lên đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa: ” Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”( Lc 2,23 ). Theo tục lệ, của lễ dâng tiến cho Chúa thay thế con trẻ là một cặp chim gáy hay một cặp bồ câu non ( Lc 2,24). Tuy nhiên, đối với Mẹ Maria, Mẹ ý thức rất rõ ràng dâng Chúa là vĩnh viễn vì đó là khởi đầu cho lễ hy sinh mà Chúa Giêsu sẽ hoàn tất trên núi Canvê để cứu chuộc nhân loại.
THÁNH LỄ HÔM NAY MANG HAI Ý NGHĨA:
Nhìn bề ngoài, chúng ta thấy Chúa vâng phục lề luật và cha mẹ của Người làm theo luật dậy, nhưng thực ra Chúa Giêsu đến gặp dân của Người. Vì thế, ngay tại Giêrusalem, cụ già Simêon, một người công chính và nữ ngôn sứ Anna, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã tới đền thánh và chính Simêon đã được linh hứng sẽ không chết trước ngày được gặp Đấng Cứu Thế. Do đó, khi thấy Chúa Giêsu, Thánh Thần soi sáng, các Ngài đã nhận ra con trẻ mà các Ngài đang ẵm trên tay, đang thấy ở trước mặt lại chính là Chúa của mình, đồng thời các Ngài rất vui sướng loan báo cho những người khác. Thánh lễ dâng Chúa vào đền thánh còn có một ý nghĩa khác nữa, Chúa được Chúa Thánh Thần công bố là vinh quang của Israen và là ánh sáng soi đường cho muôn dân, muôn nước trên mặt đất này. Chính vì thế, khi người Kitô hữu quy tụ trong nhà thờ do tác động của Chúa Thánh Thần, chắc chắn dân Chúa sẽ gặp Người, sẽ nhận ra Người lúc bẻ bánh, trong khi chờ đợi Người đến trong vinh quang. Quả thực, Chúa Giêsu là quà tặng cao quí nhất Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã mang kiếp người phàm và hôm nay được tiến dâng trong đền thánh. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tâm hồn chúng con cũng nên trong sạch hầu xứng đáng dâng mình trước thánh nhan ( Lời nguyện nhập lễ, lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh ). Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sau khi sinh hạ Chúa Giêsu được 40 ngày, Ðức Bà Maria và thánh Giuse mang Chúa Giêsu đến: 2/2-7
Sau khi sinh hạ Chúa Giêsu được 40 ngày, Ðức Bà Maria và thánh Giuse mang Chúa Giêsu đến đền thánh ở Jerusalem và hiến dâng lên Thiên Chúa đúng theo Lề luật của Môi sen. Ðức Bà Maria cũng được làm phép thanh tẩy như tập tục của người Do thái sau khi sinh con. Ông Simeon được Chúa Thánh Thần soi sáng và trở thành một tiên tri đến gặp Chúa Giêsu Hài nhi, ông ẵm Chúa trên tay và tuyên xưng: “Ðây là Ánh sáng chiếu rọi khắp nhân loại và là vinh quang của dân Do thái.”
Bà góa Anna, một nữ tiên tri, vui mừng ca tụng Ðấng Cứu Chuộc thành Jerusalem. Trong khi đó lời của tiên tri Simeon nói với Ðức Bà Maria, bày tỏ niềm vui mừng hạnh phúc là Ðấng Cứu độ đã sinh ra, nhưng cũng nói lên hình bóng Thánh giá cay nghiệt đang bao trùm lấy Hài nhi. “Em bé này là duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hoặc được chỗi dậy. Còn chính Bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Bà.” (Luc 2.22-38}
Ngày lễ Dâng Chúa Giêsu vào Ðền Thánh tôn kính sứ mệnh của Ðấng Cứu Ðộ Thiên Chúa làm Người, được bày tỏ như một Ðền Thánh mới, duy nhất và cuối cùng. Ngày lễ này cũng là ngày tung hô và ngợi khen Ðức Bà Maria, mẹ của Chúa Giêsu, Bà luôn giữ mãi biến cố này trong lòng. Hiện tượng kết hợp giữa Chúa Giêsu mang bản tính người và bản tính Thiên Chúa từ khi mới sinh ra như ánh sáng soi đường cho nhân loại nên các tín hữu ở Âu châu thường đi kiệu “Ánh sáng” trong ngày này.
Trong ngày lễ này họ cũng làm bánh nướng để mừng lễ. Tập tục này có từ thế kỷ thứ 5. Khi mùa đông giá lạnh đang bao trùm Âu châu, những khách hành hương đên Roma. Họ phần đông là những người nghèo, họ bị đói khát thiếu thốn khi đến Roma. Có một năm mùa đông quá lạnh rét, Ðức Giáo Hoàng Gélase ra lệnh thu trong tòan thành Roma bôt mì và trứng thặng dư giúp đỡ khách hành hương.
Do đó làm bánh nướng trong ngày này như kỷ niệm một cử chỉ yêu thương giúp đỡ lẫn nhau bằng cách chia sẻ của ăn. “ Chúng ta hãy cầm trong tay những ngọn đèn sáng với niềm tin như tiên tri Simeon ẵm Ánh sáng trên tay. Hãy để tình yêu thiêu đốt lòng chúng ta, ánh sáng rực rỡ cháy trong tim và trong công việc của chúng ta.(Guerric d’Igny}
Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được: 2/2-8
Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được “mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy” (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Roma. Nội dung thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc Âm thánh Lu-ca 2,22-40.
Giáo hội Phương Đông hiểu thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền Thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu Ước qua ông Si-mê-on và bà tiên tri An-na ; Giáo Hội Tây Phương lại coi đây là thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do Thái (Lv 12).
Khi du nhập vào phụng vụ Rô-ma, Đức Thánh Cha Sét-gi-ô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế từ thế kỷ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem ; khi đoàn đồng tế đến Đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.
Từ cuộc canh tân Phụng Vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rô-ma, thánh lễ này cũng qui hướng vế Chúa, hơn là Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ.
Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Đoạn này gồm 3 chuyện:
1. Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu lên Đền thờ Giêrusalem để chu toàn 2 bổn phận của lề luật: Thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con ; dâng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng cho Thiên Chúa Câu chuyện cho thấy Thánh gia tuân giữ lề luật rất chu đáo ; đồng thời những lễ vật các Ngài dâng chứng tỏ Thánh gia nghèo.
2. Trong dịp này Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính là Đấng Messia cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Cụ nói Chúa Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại”
3. Trong dịp này các Ngài cũng gặp nữ ngôn sứ Anna và bà cũng nói tiên tri về tương lại Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Gia đình Nadarét được gọi là Thánh Gia, là gương mẫu cho mọi gia đình tín hữu. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy những nét của một gia đình tín hữu tốt: - Một gia đình tốt không chỉ co rút trong ngôi nhà của mình, nhưng còn thích cùng nhau lên Nhà Chúa: theo luật, việc dâng con cho Thiên Chúa có thể thực hiện tại nhà ; cũng theo luật, việc thanh tẩy người mẹ không buộc người cha phải đi theo lên Đền thờ. Nhưng cả ba đã cùng nhau lên Đền thờ.
- Một gia đình tốt là gia đình tuân giữ luật Chúa: “Cha mẹ hài nhi đem con lên Đền thờ để chu toàn Lề luật...”.
- Một gia đình tốt là gia đình biết dâng cho Chúa nhũng gì tốt nhất của mình: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh dành cho Chúa”. - Gia đình tốt có thể nghèo (lễ vật của Thánh Gia chứng tỏ các Ngài nghèo), và không tránh khỏi đau khổ (“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”), nhưng vẫn hạnh phúc vì có Chúa Giêsu ở giữa, có Chúa Giêsu là thành viên.
2. Một thanh niên Scốt-len tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi:
- Có phải công việc quá cực nhọc không ? - Không, công việc rất nhàn. - Có phải lương quá ít không ? - Không, lương khá lắm. - Hay anh không thích đồ ăn ở đó ? - Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon. - Vậy tại sao anh thôi việc ? - Vì nhà đó không có mái che.
Đối với người Scốtlen, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện. (Tonne).
3. Một nhóm người thiện chí bàn nhau cách phổ biến Tin Mừng. Có người đề nghị quảng cáo trên TV, người khác đề nghị dùng báo chí. Một thiếu nữ Châu Phi chia xẻ: Ở xứ tôi, khi muốn loan Tin Mừng cho một vùng nào đó thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình công giáo tốt để gia đình này sống giữa những người khác trong vùng. (Barclay)
4. Trên tường một nhà thờ cổ ở Đức có một bức tranh được vẽ cách nay khoảng 500 năm, diễn cảnh trẻ Giêsu đang đi học. Họa sĩ vẽ Ngài là một cậu bé 6 tuổi đang một tay nắm tay bà ngoại Anna và tay kia cầm cặp.
Trẻ Giêsu cũng giống như những bé trai, bé gái cùng thời đến trường để thêm kinh nghiệm, như Thánh Kinh nói: “Con trẻ ngày càng khôn lớn”. (Góp nhặt).
5. Trong khi người Ấn độ được đánh giá là giỏi triết lý, người Trung hoa được đánh giá là giàu lễ nghĩa, thì người do thái được đánh giá là tinh thần tín ngưỡng cao. Nhờ đâu ? Nhờ người cha do thái biết quan tâm đến việc đạo trong gia đình. Trong gia đình do thái, người cha chủ sự những buổi cầu nguyện, người cha lãnh trách nhiệm khai tâm tôn giáo cho con, người cha hãnh diện truyền lại cho con truyền thống đạo đức của ông bà tổ tiên.
6. “Vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2,30-31)
Bước chân vào trại dưỡng lão, hình ảnh đập vào mắt tôi trước tiên là những cụ già lưng còng, ốm yếu hay liệt giường. Không khí ở đây thật khó chịu. Tôi phải lấy hết can đảm mới có thể đến gần thăm hỏi các cụ. Đến giờ ăn, chúng tôi chia nhau đút cơm cho các cụ. Một bà cụ nắm lấy tay tôi và nói: “Nhờ các cô mà chúng tôi mới được ăn no. Nhiều lúc muốn ăn cũng không được. Cám ơn các cô nhiều. Lần sau các cô nhớ đến nhé”. Nghe cụ nói, tôi cảm thấy hối hận vì những ý nghĩ và thái độ thoạt đầu khi mới đến.
Nếu như ngày xưa Đức Giêsu đã được Mẹ Maria và thánh Giuse đưa lên Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môsê, đồng thời bày tỏ vinh quang của Ngài cho muôn dân, thì ngày nay tôi cũng đã được cha mẹ đưa đến nhà thờ để tiến dâng cho Thiên Chúa, và nhờ bí tích Thanh Tẩy trở nên một kitô hữu. Là một kitô hữu, tôi sẽ làm gì để bày tỏ vinh quang Chúa nếu không phải là cảm thông và chia sẻ với những người nghèo khổ chung quanh, đặc biệt là những người già nua, bệnh hoạn, tật nguyền. Xin cho con biết bày tỏ vinh quang Chúa bằng nỗ lực vun trồng sự sống, đón nhận và chia xẻ với những người nghèo khổ bất hạnh quanh con. (Epphata) 7. Mầm khác:
“Khi Cha Mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài." Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
***
A. Hạt giống...
Trong dịp đem Đức Giêsu dâng trong Đền thờ, Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh2/2-9
Trong dịp đem Đức Giêsu dâng trong Đền thờ, Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính là Đấng Messia cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Cụ nói Chúa Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại”
B.... nẩy mầm.
1. Sau cả một đời chờ mong, cụ già Simêon sung sướng thỏa mãn đến nỗi sẵn sàng chết cũng được, bởi vì cụ đã được thấy Đấng Cứu thế và biết rằng thời đại cứu thế đã khai mở.
Phần tôi, tôi đang sống trong thời đại cứu thế, thời Tân Ước. Thế nhưng sao tôi không cảm thấy sung sướng và thỏa mãn. Có lẽ vì tôi chưa hiểu được những hồng ân của Thiên Chúa.
Xin cho con hiểu được diễm phúc được sống thời Tân Ước. Xin ban cho con niềm vui và tâm tình tri ân cảm tạ.
2. Theo lời tiên tri của cụ già Simêon, Đức Giêsu là một dấu gây chia rẻ: kẻ thì theo, người thì chống đối ; kẻ theo thì đứng lên, người chống thì té ngã.
Cụ đã nói rất đúng. Ngay trong chính bản thân tôi, có khi tôi theo Chúa và có khi tôi chống Ngài. Lúc theo Ngài tôi được vững vàng, tôi đứng lên ; khi chống Ngài, tôi ngã lên ngã xuống.
Xin giúp con, trong cuộc chiến đấu nội tâm, biết chọn theo phía Chúa.
3. Bài ca Nunc dimittis này được Giáo Hội chọn đọc trong giờ kinh tối mỗi ngày. Ước gì tôi sống làm sao để tối đến, trước lúc lên giường nằm ngủ, tâm hồn tôi luôn cảm thấy an bình thanh thản, đến nỗi có thể giã từ cõi thế mà ra đi ngay trong đêm đó cũng được.
4. “Ông Simêon nói với bà Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34)
Những cư dân của ngôi nhà tập thể số 5 đã đánh mất một điều quý giá của cuộc sống là lòng tốt và người tốt. Họ đã mất Hiệp, một người thẳng thắn, trung thực, hết lòng yêu thương giúp đỡ mọi người, kiên quyết chống lại gian trá, xu nịnh, bất công, luôn mời gọi mọi người trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn. Thế mà họ đã chế diễu, chối từ, bỏ mặc anh vất vưởng giữa những khó khăn, thất bại, đẩy anh đến chỗ phải ra đi trong cô đơn, tuyệt vọng.
Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc trong cái chết đau đớn và tủi nhục.
