Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục. 14/08 – Thánh Mácximilianô Maria Kônbê, lm tử đạo. Lễ nhớ. "Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
* Thánh nhân sinh ngày 8 tháng 1 năm 1894 tại Ba Lan. Người gia nhập Dòng Anh Em Hèn Mọn và năm 1918 thụ phong linh mục tại Rôma. Đầy lòng yêu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria Thánh Mẫu Thiên Chúa, người lập một hội đạo đức lấy tên là “Đạo binh Đức Maria Vô Nhiễm”. Hội này đã được truyền bá rộng rãi cả ở quê hương của người lẫn ở nhiều miền khác. Người đã đến Nhật Bản để truyền giáo, hăng say loan báo đức tin Kitô giáo dưới sự chăm sóc và bảo trợ của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Khi đã trở về Ba Lan, người phải chịu biết bao cơ cực, nhọc nhằn một thời gian dài trong trại tập trung Ốt-suýt vì chính sách kỳ thị chủng tộc. Người đã hiến dâng mạng sống mình làm lễ toàn thiêu vì lòng bác ái ngày 14 tháng 8 năm 1941.
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền. Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ". Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Đòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không khỏi mỉm cười, khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá, một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường. Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy con cá đầu tiên câu được, bắt lấy, mở miệng nó ra, thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan, vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò. Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách Xuất hành (30, 14) những người đàn ông Do Thái trên hai mươi tuổi phải nộp để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó. Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao, và phép lạ đã xẩy ra như thế nào. Chỉ biết chẳng khi nào trong Tân Ước Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy. Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế lại không phải là chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này. Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu. Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế, vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26). Đức Giêsu chính là Người Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc. Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức Vua tối cao. Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38), và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng con (Mt 6, 9). Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế. Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác. Tuy Thầy trò có quyền không nộp thuế, nhưng Thầy Giêsu lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm. Khi về đến nhà của anh Phêrô ở Caphácnaum, Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò. Thầy chấp nhận giữ luật mà các người đàn ông Do Thái đều giữ. Thầy biết mình có tự do, nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích cho người khác. Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng. “Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch, nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm 14, 20). Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong cộng đoàn. Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm. Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu. Thế giới hôm nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm. Bao sa ngã của giới trẻ là do sự phóng túng của người lớn. Con người hôm nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông, nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng. Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác, thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng trước mọi biến cố của cuộc sống, khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm, hay gặp sự bất trung, bất tín nơi những người con tin tưởng cậy dựa. Xin giúp con gạt mình sang một bên để nghĩ đến hạnh phúc người khác, giấu đi những nỗi phiền muộn của mình để tránh cho người khác phải đau khổ. Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời, để đau khổ làm con thêm mềm mại, chứ không cứng cỏi hay cay đắng, làm con nhẫn nại chứ không bực bội, làm con rộng lòng tha thứ, chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ. Ước gì không ai sút kém đi vì chịu ảnh hưởng của con, không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật, lòng cao thượng, tử tế, chỉ vì đã là bạn đồng hành của con trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối, xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương. Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên, tràn trề sức mạnh để làm việc thiện, và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen. (dịch theo Learning Christ) ------------------------------------------
Đức tin vững mạnh nhờ qui chiếu quá khứ. Mô-sê nhắc nhở cho dân Do thái điều đó. Khi vào Ai cập họ chỉ có 70 người. Ai cập là đế quốc hùng mạnh nhất thời đó. Vậy mà Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập bằng những chiến thắng lẫy lừng, những điềm kỳ phép lạ. Rõ ràng Chúa là “Thần của các thần, là Chúa của các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy”. Và hiện nay họ đã là một dân đông đúc, hùng mạnh. Vì thế hãy vững tin nơi Chúa (năm lẻ).
Đức tin vững mạnh nhờ hướng tới tương lai. Ê-dê-kiên trong thời lưu đầy khổ nhục. Nhưng bên bờ sông Kê-ba, ông đã nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện đến oai hùng như một đạo quân với “tiếng ồn ào trong doanh trại”. Dũng mãnh như “một cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến”. Linh thiêng ngự giữa đám mây, “có lửa lóe ra và ánh sáng chiếu tỏa chung quanh”. Quyền uy ngự trên ngai cao. “Và trên ngai có kim loại lấp lánh, có đám lửa bao quanh…Có cầu vồng xuất hiện trên mây..” Nhưng Thiên Chúa lại rất gần gũi vì “tay Đức Chúa đặt trên ông” Ê-dê-kiên. Ê-dê-kiên được tràn đầy niềm an ủi, tràn đầy niềm tin, tràn đầy hi vọng sẽ đến ngày Dân Chúa được phục hồi. Và trong niềm tin tưởng hi vọng vào một tương lai huy hoàng, Ê-dê-kiên sẽ an ủi khích lệ dân chúng hãy vững tin (năm chẵn).
Đức tin biểu lộ cụ thể trong đời sống hiện tại. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ dân chúng hãy sống tốt trong hiện tại. Vững vàng tin tưởng, thờ phượng Chúa, “yêu mến phung thờ Người hết lòng hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người” (năm lẻ).
Chúa Giê-su chính là gương mẫu cho ta trong đời sống đức tin. Người tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa Cha. Người biết Chúa Cha sẽ giải thoát Người khỏi cái chết, cho Người được phục sinh, trả lại cho Người vinh quang Người đã có trước kia bên Chúa Cha. Nên trong phút giây hiện tại Người lo chu toàn thánh ý Chúa Cha, sống như một người thường, chu toàn những bổn phận của người dân thường như đóng thuế, đọc kinh, đi lễ Đền Thờ. Còn hơn nữa, Người sẵn sàng chịu mọi đau đớn khổ nhục “bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người”.
Xin cho chúng ta được noi gương Chúa Giê-su luôn sống tâm tình người con hiếu thảo. Chiếu lên ánh sáng rực rỡ của đức tin trong cuộc đời hiện tại bằng cặn kẽ tuân hành thánh ý Thiên Chúa, yêu thương anh em đồng loại, chu toàn mọi bổn phận nơi trần thế. Chắc chắn chúng ta sẽ cùng Chúa Giê-su hưởng vinh quang bên Chúa Cha.
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
Bác sĩ Ý Antinori đã tạo ra một chấn động mạnh trong lương tâm nhân loại, khi ông tuyên bố việc tạo sinh con người theo phương pháp vô tính. Phương pháp tạo sinh vô tính đã được áp dụng thành công vào việc sản sinh ra con cừu có tên là Doli tại Anh Quốc cách đây vài năm và đã được áp dụng vào những loài vật khác nhau từ chuột đến bò, heo. Vấn đề cần đặt ra không phải là chuyện phương pháp kỹ thuật tạo sinh vô tính có hoàn hảo không. Tất nhiên, đem thí nghiệm tạo ra một con người mà không biết chắc sẽ sinh ra một con người bình thường hay một quái thai, quả là một hành động liều lĩnh, vô trách nhiệm. Nhưng ngay cả khi phương pháp tạo sinh vô tính đã được nghiên cứu tới mức hoàn hảo đi nữa thì câu hỏi vẫn là con người có quyền sản sinh vô tính con người không? Không riêng gì những con người có niềm tin tôn giáo mà ngay cả với những ai không thuộc tôn giáo nào đi nữa, đã là con người có lương tri, người ta không thể trốn tránh một câu hỏi như thế.
Tựu trung, đạo đức vẫn luôn luôn là chiều kích bao trùm toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bất cứ sinh hoạt nào, con người cũng luôn luôn phải tự hỏi: Tôi có được phép làm điều này không? Tôi phải cư xử như thế nào cho xứng với phẩm giá con người? Ðã làm người là phải chấp nhận những giới hạn. Không ai được hỏi ý kiến khi sinh ra. Không ai chọn lựa cha mẹ, quê hương để sinh ra. Con người đến trong cõi đời không do chọn lựa của mình. Ðiều ấy cho thấy tính giới hạn là tất yếu đối với con người. Cái chết lại càng là một khẳng định về những giới hạn ấy, mà đã có giới hạn, cho nên con người không thể sống mà không tuân theo những qui luật của cuộc sống. Bên cạnh những qui luật của thiên nhiên, quan trọng hơn cả là những qui luật đạo đức. Chỉ khi nào tuân hành những qui luật đạo đức ấy, con người mới có thể triển nở trong nhân cách và thành toàn.
Là người tín hữu Kitô chúng ta được mời gọi để suy nghĩ về thân phận con người dưới ánh sáng mầu nhiệm nhập thể. Chỉ trong Ngôi Lời nhập thể làm người, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Chúng ta biết về mình và chúng ta biết phải sống như thế nào cho ra người khi nhìn vào con người và cuộc sống của Chúa Giêsu. Trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê, thánh Phaolô đã tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể như sau: "Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì sự ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự".
Quả thật, Chúa Giêsu là mẫu gương của vâng phục. Suốt ba mươi năm ẩn dật tại Nazareth, Ngài đã vâng phục cha mẹ, tuân thủ các Lề Luật của Môsê. Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Ðã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã chọn kiếp sống con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: "Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt lên trên muôn ngàn danh hiệu".
Vâng phục để được suy tôn, tự hạ để được nâng lên. Sống những giới hạn của kiếp người với tinh thần trách nhiệm để được là người hơn. Ðó là qui luật của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.
Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: “Con người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm. (Mt. 17, 22-23)
Lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo Người sẽ phải chịu chết, Phê-rô, nhân danh mình và các bạn tông đồ ra mặt phản đối. Tại sao? Thưa, Người đã không làm điều gì dữ. Người phải xa lánh Giê-ru-sa-lem vì thảm họa sẽ xảy ra ở đó. Chớ gì người ta chẳng cho phép bảo vệ Người. Những kẻ muốn mưu hại tính mạng thường đến đó. Thầy không muốn nghe về những chuyện đó. Phê-rô và các tông đồ nhớ rõ Thầy đã khiển trách các ông như thế rồi. Không có chuyện tái can Thầy nữa. “Các ông buồn!” Người ta nổi khùng khi đứng trước một người thân yêu lâm bệnh nguy tử, đành khoanh tay ngồi nhìn trước cảnh tượng vô phương đó, chúng ta cũng buồn. Người thân yêu của chúng ta sắp ra đi. Còn yêu gì được nữa.
Trống rỗng và nặng nề.
Con tim trống rỗng làm chúng ta cảm thấy bị đè nặng.
Các tông đồ buồn sầu. Còn nói gì được nữa? các ông biết chắc sẽ xẩy ra như thế vì Chúa đã nói rồi. Làm sao không tin được? Mọi sự Người đã nói, đã loan báo, thì đã thực hiện. Những công việc của Thiên Chúa mà Thầy hoàn tất chứng tỏ Thầy biết rõ ý định của Chúa Cha.
Phép lạ!
Nhân dịp kẻ thu thuế đòi đóng thuế, Đức Giêsu làm một phép lạ rất giản dị và dịu êm.
Thấy một con cá nuốt một vật, chẳng phải lạ, dù là một đồng tiền hay vật khác. Nhưng lạ lùng là chính Phê-rô đã bắt được con cá này để lấy đồng tiền ra nộp thuế đền thờ.
Đức Giêsu cho biết: Con không phải nộp thuế cho Cha. Cuộc thương khó và cái chết của Thầy nói cho biết Thầy là Con Chúa Cha. Để chứng tỏ Con luôn luôn vâng lời hết mọi sự.
Trong cuộc sống, có lẽ không ai muốn mình phải nghe, hay đụng chạm đến những tin không vui. Vì thế, với não trạng của con người, chúng ta thường thích nghe tin mừng, tin thành công và tin chiến thắng.
Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng lại tường thuật việc Đức Giêsu loan báo một tin buồn và nghịch lý với lối hiểu của con người, Ngài nói: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy".
Khi nghe thấy tin đó, các môn đệ buồn phiền và thất vọng. Với các ông và cả những người Dothái cùng thời, Đức Giêsu phải là người mang lại tự do, thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của đế quốc, Ngài phải là người đánh đông dẹp bắc và thống lãnh bằng quyền lực... Tuy nhiên, điều này hoàn toàn ngược lại với sứ vụ của Đức Giêsu, vì thế Ngài đã không làm. Con đường cứu độ và giải thoát của Ngài là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, mà ý Chúa Cha là muốn Đức Giêsu phải chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, Ngài đã vâng lời đến cùng để thánh ý của Cha được nên trọn.
Nhưng vì biết các môn đệ luôn mang trong mình tâm tưởng phàm tục, nên Đức Giêsu đã loan báo trước cuộc khổ nạn, để các ông dần dần hiểu ra sứ vụ và tiếp tục tiến bước trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng lòng lên trời để tìm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của mình. Đồng thời, sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, cần phải xác định thật rõ con đường chân phúc để được hưởng niềm vui, hạnh phúc và bình an trong Nước Trời, con đường đó là: “Phải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang". Tinh thần này cũng được Đức Cố Hồng Y Fx. Thuận nói đến trong sách Đường Hy Vọng, Ngài nói: “Tránh gian khổ con đừng trông làm thánh”(x. ĐHV., số 702), thánh mà không vượt qua đau khổ là thánh giả, vì khi: “Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (ÐHV., số 44).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá ra ý nghĩa của sự đau khổ và luôn biết kết hợp với ơn Chúa, sẵn sàng đón nhận tất cả vì Chúa và vì Nước Trời. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đáng lẽ không phải nộp thuế cho đền thờ, nhưng Chúa vẫn nộp để khỏi làm cớ cho người ta gai mắt. Chúa khước từ quyền lợi đáng được hưởng để sống vì người khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã để lại mẫu gương quên mình để hoàn toàn sống vì người khác. Chúa có quyền không nộp thuế cho đền thờ bởi vì Chúa là Con Thiên Chúa, Chúa mới là Đấng mà người ta phải nộp thuế để lo việc tế lễ tôn thờ. Nhưng dù vậy Chúa vẫn nộp thuế để khỏi trở nên cớ cho người ta công kích và chống lại sứ điệp của Chúa.
Suốt cả cuộc đời, Chúa đã không sống cho mình, nhưng chỉ biết sống cho chúng con. Dù là Con Thiên Chúa đáng được địa vị và vinh quang như Chúa Cha, nhưng Chúa đã khước từ và hủy mình ra không. Chúa không sống theo sở thích của mình, nhưng hy sinh tất cả vì chúng con. Đối với chân lý mà Chúa phải mạc khải, thì Chúa cương quyết không bao giờ nhượng bộ. Còn đối với quyền lợi Chúa đáng hưởng, thì Chúa lại khước từ tất cả.
Lạy Chúa, trong khi đó, con lại thích sống ích kỷ, quyền lợi thì đòi hưởng thật nhiều, còn bổn phận thì lại trốn tránh. Xin Chúa giúp con canh tân cuộc sống, biết hy sinh quyền lợi và đặc ân, biết từ khước những điều con đáng được hưởng để chỉ biết sống cho tha nhân. Những điều có thể trở nên gương xấu, thì dù có thể làm, con cũng sẽ không làm. Còn những điều có thể giúp ích cho người khác, thì dù không muốn làm, con sẽ cố làm. Con bắt chước Chúa sống như thế không phải là giả hình, vì lời khen tiếng chê, nhưng vì con muốn sống cho tha nhân, vì con yêu mến họ, vì con muốn nâng đỡ đức tin của họ. Xin Chúa dẫn dắt con. Amen.
Ghi nhớ: “Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế”.
1. Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết: Ngài sẽ bị nộp, bị giết nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Các ông nghe Chúa nói vậy thì buồn lắm, nhưng không dám nói gì, vì sợ Chúa quở như đã quở ông Phêrô. Còn việc nộp thuế cho Đền thờ, Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, Người có quyền không nộp thuế cho Đền thờ. Nhưng việc Chúa Giêsu nộp thuế chứng tỏ Người chu toàn lề luật, sống khiêm nhường như những người Do thái bình thường. Chúa đã để lại cho chúng ta một mẫu gương khiêm tốn và chu toàn lề luật.
2. “Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”. Thích nghi với đời sống xã hội là một trong những đòi hỏi cơ bản nhất của đời sống.
Khi nhập thể làm người, Thiên Chúa như phải làm một cuộc hội nhập văn hóa. Ngài không phải là con người trừu tượng, nhưng là người Do thái với tất cả quá khứ của một dân tộc. Ngài nên giống con người trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Làm người Do thái dưới thời đế quốc Rôma bảo hộ, Ngài cũng đăng ký trong một cuộc tổng kiểm tra dân số trên toàn lãnh thổ đế quốc. Là người Do thái sống dưới sự cai trị của người Rôma, Ngài đóng thuế cho đế quốc. Nhưng dĩ nhiên, Ngài cũng tuân thủ tất cả lề luật của Do thái giáo: chịu cắt bì, được dâng trong Đền thờ, đến Hội đường, giữ ngày hưu lễ, nộp thuế tôn giáo.
3. Vấn đề nộp thuế cho Đền thờ.
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Đền thờ nữa. Theo đó, mọi đàn ông Do thái, kể cả những người sống ngoài lãnh thổ Palestina, đều phải nộp thuế cho Đền thờ hằng năm một món tiền thuế là hai đồng drachme, tương đương với giá hai ngày công. Số tiền này dùng để trang trải các chi phí của Đền thờ. Người ta bắt đầu thu thuế vào quãng 15 ngày trước Lễ Vượt qua. Vấn đề được nêu ra là Chúa Giêsu có phải nộp thứ thuế này không.
4. Chúa Giêsu giải quyết thế nào về việc nộp thuế cho Đền thờ?
Theo bài Tin Mừng, khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: “Thưa, người ngoài”. Chúa Giêsu liền bảo: “Thế thì con cái được miễn”.
Đây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: “Thế thì con cái được miễn”, Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế, bởi vì câu: “Thế thì con cái được miễn”. Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế, nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Đền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quỹ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
5. Chúa Giêsu là gương mẫu của vâng phục. Suốt 30 năm ẩn dật tại Nazareth Ngài đả vâng phục cha mẹ, tuân theo các lề luật của Maisen. Tin mừng hôm nay ghi lại việc Ngài đóng thuế cho Đền thờ, đây là một điển hình của rất nhiều cử chỉ vâng phục mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài.
Vâng phục là nói lên tính cách bất toàn và giới hạn của thân phận con người. Đã làm người, Chúa Giêsu đã không đi ra ngoài những qui luật ấy của thân phận con người, nhưng chính vì vâng phục mà Ngài đã trọn kiếp con người. Ngài là một mẫu người hoàn hảo. Hoàn hảo không phải vì không có giới hạn trong kiếp người mà chính là vì đã vâng phục. Thánh Phalô đã khẳng định rằng: “Chính vì Ngài đã vâng phục mà Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu, vượt trên muôn ngàn danh hiệu”.
6. Thánh Matthêu viết Tin Mừng trong giai đoạn Do thái giáo đã khai trừ các Kitô hữu. Cho nên lẽ ra họ không còn bổn phận đóng góp cho Đền thờ Giêrusalem nữa. Thế mà, “để khỏi làm cớ vấp phạm” (làm dịp cho người Do thái kết án là tại Kitô hữu bỏ bổn phận trước), họ vẫn chu toàn bổn phận nộp thuế cho Đền thờ. Có những việc tôi không bị buộc làm, nhưng “để khỏi gây cớ vấp phạm” và vì bác ái, tôi vẫn nên làm.
7. Truyện: Phải tránh gương xấu.
Một cha sở kia ở miền núi, mỗi ngày trước khi lên giường ngủ, ngài thường quỳ xuống quay mặt về hướng nghĩa địa gần nhà cầu nguyện cho những người ở đó. Ngài cầu nguyện thật sốt sắng. Một đêm kia, ngài nghe thấy có tiếng chân người và tiếng đá rơi. Ngài nhìn kỹ thì thấy bóng một người đang trèo lên thành nghĩa địa và đi giữa những nấm mồ. Một kẻ trộm chăng? Một tên điên chăng? Qua đêm thứ tư, ngài núp sau một gốc cây, ngài thấy rõ có một người lạ mặt đến quì trước ngôi mộ và khóc than thảm thiết: “Cha ơi, cha có tha cho con không? Cha nói đi! Cha nói đi”.
Cha nhìn kỹ và nhận ra đó là một người bổn đạo trong họ. Người này đã ngỗ nghịch làm cho người cha phiền muộn quá đến nỗi chết đi. Ngài rón rén đến gần, đặt tay lên vai người đó và nói:
- Ô con, con còn bị cắn rứt không thể nào ngủ được sao?
Người bổn đạo khiếp sợ quá, nhưng khi nhận ra tiếng cha sở thì định thần lại nói:
- Thưa cha, con không được bằng an chút nào cả. Hình ảnh cha con đang tức giận luôn theo dõi con.
- Con biết con đã xử tệ với cha con, con cái của con cũng xử tệ với con như vậy. Ngày mai, con hãy đem con cái đến đây và xin chúng đừng bắt chước gương xấu của con đã làm nữa.
10 năm sau, người bổn đạo đó chết và được chôn cất trong nghĩa địa ấy. Trong khi cha sở đang làm phép mộ, con cái ông ta lên tiếng nhạo báng và chửi rủa.
Cha sở buồn rầu thốt lên một lời:
- Ôi các bạn trẻ, đừng bao giờ quên chuyện này (Trích “Phúc)”.
1. Chúa Giêsu loan báo lần thứ hai Ngài sẽ chịu nạn: Nội dung hầu như giống y lần thứ nhất (x. 16,21), chỉ khác một chi tiết nhỏ là Ngài sắp bị nộp vào tay “người đời”) (lần thứ nhất: “chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư”).
2. Vấn đề nộp thuế cho Đền thờ:
- Mọi đàn ông do thái, kể cả những người sống ngoài lãnh thổ Palestina, đều phải nộp cho Đền thờ hằng năm một món tiền thuế là hai đồng drachme, tương đương với giá hai ngày công. Số tiền này dùng để trang trải các chi phí của Đền thờ. Người ta bắt đầu thu thuế này vào quãng 15 ngày trước Lễ Vượt qua. Vấn đề được nêu ra là Chúa Giêsu có phải nộp thứ thuế này không.
Chúa Giêsu trước hết đưa ra một định hướng nền tảng cho vấn đề, sau đó mời độc giả tìm đến một giải pháp thực tế.
- Định hướng nền tảng được trình bày bằng một dụ ngôn: các bậc vua chúa thường không thu thế con cái họ mà chỉ thu thuế các thần dân khác. “Vậy, con cái thì được miễn”: được miễn bởi vì chúng không phải nộp thù lao hay phải làm tạp dịch để được bố chúng xem chúng là con. Tương quan phụ tử phát sinh từ một sự nhưng không mà tương quan chủ tớ không hề có. Chúa Giêsu đã kiên nhẫn dạy cho các môn đệ mình cư xử với Thiên Chúa như với người cha của họ là Đấng ngự trên trời và là Đấng luôn trung tín với con cái mình mà chẳng hề đòi buộc chúng phải nộp thuế (Claude Tassin).
- Một giải pháp thực tế: “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ… anh hãy lấy đồng tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh”. Các kitô hữu gốc do thái luôn tự do trong việc nộp thuế Đền thờ. Họ luôn chu toàn bổn phận nộp thuế để tránh gây hoang mang vô ích cho đồng bào mình, bởi vì nếu không nộp thuế thì họ sẽ khiến cho đám người kia có cảm tưởng họ đã ly khai khỏi dân Israel.