Xin cho con luôn tiếp bước theo Chúa trên con đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay chối từ. (Epphata) 5. Mầm khác:
Thư Do-thái trình bày sứ vụ tư tế của Chúa Giê-su là giao hòa nhân loại tội lỗi với Thiên Chúa: 2/2-10
Thư Do-thái trình bày sứ vụ tư tế của Chúa Giê-su là giao hòa nhân loại tội lỗi với Thiên Chúa. Để thi hành sứ vụ ấy, Chúa Giê-su cần phải liên kết mật thiết với gia đình nhân loại. Người đã mặc lấy bản tính con người, trở nên giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi.Tuy nhiên Người muốn khiêm nhượng đến độ đồng hóa với tình trạng tội lỗi của chúng ta khi Người đến xin ông Gio-an Tẩy giả làm phép rửa. Mặc dù xét về thời gian tính, lễ dâng Chúa Giê-su trong Đền Thờ đặt sau lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng ý nghĩa của nó vẫn nguyên vẹn, cho chúng ta thấy sứ vụ của Người không chỉ bắt đầu khi Người công khai rao giảng Tin Mừng. Quả thực Chúa Giê-su đã bắt đầu thi hành sứ vụ khi Người được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy thực tuyệt vời qua đoạn thư gửi tín hữu Do-thái trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, sứ vụ hòa giải của Chúa Giê-su phải là đề tài suy niệm sau mùa Giáng Sinh và bước vào mùa thường niên: Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân (Dt 2:17). Ở đây, chúng ta thấy rõ ba đặc nét của sứ vụ Chúa Giê-su:
a)Chúa Giê-su phải nên giống anh em mình về mọi phương diện
Sự liên đới huyết nhục con người giữa Chúa Giê-su và chúng ta là cốt lõi kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phác họa một kế hoạch của riêng một mình Người, nhưng một kế hoạch có sự tham gia của loài người. Người cần sự cộng tác của loài người, không phải vì một mình Người không đủ khả năng, nhưng vì Người thương yêu loài người, muốn cho loài người có một phẩm giá nhờ sự cộng tác ấy. Trong gia đình, có nhiều việc chúng ta đâu cần con cái giúp đỡ.Nhưng chúng ta cho chúng tham gia, là để chúng thấy mình cũng có giá trước mặt cha mẹ. Thực ra chúng ta làm hết mọi sự rồi! Tuy nhiên, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Người không muốn chúng ta thụ động, trái lại, chúng ta cần phải làm hết khả năng của mình. Chúng ta không thể được cứu rỗi một cách tiêu cực, nhưng phải tích cực cộng tác với Đấng Cứu Thế. Cho nên Chúa Giê-su trở nên giống chúng ta về mọi phương diện cốt là để chúng ta có thể tích cực cộng tác với Người. Người có thể làm gì, chúng ta cũng có thể làm như vậy. Chúng ta không thể vịn cớ: Chúa Giê-su làm được vì Người là Chúa, còn tôi không thể làm được vì tôi là loài người. Vậy, là con người như chúng ta, Chúa Giê-su đã làm gì?
b)Người trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín
Trong Cựu Ước, thượng tế được tuyển chọn trong số người phàm là đại diện có thế giá của loài người để biểu lộ mối tương quan với Thiên Chúa (Dt 5:1). Nhưng Chúa Giê-su, vị Thượng Tế chính Thiên Chúa đã sai tới, thì khác biệt và phải trổi vượt trên các thượng tế được tuyển chọn từ giữa loài người, vì không những Người biểu lộ mối tương quan, mà Người còn là chính Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Tuy nhiên chúng ta đừng quên một điểm rất quan trọng, đó là Người trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín. Trở thành là một diễn tiến của học tập. Muốn trở thành một bác sĩ, tôi cần phải học và thực tập. Muốn trở thành một cầu thủ, tôi cũng phải học những kỹ thuật môn thể thao và tập luyện vất vả. Trong tiến trình học hỏi để trở thành vị Thượng Tế nhân từ và trung tín, "dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (5:8). Mới học vâng phục thôi, mà Chúa Ki-tô đã phải trả giá bằng nhiều đau khổ rồi, còn biết bao điều khác nữa! Nhưng chính nhờ việc học tập của Người tiến tới mức độ thập toàn nên Người mới "trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu" cho chúng ta.
c)Mục đích Chúa Giê-su trở thành Thượng Tế là để đền tội cho chúng ta
/span>Nhữngđức tính cần thiết vịThượng Tếphải cóđểcóthểthi hành sứvụđền tội,đólàphải nhân từvàtrung tín.Chương 3 và4 quảng diễn haiđức tính này.Đúng vậy, cần phải cólòng nhân từthìChúa Giê-su mới biết cảm thương sốphận của chúng ta làanh chịemcủa Người.Cần phải cólòng trungtín thìChúa Giê-su mới làm cho lời hứa của Thiên Chúa không trởthành bộiước, hứa lèo.Ngườimuốn trung thành với sứvụChúa Cha trao phóvàtrung thànhđáp lạinguyện vọng của loài người.Hơnnữa, bản chất của việcđền tội cũngđòi vịThượng Tếphải nhân từvàtrung tín.Người khôngđền tộicho tội lỗi của mình, nhưngđền thay cho tội lỗi của loài người.Chúa Ki-tôđãchết vàsống lại vìchúngta vàcho chúng ta.Lòng nhân từcảm thương vàtrung tín của Ngườiđãlàm cho việcđền tội cómộtgiátrịđặc biệt của"người Conđứngđầu trong nhàThiên Chúa"(3:6),nhờđókhi Ngườiđược Thiên Chúa tôn vinh, thìchúng ta cũng sẽđượctôn vinh nếu chúng ta sống xứngđáng làcon cái Thiên Chúa.
Có lẽ điểm đặc biệt chúng ta cần nêu lên là tại sao Phụng vụ Lời Chúa đã chọn đoạn thư gửi tín hữu Do-thái này cho Lễ dâng Chúa Giê-su trong Đền Thờ. Sứ vụ tư tế đền tội thay cho nhân loại có liên hệ gì với việc dâng Chúa Giê-su trong Đền Thờ? Có liên hệ mật thiết chứ. Việc dâng con trai đầu lòng của người Do-thái cho Chúa trong Đền Thờ là một cử chỉ nói lên người con ấy từ nay thuộc về Đức Chúa, hoàn toàn để Người sử dụng, sẽ tuân phục Người và thi hành bất cứ điều gì Người muốn. Cử chỉ ấy thích hợp với ai nữa nếu không phải là chính Chúa Giê-su? Tiếp đến, thư Do-thái đi tới kết luận chí lý: "Anh em hãy ngắm nhìn Đức Giê-su là Tông đồ, là Thượng Tế, là Trung gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin" (3:1). Ngắm nhìn để mà học tập theo gương Người vậy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Đoạn thư Do-thái trên có giúp tôi có một cái nhìn mới về cấu trúc Phụng vụ Lời Chúa lễ dâng Chúa Giê-su trong Đền Thờ không?Mới về những điểm nào?
Tham dự vào chức tư tế phổ quát của Chúa Giê-su, tôi đã học tập "trở thành" một Ki-tô hữu như thế nào? Tôi còn thiếu những đức tính nào của một Ki-tô hữu?Phải tập những đức tính ấy ra sao?
Lòng nhân từ và trung tín của Chúa Giê-su Thượng Tế có dạy tôi đến với anh chị em không? Hay tôi vẫn là một Ki-tô hữu đóng kín, ích kỷ? Tôi sẽ suy nghĩ và học biết về lòng cảm thương và trung tín của Chúa Giê-su bằng cách nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng nhau đọc kinh "Xin ơn quảng đại":
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không cần tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. A-men.(Thánh I-Nhã)
Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường: 2/2-11
Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:
"Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?"
Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống" (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).
Vai Trò Của Cha Mẹ
Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể thao... và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy, khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó. Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình. Một bà mẹ nhận xét, "Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái."
Những Tấm Gương
Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.
Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta có câu, "Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh." Câu này chỉ trúng một phần nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.
Nhận Ra Dấng Cứu Thế
Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, "Lạy chúa bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân." Cũng thế, bà Anna, sau khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng Cứu Thế.
Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?
Bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng có những hình ảnh đẹp nhất: 2/2-12
Bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng có những hình ảnh đẹp nhất trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Có thể nói cuộc gặp gỡ của những người được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là cuộc gặp gỡ của những người đại diện cho dến ba thế hệ.
Tiên tri Simêon và Anna thuộc thế hệ cao niên. Đức Mẹ và thánh Giuse thuộc thế hệ đương thời và Chúa Giêsu thuộc thế hệ mai sau. Cả ba thế hệ hội tụ lại trong khung cảnh của đền để thực hiện cho Lễ Đức Mẹ Dâng Con
NHỮNG LƯỠI GƯƠM SẦU KHỔ.
Đang khi thăm viếng bệnh viện, một cha sở dừng lại nhìn một giáo dân trẻ, có đứa con đầu lòng mới được 4 ngày. Mặc dầu vẻ bề ngoài thật dễ thương, nhưng người mẹ trẻ đó lại đầm đìa nước mắt. Cha sở hỏi: “Sao con lại khóc vậy hở Rosie?”. Để đáp lại, Rosie chỉ ngước nhìn lên Đức Mẹ bồng ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng mà mắt đẫm lệ. Đó là một bức họa của một phần bài Tin Mừng hôm nay: “Khi ông già Simeon được Chúa Thánh Thần linh hứng, đã nói với Đức Mẹ rằng: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Rosie đã nhỏ lệ vì chị cảm thương Đức Mẹ, vì Mẹ biết rằng: Chúa Kitô Con Mẹ sẽ phải đau khổ, và cũng vì chị cảm thấy nỗi lo âu của người mẹ sợ rằng con nhỏ của mình sẽ phải đau khổ, cha sở giải thích cho chị rằng Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sức mạnh phi thường để đón lấy lời báo tin đắng cay ấy, để nhận lấy lưỡi gươm sầu khổ ấy.
Các bà mẹ ngày nay cũng có thể nhìn thấy vô vàn những nguy hiểm đe dọa con mình. Những đe dọa thể xác: như bệnh tật đủ loại, tai nạn mất sự sống và tàn tật, những kẻ hung ác, ngược đãi trẻ nhỏ, những thứ ma túy hủy hoại thể xác và cả tâm hồn, ăn uống say sưa quá độ, lái xe ẩu. Và còn biết bao tệ hại làm tan nát thể xác giới trẻ. Rồi những nguy hiểm cho linh hồn đứa trẻ lại càng tệ hại: những bạn bè xấu làm mất cả đức tin, mất phán đoán về sự chân thực và sự sai lầm, những bạn bè say sưa, những bạn bè nghiện ngập, những phim ảnh và tạp chí khêu gợi dục vọng, những sách vở và thầy dạy làm sai lạc điều chân thật, và tinh thần của ma quỉ ngày nay gào thét lên rằng: mọi sư đều tốt, bao lâu bạn có thể chiếm được chúng.
Thực vậy, các bà mẹ có nhiều điều lo lắng, nhưng tình trạng vẫn còn hy vọng. Một người có ảnh hưởng giúp đỡ. Một người mẹ gương mẫu, hoàn toàn vô tội, rất mực tinh tuyền, biết chắc rằng: con trẻ bà bồng ẵm trong tay rồi một ngày kia sẽ được đặt lại vào tay bà. Mà lúc ấy con bà đã bị thương tích, đầy máu me và hết sống. Người mẹ trên trời này nóng lòng giúp đỡ người mẹ ngày nay.
Như Đức Maria, các bà mẹ có những niềm vui và nỗi sầu. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về niềm vui, như Đức Maria đã làm. Sự lo sợ của Đức Mẹ về tương lai, thay vì làm cho Người lìa xa Thiên Chúa, hay là làm cho Người quên Thiên Chúa, thì lại làm cho Người hứơng mắt về Cha trên trời đầy thông suốt và quyền năng.
Như thánh Phaolô viết cho tín hữu Do thái: “Chúa Giêsu đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong mọi việc phụng thờ Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân (B. đ.2; Dt 2,17).
Hôm nay Thánh lễ này thể hiện điều đó cho chúng ta. Lễ hiến tế làm sống lại những biến cố vui buồn trong cuộc đời Đấng cứu thế, Ngài sinh lại; chết và lại phục sinh. Từ sự làm mới lại cuộc thương khó và tử nạn của Ngài, mọi bà mẹ, mọi Kitô hữu, có thể lấy lại được sức mạnh để mang lấy sự lo lắng về tương lai, và đón nhận đau khổ khi nó xảy đến.
Bốn mươi ngày trước đây, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Theo luật Môsê, Sau khi sinh: 2/2-13
Bốn mươi ngày trước đây, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Theo luật Môsê, Sau khi sinh con trai đầu lòng được 40 ngày, người mẹ phải đến Đền Thờ Giêrusalem để làm lễ thanh tẩy cho mình và hiến dâng con trẻ cho Thiên Chúa, rồi chuộc lại bằng lễ vật một con chiên hay một cặp bồ câu: vì mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Ý nghĩa này nhắc cho dân Do Thái cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã tha không giết các con trai đầu lòng của họ, đang khi các con trai đầu lòng của dân Ai Cập đều bị giết chết, trong đêm Thiên Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập đưa về Đất Hứa (x. Xh 13,l-3a.11-16).
Đức Maria và thánh Giuse cũng tuân giữ diều luật này. Hai ông bà đem Hài nhi Giêsu lên đền Thờ hiến dâng cho Thiên Chúa và gặp ở đây hai vị tiên tri già lão: Simêon và Anna. Hai vị được Thánh Thần linh ứng dã nhận ra Chúa Cứu Thế. ông Simêon đã mãn nguyện vì được tận mắt chiêm ngưỡng Đấng muôn dân trông đợi. Ông đã lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và nói tiên tri về Hài nhi Giêsu: Hài nhi này sẽ là ánh sáng của muôn dân nhưng lại là đối tượng cho người ta chống đối.
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người là con đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ông Simêon và bà Anna tượng trưng cho tất cả sự trông đợi của It-ra-en, họ đã tới gặp Cứu Chúa của mình. Đức Giêsu được nhìn nhặn là Đấng Mêsia người ta trông đợi từ lâu, là ánh sáng của muôn dân và là vinh quang của Ít-ra-en, nhưng Người cũng là dấu hiệu của sự chống đối. Thanh gươm của đau khổ được báo cho Mẹ Maria đã loan báo một sự hiến dâng toàn hảo và độc nhất của thập giá. Sự hiến dâng sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị trước mặt tất cả mọi dân tộc
Lễ của ánh sáng
Lễ hôm nay còn được gọi là Lễ Nến, vì có cuộc rước nến vào Nhà thờ như cuộc đón rước Chúa GIÊSU là ánh sáng của muôn dân. Thánh Xốp-rô-ni-ô, Giám Mục Giêrusalem dã nói: “Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả sáng" (x. Kinh Sách, các bài đọc ngày 2/2)..
Công đồng Vaticanô II đã lấy lại lời tiên tri của ông Simêon để mời gọi mọi người Ki tô hữu ý thức sứ mạng và ơn gọi của mình là phải làm cho mọi người được nhận biết Chúa Ki tô, phải đem ánh sáng Tin Mừng của Ngài chiếu soi hướng dẫn mọi người trên thế giới. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố. "Thầy là ánh sáng trần gian. Ai đi theo Thầy sẽ không bước đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống" (x.Ga 12, 34-50). Bao lâu con người chưa nhận biết Chúa Ki tô và ánh sáng Tin Mừng của Ngài, thì bấy lâu con người còn dò dẫm trong tăm tối và dễ bị lầm lạc.