B.... nẩy mầm.
1. “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời”: Động từ “bị nộp” ở thể thụ động hiểu ngầm người nộp là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa nộp ai và nộp cho ai ? Thưa nộp Chúa Con cho người thế gian.
- Ta hãy suy gẫm về tình thương của Thiên Chúa: Ngài ban cho loài người Người Con độc nhất mà Ngài rất yêu quý.
- Ta cũng hãy suy gẫm về sự hy sinh tự hạ của Chúa Giêsu: Là Con Thiên Chúa, Ngài sẵn lòng bị nộp vào tay người đời để cho người đời hành hạ và giết chết.
2. “… nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền”: các môn đệ buồn phiền vì chỉ nhớ phần thứ nhất của lời loan báo (Chúa Giêsu bị giết) chứ không để ý tới phần thứ hai (Ngài sẽ sống lại).
Xin cho con luôn nhớ rằng Thập giá là đường dẫn tới vinh quang, vì có nhớ như thế con mới có thể lạc quan vác thập giá theo Chúa.
3. Câu chuyện này nhắc mọi tín hữu góp phần mình vào Đền thờ, vào việc chung của Giáo Hội. Đây là một bổn phận công bằng, vì ta đã hưởng những ơn ích của Giáo Hội thì ta cũng phải góp phần mình vào đấy, góp phần bằng vật chất và bằng tình thần.
4. Thánh Mat-thêu viết Tin Mừng trong giai đoạn Do thái giáo đã khai trừ các kitô hữu. Cho nên lẽ ra họ không còn bổn phận đóng góp cho Đền thờ Giêrusalem nữa. Thế mà, “để khỏi làm cớ vấp phạm” (làm dịp cho người do thái kết án là tại kitô hữu bỏ bổn phận trước), họ vẫn chu toàn bổn phận nộp thuế cho Đền thờ.
Có nhiều việc tôi không bị buộc làm, nhưng “để khỏi gây cớ vấp phạm” và vì bác ái, tôi vẫn nên làm.
5. Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Anh ra biển thả câu ; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền 4 quan. Hãy lấy số tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và của anh” (Mt 17,27)
Là một ngư phủ, việc câu cá với Phêrô quả là dễ dàng. Chúa Giêsu đã sai Phêrô làm một việc trong tầm tay của ông để tuân hành luật lệ xã hội. Nhưng đồng thời, trong cuộc sống, Ngài luôn lưu ý Phêrô và các môn đệ về thế đứng của họ: sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Qua đó, tôi đọc ra nơi Chúa Giêsu một khả năng hội nhập tinh tế: hoà mình vào thế giới nhưng không đánh mất bản sắc riêng của mình.
Trong thực tế, nhiều lần tôi đã lạm dụng hai chữ “hội nhập” để ngụy biện cho những ích kỷ, lười biếng, và những hành động thiếu yêu thương, công bằng trong bổn phận của một Kitô hữu.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời trong những bổn phận trần thế và những hành động yêu thương nhỏ bé của con. (Hosanna)
1. Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu và vấn đề thuế thân.
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cuộc tử nạn sắp đến của Ngài với các môn đệ, nhưng với chi tiết rõ ràng hơn lần trước: Con người sẽ bị nộp vào tay người đời…. và Matthêô thêm: “Các môn đệ buồn lắm.” (Mt 14,23)
Chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu đang tập cho các môn đệ làm quen phần nào với cuộc Thương khó sắp đến của Ngài, để tránh cho các ông cú “sốc” quá lớn, có thể đưa đến thất vọng chăng. Đồng thời, việc Chúa loan báo trước như vậy là để cho các môn đệ biết, cuộc thương khó của Ngài nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Tin Mừng ghi: “Các môn đệ buồn lắm!” (Mt 14,23).
2. Buồn cũng như vui, là thành phần của cuộc sống. Và thường buồn rồi mới vui. Cũng như mưa xong, trời lại nắng. Cuộc sống thường thêu dệt bằng những buồn vui, vui buồn là sợi ngang chỉ dọc dệt nên tấm thảm cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu cũng sẽ phải trải qua nỗi buồn chưa từng có trên đời: buồn đến nỗi mồ hôi máu chảy ra tại núi Cây Dầu. Buồn vui là qui luật của cuộc đời. Điều quan trọng là người Kitô hữu biết thánh hóa những niềm vui nỗi buồn đó.
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa, Vì Chúa đã ban cho con, Một con đường để con đi về phía trước, Lòng vững tin Chân Hạnh Phúc ở cuối trời Một cuộc đời để con nếm buồn vui, Và sẽ hiểu: buồn vui cũng chỉ là tương đối. Một người bạn để con chìa tay với, Mà không mong chỉ giữ mãi cho riêng mình Một tình yêu để tim con rạo rực, Nhận rất nhiều, rồi thao thức đem cho Một ước mơ để con chờ con đợi, Khi đêm qua, rồi Ngày Mới bắt đầu...
3. Vấn đề nộp thuế cho Đền thờ.
Theo Luật thì mọi người đàn ông Do Thái, kể cả những người sống ngoài lãnh thổ Palestine, đều phải nộp cho Đền thờ hàng năm một món tiền thuế là hai đồng “drachme”, tương đương với giá trị hai ngày công. Số tiền này dùng để trang trải các chi phí của Đền thờ. Người ta bắt đầu thu thuế vào quãng 15 ngày trước Lễ Vượt Qua.
Vấn đề được nêu ra là Chúa Giêsu có phải nộp thứ thuế này hay không?
Trước hết, Chúa Giêsu đưa ra một định hướng nền tảng cho vấn đề, sau đó Ngài mời độc giả tìm đến một giải pháp thực tế.
Định hướng nền tảng được trình bày bằng một dụ ngôn: Các bậc vua chúa thường không thu thuế con cái họ mà chỉ thu thế các thần dân khác: “Vậy, con cái thì được miễn” (Mt 17,26). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa trên nguyên tắc thì Ngài được miễn.
Nhưng thực tế thì có khác: “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh hãy lấy đồng tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh”. (Mt 17,26)
Chúa làm thế để làm gì? Thưa để tránh gương xấu.
Lý do là vì gương xấu luôn để lại trong cuộc sống những điều rất đau lòng.
Trong tác phẩm có tựa đề là “Phúc” người ta đọc được câu chuyện này: Một cha sở kia ở miền núi, mỗi ngày trước khi lên giường ngủ, ngài thường quỳ xuống quay mặt về hướng nghĩa địa gần nhà và cầu nguyện cho những người ở đó. Ngài tin rằng, những lời cầu nguyện như thế sẽ làm yên lòng những nấm mộ chập chờn trong bóng tối với những cây Thánh Giá lô nhô trong nghĩa địa. Ngài cầu nguyện thật sốt sắng. Một đêm kia, ngài nghe thấy có tiếng chân người và tiếng đá rơi. Trong bóng tối, ngài thấy một hình người đang trèo lên thành nghĩa địa và đi giữa những nấm mồ. Một kẻ trộm chăng? Một tên điên chăng? Qua đêm thứ tư, ngài núp sau một gốc cây, ngài thấy rõ có một người lạ mặt đến quỳ trước ngôi mộ và khóc than thảm thiết: “Cha ơi, cha có tha cho con không? Cha nói đi! cha nói đi”.
Cha sở nhìn kỹ và nhận ra đó là một người bổn đạo trong họ. Người này đã ngỗ nghịch làm cho người cha phiền muộn quá đến chết đi. Ngài rón rén đến gần, đặt tay trên vai người đó và nói:
- Ồ con, con còn bị cắn rứt không thể nào ngủ được sao?
Người bốn đạo khiếp sợ quá, nhưng khi nhận ra tiếng cha sở thì định thần lại nói:
- Thưa cha, con không được bằng an chút nào cả. Hình ảnh cha con đang tức giận luôn theo dõi con.
- Con biết con đã xử tệ với cha con, con cái của con cũng sẽ xử tệ với con như vậy. Ngày mai, con hãy đem con cái đến đây và xin chúng đừng bắt chước gương xấu của con đã làm nữa.
10 năm sau, người bổn đạo đó chết và được chôn cất trong nghĩa địa ấy. Trong khi cha sở đang làm phép mộ, con cái ông ta lên tiếng nhạo báng và chửi rủa.
Cha sở buồn rầ thốt lên một lời:
- Ôi các bạn trẻ, đừng bao giờ quên chuyện này. (Trích “Phúc”).
Ngợi khen và hoan hỉ trong Chúa. "Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ". “Kết thúc cuộc đời dương thế, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác”. Với những lời đó, năm 1950 đức giáo hoàng Piô 12 đã xác định tín điều Đức Maria hồn xác lên trời. Đặc ân này xuất phát từ ơn được làm Đức Mẹ Chúa Trời và là hy vọng chắc chắn cho toàn thể nhân loại, là lời hứa cho toàn thể nhân loại sẽ được phục sinh.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện". Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời". Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà Mình.
Trong ngày mừng lễ Đức Maria được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, phụng vụ lại cho chúng ta chiêm ngắm một Đức Maria trong đời thường. Lúc ấy Mẹ là một cô thiếu nữ, vượt đoạn đường dài hơn 100 cây số, đi từ Galilê lên Giuđê, để thăm bà chị họ cao niên đang mang thai. Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của niềm vui. Maria là người cất tiếng chào trước. Tiếng chào ấy đã làm thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ (c. 44) và làm bà Êlisabét ngỡ ngàng chúc tụng tán dương (cc. 42-45). Maria cũng hân hoan cất lời ngợi khen Thiên Chúa (cc. 46-47). Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của Thánh Thần. Maria đầy Thánh Thần từ khi cưu mang Đức Giêsu (Lc 1, 35). Êlisabét đầy Thánh Thần từ khi nghe Maria chào (Lc 1, 41). Nhờ Thánh Thần, bà Êlisabét đã khám phá ra bí mật của cô em. Cô có phúc hơn mọi phụ nữ, vì cưu mang người Con tuyệt vời (c. 42). Cô còn có phúc vì dám tin điều Thiên Chúa nói (c. 45). Chính Mẹ cũng nhận mình là người diễm phúc vì được muôn hồng ân (c. 48). Đem Đức Giêsu đến nhà, thăm viếng, chào hỏi, ở lại, phục vụ: đó là những điều Mẹ Maria đã làm cho bà chị họ ngày xưa, và vẫn còn làm cho chúng ta hôm nay trên trời. Mẹ được tôn vinh không phải để xa cách, mà để gần gũi với con người. Đấng tự xưng là nữ tỳ của Chúa thì đã sống như nữ tỳ của nhân loại. Lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, nhắc chúng ta nhiều điều. Lễ này nhắc chúng ta về thế giới của Thiên Chúa, về quê hương vĩnh cửu. Chúng ta dễ bị hút xuống thế giới này, với vẻ đẹp và nỗi khốn cùng của nó. Chúng ta loay hoay giải quyết không xong những vấn đề của trái đất, vì quên nhìn nó từ trên cao và hướng nó về trời cao. Lễ này cũng nhắc chúng ta về giá trị cao quý của thân xác. Thân xác đi với ta suốt cả cuộc đời, chịu gian khổ và được tôn vinh với ta. Chẳng thân xác nào gần Đức Giêsu bằng thân xác của Mẹ. “Phúc cho người phụ nữ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm.” Tay Mẹ đã bồng ẵm Con từ Bêlem, qua Ai Cập, lên Đền thờ. Tay Mẹ cũng đã ôm xác Con mình, được đưa xuống từ thập tự giá. Mẹ sống bên Giêsu gấp mười lần thời gian các tông đồ sống bên Ngài. “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 26). Hơn ai hết Mẹ là người đã gắn bó phục vụ Đức Giêsu bằng cả cuộc đời. Hơn ai hết Mẹ xứng đáng được ở bên Con cả hồn lẫn xác. Lễ Mẹ Lên Trời là lễ của niềm hy vọng cho cả nhân loại. Người Kitô hữu thêm xác tín về nơi mình sẽ đến. Mẹ là người được hưởng trước những gì chúng ta sẽ được hưởng. Dù cuộc đời người theo Chúa lắm gian truân và hy sinh, nhưng kết thúc lại rất tươi và có hậu. Lễ Mẹ Lên Trời, chỉ xin được yêu mến những sự bền vững trên trời, và bớt bị mê hoặc bởi những điều chóng qua dưới đất. Cầu nguyện :
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. --------------------------------
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tiếng gọi, Chúa gọi chúng ta, Đức Mẹ gọi chúng ta, những tiếng gọi này có thể rất đa dạng như.
Hãy tạ ơn Chúa vì đã ban cho Đức Mẹ ơn được lên trời cả hồn lẫn xác.
Hoặc: hãy xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta cũng được theo Mẹ lên trời.
Hoặc: Hãy nhớ lại muôn vàn ơn Đức Mẹ đã ban cho ta, hiện nay và từ trước, để ta biết đi vào đúng đường lên trời.
Trong những tiếng gọi khác nhau, tôi thấy có tiếng gọi tôi cho là khẩn cấp. Tiếng gọi đó được diễn tả trong lời sau đây của thánh Phaolô: “Các con hãy biết run sợ lo sao cho mình được cứu độ” ( Pl 2, 12).
Được cứu độ là việc không dễ dàng. Vì thế, nếu chúng ta “biết run sợ lo cho mình” được cứu độ, thì thái độ của chúng ta là rất đúng. Bởi vì Chúa Giêsu khẳng định: “Được mọi sự thế gian, mà phải mất linh hồn mình, thì nào có lợi gì “ ( Lc 9, 25).
Trong niềm tin đó, và với sự run sợ lo cho phần rỗi của mình, tôi xin chia sẻ mấy thực tế, mà tôi thiết nghĩ là rất cần cho phần rỗi.
Những thực tế mà tôi coi là cần cho phần rỗi, sẽ không phải là tránh tội này tội tọ, nhưng là hãy có những lối sống đạo đức. Chúa Giêsu đã truyền dạy một cách rõ ràng về một số lối sống đạo đức, mà Người cho là cần cho phần rỗi.
1/ Sống tu thân
Chúa Giêsu dạy: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13- 14)
Với lời cảnh báo trên, Chúa Giêsu đã đề cập đến vấn đề tu thân. Tu thân là sống theo cửa hẹp. Cửa hẹp là những kỷ luật trong thái độ sống, trong cách suy nghĩ, trong cách dùng thời giờ, của cải, sức khỏe và những phương tiện xác hồn, nhất là trong sự vâng lời và trong xét đoán.
Tu thân như thế là một bổn phận đối với mọi người.
Riêng đối với những ai muốn trở thành môn đệ Chúa, thì tu thân phải đi xa, đi sâu hơn nữa. Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình theo” ( Mt 16, 24).
Trong một thế giới hưởng thụ, tu thân là một nét đẹp của nền giáo dục.
Đi vào đường hẹp, chính là đi vào đường phát triển con người, vừa theo hướng đi lên với Chúa, vừa theo hướng gặp gỡ con người.
Nó là một nghệ thuật để giới thiệu các giá trị đạo đức.
Nó khẳng định một nền đạo đức sâu sắc đi đôi với việc được sai vào đời, để loan báo Tin Mừng.
Nhất là nó phản ánh phần nào Đức Kitô thành Nadarét. Người đã sống hoàn toàn tự do, nhưng khi lựa chọn đường hẹp tu thân, Người đã cho thấy đường hẹp tu thân là cách mở rộng chân trời cứu độ.
2. Sống thực thi ý Chúa.
Chúa Giêsu phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi”
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
“Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá…Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát” ( Mt 7, 21-26).
Những lời Chúa phán trên đây dạy ta hai điều:
Một là thực hành lời Chúa mới có giá trị, chứ không phải chỉ học hiểu lời Chúa suông đủ.
Hai là khi thực hành lời Chúa, thì phải để ý thi hành đúng ý Chúa. Đúng ý Chúa là làm đúng việc, đúng cách, đúng lúc, đúng tâm tình Chúa muốn có và đúng ý hướng trong sạch trước mặt Chúa.
Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ từng giai đoạn. Ba mươi năm ỏ Nadarét thì Người âm thầm. Ba năm đi đây đi đó thì Người công khai làm phép lạ và rao giảng. Tuần lễ cuối đời thì Người tự ý nộp mình chịu mọi đau đớn, nhục nhã.
Đức Mẹ hầu suốt đời nâng đỡ Con mình một cách lặng lẽ.
Như vậy, thực hành đúng ý Chúa đòi phải gắn bó mật thiết với Chúa, để có thể biết được ý Chúa và co sức thực thi ý Chúa.
Thực tế cho chúng ta thấy rằng: Thực hành đúng ý Chúa không phải chỉ do thiện chí của ta, mà ta cũng phải biết rõ việc ta được sai đi. Ai sai ta? Sai đến nơi đâu? Phải đến lúc nào? Nên làm gì ở đó? Chỉ hiểu sơ thế thôi, cũng thấy việc thực thi ý Chúa là việc không dễ dàng. Nhất là thời nay đang xuất hiện nhiều loại thông tin, đúng có sai có; thêm vào đó là nhiều loại ý kiến, tốt có xấu có, nguy hiểm nhất là phát sinh nhiều thứ áp lực, trong ta và ngoài ta. Ai không có bản lãnh và tiêu chuẩn đạo đức vững, sẽ dễ bị choáng váng chao đảo, lạc vào những nẻo đường đưa tới tuyệt vọng.
3/ Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Cách sống theo Đức Giêsu Kitô trước hết là tin Đức Giêsu là chân lý. Người phán: “Chính Thầy là đường đi, là chân lý và là sự sống” (Ga 14, 6). Tin vào Người như thế là tin Người chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, nói tắt là Đức Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa. Vì thế, ta tin mọi điều Người truyền dạy là chân lý cứu độ: “Anh em hãy tin vào Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy… Thật, Thầy bảo thật các anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm” (Ga 14, 11-12)
Từ đó, tin vào Đức Giêsu Kitô là giữ lời Người và yêu mến Người: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” ( Ga 14, 21)
Chúa Giêsu còn đưa người đó tới Chúa Cha “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (Ga 14, 23).
Khi niềm tin đó đi sâu hơn nữa, người ta được mời gọi gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu như cành với cây. Chúa phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).
Như vậy, tin Chúa Giêsu là giữ lời Người, là yêu mến Người, là gắn bó mật thiết với Người. Niềm tin đó đặt Chúa Giêsu là nền tảng. Ta tin và thực hành điều gì, là vì Chúa Giêsu đã dạy. niềm tin này sẽ cứu ta khỏi những hoang mang thắc mắc, do áp lực dư luận, các nền văn hoá và các phong trào thế tục đặt ra. Nó cũng cứu ta khỏi những hoang tưởng kiêu căng.
Chúng ta vừa điểm qua ba lối sống:
- Sống tu thần - Sống thực thi ý Chúa. - Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Ba lối sống này là những gì Chúa đã nhấn mạnh. Ai giữ ba lối sống đó sẽ cộng tác với ơn Chúa ban cho mình để được cứu rỗi.
Ta có ý thức về ba lối sống đó không? Ta có thường ngày giữ ba lối sống đó một cách nghiêm túc không?
Khi xét minh để trả lời những câu hỏi đó, chúng ta có thể lo sợ. Nhưng chính sự lo sợ ấy sẽ giúp chúng ta khiêm nhường, để sửa mình. Như thế, chúng ta sẽ đáp lại tiếng gọi của Chúa, của Đức Mẹ và của Hội Thánh một cách chân thành. Thiết tưởng đó là một chuẩn bị tốt để mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.
Sứ điệp: Mẹ Maria ý thức mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa, nên hoàn toàn tín thác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vì vậy, Mẹ đã trở thành người có phúc và được Thiên Chúa nâng cao: cho lên trời cả hồn lẫn xác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hợp tiếng với Đức Mẹ, con dâng lời ngợi khen Chúa. Cuộc đời Mẹ là một chuỗi những hồng ân cao cả và kỳ diệu.
Phần Mẹ, Mẹ luôn nhìn nhận Mẹ chỉ là nữ tỳ hèn mọn. Mẹ không bao giờ để cho lòng ngờ vực cản trở chương trình của Chúa. Trái lại, Mẹ nhận ra thân phận nhỏ bé của mình, nên hoàn toàn tín thác vào chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ chỉ biết buông theo ân sủng, sẵn sàng để cho Chúa dẫn đi. Vì thế, Mẹ rất xứng đáng với lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét: Mẹ là người có phúc vì Mẹ đã tin. Nhờ lòng tin mà Mẹ đã đón nhận bao phúc lành của Chúa. Nhờ lòng tin mà trong cuộc đời Mẹ, hồng ân nối tiếp hồng ân.
Lạy Chúa, nhìn lại cuộc đời con, con cũng nhận ra tất cả đều là hồng ân của Chúa. Tuy nhiên, Chúa không thể dẫn con đi xa hơn và lên cao hơn được vì con chưa vững tin vào chương trình cứu độ của Chúa. Đã nhiều lần con đã để cho cái lợi trước mắt và lòng ngờ vực cản trở công việc Chúa làm nơi con.
Nhờ gương mẫu và lời chuyển cầu của Đức Mẹ, xin Chúa giúp con nhận ra những hồng ân kỳ diệu Chúa thực hiện trong đời con. Xin cho con vững tin vào Chúa, dám chìa tay ra để Chúa nắm lấy và dẫn đi theo con đường Chúa muốn. Amen.
Ghi nhớ: “Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ”.
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18). Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời:”Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể. Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa. Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.
Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã
Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu. Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
Kiểm điểm đời sống
1. Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời bạn không?
2. Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bạn có mong muốn điều này không?
3. Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có phải là một bước nhảy vọt không? Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính mình trên trần gian?
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.
1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng? Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn. Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.
Đức Maria đi thăm người chị họ Êlisabet. Chị em gặp nhau, tay bắt mặt mừng.
Bỗng chốc, như trong phút xuất thần, Đức Maria được Chúa Thánh Linh gợi hứng, liền cất tiếng ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đây cũng là tâm tình ngợi khen tạ ơn của toàn thể Giáo Hội và của cộng đoàn hành hương chúng ta hôm nay, khi cùng nhau cử hành phụng vụ Thánh lễ, mừng kính Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn cả xác.
a. Những lời cảm tạ ngợi ca đó nói lên tất cả tấm lòng của Đức Mẹ: đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người tôi tớ xin vâng, luôn luôn tán tụng tạ ơn Chúa và luôn luôn phó thác trong tay Chúa toàn năng và từ bi.
- Quyền năng và tình yêu Chúa đổ xuống tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn Chúa ngay từ giây phút đầu tiên tượng thai trong lòng bà thánh Anna: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
- Tình yêu và quyền năng Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi..., khiến cho lòng Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả... Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
- Quyền năng và tình yêu Chúa được thi thố một cách đặc biệt tận mức và toàn vẹn nhất trong giây phút Chúa đưa Mẹ về trời cả hồn cả xác.
b. Giờ đây trong giây phút lên trời, những lời ca ngợi bên thềm nhà bà Êlisabét mới được thực hiện một cách hoàn hảo trọn vẹn sung mãn nơi mình Mẹ, mới nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Chúa toàn năng và yêu thương.