Tuy nhiên, Chúa Ki tô đã trở nên đối tượng chống đối của con người. Có những người biết Chúa để sống theo Ngài. Có những người khác lại chống đối Ngài. Chúng ta lấy làm đau xót với thánh Giuse và Mẹ Maria khi nghe tiên tri Simêon tiên báo điều đó ngay trong ngày vui của Chúa Giêsu: "Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính Bà (Đức Ma ria) thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra". Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm ngay từ lúc Chúa Giêsu mới sinh ra cho đến khi bắt dấu cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Cuộc chống dối đó ngày càng lan rộng và quyết liệt cho đến khi giết được Ngài treo lên Thập giá. Nhưng Ngài dã Phục Sinh và đã trở thành ánh sáng của muôn dán, nguồn sống cho nhân loại.
HÃY SỐNG TRONG ÁNH SÁNG
Từ nay, ai đã tin Chúa Giêsu Ki tô và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều đón nhận sự sống của Thiên Chúa và được ánh sáng của đức Ki tô chiếu soi, hướng dẫn cuộc sống. Thật vậy, nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thánh hiến cho Thiên Chúa và được trở nên con của Ngài trong Đức Giesu Ki tô. Thiên Chúa đã thương gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài. Xưa kia, chúng ta là tối tăm, nhưng nay trong Chúa Ki tô, chúng ta là "con cái của sự sáng là ánh sáng của trần gian" (x. Ga 12,85-36). Do đó chúng ta phải sống như con cái của sự sáng, phải chiếu sáng trước mặt mọi người, để "người ta nhận thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta trên trời" (Mt 5.14-16).
Thánh Phao lô nhắn nhủ những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy: Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa, Hãy vật bỏ những việc tối tăm, Hãy mang khí giới ánh sáng,Hãy hành động đàng hoàng như giữa ban ngày, để luôn được hiệp thông với Chúa Ki tô tà ánh sáng muôn dân" (x. Ep 6,8-14).
Chúa Giêsu hôm nay đang tiến vào Đền Thờ của Ngài. Chúng ta hãy tiếp dón Ngài vào tâm hồn, vào cuộc sống của ta, để ánh sáng của Ngài biến đổi chúng ta thành những ngọn nến chiếu sáng như những vì sao trong đêm tăm tối của trán gian, hầu dẫn đưa những ai còn ngồi nơi tăm tối đến gặp gỡ Đức Giêsu Ki tô, 'đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt muôn dân" và dã bày tỏ cho mọi người.
Một bà lão gặp vị linh mục và nói: “Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy: 2/2-14
Một bà lão gặp vị linh mục và nói: “Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời”.
Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn niềm hy vọng của người Kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn với Chúa. (x. Phút Lắng Đọng Mỗi Ngày – tháng 12).
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc ông già Simêon được diễm phúc gặp Chúa Hài Đồng, được bồng ẵm Chúa khi Chúa được Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng tiến trong đền thờ.
Việc Chúa Giêsu được dâng tiến trong đền thờ và thái độ của cụ già Simêon cho chúng ta nhiều bài học:
- Đức Giêsu được dâng tiến trong đền thờ: Nghi thức dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là nghi thức Do thái nhắc nhở rằng mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu -Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể- là Con Chúa Cha từ thuở đời đời. Tuy nhiên, đi vào lịch sử nhân loại trong văn hóa Dothái giáo, Ngài được cha mẹ dâng tiến cho Thiên Chúa theo như luật định. Qua đó, Ngài nêu gương cho chúng ta về việc tuân giữ lề luật và dâng mình cho Thiên Chúa.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta, từ khi còn tấm bé, đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa trong ngày chịu phép rửa. Nhờ phép rửa, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy ý thức và sống xứng đáng với hồng ân này.
- Tiếp theo là thái độ của cụ Simêon: Sau cả một đời chờ mong, giờ đây, cụ sung sướng thỏa mãn; bởi vì cụ đã thấy, đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay mình. Ông cụ Simêon mới được thấy Chúa, được ẵm Chúa trên tay mà đã sung sướng và tạ ơn Thiên Chúa như vậy, huống cho chúng ta được rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mỗi ngày! Chúng ta có nhận ra hồng ân cao trọng này mà ca tụng Chúa hay không? Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, ông già Simeon -được Thánh Thần thúc đẩy- đã lên đền thờ và gặp được Chúa -Đấng Cứu độ- mà lâu nay ông hằng mong ước. Ước gì chúng con năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày; để nhờ vậy, chúng con không chỉ gặp được Chúa mà còn được rước Chúa ngự trong tâm hồn. Amen.
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng: 2/2-15
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng” (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2.- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24): - cắt bì và đặt tên (c. 21), - thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38): - tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35), - tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): “Các ngài” là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, “các ngài” phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ “đem [con] lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà” (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là “con trai đầu lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: “Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”. Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek…). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng của sự “chia rẽ” và “mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của Thiên Chúa” và “từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng muôn dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi “dấu hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm thâu (= xuyên qua)”. Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1–2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng “ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. “Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm…: sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người… Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày” (Hông Y John Henry Newman, 1801-1890).
Lần chuỗi kinh mân côi chục thứ bốn có lời ngắm nguyện: “Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh: 2/2-16
Lần chuỗi kinh mân côi chục thứ bốn có lời ngắm nguyện: “Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh”.
Tập tục đạo đức dâng con cho Thiên Chúa có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin?
Đức tin nói với chúng ta:
Con cái là hoa qủa phúc lộc Trời cao ban cho cha mẹ. Tuy cha mẹ là người sinh thành nuôi dưỡng con mình.
Con cái không là sản phẩm do cha mẹ chế biến tạo thành. Nhưng sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác của con cái là do Thiên Chúa sáng tạo thành.
Con cái tuy là giọt máu tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng mầm sự sống trong dòng máu tình yêu thương của cha mẹ lại là hình ảnh giọt máu tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống của con người.
Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse ngày xưa đã không nhìn Chúa Giêsu là con riêng do mình tạo ra. Nên đã đem con mình vào đền thờ khấn nguyện tạ ơn dâng cho Thiên Chúa. Cử chỉ đạo đức này của Đức Mẹ nói lên lòng tin tưởng phó thác vào bàn tay Thiên Chúa. Vì đã nhận được ân đức qùa tặng từ nơi Thiên Chúa, cùng coi làm việc đạo đức này là bổn phận tất yếu của người đã lãnh nhận được ân phúc.
Lần thứ nhất, Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Đức Mẹ: Chúa Giêsu xuống thế làm người trong cung lòng Đức Mẹ. Và nói cùng Đức Mẹ: người con trong cung lòng bà sinh ra là Đấng thánh cao cả.
Lúc đem con vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa, Đức Mẹ lại nghe lời truyền tin thứ hai của Tiên Tri Simeon: Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được vực dậy đứng lên. Cháu là dấu hiệu cho người đời chống báng. Còn chính bà một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!
Lòng vui mừng vì người con đã chào đời. Nhưng cũng có nhiều lo âu bối rối, nhất là khi nghe những lời truyền tin thứ hai về con mình và về đời mình.
Tuy vậy Đức Mẹ qua tập tục đạo đức đem dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ, thầm nói lên tâm tình phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa không chỉ riêng cho đời con mình, mà cho cả chính mình nữa.
Là cha mẹ, người Công giáo chúng ta, ai cũng vui mừng khi hay tin có con. Và mừng rỡ hơn nữa khi người con mở mắt chào đời mạnh khoẻ. Nhưng ngay từ khi hay tin sự sống hình hài thân xác người con bắt đầu thành hình trong cung lòng mẹ cha, ai cũng đọc kinh khấn nguyện xin ơn phù hộ cho người con tương lai. Đến khi người con ra đời, cha mẹ nào cũng hằng dâng lời tạ ơn cùng kêu xin khấn nguyện cho con mình trong suốt cả đời sống.
Ngày xưa khi còn thơ bé, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm vào thánh đường xin cho được nhận lãnh Bí tích rửa tội, ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa là hướng đi cho đời sống.
Ngày nay lớn lên trưởng thành lập gia đình, cha mẹ trẻ có con, họ cũng làm việc nối lửa đức tin cho con mình như thế.
Nếp sống đức tin này gói ghém tâm tình tạ ơn cùng phó thác vào bàn tay quan phòng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống gia đình.
Tâm tình tạ ơn dâng hiến hòa lẫn trong làn khói ánh nến lung linh và lời cầu xin thoát ra tự đáy tâm hồn niềm tin: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.”
Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra: 2/2-17
Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Tại khắp nơi trên nước Đức đã có hàng trăm ngàn người xuống đường tuần hành, nhiều ánh sáng rực rỡ nhóm lên, nhiều nến cháy trên tay của mỗi người tham dự cuộc tuần hành. Ánh nến ấy là biểu trưng của một chút ánh sáng mà nhiều người dân Đức muốn thắp lên để xoá tan màn đêm dày đặc của hận thù, ích kỷ, bại hoại do những người theo tân Đức Quốc Xã.
Hôm nay, tại nhiều nhà thờ trên khắp thế giới, người tín hữu Kitô cũng cầm nến cháy sáng trong tay để tưởng niệm một biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. đó là việc Ngài được cha mẹ dâng vào đền thờ Giêrusalem. Cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, Chúa Giêsu cũng được cha mẹ mang đến đền thờ Giêrusalem để dâng hiến cho Thiên Chúa theo đúng quy định của luật Môisê. Nhưng theo chương trình của Thiên Chúa, đây không chỉ là một lề luật có sẵn, nhưng điều chính yếu là việc tỏ mình của Con Thiên Chúa như ánh sáng của muôn dân.
Thật thế, như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, lời chúc tụng của cụ già Simêon là một kỷ niệm về lời tiên báo của tiên tri Isaia: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để mở mắt những người mù loà, để đưa tù nhân ra khỏi lao tù, để đưa dân riêng ra khỏi bóng tối” (Is 42,6). Và chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian”.
Thật vậy, qua cuộc sống và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã chiếu giãi ánh sáng cho những bí ẩn của cuộc sống con người. Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta biết được mình bởi đâu mà ra và mình sẽ đi về đâu. Đồng thời ánh sáng của Ngài cũng xoá tan mọi tăm tối tội lỗi của thế gian. Nơi đâu ánh sáng của Chúa Giêsu được chiếu toả, nơi đó bóng đêm của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù sẽ tan biến đi. Chúa Giêsu đã mang ánh sáng đến trên trần gian và Ngài muốn ánh sáng đó được chiếu toả trong mọi hang cùng ngõ hẻm của trần gian.
Nhiệm vụ mang ánh sáng của Ngài đi khắp nơi đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho Giáo Hội, Ngài đã nói với các môn đệ: “Các con là ánh sáng thế gian”. Giáo Hội và một cách cụ thể là mỗi người Kitô hữu đều là ánh sáng của Chúa Kitô được thắp lên để soi sáng cho trần gian.
Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Giáo Hội, ngày hôm nay các tu sĩ cầm nến cháy trên tay để cùng với Chúa Kitô tự hiến cho Chúa Cha và cùng với Ngài trở thành ánh sáng cho mọi người. Nhưng ngày lễ nến hôm nay không chỉ là ngày lặp lại lời tuyên khấn của các tu sĩ, mà còn là lễ của mỗi người Kitô hữu.
Ngày hôm nay mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để đốt lên ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Họ được mời gọi để cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại những lời cam kết chống lại sức mạnh của tăm tối trong cuộc sống của họ. Những ngọn nến đã được đốt lên trên toàn nước Đức biểu hiện của một ý chí muốn xoá tan những bóng tối riêng tư của hận thù, ích kỷ, bạo động... và đồng thời khơi dậy nguồn ánh sáng của sự tha thứ, yêu thương, quảng đại và cảm thông.
Ngày hôm nay, những ngọn nến mà mỗi người Kitô hữu thắp sáng lên cũng nhắc nhở cho họ về sứ mệnh cao cả là trở thành ánh sáng cho mọi người. Trong đêm tối của một xã hội dầy đặc những hận thù, ích kỷ, lừa lọc... mỗi người tín hữu Kitô đều có thể nói: “Thà đốt lên một ánh nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Một cuộc sống tin tưởng, hân hoan, phó thác và yêu thương, phục vụ quên mình, đó là một chút ánh sáng mà mỗi người tín hữu Kitô đều có thể đốt lên để soi sáng cho một góc trời nào đó, để từ đó người khác có thể nhận ra ánh sáng đích thực của Chúa Kitô.
Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức: 2/2-18
Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.
Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.
Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló dạng.
Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.
Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.
Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho tương lai của con cái.
Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.
Nhìn những đôi mắt long lanh, trong sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.
Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.
Thế nhưng chung quanh các em có biết bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân đức của linh hồn.
Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ "càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến".
Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc, để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng. Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến ngày ra đón rước Chúa.
Mẹ Maria và thánh cả Giuse biết rằng mọi sự đều từ Chúa mà đến và mọi sự đều phải trở về với Chúa: 2/2-19
Mẹ Maria và thánh cả Giuse biết rằng mọi sự đều từ Chúa mà đến và mọi sự đều phải trở về với Chúa. Trẻ Giêsu là một quà tặng bởi Chúa mà đến, và do đó hai ngài lên Giêrusalem để dâng lại cho Chúa. Các gia đình, nhất là các bà mẹ, hôm nay cũng mang con đến nhà thờ dâng cho Chúa, cảm tạ Chúa, vì sự sống Chúa đã ban cho nơi con cái.
Chúng ta hết lòng quí trọng quà tặng sự sống này. Không bao giờ đối xử với sự sống như một sở hữu hay như một cái gì chúng ta chế tạo ra, để rồi tưởng mình có quyền muốn giữ thì giữ, muốn bỏ thì bỏ. Chúa là Đấng Tạo Hóa đã ban sự sống cho chúng ta và đang nâng đỡ cho mọi sự được tồn tại. Ngài ban quà tặng sự sống ấy cho chúng ta, chúng ta phải làm cho nó được phát triển và kiện toàn. Trẻ Giêsu mà Mẹ Maria ẳm trong lòng và Simêon bồng trên đôi cánh tay già nua, tuy bé bỏng nhưng là Đấng Cứu độ muôn loài.
Như Mẹ Maria ẳm trẻ Giêsu trong lòng, và như Simêon bồng Người trong đôi cánh tay già nua, là Chúa cả trời đất. Chúng ta cũng hãy trân trọng và chăm lo cho những đứa con bé bỏng của chúng ta. Biết đâu những đứa trẻ bé bỏng hôm nay mai kia sẽ thành những người lãnh đạo Giáo Hội và đất nước.
Ngoài ra, chúng ta phải làm hết sức mình có thể để Chúa Kitô trở nên sự sống của chúng ta, và qua chúng ta, Chúa cũng trở nên sự sống cho mọi người chung quanh chúng ta, nhờ các hoạt động từ thiện truyền giáo của chúng ta.
Chúng ta nghe ông Simêon nói với Đức Mẹ rằng Chúa Kitô là dấu hiệu cho người ta chống đối: có những người nhờ Ngài mà đứng lên, có những kẻ vì Ngài mà phải ngã xuống, có những người hân hoan đón nhận sự sống Chúa mang lại, có những người lại tìm cách tiêu diệt sự sống ấy từ trong trứng nước.