- Tưởng không có lúc nào lòng Mẹ ngợi khen Chúa một cách say sưa nồng nàn cho bằng giây phút Chúa đưa Mẹ về trời hồn xác: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”. Mẹ được cứu chuộc toàn vẹn. Một mình Mẹ trong con cái loài người đã chiến thắng hoàn toàn ma quỷ và tội lỗi.
- Tưởng không có khi nào Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng cho bằng giây phút Mẹ lên trời.
- Tưởng không có lúc nào Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa cho bằng trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời.
2. Anh chị em thân mến,
a. Đức Mẹ đã đi trước chúng ta qua hết mọi nẻo đường đời của một người dân bình thường nghèo khó:
- nẻo đường đi về Bê-lem không nơi trú ngụ, và phải sinh con trong hang bò lừa;
- nẻo đường lánh cư sang Ai cập đầy tiếng khóc la của các bà mẹ, bởi hài nhi con mình vô tội bị giết;
- đường vào tiệc cưới Cana có tiếng vui cười của thực khách và đôi tân hôn;
- đường lên núi Calvariô, có tiếng nguyền rủa, tiếng roi xé thịt, tiếng búa đóng đinh của các lý hình;
- đường loan Tin mừng Chúa Phục Sinh và đường thẳng lên trời hồn xác trong tiếng reo vui của trời đất, của thần thánh, của loài người.
Đức Mẹ đã sống thánh giữa đời, đã nên thánh qua những chặng đường vui, sáng, thương, mừng.
b. Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng đang đi lại những chặng đường của Đức Mẹ: có cả vui, sáng, thương, mừng. Chúng ta lần hạt, tràng chuỗi nơi tay, miệng thầm thỉ, lòng kết hiệp với các mầu nhiệm vui mừng và đau thương cùng vinh quang của Đức Mẹ. Chúng ta cũng lần hạt một cách thiết thực nữa trong cuộc sống hằng ngày, mà tràng chuỗi và những hạt chuỗi giờ đây chính là những hạt mồ hôi, những giọt nước mắt, những khổ đau, những oan ức... và cũng chính là những tiếng vui cười, những tia hy vọng, những niềm hân hoan... Đó là tràng chuỗi sống, đi đôi với việc đọc kinh lần hạt của chúng ta.
3. Anh chị em thân mến,
a. Ngày lễ Mẹ lên trời hồn xác hôm nay đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao. Một người trong nhân loại chúng ta đã toàn thắng ma quỷ và tội lỗi: ma quỷ không thể khống chế được Mẹ Maria trong một giây phút nào hết, tội lỗi không thể để lại một dấu vết nào, một hậu quả tác hại nào trên mình Mẹ hết. Lời tiên báo từ ngàn xưa trong vườn địa đàng, khi Chúa tuyên án ma quỷ lấy hình con rắn cám dỗ, thì hôm nay đã được thực hiện một cách viên mãn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người phụ nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St. 3,15).
b. Cử hành mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác là tôn vinh sự thành công mỹ mãn của ơn thánh Chúa nơi Đức Mẹ, là tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho Mẹ ơn cứu độ sung mãn, nhờ được hưởng trước công phúc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Hình ảnh Mẹ lên trời hồn xác là một Tin mừng lớn lao, loan báo tương lai chung cục của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta rồi cũng sẽ được rực rỡ như vậy:
- nếu chúng ta biết sống như Mẹ,
- nếu chúng ta biết liên kết con đường làm người của chúng ta với những chặng đường mà Mẹ đã đi qua một cách tuyệt vời, trong đức tin, đức cậy và đức mến.
4. Anh chị em thân mến,
a. Một trưa mùa hè oi ả, những hành khách trên chiếc xe đò lặng lẽ nhìn ra con đường đơn điệu. Cái nóng nực và chuyến đi buồn tẻ hầu như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng kia, mọi người bỗng ra khỏi cái uể oải ngái ngủ, để đưa mắt nhìn về một phụ nữ trẻ bước lên xe. Chiếc xe từ từ lăn bánh. Người phụ nữ bắt đầu nói cười và đùa giỡn với đứa con thơ chị đang bồng trên tay. Khuôn mặt vui tươi của người phụ nữ và tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của hành khách trên xe. Trong phút chốc, một ngọn gió mát của hiếu kỳ, của liên đới, của tham dự và của sức sống đã đem lại bầu khí tươi mát cho mọi người. Hành khách như bừng tỉnh ra khỏi cơn gà gật ngái ngủ.
Rồi nơi nầy có người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia rộn lên tiếng cười rôm rả. Hành khách chuyện trò cười nói càng lúc càng vui vẻ hơn. Bây giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành lầm lì nữa.
Kính thưa cộng đoàn hành hương,
b. Trên chuyến xe cọc cạch và buồn tẻ của thế giới, một người nữ đã bước lên. Tình yêu và sự sống đã bừng dậy. Người nữ ấy chính là Mẹ Maria. Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đã vội vã lên đường, bước lên chiếc xe ì ạch của một thế giới rã rời, để biến nó thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa. Mẹ mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, và với Ngài, Mẹ đã biến đổi cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một lễ hội của gặp gỡ, của sẻ chia, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi sẽ kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt: đó là đến cùng Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật, là sự sống.
Nào, tất cả chúng ta hãy cùng Mẹ “vội vã lên đường”:
- con đường Tin, Cậy, Mến,
- con đường yêu thương và phục vụ,
- con đường vui mừng và hy vọng.
c. Bài ca nhập lễ hôm nay mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên Mẹ. Bài ca trích lại mấy lời trong sách Khải Huyền: “Có điềm lạ xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh. 12,1).
Dấu lạ vĩ đại nầy vẫn luôn chiếu sáng giữa trời đất và càng chiếu sáng hơn nữa trong những giờ phút đen tối đầy sóng gió bão táp của cuộc đời. Toàn thể Giáo Hội không ngừng ngước mắt nhìn lên dấu lạ nầy, vì đó là dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và là niềm an ủi lớn lao cho Dân Chúa đang bước đi trên đường lữ thứ trần gian (x. LG. 68).
Dấu lạ vĩ đại đó là Mẹ Maria khoan nhân dịu dàng, hằng luôn cầu bầu cho chúng ta trước Tòa Chúa, hằng làm cho chúng ta được sống, được vui và được đầy lòng trông cậy. Amen.
Trọng kính Đức Khâm sứ Tòa Thánh, Đức Hồng Y, Quý Đức Tổng, quý Đức Cha và toàn thể anh chị em.
Lại một lần nữa chúng ta có dịp mừng lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời tại linh địa La Vang đầy kỷ niệm êm đềm thánh thiêng này. Tâm hồn mỗi người chúng ta rộn lên niềm vui khi nghĩ rằng chúng ta may mắn được làm con của một người Mẹ vô tiền khoáng hậu, được kính trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
Chưa một ai đã được tạc tượng tạo ảnh nhiều như Đức Maria. Ở Âu châu, không một ngôi làng nhỏ bé nào không có hình tượng Mẹ; trên thế giới, không một thành phố nào không có nhà nguyện hay linh đài tôn vinh Mẹ.
Lời kinh được đọc nhiều nhất trên hành tinh, lời kinh chưa bao giờ ngừng nghỉ trong lịch sử Giáo Hội, lời kinh của hàng tỉ người công giáo, chính là lời chào bà Isave dành cho Mẹ: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ".
Bài ca được hát nhiều nhất không phải là một bản tình ca lừng danh thế giới, nhưng đáng ngạc nhiên lại là bài ca Magnificat, "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng" mà tác giả chính là Đức Maria. Mỗi lần một cộng đoàn Giáo Hội cử hành kinh chiều hay dâng lời ơn, bài ca mầu nhiệm ấy lại trổi lên du dương như một kiệt tác bất khả thay thế.
Đối với rất nhiều Kitô hữu Việt Nam, một ngày không có Kinh Kính Mừng không phải là một ngày đúng nghĩa, một ngày không có Kinh Lạy Nữ Vương là một ngày trơ vơ chênh vênh, một ngày không có Kinh Mân Côi là một ngày rời rạc không nhựa sống...Tắt một lời, ngày không có Đức Maria đồng hành không phải là ngày.
Cũng vì những tâm tình thuơng mến đó mà kể từ ngày Mẹ hiện ra an ủi tín hữu lâm nạn vào cuối thế kỷ 18, hàng hàng lớp lớp khách hành hương đã tuôn về đây mỗi lúc một đông. Họ đã kêu cầu Mẹ và Mẹ đã nhận lời. Những tấm bia tạ ơn dày đặc đàng kia phải chăng là bằng chứng tình Mẹ La Vang luôn dạt dào lai láng?
Rõ ràng là theo dòng thời gian, niềm tri ân Đức Mẹ La Vang, tình yêu mến Đức Mẹ La Vang, lòng cậy trông Đức Mẹ La Vang càng ngày càng thiết tha nồng nàn, càng ngày càng tràn trào dâng cao, không gì đủ hùng mạnh để ngăn cản, không gì đủ rộng rãi để chứa đựng.
Thật vậy, thuở ban đầu La Vang chỉ là vùng kỷ niệm của giáo dân trong khu vực giáo xứ Cổ vưu. Nhưng chẳng bao lâu sau, La Vang đã mau chóng trở thành điểm hành hương của Giáo Phận Huế, để rồi năm 1958, đã được chọn làm nơi tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, với sự hiện diện của Đức Hồng Y Agagianian, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo, được Đức Thánh Cha Gioan XXIII chính thức cử làm đặc sứ. Cũng chính vị Cha Chung hoàn vũ này, ngày 22.08.1961, đã nâng nhà thờ La Vang lên bậc "Tiểu Vương Cung Thánh Đường".
Nhiều đoàn hành hương nước ngoài đã đến La Vang, nhất là năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 200 Đức Mẹ hiện ra tại đây, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Hà Nội thay mặt ngài chủ sự thánh lễ.
Gần đây nhất, nhân dịp Năm Thánh 2010-2012 kỷ niệm 350 năm thành lập hai giáo phận Việt Nam đầu tiên, Đức Thánh Cha Beneđitô XVI đã cử Đức Hồng Y Ivan Dias, Tổng trưởng bộ Truyền Giáo làm đặc sứ của ngài để chủ sự lễ bế mạc ngay tại La Vang này.
Đó là bằng chứng cho thấy La Vang không còn là điểm hành hương của riêng Giáo Hội Việt Nam, nhưng đã được Giáo Hội toàn cầu công nhận và thăm viếng.
Vì thế mà trong lòng mỗi người tín hữu dân Việt, trong nước cũng như hải ngoại, lúc nào cũng cháy bỏng ước mơ sẽ có một nơi xứng đáng để tôn kính Mẹ. Giấc mơ lớn dần và đã chính thức trở thành quyết tâm của các đấng Bản quyền: trong cuộc họp thường niên tại Huế ngày 13.4.1961, các Giám Mục miền Nam đã khấn hứa khi hoàn cảnh thuận lợi, sẽ xây cất một Đền Thánh biệt kính Mẹ La Vang, rồi trong thư luân lưu tháng 8 cùng năm, đã long trọng công nhận La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu toàn quốc VN.
Giấc mơ đó hôm nay đang trở thành hiện thực qua nghi thức đặt viên đá đầu tiên.
Chỉ một viên đá đơn sơ nhưng ý nghĩa thật lớn lao. Lớn lao bởi vì nó kết tụ nguyện vọng của tất cả mọi thế hệ Kitô hữu Việt Nam. Lớn lao bởi vì tuy nhỏ bé, nó là biểu tượng tình hiệp thông rộng lớn của mọi thành phần Dân Chúa. Lớn lao bởi vì trên viên đá này chúng ta sẽ ghi lời khấn nguyện tha thiết nhất của Giáo Hội và dân tộc Việt Nam, của cộng đoàn và của từng tâm hồn chúng ta. Và lớn lao hơn nữa là tại nơi tôn nghiêm này, Mẹ chúng ta sẽ "tiến lên như rạng đông", sẽ "đẹp như mặt trăng", sẽ "rực rỡ như mặt trời", sẽ "oai hùng như đạo binh xếp hàng vào trận".
Có lẽ nhiều người tự hỏi: "Mẹ đã về trời sao còn có thể ở lại đây?"
Thật ra, chúng ta thường tưởng tượng cách sai lầm rằng khi lên trời, Mẹ di chuyển trong không gian từ thấp lên cao. Nhưng theo Thánh Kinh, "được đưa lên trời" chỉ có nghĩa là "được sống trong Chúa sau khi lìa đời". Cũng vì vậy mà khi công bố tín điều Đức Maria mông triệu, Đức Thánh Cha Piô XII đã tránh dùng hai chữ "lên trời". Ngài chỉ diễn tả cách đơn sơ rằng: "sau khi hoàn tất cuộc đời tại thế, Mẹ Thiên Chúa đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác, trong vinh quang vĩnh cửu..."
Lúc sinh thời tại thế, muốn thăm viếng ai Mẹ phải dùng đôi chân thể xác đi từ chỗ nọ đến chỗ kia. Nay được "đưa vào vinh quang", Mẹ không cần di chuyển nữa. Cùng một lúc, Mẹ có thể thăm viếng bất kỳ ai trong chúng ta, vì Mẹ cũng ở khắp mọi nơi như Chúa và với Chúa.
Rốt cuộc, đối với Kitô hữu, trời không phải là cõi cao xa vời vợi. Trời chính là sự hiện diện của Chúa và của Mẹ. Đặt viên đá đầu tiên xây dựng thánh đường dâng kính Mẹ, chúng ta cũng "đặt viên đá" cho sự hiện diện linh thiêng bền vững của Mẹ tại linh địa này và nơi thâm sâu cõi lòng chúng ta.
Năm xưa, "trong những ngày ấy, Mẹ đã vội vã lên đường..." Hôm nay, Mẹ cũng đon đả đến La Vang này, nơi con cái Việt Nam đang chờ đón Mẹ. Năm xưa, Mẹ "vào nhà Zacaria và chào bà Isave". Hôm nay, Mẹ cũng đến với từng cuộc đời, ân cần hỏi han hoàn cảnh từng người chúng ta. Năm xưa, khi được Mẹ thăm viếng, "Isave đã được tràn đầy Thánh Thần". Lời chào của Maria đã biến ngôi làng Ain Karem thành Lễ Hiện Xuống đầu tiên. Hôm nay, mỗi lần mở miệng chào "Kính mừng Maria đầy ân phúc", cùng với Mẹ, chúng ta cũng mở đường cho Thần Linh Chúa tiến vào Giáo Hội, tiến vào thế giới và tiến vào cõi lòng chúng ta.
Chính nhờ Mẹ đến thăm, tâm hồn Isave đã tràn ngập niềm vui khiến bà tự hỏi: "Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi."
Dấu chân thăm viếng của Mẹ đã để lại niềm vui dạt dào trong lòng Isave. Khi hiện ra với giáo hữu bị bách hại tại đây, Mẹ cũng tái tạo niềm tin của họ. Nếu cuộc truy lùng của quan quân triều đình đã biến La Vang thành khu rừng sợ hãi, Mẹ đã thăm viếng và đã biến nó thành cõi yên hàn an vui. Mẹ không hề trừng phạt quan quân đã gây khốn khó cho con cái Mẹ. Mẹ đến chỉ để cứu thoát họ khỏi cảnh truy bức hung tàn. Thông điệp phát đi từ La Vang là thông điệp của hòa bình và của trái tim Từ Mẫu.
Lịch sử của La Vang cũng giống như lịch sử của dân tộc VN. Đã bao lần đồng bào đồng hương con Lạc cháu Hồng vì chưa biết yêu thương nhau nên đã gây cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, biến đất nước thành một khu rừng chém giết sợ hãi.
Lạy Mẹ Maria,
Chúng con xin Mẹ hãy viếng thăm để cứu chúng con khỏi hận thù thương đau. Ước gì hôm nay, tại linh địa này, viên đá đầu tiên chúng con đặt xuống cũng là viên đá yêu thương, khởi đầu một tương lai yên ấm thuận hòa cho quê hương đất nước thân yêu chúng con. Amen.
Nghe qua những bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy phụng vụ dường như muốn hướng tâm hồn chúng ta về trời để thấy Ðức Mẹ đang ở trên đó qua bài sách Khải huyền; Người đang hân hoan ngợi khen Chúa qua bài Tin Mừng; và đặc biệt Người đang cảm mến ơn phúc hồn xác được ở trong vinh quang Thiên Chúa qua bài thư Phaolô. Nhưng nếu đọc kỹ lại, chúng ta có thể tự hỏi chưa chắc những bài Kinh Thánh kia đơn giản như vậy. Và biết đâu khi đó chúng ta sẽ thấy rằng Lời Chúa hôm nay nhắm vào chúng ta hơn Ðức Mẹ và dường như Chúa muốn gương sáng của cuộc đời Ðức Mẹ để giáo huấn và bổ dưỡng chúng ta trong cuộc đời dương thế. Chúng ta hãy thử tìm hiểu những bài đọc Kinh Thánh kia.
A. Bài Sách Khải Huyền
Thánh Yoan thấy Ðiện thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra. Và Khám Giao ước hiện ra trong Ðiện thờ của Người. Tức là người nhìn thấy thời đại cánh chung, thời đại Nước Trời, thời đại Thiên Chúa đến ở cùng nhân loại. Bởi vì theo tâm tư của người Do Thái thời bấy giờ, nói đúng hơn theo các sách Khải huyền thời thánh Yoan, người ta quan niệm đến thời gian sung mãn, Khám Giao ước sẽ lại hiện ra và lúc đó người ta có mạc khải toàn diện về giao ước, tức là về kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Thời gian sung mãn dĩ nhiên là thời đại cánh chung, nhưng cũng là thời đại Thiên sai, thời Ðức Kitô xuất hiện mạc khải toàn diện chương trình của Thiên Chúa cho loài người. Chúng ta đang sống trong thời đại đó. Thế nên hiện tượng hay dấu hiệu mà thánh Yoan sắp nhìn thấy hẳn cũng phải đang xảy ra ở trước mắt chúng ta.
Người thấy một dấu lạ vĩ đại hiện ra ở trên trời: một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng và đầu có triều thiên 12 ngôi sao. Chúng ta muốn đồng hóa Bà với Ðức Mẹ. Nhưng những điều thấy sau dường như không cho phép làm như thế. Vì "Bà đang thai nghén và kêu la đau đớn, quằn quại sinh con... Có một con rồng đứng chực trước mặt Bà, để Bà vừa sinh là nó nuốt con Bà... Nhưng con Bà đã được cất bổng lên nơi Thiên Chúa và Bà đã trốn vào sa mạc..."
Thú thật, chúng ta đã thấy khó hiểu rồi. Ðành rằng có thể giải thích: ở đây Yoan muốn nói đến việc Ðức Mẹ sinh Chúa Cứu thế. Nhưng lối giải thích này gặp nhiều khó khăn. Có nơi nào trong Kinh Thánh nói đến việc Ðức Mẹ sinh Chúa Yêsu mà phải đau đớn quằn quại đâu? Và cũng chẳng có nơi nào, nói rằng Ðức Yêsu đã tránh Satan như vậy. Ngược lại, Người phải đến để xua đuổi tà thần ra khỏi tâm trí và định mệnh loài người.
Ðàng khác, trong thư Phaolô có chỗ nói: người cưu mang phần rỗi các giáo dân của người và phải vất vả sinh họ ra trong đức tin. Ý tưởng ấy khuyến khích chúng ta thử nhìn người đàn bà trong đoạn Khải Huyền trên như là hình ảnh về Giáo hội. Giáo hội đang được Ơn Chúa bao bọc và có 12 chi họ, 12 Tông đồ tượng trưng bằng 12 ngôi sao. Giáo hội ở thời đại sung mãn này đang thai nghén đau đớn, quằn quại sinh ra các tín hữu... Ðàng trước Giáo hội và chung quanh Giáo hội, Satan luôn luôn quyện quanh để tìm mồi cắn xé. Nó rình nuốt con cái Giáo hội sinh ra. Nhưng chúng là con cái Chúa, là con cái trong Người Con Một của Thiên Chúa. Và Người Con này hiện đã được cất bổng lên nơi Thiên Chúa, lên ngai của Người. Và theo lời Thánh Kinh nói, những người con khác cũng đang được ở gần Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Còn người đàn bà kia, tức là Giáo hội đã trốn vào sa mạc, ở đó Thiên Chúa cung dưỡng bà 1,260 ngày. Con số này đã được nói tới ở đoạn trên cũng là 42 tháng và là ba năm rưỡi trời. Sách Ðaniel (7,25; 12,7) coi đó là thời gian bắt đạo thời Antiôkhô Epiphanê và vì thế nó trở thành biểu tượng thời kỳ cấm cách. Như vậy trong suốt thời kỳ bị bắt bớ và gặp khó khăn do Satan rảo quanh tìm mồi cắn xé, Giáo hội không lo sợ vì luôn được ơn Chúa phù trợ và dưỡng nuôi, cho đến ngày mọi sự nên trọn và quyền bính hoàn toàn thuộc về Ðức Kitô Chúa chúng ta.
Như thế bài sách Khải Huyền hướng chúng ta nhìn về Giáo hội. Giáo hội là Mẹ hằng sinh ra con cái Chúa trong đau thương vất vả. Giáo hội luôn bị rình chờ bắt bớ, nhưng đồng thời cả con lẫn mẹ luôn luôn được Chúa phù trợ.
Nhưng thường thường những gì nói về Giáo hội cũng có thể hiểu về Ðức Mẹ và về các linh hồn. Vì Ðức Mẹ là hình ảnh, là khuôn mẫu về Giáo hội. Hơn nữa Người cũng là Mẹ các tín hữu. Và rõ ràng Người phải đồng lao cộng tác với Chúa Cứu thế để sinh ra Giáo hội và các linh hồn. Ấy là chưa kể Ðức Mẹ cũng là một tín hữu, một "linh hồn". Và mỗi linh hồn cũng là người đàn bà trong đoạn Khải huyền trên. Linh hồn nào cũng phải cưu mang đức tin và đời sống ân sủng. Làm được một hành vi bác ái siêu nhiên, sinh ra được những hành động đức tin đẹp lòng Chúa, không phải là dễ. Người ta phải phấn đấu, chống lại Satan, thế gian và xác thịt. Người ta phải quằn quại trong cơn đau sinh nở như thánh Phaolô nói chung về thân phận toàn thể tạo vật hiện nay.
Suy nghĩ như vậy, bài sách Khải huyền đưa mắt chúng ta nhìn lên Ðức Mẹ trên trời thì ít, mà bảo chúng ta nhớ lại cuộc đời của Người ở trần gian thì nhiều. Mỗi lần sách Tin Mừng cho chúng ta thấy Người đứng bên Ðức Yêsu, chúng ta lại được chứng kiến Người như phải đau đớn đi vào con đường đức tin mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Và nhất là Người đã thật sự quằn quại khi trở thành Mẹ của Yoan ở dưới chân Thánh giá, để có thể nói hằng ngày Người phải đồng lao cộng tác với Ðức Kitô và Giáo hội để sinh ra con cái Chúa ở trần gian này. Chúng ta phải cảm phục Mẹ và biết ơn Mẹ. Hằng ngày chúng ta phải mượn lời bà Elisabet mà chào Mẹ đầy ơn phúc. Và lúc ấy chúng ta sẽ được Mẹ dạy dỗ thêm.