Trẻ Giêsu được dâng trong đền thờ khiến chúng ta nghĩ đến bao nhiêu em bé sinh ra đời. Chúng ta nức lòng nghĩ đến những em bé được chờ đợi và chào đón, nhưng cũng đau lòng nghĩ đến những trẻ sơ sinh không được đón nhận, những trẻ em bị bỏ rơi không thể sống sót vì thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ và người thân. Nhìn thánh gia thất, chúng ta nôn nao nghĩ đến những gia đình sum vầy cha mẹ con cái đầm ấm hạnh phúc, nhưng cũng nặng lòng nghĩ đến những đôi vợ chồng khao khát niềm vui có con cái mà hy vọng ấy dường như mỗi lúc một vô vọng và chúng ta thành tâm cầu nguyện cho họ.
Nhìn Chúa Hài Đồng được dâng lên, chúng ta cũng nghĩ đến bao nhiêu thai nhi không được phép đón nhận ngày sinh, cuộc sống và ánh sáng mà Thiên Chúa làm người mang đến cho mọi người, vì sự yếu đuối của con người, vì những toan tính và kế hoạch ích kỷ của những con người khác, cũng như của các cơ cấu xã hội, ngay cả bởi những cha mẹ vô trách nhiệm và gia đình của các thai nhi ấy.
Nghĩ đến những trẻ em bị giết chết ngay trong lòng mẹ không được sống đến lúc mở mắt chào đời, chúng ta cũng nghĩ đến những bà mẹ phải bị ám ảnh dằn vặt vì phá thai, dưới bất cứ lý do gì (vì yếu đuối, bị lừa gạt, bị lạm dụng hay vì khó khăn kinh tế, vì công ăn việc làm). Ý nghĩ phá thai là giết người, và giết chính con mình sẽ làm cho những người mẹ ấy phải đau khổ tâm lý trong suốt cả cuộc sống. Quả thế, một số các mẹ và các chị đã ấm ức khóc hay nước mắt lưng tròng khi liên tưởng đến nỗi khổ tâm của mình hay con cái của mình vì hoàn cảnh đã phá thai. Nhiều nghiên cứu tâm lý và xã hội kết luận rằng đa số người phá thai có nguy cơ mắc bệnh tâm thần và ung thư cao vì những nỗi ân hận ray rứt kéo dài triền miên trong cuộc sống.
Chúng ta cũng đau thương nghĩ đến nhiều trẻ nít và vị thành niên bị lạm dụng tình dục và hãm hiếp, hay sống thử phóng túng buông thả luân lý để rồi phải phá thai hay phải làm mẹ khi tuổi đời còn quá non nớt, không đủ khả năng hay không thể nuôi con, đành phải bỏ rơi con trong thùng rác, trên vỉa hè bệnh viện hay xó chợ, cho ruồi bâu, kiến rúc... Một số em được may mắn sống sót và lớn lên trong các cô nhi viện, một số khác gặp hoàn cảnh tệ hơn sống lây lất bụi đời, gánh chịu không biết bao nhiêu cơ cực cay đắng trên tâm hồn và trên thân xác, vì không có được một mái ấm gia đình, không biết cha mình là ai, mẹ mình là ai và đang ở nơi đâu!
Nghĩ tới những em bé bất hạnh bị bỏ rơi vô thừa nhận ấy, chúng ta tuy thông cảm và tôn trọng, nhưng cũng bất bình chua xót nghĩ đến những đôi vợ chồng ích kỷ chỉ nghĩ đến tự ái, đau khổ hay vui sướng của bản thân mà không nghĩ đến những hậu quả đau thương cho con cái, làm cho gia đình đổ vỡ, ly dị khiến các em trở nên mồ côi cha mẹ, dù cha mẹ các em đang còn sống cả đó, và nhiều em bị đẩy ra đường tự kiếm sống, làm cho bao nhiêu em bị hành hạ và giết chết hằng ngày trên khắp nẻo đường đời, dưới đủ mọi hình thức nghèo đói, bệnh tật, mại dâm, ma túy, HIV. Các em không chỉ bị giết chết về thân xác, mà còn bị giết chết dần mòn về tâm hồn và đức tin: những lạm dụng và tội lỗi đã giết chết lòng trong trắng của các em, đã đánh mất tình thương, niềm tin và hy vọng của các em vào con người, vào cuộc đời, lắm khi cả vào Thiên Chúa nữa.
Ngôi Lời nhập thể và được tiến dâng hôm nay nâng đỡ chúng ta. Ngài là Thiên Chúa đã mặc lấy thịt xương máu huyết để trở nên con người và để ở với chúng ta, chia sẻ thân phận con người chúng ta, đau khổ với chúng ta, đau khổ vì chúng ta và đau khổ cho chúng ta, cho đến chết và chết tất tưởi trên thập giá. Ngài hiến ban mạng sống của Ngài để cho chúng ta được sống, được cứu độ. Đó là sứ điệp thúc đẩy chúng ta tìm lại những giá trị của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người. Chúa không đến cất đi đau khổ. Ngài cũng không đến để giải thích đau khổ. Ngài đến để chia sẻ đau khổ với con người, nâng đỡ con người và mời gọi con người chia sẻ phận người với những con người khác, vốn là đồng bào, đồng loại và anh chị em của mình.
Chúng ta nghiêng mình cảm phục và ca ngợi những tấm lòng từ thiện, những đôi vợ chồng son sẻ đã mở rộng lòng nhân ái đón nhận các trẻ em mồ côi hay bị bỏ rơi, tàn tật để cho các em có cha có mẹ và một mái ấm gia đình. Nhưng chúng ta cũng nghiêm khắc thức tỉnh lương tâm và kêu gọi những con người đã gây ra những mảnh đời đau khổ cho đồng loại qua việc lạm dụng tình dục, sở khanh, cưỡng hiếp..., hãy thôi đi các việc thất đức đó, hãy kính trọng Thiên Chúa, tự trọng, tôn trọng phẩm giá và tình yêu con người. Chúng ta hãy cùng nhau kiến tạo cộng đồng xã hội và gia đình thành thiên đường mà hưởng, đừng biến chúng thành địa ngục mà phải chịu đựng.
Lễ dâng Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta những cái nhìn mới, những con đường mới để suy tư và hành động, để cảm nghĩ và nói năng, để sống và yêu thương, để trao ban và lãnh nhận. Chúng ta tin, chúng ta hy vọng và chúng ta quyết tâm làm một cái gì cho những người kém may mắn hơn chúng ta: cô nhi, quả phụ, khuyết tật, nghiện ngập, HIV... Chúng ta cố gắng hết sức mình để mang hy vọng và tình thương cho kẻ khác, để làm cho Chúa Giêsu được sinh ra trong tâm hồn và cuộc đời của những người chưa biết Chúa, cũng như để làm cho Chúa Giêsu được sinh ra lại và lớn lên trong tâm hồn và cuộc đời của những ai đã từ khước Chúa vì tội lỗi của họ.
Nhưng thưa quí ông bà và anh chị em, Mình Máu Thánh Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy, quyền năng của Chúa đã biến thể từ bánh rượu là lương thực hằng ngày của con người chúng ta. Vậy nếu chúng ta dâng lên Ngài bản thân chúng ta, cuộc đời đời chúng ta, giáo xứ chúng ta, gia đình chúng ta, mọi người chúng ta thương mến, công việc làm ăn, học hành, kinh nguyện của chúng ta, những niềm vui và hạnh phúc, những nỗi buồn phiền và gánh nặng vất vả của chúng ta; cả những kẻ thù nghịch, những người chúng ta không thương hoặc những người ghét bỏ chúng ta, cả những tính xấu và tội lỗi của chúng ta… thì quyền năng của Chúa cũng sẽ biến đổi thành cái gì tốt đẹp hơn cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng điều đó, vì tình yêu của Chúa thì lớn hơn tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn luôn dùng gương sáng hướng dẫn chúng con, và hôm nay Chúa được dâng lên cho Chúa Cha. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn chân thành dâng chính mình chúng con cho Chúa mỗi ngày. Mỗi buổi mai khi vừa thức dậy, chúng con sẽ dâng mình lại cho Chúa. Chúng con nài xin Chúa ơn luôn có Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng con, luôn lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần dạy bảo, thúc giục, để tất cả chúng con sống hiệp nhất yêu thương hầu làm chứng tá cho Nước Chúa ở giữa trần gian. Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được Chúa yêu thương chúng ta và giúp chúng ta làm cho người khác cũng cảm nhận được Chúa yêu thương họ, ban bình an và niềm vui cho họ, bất chấp tất cả những gì có thể xảy ra. Amen.
Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ: 2/2-20
Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. Tại sao lại có lễ này và gọi như vậy? Theo luật Maisen trong kinh thánh cựu ước ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6) ghi chép:
1. Trẻ em sơ sinh trong thời han luật định phải mang đến đền thờ dâng hiến cho Thiên Chúa.
2. Một người phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày phải mang vào đền thờ Thiên Chúa lễ vật, để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta hiểu là sau khi sinh con, người phụ nữ không còn được thanh sạch. Thanh sạch về thể xác hay tâm hồn? Trong sách luật không nói rõ.
3. Người con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc.
Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép trong đạo thời đó. Nhưng lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ: Hai người đạo đức Ông gìa Simeon và Bà Hanna được hạnh phúc bồng bế haì nhi Giêsu trên tay mình. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là "ánh sáng cho mọi dân tộc" ( Lc 2,22-40).
Bên Hội thánh Đông phương lễ này gọi là Lễ gặp Đấng Cứu Thế: Chúa Giêsu, vị Cứu thế vào đền thờ và gặp hai vị đại diện cho thời đạo cũ: Simeon và Hanna. Tục lệ này trở thành lễ mừng kính trong hội thánh bên Giêrusalem từ đầu thế kỷ thứ tư: 40 ngày sau khi Đức Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu.
Bên Hội thánh tây phương lễ này là lễ kính Đức Mẹ: Đức Mẹ Maria cũng như bao người phụ nữ khác, sau khi sinh hạ con, mang lễ vật vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Bên Roma mừng kính ngày lễ này cũng vào thế kỷ thứ tư trong các thánh đường. Sau này, vào ngày lễ này nến được làm phép và mọi người rước nến cháy sáng trong nhà thờ. Vì thế lễ có tên là Lễ Nến.
Từ năm 1969 lễ ngày mùng Hai tháng Hai không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Mẹ Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, 40 ngày sau khi Chúa mở mắt chào đời trong hang đá Belem. Nếu lễ Chúa giáng sinh được mừng kính ngày 25. 12., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ, sẽ là ngày 02 tháng hai. Nếu lễ giáng sinh được mừng kính vào ngày 06.01., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ sẽ vào ngày 14. tháng Hai.
B. Ý nghĩa ngày lễ mừng.
Tục lệ đạo đức lễ Nến ăn sâu trong cuộc sống người tín hữu. Ỡ nhiều nơi, giáo dân tín hữu mang nến đến nhà thờ để được làm phép trong ngày này. Họ mang nến đã làm phép về thắp lên mỗi khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện khi có người ốm đau hoặc trẩy đi xa, trong những dịp vui mừng cưới hỏi hay tang chế.
Lễ mừng này nói lên ý nghĩa cuộc gặp gỡ: Chúa Giêsu con Thiên Chúa được đưa vào đền thờ, một biểu hiêu trong công trình thiên nhiên. Ngài đi vào thiên nhiên gặp gỡ đời sống con người: tôn giáo và đời sông gặp gỡ nhau.
Vì thế, sau này trong bước đường rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài hay dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống để cắt nghĩa về nước đó: ơn kêu gọi là con Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là quê hưong của mọi người.
Hai thế hệ con người gặp gỡ nhau. Gìa trẻ gặp gỡ nhau. Hai vị trưởng lão Simeon và Hanna gặp gỡ trẻ Giêsu. Cuộc gặp gỡ tình người này là cuộc trao đổi. Thế hệ lớn tuổi trao lại cho thế hệ trẻ kinh nghiệm sống đã thu lượm được, những gía trị đời sống, niềm hy vọng cùng lời chúc lành mong chờ trông đợi của mình. Thế hệ trẻ đón nhận những trối trăn của lớp trưởng thượng trao lại.
Thế hệ lớn tuổi qua lời ông Simeon: Giờ đây lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. Vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu chuộc cho muôn dân, biểu lộ lối sống biết nhận lãnh và cũng sẵn sàng cho đi trối lại. Cung cách chuyển giao này gây niềm phấn khởi cho thế trẻ đang lên sẵn sàng nhận lãnh lời trối trăn như bảo vật làm nền tảng cho tương lai đời sống cùng niềm tin đạo giáo.
Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng từ trời cao, được đưa vào đền thờ như lời mời gọi mọi người cùng đến gặp gỡ nhau trong tình khoan dung tha thứ cho nhau và mang đến cho nhau niềm hy vọng.
Lễ dâng Chúa vào đền thờ ngày mùng hai tháng hai hằng năm như lời mời gọi mỗi người đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng cho tâm hồn mình. Anh sáng Chúa Giêsu chiếu soi vào đền thờ tâm hồn con người và mang đến niềm vui cùng sự an ủi trong những giờ phút đen tối của cuộc đời.
Câu truyện của một thầy giáo già kể: Trước khi bắt đầu các lớp học, thầy thường đứng trước mặt: 2/2-21
Câu truyện của một thầy giáo già kể: Trước khi bắt đầu các lớp học, thầy thường đứng trước mặt các học sinh và cúi đầu chào. Thầy luôn làm thế với thái độ rất trân trọng.Một này nọ, có vài người hỏi thầy rằng tại sao thầy lại làm thế?Thầy trả lời rằng: Thầy làm như vậy, bởi vì thầy không biết bao nhiêu trẻ học sinh sau này sẽ thành đạt. Thầy đã nhận thấy mỗi học sinh giống như một kho tàng ẩn dấu và thầy đã cúi chào trong sự tin tưởng rằng có nhiều học sinh sẽ thành công và thành đạt xứng đáng sự tôn kính trong tương lai cuộc sống. Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta một tiềm năng để trở nên vĩ đại.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Đức Maria dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ. Một Hài Nhi bé nhỏ đã được các cụ già đón nhận một cách rất thành kính. Ngay khi vừa lọt lòng mẹ, Chúa Hài Nhi đã được các thiên thần tung hô, các mục đồng đến viếng thăm và từ xa, các nhà Đạo Sĩ đã đến tôn thờ và dâng lễ vật. Theo luật Môisen cũng là tục lệ của người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày, bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình làm lễ tẩy uế: Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa (Lc 2, 22). Dù Đức Maria và ông Giuse biết rằng trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa.Các ngài đã chu toàn mọi lề luật: Như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa" (Lc 2, 23). Dâng con trong đền thờ là để thánh hiến người con cho Thiên Chúa và cha mẹ có thể thế chân bằng cách dâng cúng của lễ như chim bồ câu hay chiên bò.