B. Bài Kinh Tôn Dương
Thánh Luca viết: "Và Maria nói: hồn tôi tôn dương Chúa và thần trí tôi nhảy mừng Thiên Chúa". Nhưng thật ra Người có nói như vậy không? Mạch văn và hoàn cảnh khó cho phép chúng ta tin rằng đây thật là những lời đã trào ra từ lòng Ðức Mẹ khi Người đứng trước mặt bà Elisabet. Vị trí bài kinh "Tôn dương" là một vị trí giả dối. Nó cắt đứt câu truyện thăm viếng khá lâu. Nó lại nặng chất Do thái và Cựu Ước, khiến chúng ta nghĩ nó ít hợp với tư tưởng và văn chương Hylạp của thánh Luca. Và hoàn cảnh lúc hai người bà con gặp nhau chưa hẳn đã thuận lợi đến nỗi làm thốt lên được những cảm tình tôn giáo điêu luyện đến như thế.
Và nếu phân tích kỹ, bài Kinh Tôn dương khác nào một tổng hợp các suy tư của bao bài Thánh vịnh và khôn ngoan. Nó là tiếng nói của một cộng đoàn hơn là của một cá nhân. Nó có tính cách khách quan hơn là chủ quan.
Chúng ta có thể thấy ba phần rõ rệt. Thoạt đầu linh hồn tôn dương Chúa vì Người đã đoái thương đến phận hèn, tôi tớ của mình (46-49). Và như vậy cũng là hợp với đường lối của Người xưa nay hằng nhân nghĩa với kẻ khiêm nhu kính sợ và đuổi về tay không những kẻ giàu sang (50-53). Thái độ nhân nghĩa quảng đại của Chúa tỏ ra rõ rệt nhất khi đáp cứu Israel tôi tớ Người, như đã hứa cùng Abraham và dòng dõi ông (54-55).
Chúng ta không thấy ám chỉ gì tới những ơn trọng đại Ðức Mẹ vừa được. Càng không nêu lên việc Chúa vừa viếng thăm lòng bà Elisabét. Tất cả khiến chúng ta phải kết luận: bài ca tôn dương mà chúng ta vẫn gọi là của Ðức Mẹ, thực ra không phải là của riêng Người và do một mình Người sáng tác ra. Nhưng đó là tâm tình của cả Giáo hội, trong đó có Ðức Maria. Ðó là bản kinh phụng vụ của cộng đoàn Do thái - Kitô giáo tiên khởi đã cảm hứng khi suy nghĩ về ơn Chúa cứu độ mình. Ðược hạnh phúc của ngày hôm nay, Giáo hội thấy mình là đối tượng của lòng Chúa thương yêu đã tuyển chọn mình hầu thừa tự mọi Lời Hứa xưa.
Ðức Mẹ ở trong Giáo hội, là biểu tượng của Giáo hội. Người sẽ chẳng trách thánh Luca đã đặt bản kinh Tôn dương trên môi miệng Người. Và chắc chắn Giáo hội phải cám ơn thánh nhân đã làm cho bản kinh của Dân Thiên Chúa được thêm giá trị khi được mô tả như đã từ lòng Ðức Mẹ thốt ra.
Còn chúng ta khi đọc kinh này, không những chúng ta nghĩ đến những tâm tình chân thật của Ðức Mẹ và của Giáo hội, mà chúng ta cũng phải sung sướng nhận lấy làm của mình. Vì thật sự ai có lòng đạo đức mà không thấy mình trong bản kinh ấy? Tất cả đời sống đạo đức của chúng ta không hoàn toàn là tác phẩm của Thiên Chúa hay sao? Sở dĩ chúng ta được như ngày nay là vì Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ, vì lòng nhân nghĩa của Người từ đời nọ đến đời kia, vì Người nhớ lại Lời Hứa cùng tổ phụ Abraham cho đến muôn đời. Và chúng ta sẽ càng đọc kinh này sốt sắng khi chúng ta càng ý thức đang mang trong mình ơn cứu độ cao cả như Ðức Maria xưa, khi Người được bà Elisabét nhắc đến quả có phúc trong lòng Người.
Như vậy, chúng ta càng quý kinh này hơn khi biết nó là tác phẩm của cả Giáo hội và đã được Ðức Mẹ mà cho thêm giá trị. Và cũng như Giáo hội ngày nay chỉ còn muốn diễn tả kinh này qua tâm tình của Ðức Mẹ, thì chúng ta cũng phải kết hợp với Ðức Mẹ mỗi khi đọc kinh này. Ðức Mẹ, Giáo hội và chúng ta gắn bó mật thiết với nhau như vậy, thế mà nhiều khi chúng ta không hay biết! Ðiều ấy đã đúng trong quá khứ và hiện tại thì cũng đúng trong tương lai như lời thư Phaolô hôm nay cho thấy.
C. Bài Thư Phaolô
Thánh Tông đồ không hiểu sao có người lại không tin sự phục sinh, tức là việc kẻ chết sau này sẽ sống lại. Như vậy thì sự chết hay tử thần sẽ không bao giờ bị giết sao? Mà nó là kết quả của tội lỗi, thì như vậy cũng không bị xóa bỏ hoàn toàn ư? Ơn cứu độ của Chúa Kitô mạnh mẽ như thế nào? Chỉ cần suy nghĩ một tý là đã thấy rõ vấn đề. Không, sự chết cũng sẽ bị hủy diệt. Thế nên lời cuối cùng trong thư hôm nay nói rằng: "Ðịch thù sau hết sẽ bị hủy ra không là sự chết".
Nhưng để đi đến chân lý này, thánh Phaolô không lý luận suông. Người căn cứ vào sự kiện trong lịch sử cứu độ. Người nhắc lại việc Ðức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Và Người đã không sống lại cho mình, nhưng với tư cách là tiên thường giữa các vong linh, hay như hoa quả đầu mùa của toàn thể nhân loại. Bởi vì chúng ta không bao giờ được quên Ðức Kitô là Ðầu của một thân thể, khác nào như Ađam là đầu của nhân loại. Nếu do tự Ađam sự chết đã lọt vào thế gian thì lẽ nào sự sống lại ở nơi Ðức Kitô lại không tràn đến tất cả nhân loại? Thế nên ai theo thứ tự nấy sẽ sống lại sau Ðức Kitô.
Ðàng khác, Thiên Chúa đã thề hứa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài. Mà sự chết là kẻ thù cuối cùng của nhân loại. Sự chết cũng sẽ bị hủy diệt dưới chân Ðức Kitô để sự sống của Thiên Chúa sẽ ở trong tất cả.
Chúng ta không cần dài dòng diễn tả mầu nhiệm xác thịt sống lại. Chúng ta đã tin vững vàng rồi. Ở đây và hôm nay phụng vụ muốn chúng ta để ý đến một câu trong thư này: ai nấy cũng sẽ theo thứ tự của mình mà sống lại sau Ðức Kitô. Nhưng thứ tự nào, nếu không phải là như lời thư Phaolô, thứ tự thuộc gần hơn về Ðức Kitô? Thế mà ai gần Ðức Kitô hơn Ðức Mẹ? Do đó, tin hồn xác Ðức Mẹ ngày nay đang ở trên trời là khẳng định niềm tin xác thịt chúng ta sau này sẽ sống lại. Và thấy ngày nay Người đã được như thế, thì chúng ta phấn khởi chắc chắn sẽ đến lượt mình.
Và cho được như vậy phải đến gần Chúa Yêsu như Ðức Mẹ, phải chấp nhận phấn đấu để cưu mang đức tin và sinh ra hoa quả các việc lành như người đàn bà trong sách Khải huyền; phải bắt chước Giáo hội luôn sống tôn dương Thiên Chúa đã thương đến phận hèn của mình và ban cho mình tràn trề ơn cứu độ. Nói tóm phải bắt chước Ðức Mẹ trong đời sống phấn đấu, cầu nguyện và cậy trông để luôn luôn được gần Chúa Kitô. Giờ đây Người đến gần chúng ta trong Thánh Thể để ở với chúng ta trong đời sống hầu đưa chúng ta sau này sống lại. Chúng ta hãy có tâm tình của Ðức Mẹ để gần Người ở trần gian hầu được gần Người ở trên trời.
Trong ba bài học Kinh Thánh hôm nay, bài sách Khải Huyền và bài Tin Mừng như trực tiếp muốn nói với chúng ta về Ðức Mẹ. Còn bài thư Phaolô gợi lên niềm hy vọng của chúng ta cũng sẽ được sống lại để lên trời cả hồn và xác như Ðức Mẹ. Xét theo thời gian chúng ta hãy đọc bài Tin Mừng trước và bài Khải Huyền sau.
Bài Tin Mừng đưa chúng ta nhìn lại một chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của Ðức Mẹ ở trần gian. Còn bài Khải Huyền mở cho chúng ta thấy một quang cảnh ở trên trời với hình một người phụ nữ rất đặc biệt. Chúng ta sẽ phải hỏi người phụ nữ đó là ai? Và áp dụng vào Ðức Mẹ thì hình ảnh ấy nói lên sự kiện nào trong đời sống của Người? Nhưng trước hết chúng ta hãy chiêm ngưỡng Người trong câu chuyện Người đến thăm Elisabeth.
1. Người Diễm Phúc
Ðức Maria vừa được thiên thần truyền tin... Người thật vui như lời thiên thần đã chào Người. Ðó là niềm vui to lớn mà càng suy Người càng thấy không thể tưởng tượng được. Bên tai Người còn văng vẳng lời thiên thần: "Thánh Thần sẽ đến trên Người, và quyền năng Ðấng Tối Cao trên Người rợp bóng; bởi thế mà trẻ sắp sinh được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Những lời ấy nói lên những việc phi thường và trọng đại... Lòng Người đang cưu mang những điều ấy. Không niềm vui nào to lớn hơn. Ðó là niềm vui dân Chúa đón chờ từ đời các tổ phụ. Ðức Maria càng nghĩ, đôi chân Người càng đon đả đi lên miền sơn cước, hướng về thành của Elisabeth, là một người trong hàng thân thích đã già nua son sẻ mà thiên thần lại bảo là mới thụ thai. Ðây cũng là việc lạ Chúa làm mà Người đã mạc khải cho Maria. Người thấy ngay tiếng gọi phải đi thăm Elisabeth vì sự việc xảy đến cho bà hẳn có liên hệ đến ơn mầu nhiệm chính Người đã mang đầy trong lòng.
Vậy Người đã chỗi dậy lên đường không trì hoãn. Niềm vui to lớn trong lòng làm Người quên mọi nhọc nhằn nguy hiểm của "thân gái dặm trường". Người đã vào nhà Elisabeth và chào người bà con. Lập tức bà này thấy rộn ràng trong lòng và được đầy Thánh Linh... Bà thấy rõ ơn Chúa đến với mình, nói đúng hơn, với hài nhi trong lòng mình. Và ơn Chúa đến từ lòng người trinh nữ trước đây là bà con với mình nhưng bây giờ đã trở thành khí cụ của Thiên Chúa. Elisabeth liền chào lại Maria với những lời mà ngày nay trên khắp thế gian ngày nào con cái Hội Thánh cũng không ngừng dâng lên Ðức Mẹ trên trời: Chào Bà có phúc hơn mọi người nữ. Và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.
Niềm vui to lớn Maria mang trong mình bây giờ người ta đã biết và trở thành công khai. Người thấy ngay bổn phận phải công khai nói lên lòng biết ơn vô vàn đối với Chúa. Do đó Người đã bắt đầu kinh "tôn dương" Chúa.