Thánh lễ hôm nay cũng còn được gọi là Lễ Nến.Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem.Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma.Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mesia tiến vào Đền thờ và gặp đại diện dân Chúa của Cựu ước qua ông già Simêon và bà tiên tri Anna. Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ thế kỷ thứ Tám, thánh lễ được gọi là Lễ Nến.Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Tiên tri Malakia đã tiên báo sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế trong đền thánh: Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: Đây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!Lập tức Đấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người (Mal 3, 1). Trong mọi hoàn cảnh diễn biến và qua các biến cố liên quan, những lời tiên tri thuở xưa đã từng bước được thực hiện trong đời sống của Chúa Giêsu.Thiên Chúa hiện hữu từ đời đời đã đi vào thời gian và không gian, nên có sự phát triển từng bước.Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể tôn thờ Thiên Chúa nơi hình ảnh của Chúa Hài Nhi, Chúa trong đền thờ, Chúa giảng dạy, Chúa chiên lành, Chúa bị đánhđòn, Chúa chết treo thập giá, Chúa sống lại và Chúa lên trời. Chúng ta có thể đến gặp gỡ Chúa qua nhiều cách thế nhiệm mầu.
Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham (Dt 2, 16). Chúng ta không đi tìm kiếm một Thiên Chúa cao siêu, vĩ đại và tuyệt đối cách xa. Chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa hiện hữu và quyền năng an bài mọi sự trong yêu thương. Tin rằng chúng ta đang tôn thờ một Thiên Chúa vô hình và vô biên nhưng thực ra Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta. Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể. Tác giả thơ Do-thái đã diễn tả: Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân (Dt 2, 17).
Chúa Giêsu cảm thông thân phận của con người.Ngài đã trải qua tất cả những thử thách ở đời và đã đi đến tận cùng của sự đau khổ là cái chết: Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách (Dt 2, 18). Vượt qua sự chết để vào vinh quang sự sống, Chúa Kitô trở nên niềm hy vọng và trông cậy cho tất cả mọi tạo vật.Ngài là sự sống và là sự sống lại viên mãn.Tất cả những ai tin vào Ngài, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Những ai tiếp rước Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa trong đền thờ: Ông Simêon đã chúc tụng Thiên Chúa: "Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa (Lc 2, 29-30). Ông già Simêon sống trong đền thánh chuyên tâm cầu nguyện và mong chờ ơn cứu độ.Ngày này, ông đã đại diện cho toàn dân chứng kiến giây phút lịch sử Thiên Chúa viếng thăm Dân Người và Đấng Thánh đã tiến bước vào cung thánh.Người ta thường nói: Chứng của hai người là chứng thật. Trong đền thờ, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, cũng đến: Bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel (Lc 2, 38). Trẻ Giêsu là trung tâm điểm của tất cả vũ trụ vạn vật.Thiên Chúa vĩ đại trở nên bé nhỏ trong vòng tay âu yếm của những kẻ tin. Ông Simêon và bà Anna đã hết sức vui mừng gặp được trẻ Giêsu và đã dâng lời ngợi khen Thiên Chúa.
Khi đi rao giảng, Chúa Giêsu đã đón nhận các trẻ nhỏ.Chúa luôn bảo vệ và yêu thương các trẻ nhỏ.Chúa Giêsu gọi các trẻ lại mà nói: Cứ để các trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng (Lc 18, 16). Mỗi một con người, từ bào thai, thai nhi, ấu nhi, trẻ thơ, thiếu nhi hay thiếu niên và trưởng thành đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Mỗi một cá nhân đều được trao ban những khả năng tiềm tàng và sự sống vô giá.Chúng ta phải trân qúy món qùa mà Thiên Chúa đã trao tặng.Các con trẻ đơn sơ trong trắng như các thiên thần. Chúa đón nhận các trẻ thơ: Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng (Mc 10, 16). Đừng bao giờ nghĩ rằng các trẻ em là gánh nặng mà là niềm vui trong cuộc sống gia đình. Các cha mẹ đừng khi nào than phiền, nguyền rủa, chối từ và xua đuổi con cái của mình, vì mỗi trẻ đều có một khả năng tiềm ẩn mà chính Thiên Chúa đã phú bẩm.Hãy yêu thương, dưỡng nuôi và ôm ấp món qùa Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa đã trở thành trẻ thơ cho người ta nâng niu và ôm ẵm.Chúa đã cảm nhận tình yêu chia sẻ của con người. Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay đón nhận và tôn trọng mọi người, nhất là các trẻ thơ vô tội. Cầu xin Mẹ Maria giúp chúng con biết noi gương Mẹ để biết khiêm nhu phục vụ Chúa và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.
Thư Do-thái trình bày sứ vụ tư tế của Chúa Giê-su là giao hòa nhân loại tội lỗi với Thiên Chúa. Ðể thi: 2/2-22
Thư Do-thái trình bày sứ vụ tư tế của Chúa Giê-su là giao hòa nhân loại tội lỗi với Thiên Chúa. Ðể thi hành sứ vụ ấy, Chúa Giê-su cần phải liên kết mật thiết với gia đình nhân loại. Người đã mặc lấy bản tính con người, trở nên giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi.Tuy nhiên Người muốn khiêm nhượng đến độ đồng hóa với tình trạng tội lỗi của chúng ta khi Người đến xin ông Gio-an Tẩy giả làm phép rửa. Mặc dù xét về thời gian tính, lễ dâng Chúa Giê-su trong Ðền Thờ đặt sau lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng ý nghĩa của nó vẫn nguyên vẹn, cho chúng ta thấy sứ vụ của Người không chỉ bắt đầu khi Người công khai rao giảng Tin Mừng. Quả thực Chúa Giê-su đã bắt đầu thi hành sứ vụ khi Người được thụ thai trong lòng Ðức Trinh Nữ Ma-ri-a. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy thực tuyệt vời qua đoạn thư gửi tín hữu Do-thái trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, sứ vụ hòa giải của Chúa Giê-su phải là đề tài suy niệm sau mùa Giáng Sinh và bước vào mùa thường niên: Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân (Dt 2:17). Ở đây, chúng ta thấy rõ ba đặc nét của sứ vụ Chúa Giê-su: a)Chúa Giê-su phải nên giống anh em mình về mọi phương diện
Sự liên đới huyết nhục con người giữa Chúa Giê-su và chúng ta là cốt lõi kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phác họa một kế hoạch của riêng một mình Người, nhưng một kế hoạch có sự tham gia của loài người. Người cần sự cộng tác của loài người, không phải vì một mình Người không đủ khả năng, nhưng vì Người thương yêu loài người, muốn cho loài người có một phẩm giá nhờ sự cộng tác ấy. Trong gia đình, có nhiều việc chúng ta đâu cần con cái giúp đỡ.Nhưng chúng ta cho chúng tham gia, là để chúng thấy mình cũng có giá trước mặt cha mẹ. Thực ra chúng ta làm hết mọi sự rồi! Tuy nhiên, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Người không muốn chúng ta thụ động, trái lại, chúng ta cần phải làm hết khả năng của mình. Chúng ta không thể được cứu rỗi một cách tiêu cực, nhưng phải tích cực cộng tác với Ðấng Cứu Thế. Cho nên Chúa Giê-su trở nên giống chúng ta về mọi phương diện cốt là để chúng ta có thể tích cực cộng tác với Người. Người có thể làm gì, chúng ta cũng có thể làm như vậy. Chúng ta không thể vịn cớ: Chúa Giê-su làm được vì Người là Chúa, còn tôi không thể làm được vì tôi là loài người. Vậy, là con người như chúng ta, Chúa Giê-su đã làm gì? b)Người trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín
Trong Cựu Ước, thượng tế được tuyển chọn trong số người phàm là đại diện có thế giá của loài người để biểu lộ mối tương quan với Thiên Chúa (Dt 5:1). Nhưng Chúa Giê-su, vị Thượng Tế chính Thiên Chúa đã sai tới, thì khác biệt và phải trổi vượt trên các thượng tế được tuyển chọn từ giữa loài người, vì không những Người biểu lộ mối tương quan, mà Người còn là chính Ðấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Tuy nhiên chúng ta đừng quên một điểm rất quan trọng, đó là Người trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín. Trở thành là một diễn tiến của học tập. Muốn trở thành một bác sĩ, tôi cần phải học và thực tập. Muốn trở thành một cầu thủ, tôi cũng phải học những kỹ thuật môn thể thao và tập luyện vất vả. Trong tiến trình học hỏi để trở thành vị Thượng Tế nhân từ và trung tín, "dầu là Con Thiên Chúa, Ðức Giê-su đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (5:8). Mới học vâng phục thôi, mà Chúa Ki-tô đã phải trả giá bằng nhiều đau khổ rồi, còn biết bao điều khác nữa! Nhưng chính nhờ việc học tập của Người tiến tới mức độ thập toàn nên Người mới "trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu" cho chúng ta. c)Mục đích Chúa Giê-su trở thành Thượng Tế là để đền tội cho chúng ta
/span>Nhữngđức tính cần thiết vịThượng Tếphải cóđểcóthểthi hành sứvụđền tội,đólàphải nhân từvàtrung tín.Chương 3 và4 quảng diễn haiđức tính này.Ðúng vậy, cần phải cólòng nhân từthìChúa Giê-su mới biết cảm thương sốphận của chúng ta làanh chịemcủa Người.Cần phải cólòng trungtín thìChúa Giê-su mới làm cho lời hứa của Thiên Chúa không trởthành bộiước, hứa lèo.Ngườimuốn trung thành với sứvụChúa Cha trao phóvàtrung thànhđáp lạinguyện vọng của loài người.Hơnnữa, bản chất của việcđền tội cũngđòi vịThượng Tếphải nhân từvàtrung tín.Người khôngđền tộicho tội lỗi của mình, nhưngđền thay cho tội lỗi của loài người.Chúa Ki-tôđãchết vàsống lại vìchúngta vàcho chúng ta.Lòng nhân từcảm thương vàtrung tín của Ngườiđãlàm cho việcđền tội cómộtgiátrịđặc biệt của"người Conđứngđầu trong nhàThiên Chúa"(3:6),nhờđókhi Ngườiđược Thiên Chúa tôn vinh, thìchúng ta cũng sẽđượctôn vinh nếu chúng ta sống xứngđáng làcon cái Thiên Chúa.
Có lẽ điểm đặc biệt chúng ta cần nêu lên là tại sao Phụng vụ Lời Chúa đã chọn đoạn thư gửi tín hữu Do-thái này cho Lễ dâng Chúa Giê-su trong Ðền Thờ. Sứ vụ tư tế đền tội thay cho nhân loại có liên hệ gì với việc dâng Chúa Giê-su trong Ðền Thờ? Có liên hệ mật thiết chứ. Việc dâng con trai đầu lòng của người Do-thái cho Chúa trong Ðền Thờ là một cử chỉ nói lên người con ấy từ nay thuộc về Ðức Chúa, hoàn toàn để Người sử dụng, sẽ tuân phục Người và thi hành bất cứ điều gì Người muốn. Cử chỉ ấy thích hợp với ai nữa nếu không phải là chính Chúa Giê-su? Tiếp đến, thư Do-thái đi tới kết luận chí lý: "Anh em hãy ngắm nhìn Ðức Giê-su là Tông đồ, là Thượng Tế, là Trung gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin" (3:1). Ngắm nhìn để mà học tập theo gương Người vậy. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Ðoạn thư Do-thái trên có giúp tôi có một cái nhìn mới về cấu trúc Phụng vụ Lời Chúa lễ dâng Chúa Giê-su trong Ðền Thờ không?Mới về những điểm nào?
Tham dự vào chức tư tế phổ quát của Chúa Giê-su, tôi đã học tập "trở thành" một Ki-tô hữu như thế nào? Tôi còn thiếu những đức tính nào của một Ki-tô hữu?Phải tập những đức tính ấy ra sao?
Lòng nhân từ và trung tín của Chúa Giê-su Thượng Tế có dạy tôi đến với anh chị em không? Hay tôi vẫn là một Ki-tô hữu đóng kín, ích kỷ? Tôi sẽ suy nghĩ và học biết về lòng cảm thương và trung tín của Chúa Giê-su bằng cách nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng nhau đọc kinh "Xin ơn quảng đại":
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. A-men.(Thánh I-Nhã)
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh. Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc 2/2-23
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh. Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa. Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy. Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế? Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy. Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ. Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng. Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng, chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình. Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời, dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy. Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào. Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ. Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ. Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân? Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa. Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25), người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27). Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy, Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay. Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình. Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa. Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh. Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng, cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, và trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen. (Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Sau khi sinh Hài Nhi Giêsu bốn mươi ngày, Đức Maria phải chịu thanh tẩy để được phép tham dự 2/2-24
Sau khi sinh Hài Nhi Giêsu bốn mươi ngày, Đức Maria phải chịu thanh tẩy để được phép tham dự các lễ nghi. Bà mẹ mới sinh con phải vất vả đi đoạn đường xa để lên Đền Thờ. Bà không đi một mình, nhưng đi với chồng và đứa con hơn tháng tuổi. Đây là chuyến đi lên Đền Thờ đầu tiên của cả gia đình. Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện trên trần gian. Con Thiên Chúa lần đầu tiên đến Nhà Cha của Ngài. Giây phút Thánh Gia có mặt ở khuôn viên Đền Thờ là giây phút Thánh Thần mặc khải về Hài Nhi cho hai vị ngôn sứ. Simêôn và Anna vui sướng vì gặp thấy Đấng mà mình chờ đợi. Họ nhận ra Ngài là “vinh quang cho dân Ítraen”, và là “ánh sáng và ơn cứu độ cho muôn dân tộc” (Lc 2,31-33). Maria mang theo lễ vật cần cho việc thanh tẩy chính mình, đó là hai con bồ câu non: một làm lễ toàn thiêu, một làm lễ tạ tội. Thật ra lễ vật của đôi vợ chồng không phải chỉ là đôi bồ câu. Họ mang theo một lễ vật quý hơn nhiều, đó là cậu con trai đầu lòng. Họ biết tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, vì chính Ngài đã chỉ đánh phạt các con đầu lòng của Ai-cập và tha cho các con đầu lòng của Ítraen (Ds 3,13). Nhưng Hài Nhi Giêsu không phải là con đầu lòng bình thường. Maria và Giuse biết người con mình đang bồng ẵm là ai. Đây là Đấng Kitô của Đức Chúa (Lc 2,26), Đấng mà Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1,35). Đây là quà tặng của Đức Chúa cho dân Ítraen, và cho Thánh Gia. Khi lên Đền Thờ, Giuse và Maria muốn dâng lại cho Đức Chúa quà tặng tuyệt vời này. Ông bà không muốn giữ Người Con này cho riêng mình. Người Con này thuộc về Đức Chúa và mãi mãi thuộc về Đức Chúa. Tin Mừng Luca không nói rõ chuyện ông bà chuộc Giêsu bằng một số bạc nhỏ, để giữ Giêsu làm con của mình (Ds 3,46-47), nhưng lại nhấn mạnh chuyện ông bà dâng Con cho Đức Chúa. Tuy dâng con trai đầu lòng không phải là một luật buộc, nhưng ông bà muốn làm vì lòng kính mến Chúa, và cả hai đã muốn sống lễ dâng này suốt đời mình. Mẹ Maria đã không rút lại Người Con mình dâng cho Chúa. Giêsu được tự do để sống như một lễ vật cho Cha. Năm mười hai tuổi, Giêsu đã ở lại Đền Thờ, nhà Cha của Cậu. Khi quá tuổi ba mươi, Đức Giêsu đã lên đường đi sứ vụ Để lại người mẹ ở nhà, không ai chăm nom. Khi Con bị đóng đinh trên thập giá, dâng mình như lễ vật lên Cha, Mẹ cũng dâng lễ vật là chính Người Con đang hấp hối của mình. Những gì cụ Simêôn nói hôm nay ở Đền Thờ, rồi Mẹ sẽ thấy được ứng nghiệm trọn vẹn (Lc 2,34-35).
Con Mẹ sẽ bị người đời chống báng, có nhiều người bị té ngã và nhiều người được đứng lên. Dưới chân thánh giá, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Mẹ. Nỗi đau của Con Mẹ, Mẹ mang tất cả vào mình. Khi Đức Giêsu gục đầu, việc dâng Con của Mẹ mới được hoàn tất. Trong lễ Thánh Tẩy, cha mẹ cần dâng con cho Chúa, và mong con mình được thánh hiến để thuộc trọn về Chúa. Cả cuộc đời làm cha mẹ, nhiều lần phải làm lại việc dâng hiến này, lắm khi trong nước mắt, lắm khi trong bóng đêm, nhưng luôn tín thác, dù không hiểu hết kế hoạch của Chúa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, Xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ trí hiểu, Và trọn cả ý muốn của con, Cùng hết thảy những gì con có, Và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
Lạy Chúa, nay con xin dâng lại Chúa. Tất cả là của Chúa, Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng, Được như thế, là đủ cho con.
Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh còn được gọi là lễ NẾN, vì ông Simêon đã gọi Chúa Giêsu 2/2-25
Sứ điệp: Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh còn được gọi là lễ NẾN, vì ông Simêon đã gọi Chúa Giêsu là ánh sáng các lương dân, và là vinh quang của It-ra-en, Dân Chúa. Người tín hữu có sứ mạng chiếu tỏa ánh sáng Chúa Kitô bằng đời sống thánh thiện.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, như bất cứ gia đình Do Thái nào, sau khi sinh 40 ngày, Đức Mẹ và thánh Giuse đã đem Chúa lên đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa, như luật Mô-sê dạy: mỗi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Thiên Chúa, để ghi nhớ kỳ công Chúa đã thực hiện cho dân Do Thái, mỗi đứa con trai đầu lòng đều được Thiên Chúa cứu thoát trong biến cố xuất hành, nên phải dâng cho Chúa vì nó thuộc về Chúa.
Lạy Chúa, bản thân con cũng không khác gì đứa con trai đầu lòng của người Do Thái, nghĩa là hoàn toàn do ơn Chúa mà có. Vì thế, cuộc đời con hoàn toàn thuộc về Chúa. Con chỉ thuộc về Chúa khi đời sống con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Nhờ đó, con trở thành ngọn đèn cháy sáng giữa lòng thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành ánh sáng khi dám ra khỏi chính mình, dám ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan, để can đảm sống những đòi hỏi của Tin Mừng.
Xin cho con trở thành ánh sáng khi dám chấp nhận bóng tối cuộc đời, chấp nhận những thử thách của cuộc sống, chấp nhận những bước đường gồ ghề phải đi qua. Lạy Chúa, xin giúp con. Amen.
Từ truyền thống xa xưa, ngày lễ được cử hành vào ngày 2-2 dương lịch được gọi là “Lễ Nến”, bởi 2/2-26
Từ truyền thống xa xưa, ngày lễ được cử hành vào ngày 2-2 dương lịch được gọi là “Lễ Nến”, bởi trong thánh lễ có nghi thức làm phép Nến. Có một thời, người ta coi ngày lễ này là lễ kính Đức Maria, dựa trên trình thuật của Thánh Luca về việc Đức Maria mang lễ vật dâng vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Từ năm 1969 lễ này không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, với mục đích quy hướng chúng ta về Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai đã đến trần gian để cứu độ nhân loại
Khi gọi ngày lễ này là lễ “Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ”, phụng vụ muốn nhắc tới sự kiện Đức Mẹ và Thánh Giuse thực hiện điều được quy định trong luật Môi-sen. Đây là những quy định chúng ta có thể đọc thấy trong sách Xuất Hành, sách Lêvi và sách ngôn sứ Isaia ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6). Nội dung những khoản Luật này nói về nghi thức dâng con đầu lòng cho Chúa vào thời điểm khoảng 40 ngày sau khi con trẻ được sinh ra. Nghi thức này vừa khẳng định những trẻ nam đầu lòng thuộc về Chúa, vừa là nghi thức thanh tẩy đối với người phụ nữ sau khi sinh. Bởi lẽ, theo quan niệm Do Thái xưa kia, sau khi sinh con, người phụ nữ trở thành “ô uế”.
Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép, tức là đem Hài Nhi Giêsu dâng cho Chúa. Theo Thánh Luca, nghi thức dâng Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ kỳ diệu: Hai người đạo đức Ông già Simêon và Bà Anna được hạnh phúc bồng bế hài nhi Giêsu trên tay mình. Họ là những người từ nhiều năm hằng trông đợi Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là “ánh sáng cho mọi dân tộc” (Lc 2,22-40). Phụng vụ Kitô giáo diễn tả nghi lễ này như một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Dân của Người. Lần đầu tiên, Chúa Giêsu hiện diện trong Đền thờ, là trung tâm của Do Thái giáo, biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân Ngài. Việc Chúa đến mở ra một giai đoạn mới trong chương trình cứu độ. Ngài sẽ trở nên ánh sáng muôn dân và thánh hóa con người. Người cũng làm cho những hy lễ dâng tôn thờ Thiên Chúa Cha mang một ý nghĩa mới. Đây cũng là điều chúng ta đọc trong Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia. Vị ngôn sứ đã thông báo: “Này đây Người đến. Khi Người đến, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và làm cho chúng thanh sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình”. Chúa Giêsu xuất hiện trong Đền thờ để thân thưa với Chúa Cha: “Này con đến để thực thi ý Chúa”. Sau này, Người còn đến Đền thờ nhiều lần, không phải để thi hành công việc tế tự, nhưng để thanh tẩy Đền thờ. Trong giáo huấn của Người, Chúa cũng kịch liệt lên án một thứ phụng tự chuộng hình thức, xa rời tình yêu và thiếu vắng thương xót, để kêu gọi mọi người hãy tôn thờ Chúa trong tinh thần và Chân lý.
Qua nghi lễ dâng Hài Nhi Giêsu dâng trong Đền thờ, Đức Maria và Thánh Giuse đã chu toàn những điều Luật dạy. Phụng vụ Kitô giáo cũng nhìn thấy ở đây sự hạ mình của Con Thiên Chúa. Đức Giêsu mang lấy thân phận con người và sống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Tác giả thư Do Thái khẳng định: Chúa Giêsu trở nên giống như anh em mình mọi đàng, nhờ đó, Người trở thành vị Đại Giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa. Vì là người như chúng ta, Đức Giêsu cảm thông với chúng ta, chia sẻ những tâm tư của phận người, nâng đỡ những ai chịu thử thách và đem cho họ ơn niềm vui ơn cứu độ (Bài đọc II).
“Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israen Dân Chúa”. Đó là lời ca tụng của cụ già Simêôn. Lời ca tụng này diễn tả chủ đề chính yếu của Phụng vụ hôm nay. Chủ đề “Ánh Sáng” được nhấn mạnh trong phụng vụ lễ Giáng Sinh, Lễ Hiển Linh và Lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa. Ngày hôm nay, một lần nữa, chủ để này lại được nhắc tới. Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian. Người đến để chiếu soi đêm tối nơi lòng người. Đó là đêm tối của hận thù, chia rẽ, tội lỗi và sự chết. Tác giả Tin Mừng thứ bốn giới thiệu với chúng ta: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Chính Chúa Giêsu khẳng định: “Chính tôi là ánh sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Người đã chữa cho người mù từ khi mới sinh, không chỉ con mắt thể lý, mà còn con mắt tâm hồn. Nhờ đó anh trở nên sáng mắt và sáng suốt nhận ra Người là Đấng Thiên sai và Đấng Cứu độ trần gian.
Năm 1997, thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng đã thiết lập lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ là ngày Quốc tế của đời sống thánh hiến, với ước nguyện những ai dấn thân sống đời tu trì trở nên giống Chúa Giêsu và trở thành ánh sáng cho trần gian.
Trở nên ánh sáng là ơn gọi của các Kitô hữu, như Chúa đã nói. Tuy vậy, những người sống đời thánh hiến lại tình nguyện sống triệt để lời gọi này qua việc khấn giữ ba nhân đức Phúc âm, đó là Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng lời. Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước, ở đâu có tu sĩ, ở đó có niềm vui. Ngài cũng khích lệ các tu sĩ nam nữ: anh chị em hãy đánh thức thế giới bằng đời sống thánh thiện và hy sinh của mình. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai sống đời sống thánh hiến, biết tỏa sáng xung quanh bằng sự thánh thiện đơn sơ, với lòng yêu mến chân thành và nhiệt huyết tông đồ. Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em là ánh sáng thế gian…Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ nhìn thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Một câu chuyện do chính Mẹ Têrêxa kể lại: một ngày kia tại Melbourne, Úc, Mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, trong một căn phòng dơ dáy, hôi tanh, không có ánh sáng. Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt:
“Bà cứ để mọi sự như cũ. Tôi quen như vậy rồi”.
Dù thế, Mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc dọn dẹp và gợi chuyện để nói với ông. Tình cờ, dưới một đống rác, Mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta:
“Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Sao ông không bao giờ thắp sáng nó lên vậy?”.
Người đàn ông này đáp:
“Tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó vì có ai đến thăm tôi đâu!”
Hai trong số các nữ tu của Mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu:
“Thưa các Sơ, kể từ nay, tôi có thể tự xoay sở được rồi. Xin nói dùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi rằng, ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Cây đèn bên ngoài đã được thắp lên, vì ngọn đèn trong tim ông đã sáng lên. Ánh sáng đó được truyền qua nhờ lòng nhân ái của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng trần gian, xin cho chúng con tiếp nhận từ nơi Chúa ánh sáng thiêng liêng, để chúng con biết đường đi đến Chân Lý, đồng thời trở nên ánh sáng cho những người xung quanh. Amen.
Khi cha mẹ của Chúa Giêsu đưa Hài Nhi chu toàn những qui định của lề luật, thì cụ già Simeon, “được 2/2-27
Khi cha mẹ của Chúa Giêsu đưa Hài Nhi chu toàn những qui định của lề luật, thì cụ già Simeon, “được Thần Khí dẫn dắt” (Lc 2:27), đã ẵm Hài Nhi trong tay và đã thốt lên bài ca chúc lành và ngợi khen. “Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc 2:30-32).
Cụ già Simeon không chỉ nhìn thấy, mà còn có được đặc quyền ẵm trong tay niềm hy vọng đã đợi chờ từ lâu, vốn lấp đầy ông bằng lời ca tụng. Tâm hồn ông vui vì Thiên Chúa đã đến ngự giữa dân Người; ông cảm thấy sự hiện diện của Ngài bằng xương bằng thịt.
Phụng vụ hôm nay nói cho chúng ta biết rằng trong nghi lễ ấy, Chúa, 40 ngày sau khi hạ sinh, “về bề ngoài đã chu toàn Lề Luật, nhưng trong thực tế Ngài đến để gặp gỡ người tin” (Sách Lễ Rôma, 02/02, Nghi Thức Nhập Cuộc Rước). Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa này với dân của Ngài mang lại niềm vui và canh tân niềm hy vọng.
Bài ca của cụ già Simeon là một bài ca của người có niềm tin, một người vào những ngày cuối đời vẫn có thể thốt lên: “Đúng thật là vậy, trông cậy vào Thiên Chúa sẽ không bao giờ làm thất vọng” (x. Rm 5:5). Thiên Chúa không bao giờ lừa dối chúng ta. Cụ già Simeon và Anna, trong tuổi già của họ, đã thấy một hoa trái mới, và họ làm chứng cho điều này trong bài ca của mình. Cuộc sống thật đáng sống trong niềm hy vọng, vì Thiên Chúa giữ lời hứa của Ngài. Chính Chúa Giêsu sau này giải thích lời hứa này trong hội đường tại Nazareth: người đau yếu, người tù đày, những người cô đơn, người nghèo, người già cả và các tội nhân, tất cả đều được mời gọi để cùng mang lấy cùng bài ca niềm hy vọng này. Chúa Giêsu ở cùng họ, Chúa Giêsu ở cùng chúng ta (x. Lc 4:18-19).
Chúng ta đã thừa hưởng bài ca đức cậy này từ những người lớn tuổi của chúng ta. Họ đã giúp cho chúng ta trở thành một phần của tiến trình này. Trên gương mặt của họ, trong cuộc sống của họ, trong sự hy sinh hằng ngày của họ chúng ta có thể thấy lời ca tụng này được thể hiện thế nào. Chúng ta là những người thừa hưởng đối với những giấc mơ của những người lớn của chúng ta, những người thừa hưởng đối với niềm hy vọng vố không làm thất vọng những cha mẹ tổ tiên của chúng ta, những anh chị em lớn tuổi hơn của chúng ta. Chúng ta là những người thừa hưởng đối với những người đã đi trước chúng ta và đã có can đảm mơ. Giống như các vị ấy, chúng ta cũng muốn hát, “Thiên Chúa không lừa dối; hy vọng vào Ngài sẽ không làm thất vọng”. Thiên Chúa đến để gặp gỡ dân của Người. Và chúng ta muốn hát bằng cách nhận lấy lời tiên tri của Giô-em và biến thành của riêng chúng ta: “Ta sẽ đổ thần khí của ta xuống trên mọi xác phàm; con trai và con gái ngươi sẽ nói tiên tri, người gìa của ngươi sẽ mơ những giấc mơ, và người trẻ của người sẽ nhìn thấy thị kiến” (2:28).
Thật tốt lành cho chúng ta khi biết mang lấy những giấc mơ của những người lớn, để chúng ta có thể tiên tri trong thời đại của chúng ta và một lần nữa gặp gỡ điều ngay từ đầu đã làm cho tâm hồn chúng ta bừng cháy. Những giấc mơ và những lời tiên tri là cùng nhau. Sự tưởng nhớ về cách mà những người lớn của chúng ta, cha mẹ của chúng ta, đã mơ, và có can đảm để thực thi những giấc mơ này một cách ngôn sứ.
Thái độ này sẽ giúp cho chúng ta sinh hoa trái. Quan trọng nhất, nó sẽ bảo vệ chúng ta khỏi cơn cám dỗ vốn có thể làm cho đời sống thánh hiến của chúng ta trở nên hiếm muộn: cơn cám dỗ về sự sinh tồn. Một sự dữ có thể dần dà bén rễ vào trong chúng ta và trong các cộng đoàn của chúng ta. Não trạng sinh tồn sẽ làm cho chúng ta trở thành những người chỉ biết phản ứng, sợ hãi, chậm chạp và âm thầm nhốt chính bản thân chúng ta trong các ngôi nhà của chúng ta và trong chính những sự hiểu mang tính định kiến của chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhìn lại những ngày vinh quang – những ngày vốn là quá khứ - thay vì làm thắp lại sự sáng tạo mang tính ngôn sứ được sinh ra bởi những giấc mơ của các vị sáng lập của chúng ta, thì lại tìm kiếm những đường tắt để né tránh những thách đố đang gõ cửa nhà chúng ta ngày nay. Một não trạng sinh tồn sẽ lấy đi những đặc sủng của sức mạnh của chúng ta, vì nó dẫn chúng ta đến chỗ “nội địa hoá” chúng, làm cho chúng trở nên “thân thiện với người sử dụng”, lấy đi khỏi chúng sức mạnh sáng tạo gốc. Não trạng này làm cho chúng ta muốn bảo vệ những không gian, những toà nhà và những cấu trúc, hơn là khích lệ những sáng kiến mới. Cơn cám dỗ về sự sinh tồn làm cho chúng ta quên đi ân sủng; nó biến chúng ta thành những người chuyên nghề về sự thánh chứ không phải những người cha và người mẹ, những người anh chị em của niềm hy vọng ấy mà chúng ta được mời gọi để làm chứng mang tính ngôn sứ. Một môi trường của sự sinh tồn sẽ làm khô héo tâm hồn của những người lớn của chúng ta, lấy đi khả năng mơ của họ. Bằng cách này, nó làm khập khiễng tính ngôn sứ mà người trẻ của chúng ta được mời gọi để loan báo và làm việc để đạt tới. Tắt một lời, cơn cám dỗ sinh tồn sẽ biến điều mà Thiên Chúa trình bày như là một cơ hội truyền giáo thành một điều gì đó nguy hiểm, đe doạ, có tiềm năng phá hoại. Thái độ này không chỉ giới hạn đối với đời sống thánh hiến, mà chúng ta cách riêng cũng được mời gọi để không rơi vào thái độ này.
Chúng ta hãy trở lại với đoạn Tin Mừng và một lần nữa chiêm ngắm cảnh tượng ấy. Chắc chắn, bài ca của cụ già Simeon và bà Anna không phải là hoa trái của sự tự hấp thụ hay một sự phân tích và việc xem lại hoàn cảnh cá nhân của chúng ta. Điều ấy không có ý nghĩa vì họ sẽ bị mắc kẹt trong chính bản thân họ và bị lo lắng rằng một điều gì đó tồi tệ có thể xảy ra với họ. Bài ca của các cụ được sinh ra bởi niềm hy vọng, niềm hy vọng vốn nuôi dưỡng họ trong tuổi gìa của mình. Niềm hy vọng ấy được ân thưởng khi họ gặp gỡ Chúa Giêsu. Khi Mẹ Maria để cho cụ già Simeon ẵm lấy Người Con của Lời Hứa vào trong vòng tay của mình, thì cụ già bắt đầu hát lên giấc mơ của mình. Bất cứ khi nào Mẹ đặt Chúa Giêsu ở giữa dân của Người, thì họ gặp gỡ niềm vui. Vì chỉ điều này mà tôi mới đem lại niềm vui và niềm hy vọng, chỉ điều này mà tôi sẽ cứu chúng ta khỏi việc sống trong não trạng sinh tồn. Chỉ điều này mà thôi mới giúp cho đời sống của chúng ta sinh hoa trái và giúp cho tâm hồn chúng ta sống động: đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Ngài thuộc về, giữa dân của Ngài.
Tất cả chúng ta đều ý thức về sự biến đổi mang tính đa văn hoá mà chúng ta đang kinh qua; không ai hoài nghi về điều này. Do đó, lại càng quan trọng hơn nữa đối với những người nam nữ sống đời thánh hiến phải trở nên một với Chúa Giêsu, trong đời sống của họ và giữa những thay đổi lớn lao này. Sứ mạng của chúng ta – theo từng đặc sủng cụ thể - nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta được mời gọi để trở thành một nắm men trong khối bột này. Có lẽ sẽ có những nhãn hiệu bột tốt hơn, nhưng Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta để trở thành nắm men ở đây và bây giờ, nhưng với đôi bàn tay của chúng ta trên chiếc cày, giúp cho lúa trổ sinh, ngay cả khi lúa thường xuyên được gieo giữa những cỏ lùng. Đặt Chúa Giêsu vào giữa dân của Người có nghĩa là có một tâm hồn chiêm niệm, một tâm hồn biết biện phân cách mà Thiên Chúa đang đi qua các ngả đường của các thành phố của chúng ta, các thị trấn của chúng ta và những khu dân cư của chúng ta. Đặt Chúa Giêsu vào giữa dân của Người có nghĩa là nhận lấy và mang lấy những thập giá của anh chị em của chúng ta. Điều đó có nghĩa là muốn chạm vào các vết thương của Chúa Giêsu nơi những vết thương của một thế giới đau thương, đang khao khát và kêu khóc sự chữa lành.
Đặt bản thân chúng ta với Chúa Giêsu vào giữa dân của Người! Không phải như “những nhà hoạt động” tôn giáo, mà như những người nam nữ hằng luôn được tha thứ, những người nam nữ đã được sức dầu trong phép rửa và được sai đi để chia sẻ dầu ấy và sự an ủi của Thiên Chúa với mọi người.
Đặt bản thân chúng ta với Chúa Giêsu vào giữa dân của Người. Vì lý do này, “chúng ta sẽ cảm thấy được sự thách đố của việc tìm kiếm và chia sẻ ‘mầu nhiệm’ của việc sống cùng nhau, của việc hoà trộn và gặp gỡ, của việc đón nhận và cỗ võ lẫn nhau, của việc bước vào cơn bão lớn này, dù hỗn tạp, thì vẫn có thể [với Thiên Chúa] trở thành một kinh nghiệm đúng đắn của tình huynh đệ, một lễ hội của tình liên đới, một cuộc hành hương thánh... Nếu chúng ta biết chọn lấy con đường này, thì sẽ thật là quá tốt lành, quá xoa dịu, quá giải thoát và đầy tràn niềm hy vọng! Hãy ra khỏi bản thân và hoà nhập vào với nhau” (Evangelii Gaudium, 87) không chỉ tốt cho chúng ta; mà nó còn biến đời sống và niềm hy vọng của chúng ta thành một bài ca ngợi khen. Nhưng chúng ta sẽ chỉ có thể làm được điều này nếu chúng ta mang lấy những giấc mơ của những người lớn của chúng ta và biến chúng thành lời ngôn sứ.
Chúng ta hãy đồng hành với Chúa Giêsu khi Ngài tiến bước để gặp gỡ dân của Ngài, để ở giữa dân của Ngài. Hãy tiến bước, không phải với sự phàn nàn hay lo lắng của những người đã lãng quên cách nói lời ngôn sứ vì họ đã thất bại trong việc mang lấy những giấc mơ của người lớn của họ, mà bằng sự bình an và bài ca ngợi khen. Không phải bằng sự hiểu mà bằng sự nhẫn nại của những người đã tin tưởng vào Thần Khí, Thiên Chúa của những giấc mơ và lời ngôn sứ. Bằng cách này, chúng ta hãy chia sẻ điều gì thực sự là của riêng chúng ta: bài ca được sinh ra từ niềm hy vọng.
Đến ngày theo luật định, thánh Giuse và Đức Maria bồng Chúa Hài Nhi đến đền thờ Giêrusalem để 2/2-28
Đến ngày theo luật định, thánh Giuse và Đức Maria bồng Chúa Hài Nhi đến đền thờ Giêrusalem để dâng cho Đức Chúa Cha. Ở đó có ông Simêon là người công chính. Ông được Chúa Thánh Thần soi sáng nên nhận biết Chúa Giêsu và cất tiếng khen ngợi Chúa, vì Chúa đã thương cho Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc dân Người; đồng thời ông cũng cho Đức Maria biết: Mẹ phải chịu nhiều đau khổ vì Chúa Hài Nhi.
Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh để tuân giữ luật thời đó. Và việc dâng hiến này báo trước Chúa Giêsu tự dâng hiến đời Người chịu chết trên khổ giá để cứu độ loài người.
Đức Giêsu là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7), theo luật Maisen: “Mọi con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa”, như chúng ta đọc thấy trong Cựu ước: “Đức Chúa phán với Maisen: “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta” (Xh 13,1-2). Vì thế, Đức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Từ nay cuộc đời Hài nhi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã được dâng và cũng tự hiến dâng, để Thiên Chúa toàn quyền sử dụng trên Ngài trong sứ mạng nhập thể cứu độ: Dâng trọn vẹn trên đỉnh cao Thập tự.
Người Kitô hữu được dâng cho Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội để trở thành con cái Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa, để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách thánh hóa bản thân mỗi ngày.
Chúng ta nhận thấy: hai ông bà đang được diễm phúc làm mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ lề luật: thanh tẩy và dâng con vào Đền thờ. Noi gương hai Đấng: người Kitô hữu không nên tìm đặc ân gì, để miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường đơn sơ và nhiệt tình tuân giữ mọi lề luật chính đáng.
Đối với các bậc cha mẹ Kitô hữu, con cái là quà tặng của Thiên Chúa. Để bày tỏ lòng trân trọng quà tặng quý báu đó, các bậc cha mẹ tiến dâng con cái của mình cho Thiên Chúa. Tiến dâng bằng cách nuôi dạy con cái theo ý Chúa; giúp con cái đón nhận và nuôi dưỡng đức tin, giúp con cái hướng tình yêu về Thiên Chúa.
Cụ già Simêon nói với Đức Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34).
Cụ Simêon trong tư cách là tiên tri tiên báo rằng: con trẻ sẽ trở nên dấu cho người ta chống đối. Lời tiên tri được ngỏ cho Đức Maria để nói về sứ mạng cứu độ của Hài nhi trong tương lai và sự mật thiết hiệp nhất trong công cuộc cứu độ của người con trong vai trò cộng tác: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2,35). Maria không hiểu lời cụ Simêon mang ý nghĩa gì, nhưng khắc ghi nghiền ngẫm trong lòng và xin Thiên Chúa ban cho được thêm can đảm, Maria cũng chịu đau khổ thương khó như Con Mẹ, nhất là tại Núi Sọ hiến tế con Mẹ trên Thập giá.
Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc trong cái chết đau đớn và tủi nhục.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta theo gương Mẹ tiếp bước theo Chúa trên con đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay từ chối.
Truyện: Lời cầu xin tốt đẹp
Có người coi như mình bị thất bại, vì Chúa không nhận lời cầu xin của mình. Có vẻ nản lòng. Nhưng một ngày kia, đang khi cầu nguyện Chúa soi sáng cho người ấy hãy vững tin và đặt tất cả niềm tin phó thác vào Chúa. Họ đã sáng tác được lời cầu nguyện sau đây:
Lạy Chúa, con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt, thì Chúa làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời, khiêm hạ.
Con cầu xin có sức khỏe để thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con bị tàn tật và chỉ làm được những việc tốt nho nhỏ.
Con cầu xin được giàu sang để sống một cuộc đời sung sướng, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có được uy quyền để mọi người phải kính nể, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.
Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin, thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hoá ra con lại là người có phúc hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.
Câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện rất 2/2-29
Câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện rất đẹp về cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu Kitô. Qua câu chuyện này, một lần nữa, chúng ta lại có dịp hiểu thêm về một vài khía cạnh đặc biệt trong cuộc đời của Ngài.
1. Qua câu chuyện hôm nay rõ ràng chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn được trở nên một con người hoàn toàn giống chúng ta. Trong thư gửi Tín hữu Do Thái, Thánh Phaolô đã viết rất hay về vấn đề này. Ngài viết như sau: “Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các Thiên Thần, nhưng là con cháu Apraham. Bởi thế Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa để đền tội cho dân” (Dt 2,1617).
Chúng ta khó có thể tìm thấy một diễn tả nào về Chúa Giêsu-làm-người hay hơn thế.
Như anh chị em đã biết Chúa đến với loài người chúng ta là để cứu chuộc con người chúng ta. Chúa đã không muốn thực hiện công việc cứu chuộc này từ xa. Để làm công việc này, Chúa đã làm người. Thánh Gioan đã viết: “Ngài đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta”(Ga 1,14)
Một Thiên Chúa cao cả, linh thiêng, đã nhận lấy một thân xác như mọi người chúng ta. Nguyên việc này thôi thì tôi tưởng cũng đã là một việc kỳ diệu rồi. Thế nhưng Chúa chưa muốn dừng lại ở đó. Nhận lấy một thân xác để được ở giữa loài người như một người, Chúa Giêsu vẫn chưa lấy làm đủ. Người còn muốn đi xa hơn như lời Thánh Phaolô nói, Người muốn trở nên giống mọi người trong mọi sự... “chỉ trừ tội lỗi”
Bài Tin Mừng hôm nay nói Chúa Giêsu được dâng tiến lên Thiên Chúa theo luật của Môise. Thực ra thì việc này là bổn phận của Đức Maria và thánh Giuse. Theo nghĩa vụ thì Thánh Giuse và Đức Mẹ phải làm như thế. Theo luật Môise cũng là tục lệ của người Do thái, thì những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày, phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là bà mẹ phải làm lễ tẩy uế: Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa (Lc 2,22). Dù Đức Maria và thánh Giuse biết rằng trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng các ngài cũng vẫn chu toàn mọi lề luật: Như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa” (Lc 2,23). Dâng con trong đền thờ là để thánh hiến người con cho Thiên Chúa và cha mẹ có thể chuộc lại bằng cách dâng cúng của lễ như luật định.
2. Bên cạnh đó bài Tin Mừng hôm nay còn cho chúng thấy những bài học khác cũng không kém quan trọng. Tôi muốn nói đến sự vâng phục và lòng khiêm nhường, đặc biệt của Đức Maria.
Sự vâng phục thánh ý Chúa là một trong nét đẹp trong đời sống của Đức Maria và Thánh Giuse. Các Ngài đã thể hiện sự vâng phục này ngay từ khi các ngài được Chúa trao cho trách nhiệm cộng tác với Thiên Chúa trong việc thực hiện công cuộc cứu chuộc loài người. Thánh Giuse đã vâng phục thế nào thì mọi người chúng ta đã biết.
Còn với Đức mẹ Maria thì chúng ta thấy: Mẹ Maria đẹp đẽ hơn mặt trời, trong sáng hơn mặt trăng và rực rỡ hơn rạng đông, nhưng Mẹ đã tuân hành giữ luật của Thiên Chúa một cách thật hoàn hảo. Mẹ giữ luật vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Mẹ đã lên đền làm lễ dâng con và thanh tẩy. Thánh Phanxicô Salêsiô nói: “Rất Thánh Trinh Nữ tự ý tuân giữ luật thanh tẩy vì Mẹ yêu mến và kính trọng Thiên Chúa. Mẹ hay Con Mẹ không buộc phải vâng phục, nhưng vì tình mến làm cho Mẹ tuân giữ. Mẹ tuân giữ luật để làm gương cho những người khác”.
Thêm vào đó chúng ta còn thấy được nơi Đức Mẹ một tấm gương khác về lòng khiêm tốn
Chúng ta biết, dù được mọi đặc ân vượt mức trên mọi thụ tạo, Mẹ Maria vẫn hạ mình thẳm sâu dưới mọi tạo vật: Mẹ xao xuyến bối rối trước lời chào tán tụng của Thiên sứ Gabriel (Lc 1,29), và nhận mình là phận nữ tỳ thấp hèn của Chúa (Lc 1,48). Cả cuộc sống Mẹ Maria được dệt bằng đức khiêm tốn, nhất là từ ngày thiên sứ truyền tin qua ngày Mẹ thăm viếng thánh Elizabeth tới ngày Mẹ dâng Con trong đền thờ. Thánh Phanxicô Salesiô nói: “Cao sâu biết bao sự khiêm tốn mà Chúa chúng ta và Mẹ Maria đã thi hành khi lên đền thờ: Chúa đến đền thờ để được hiến dâng như tất cả các con trẻ của những người tội lỗi. Mẹ Maria đến để làm lễ thanh tẩy như tất cả các bà mẹ phàm trần. Cần gì mà Mẹ phải thanh tẩy, vì Mẹ đã không bị ô nhiễm do đặc ân tuyệt diệu từ lúc đầu thai mà các thần Cherubim và các Seraphim không tài nào sánh ví”. Vậy mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ vẫn làm như thế.
Mẹ đã làm thế bởi vì
Mẹ thực sự nhận biết được Thiên Chúa là Đấng cao cả và biết mình chỉ là một thụ tạo thấp hèn.
Chúng ta hãy tập sống khiêm tốn như Đức Mẹ để được luôn xứng đáng với tình thương của Chúa.
Đức cố Giáo Hoàng Gio-an 23 kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo Hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: “Kìa Gio-an, đừng tự xem mình là quan trọng!”
Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy, tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Đừng tự xem mình là quan trọng! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo Hoàng!
Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa yêu mến. Khác hẳn với tính tự cao, tự đại có thể được so sánh với những ngọn núi, triền đồi. Đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp, để đón nhận được những Hồng Ân của Thiên Chúa đã không dừng lại trên đỉnh núi hay triền đồi, những chảy tràn xuống và đọng lại chan chứa ở những nơi thấp nhất dưới chân đồi...
Có người hỏi Thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226) tại sao và bằng cách nào ngài làm được nhiều sự trọng đại, Ngài vui vẻ trả lời:
- Cũng dễ thôi, Chúa từ trời cao nhìn xuống và nói: “Ta kiếm đâu được một người yếu đuối nhất, bé mọn nhất, vô nghĩa nhất ở trần gian này!”
Ngài nhìn thấy tôi, Ngài nói:
- Đây là người Ta tìm được và Ta muốn hành động qua người này. Người ấy sẽ thấy rằng Ta dùng nó chỉ vì nó là con người hèn mọn nhất, khiêm hạ nhất.
Lạy Mẹ Maria đầy lòng khiêm nhu, xin uốn lòng mỗi người chúng con nên giống Mẹ. Amen.
Từ xa xưa, lễ dâng Chúa trong đền thánh đã được gọi là lễ nến, khi các tín hữu đem nến đến làm 2/2-30
Từ xa xưa, lễ dâng Chúa trong đền thánh đã được gọi là lễ nến, khi các tín hữu đem nến đến làm phép để biểu trưng và cũng để tiếp nối lời ông Si-mê-on đã gọi Chúa Giê-su là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.” Quả thật Chúa là ánh sáng ban sự sáng và sự sống cho nhân loại như Ngài đã nói: “Tôi là ánh sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12).
Mời Bạn: Bạn được mời gọi “tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (x. Ga 12,36). Bạn hãy để ánh sáng của Chúa chiếu soi thấu tận mọi ngõ ngách sâu tối nhất trong tâm hồn, để Ngài thanh luyện, chữa lành, gia tăng sức sống và thánh hóa bạn, ngõ hầu bạn được biến đổi trở nên “ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,9). Giống như ngọn nến bạn hiến dâng đời mình cho Chúa để thuộc trọn về Chúa và dám tiêu hao đời mình như ngọn nến, để phục vụ mọi người, tiếp tục trở nên “ánh sáng cho trần gian” chiếu sáng những nơi còn tăm tối và đưa họ về với nguồn ánh sáng thật là chính Chúa.
Sống Lời Chúa: Bạn suy niệm Lời Chúa hằng ngày để ánh sáng Chúa biến đổi bạn mỗi ngày nên giống Chúa hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con trở nên ngọn nến dám tiêu hao đời mình trong phục vụ âm thầm, hầu chiếu sáng Tình Yêu của Chúa cho nhiều người, để họ được giải phóng khỏi mọi bóng tối của tội lỗi và sự chết. Amen.
Lễ này còn được gọi là Lễ Nến. Ông Simêon, người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh 2/2-31
Lễ này còn được gọi là Lễ Nến. Ông Simêon, người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là “Ánh Sáng muôn dân” (Lc 2, 32).
Đức Maria dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, vì theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2, 23) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa.
Đây cũng là Lễ Thanh Tẩy, kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môsê, phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái.
Lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Hội thánh Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của Giáo hoàng Gelasianô vào thế kỷ 7. Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Rôma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Maria, Giáo hoàng Phaolô VI viết: “Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ”dâng Chúa vào đền thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Trong ngày này, người ta làm phép nến để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32) và tổ chức kiệu nến trong nhà thờ, tượng trưng cho việc Đức Giêsu tiến vào đền thờ Giêrusalem.
Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người” (x. Phụng vụ Byzantine).
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Lời của cụ già Symêon nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh, chúng con đặt cuộc đời chúng con vào trong vòng từ mẫu của Mẹ để Mẹ dâng lên Thiên Chúa như xưa Mẹ đã dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, tất cả chúng con thuộc về Mẹ. Amen.
Có một câu chuyện kể về người nông dân: ông ta trồng trong vườn nhà mình nhiều loại trái cây 2/2-32
Có một câu chuyện kể về người nông dân: ông ta trồng trong vườn nhà mình nhiều loại trái cây. Hằng năm, mỗi khi mùa trái cây về, những hoa trái đầu tiên, ông ta nhất định phải hái để dâng kính tổ tiên. Khi được hỏi lý do, ông trả lời: “Sống trên đời phải có hiếu nghĩa với đấng sinh thành, hơn nữa, hôm nay, tôi được hưởng những hoa trái này cũng là do công khó của tiền nhân đi trước để lại. Vì thế, việc dâng tiến các cụ hoa trái đầu mùa là thể hiện sự hiếu kính, lòng biết ơn và chân nhận công khó của các ngài để lại”.
Hôm nay, Phụng Vụ Giáo Hội cũng làm toát lên ý nghĩa việc Đức Maria dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa của Mẹ là chính Chúa Giêsu để bày tỏ sự hiếu kính, tôn thờ và vâng phục của Mẹ đối với Thiên Chúa.
1. Lịch sử ngày lễ
Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ được mừng kính ở thế kỷ V tại Giêrusalem. Vào ngày kết thúc mùa giáng sinh, tức là 40 ngày sau lễ giáng sinh, Giáo Hội tại Giêrusalem tổ chức rất long trọng biến cố này. Sau đó, vào năm 650 của thế kỷ VII, lễ này được mừng kính rộng rãi trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Tuy nhiên, lối hiểu và cách thức diễn tả của Giáo Hội Đông phương thì nhấn mạnh đến việc gặp gỡ. Gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người. Hình ảnh cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna chính là biểu trưng cho dân Chúa thời Cựu Ước mong chờ Đấng Cứu Thế, hôm nay, Đấng ấy đến, Ngài là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Còn đối với Giáo Hội Tây Phương thì tập trung vào ý nghĩa của việc Đức Maria Dâng con vào đền thờ và việc tẩy uế theo Luật nơi Mẹ Maria (x. Lv 12).
Trong những năm cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VIII (678-701), Đức Giáo Hoàng Sét-gi-ô I đã quyết định thêm vào đó nghi thức rước nến trước thánh lễ. Cũng chính từ đây, lễ này còn được gọi là Lễ Nến, bởi vì trước thánh lễ có nghi thức làm phép nến ở tiền sảnh nhà thờ hay một nơi nào đó thuận tiện, và sau đó kiệu nến vào trong nhà thờ để cử hành thánh lễ. Điều này làm toát lên ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Hôm nay Ngài đã đến và soi chiếu dân Người. Chính vì lý do này mà sau này, phụng vụ Giáo Hội tập trung và quy hướng về Đức Giêsu nhiều hơn về Đức Mẹ để làm toát lên vai trò là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân nơi Đấng Cứu Thế.
Trong phần khai mạc và cuộc rước nến, Đức Giáo Hoàng và đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím nói lên sự sám hối và ý hướng muốn được thanh tẩy. Điều này ngầm ám chỉ về Đức Maria chưa được thanh tẩy theo luật Do thái sau khi sinh con.
Khi đoàn rước tiến tới cửa đền thờ Đức Bà Cả, thì Chủ tế và đoàn đồng tế thay lễ phục màu trắng để diễn tả sự tinh tuyền, trong sạch của Đức Maria.
2. Ý nghĩa của ngày lễ
Hình ảnh nổi bật và ý nghĩa của ngày lễ chính là việc Dâng Đức Giêsu trong đền thờ. Việc Đức Giêsu được dâng lên cho Thiên Chúa trước sự vui mừng và hạnh phúc của cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna đã làm toát lên ý nghĩa của sự khao khát đợi trông của dân Itrael về Đấng Cứu Thế. Hôm nay, Ngài đến, Ngài đã trở thành Ánh Sáng chiếu soi nhân loại, trở thành trung tâm điểm của mọi tâm hồn.
Ngoài việc tập trung vào Chúa Giêsu như là Ánh Sáng soi chiếu muôn dân, Giáo Hội còn mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria và thánh Giuse như là những mẫu gương công chính và thánh thiện.
Sự công chính và thánh thiện ấy được tìm thấy rõ nơi cung cách của thánh Giuse và Mẹ Maria. Các ngài đã trở thành nữ tỳ và tôi trung của Thiên Chúa, vì thế, sự khiêm nhường và vâng phục đã được tìm thấy nơi các ngài như là điểm son của đời sống thánh thiện.
Việc dâng Đức Giêsu, người Con Chí Ái và duy nhất lên cho Thiên Chúa đã thể hiện điều đó. Mặc dù các ngài thừa hiểu rằng: Người Con mà mình sắp dâng cho Thiên Chúa đây chính là Thiên Chúa làm người. Ngài là Chúa tể trời đất. Là Ánh Sáng cho muôn dân. Tuy nhiên, vì muốn trung thành với Luật và thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, nên các ngài đã sẵn sàng tiến lên đền thờ để thi hành bổn phận như mọi người.
Thật vậy, theo truyền thống thì việc dâng con có thể thực hiện tại nhà. Còn việc tẩy uế nơi người mẹ thì cũng không nhất thiết phải cả chồng cùng đi. Tuy nhiên, vì yêu mến đền thờ, yêu mến nhà Thiên Chúa, nên các ngài đã vượt mọi khó khăn để lên đền thờ tiến dâng Đức Giêsu và thanh tẩy người Mẹ theo Luật định.
Như vậy, sự thánh thiện qua việc vâng lời đã làm cho thánh Giuse và Mẹ Maria xứng đáng được coi là những con người tốt lành và gương mẫu.
Dấu chỉ tiềm ẩn dành cho một gia đình tốt còn được biểu hiện qua việc sống nghèo và chịu nhiều đau khổ. Hình ảnh cặp bồ câu non chứng minh cho cái nghèo của gia đình Thánh Gia. Mặt khác, lời tiên tri của cụ già Simêon tiên báo về cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu phải chịu và nỗi đau trong tâm Mẹ Maria như muốn tô đậm thêm điểm tốt của một gia đình trung thành với lề luật và Thiên Chúa để đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
Tuy nhiên, điều quyết định để thánh Giuse và Mẹ Maria thực sự trở nên một con người bình an, thánh thiện và tốt lành, đó là có sự hiện diện của Đức Giêsu trong gia đình và nhất là nơi tâm hồn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại Bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Ngày đó, mỗi chúng ta được thuộc trọn về Chúa. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Cũng chính từ đó, chúng ta được mời gọi đón nhận Ánh Sáng Chúa Kitô trong cuộc đời của mình, đồng thời có sứ mạng lan tỏa Ánh Sáng ấy cho người khác.
Khi đã thuộc về Chúa và đi theo Ánh Sáng là chính Ngài, chúng ta được mời gọi thực thi Lời Chúa cách yêu mến và trung thành như Mẹ Maria và thánh Giuse đã trung thành giữ luật trong lòng mến.
Mừng lễ dâng Chúa vào đền thờ hôm nay, chúng ta còn được mời gọi hãy tín thác và phó dâng cuộc đời, sự nghiệp, tương lai của chúng ta cho Chúa để được sống dưới sự hướng dẫn, dạy dỗ và soi dẫn của Người.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi trần gian. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trung thành và yêu mến Luật Chúa như Mẹ Maria và thánh cả Giuse, để luôn được đi trong Ánh Sáng của Ngài. Amen.
Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay 2/2-33
zCách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi : “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8). Ông Symêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là ” Ánh Sáng muôn dân ” (Lc 2, 32).
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người “(x. Phụng vụ Byzantine).
Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?
Theo thánh Dimitri de Rostov: “Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả : Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ”.
Thánh Phaolô nói: “Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ” (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: ” Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham…Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,16-17).
Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.
Hy Tế Cứu Chuộc
Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 01 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là “cặp bồ câu non”! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là “bản lề” chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để (Cứu chuộc) chúng ta.
Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Lời của cụ già Symêon nói : “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.