Những ai biết Kinh Thánh và hiểu đường lối cứu độ đều thấy ngay những lời Ðức Maria thốt ra đã làm vọng lại cả một bầu trời Cựu Ước. Ðó là tiếng nói của dân trông đợi ơn cứu thế phải phát biểu khi ý thức ơn đó đã đến cho mình. Ðó là tâm tình của hết thảy mọi người khi thấy mình được cứu độ theo như đường lối của Thiên Chúa. Chính vì vậy có thể nói Ðức Maria đã nói thay cho dân cũ; Người đã phát biểu đại diện cho dân mới. Lời kinh của Người là mẫu mực để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì công trình cứu độ của Người. Do đó, Hội Thánh thật có lý khi hát ca vãn của Ðức Mẹ vào giờ kinh chiều, giờ nhìn lại ơn cứu độ của Thiên Chúa đã diễn ra trong ngày và trong lịch sử.
Như vậy chúng ta có đáng giá quá cao lời kinh "tôn dương" của Ðức Maria không? Thiết tưởng công lao của tác giả Luca thật là nhiều. Người đã có công ghi lại tâm tình của Ðức Mẹ và mặc cho nó hình thức hiện nay. Người cho ta thấy tâm hồn của Ðức Maria trước hết là đang "nhảy mừng" vì ơn Chúa cứu độ. Từ ngữ "nhảy mừng" gợi lên cả một truyền thống Kinh Thánh mỗi khi muốn diễn tả lòng hân hoan cảm mến trước hành động cứu dân kỳ diệu của Thiên Chúa. Ở đây hành động cứu thế oai phong này lại xảy ra nơi thân phận mọn hèn tớ nữ của Người, ám chỉ quả có phúc nơi cung lòng trinh nữ Maria.
Ðúng như lời Elisabeth đã nói: Maria thật diễm phúc; nhưng không phải chỉ hơn hết mọi người nữ, mà hơn tất cả mọi người khiến mọi đời sẽ khen Maria có phúc. Ý thức ấy khiến Người phải ngợi khen Thiên Chúa.
Người biết nói gì, nếu không trở đi trở lại hai đề tài sau đây: một đàng ca tụng Chúa thật thánh thiện, uy quyền, nhân nghĩa; và đàng khác thấy mình thân phận mọn hèn tớ nữ bất xứng với ơn cao cả Chúa ban? Giao đi giao lại hai đề tài ấy, Ðức Maria không ngờ đã viết lại những nét chính yếu của lịch sử ơn Cứu độ. Bài ca của Người đã nói lên phong cách của Chúa trong tất cả lịch sử này. Nó diễn tả đường lối cứu độ, và có thể nói, chính bản chất của ơn này.
Cứu độ, theo kinh tôn dương, là những điều cao cả mà Ðấng quyền năng làm. Ngài làm chỉ vì Danh Ngài là thánh; và vì lòng nhân nghĩa của Người đặc biệt đối với nhà Israel. Cách thức Người thi hành tựu trung là một cuộc phân xử: Một bên hạ kẻ kiêu căng, quyền thế, giàu sang và bên kia nâng cao người kính sợ khiêm nhượng và đói khổ.
Ðức Maria thực ra đã chỉ muốn đi từ kinh nghiệm riêng của mình. Thế mà cụ thể kinh nghiệm ấy bây giờ chính là quả có phúc Người đang mang trong lòng. Thành ra khi mô tả kinh nghiệm riêng Người đã diễn tả ơn cứu độ và ơn này chỉ có Một từ đời nọ đến đời kia; nên bài ca của Ðức Mẹ trở thành lời phát biểu của mọi thế hệ về lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa. Người đã nói thay cho cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Người đã nói thay cho chúng ta; tức là chúng ta luôn phải mượn lời ca của Người mà ngợi khen ơn cứu thế.
Tuy nhiên có thể nói đây mới chỉ là tiếng hát đầu tiên của Ðức Mẹ khi cưu mang Người con đầu lòng. Sẽ có một lúc khác, Người được lãnh nhận thêm thiên chức làm mẹ loài người. Lúc ấy tiếng hát của Người có một âm điệu đặc biệt mà dường như bài sách Khải Huyền hôm nay còn làm vọng lại.
2. Người Ðau Ðớn
Như mọi ánh văn chương Khải Huyền, đoạn văn này không dễ hiểu tức khắc. Và nhất là đừng giải thích theo nghĩa đen. Câu đầu tiên nói: Ðiện thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra và khám giao ước hiện ra trong điện ấy. Ðiều này chỉ có nghĩa là tác giả được xem thấy mầu nhiệm trên trời. Và đây không phải chỉ là một mầu nhiệm nhưng là tất cả kế hoạch thâm sâu của Thiên Chúa. Vì chúng ta biết Môsê đã được lệnh xây điện thờ Chúa ở dưới đất theo khuôn mẫu đã được thấy ở trên trời. Và trong đền thờ dưới đất, khám giao ước được đặt trong nơi cực thánh không ai được vào trừ vị Thượng tế mỗi năm một lần. Nay nói rằng điện thờ trên trời đã mở và khám giao ước hiện ra, thì chúng ta phải hiểu Thiên Chúa sắp cho tôi tớ của Người xem thấy tất cả mầu nhiệm về giao ước. Ðó là một mạc khải toàn diện.
Vậy tác giả sách Khải Huyền đã thấy gì? Những câu sau viết về một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng, đầu có triều thiên mười hai sao; bà đang thai nghén, kêu la đau đớn, quằn quại sinh con. Chắc chắn những nét tả về mặt trời, mặt trăng và mười hai sao có thể khiến ta nghĩ về Ðức Mẹ trong vinh quang trên trời... Nhưng ý tưởng về sự đau đớn sinh con khó có thể hiểu ngay về Ðức Mẹ. Thật ra, ở đây Gioan trực tiếp muốn nói đến Hội Thánh mang mười hai sao trên đầu tức là có mười hai chi họ dân cũ, hay là có tất cả dân mới thuộc mười hai vị tông đồ. Hội Thánh có sự thánh thiện như được bao bọc trong ánh mặt trời; và Hội Thánh có vinh dự như đứng trên mặt trăng. Bản chất của Hội Thánh như vậy nhưng hiện tượng về Hội Thánh thì khác.
Bề ngoài Hội Thánh đang bị bắt bớ nên khác nào một bà đang thai nghén, kêu la, quằn quại. Hội Thánh được người con nào, Satan cũng rình bắt. Nhưng Chúa luôn gìn giữ cả Mẹ và Con trong thời gian 1,260 ngày, tức là trong thời gian bắt đạo vì người Do Thái coi cơn bắt đạo thời Antiochus Epiphane dài ba năm rưỡi là tiêu biểu cho mọi cơn bắt đạo, nhất là vào thời cánh chung.
Do đó bài sách Khải Huyền hôm nay trực tiếp nói về Hội Thánh để khuyến khích tín hữu trong lúc khó khăn. Nhưng áp dụng cho Ðức Mẹ, bài sách cũng rất thích hợp vì hầu hết những gì nói về Hội Thánh cũng hợp cho Ðức Mẹ; và ngược lại cũng vậy. Xét theo nhiều khía cạnh, Ðức Mẹ là hình ảnh và gương mẫu của Hội Thánh mặc dù xét theo một vài khía cạnh khác, Ðức Mẹ lại là con và là một phần tử của Hội Thánh. Vậy, áp dụng đoạn sách Khải Huyền hôm nay vào Ðức Mẹ, chúng ta thấy hình ảnh về Hội Thánh trong cơn đau sinh con cũng có lần lóe ra trong cuộc đời của Ðức Mẹ. Hôm ấy Người đứng dưới chân thánh giá trái tim như bị đâm thâu. Và đang cơn đau đớn ấy, Người được Chúa Giêsu trao cho trách nhiệm làm mẹ của Gioan, tức là của loài người. Ðức Maria trở thành Mẹ các tín hữu trong cơn đau đớn của mầu nhiệm thánh giá. Cơn đau sinh nở này, Người đã chịu từ ngày mật thiết kết hợp với Ðức Kitô; và khi Ðức Kitô khai sinh Hội Thánh trong mầu nhiệm tử nạn thì Ðức Maria trở thành Mẹ của chúng ta.
Do đó hôm nay phụng vụ đọc cho chúng ta nghe hai bài Kinh Thánh về Ðức Mẹ, nói về hai lần làm mẹ của Người; một lần cưu mang Chúa Giêsu và một lần sinh ra các tín hữu. Cưu mang Chúa thì vui và là năm mầu nhiệm đầu tiên chúng ta khi lần hạt; sinh ra tín hữu thì đau đớn và là năm mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi tiếp theo. Chúng ta có thể nghĩ bài đọc thứ ba hẳn sẽ nói về năm sự mừng và đưa chúng ta vào hy vọng sẽ được lên trời với Ðức Mẹ. Chúng ta thử xem có thể cắt nghĩa như vậy không?
3. Người Lên Trời
Quả thật, như năm sự mừng trong chuỗi Mân Côi bắt đầu với Mầu nhiệm Chúa Giêsu sống lại thì bài thánh thư hôm nay cũng khẳng định điều ấy trước hết. Và vì Người là Adong mới trong mầu nhiệm Phục sinh, nên sự sống lại ở nơi Người trở thành mầm mống sự phục sinh sau này của những ai kết hiệp với Người. Ðiều này tuy là mầu nhiệm, nhưng cũng có thể hiểu được. Bởi vì nếu mọi người đã liên đới với Adong, thì hết thảy cũng đồng phận với Adong mới. Adong cũ vì lỗi phạm đã đưa mọi người vào vòng tội và sự chết, thì Adong mới nhờ lễ đền tội, cũng đem hết thảy chúng ta vào sự thánh thiện và sự sống lại. Chỉ có một điều khác, là chúng ta tự nhiên đã liên đới với Adong cũ vì huyết nhục; còn muốn liên đới với Chúa Kitô là Adong mới, người ta phải có tinh thần muốn kết hợp với Chúa Kitô. Nhưng chắc chắn ai đã kết hiệp với Chúa Kitô thì sẽ đồng phận với Người vì Thiên Chúa đã muốn như thế; và ý muốn của Thiên Chúa luôn có hiệu lực. Và riêng trong trường hợp này, nếu không chúng ta sẽ khó hiểu được sự liên đới với Adong cũ. Người ta phải nhìn đích điểm để hiểu khởi nguyên; nhìn vào ơn cứu độ để hiểu mầu nhiệm tội lỗi; nhìn vào Adong mới để hiểu Adong cũ; như khi nhìn vào mặt thật để hiểu mặt trái của sự vật và sự việc.
Vậy Chúa Kitô đã sống lại chỉ là "tiên thường" và là đầu đi trước để cả thân thể đi sau. Tác giả thư Côrintô nói rõ: tiên thường là Ðức Kitô, rồi đến các kẻ thuộc về Người, ai theo thứ tự nấy, sẽ được tái sinh. Và áp dụng lời này, Hội Thánh cho đến nay chỉ công nhận sau Ðức Kitô mới có Ðức Maria được lên trời hồn xác. Không phải chỉ vì Ðức Mẹ hồn xác vẹn tuyền đã mật thiết kết hiệp với Ðức Kitô trong mọi sự, nhưng còn vì Ðức Mẹ là hình ảnh và tiêu biểu cho Hội Thánh. Dù sao xác thánh phục sinh của Chúa Kitô cũng gợi lên hình ảnh thân thể của Người là Hội Thánh gồm tất cả những ai được cứu độ. Thế nên thánh Phaolô ở chỗ khác đã viết: Sự sống của chúng ta hiện nay đã được tiềm ẩn với Ðức Kitô ở trên trời. Mầu nhiệm Ðức Mẹ hồn xác lên trời làm cho những điều trên đây trở nên cụ thể. Và chúng ta được thêm vững vàng trong niềm tin xác thịt chúng ta sẽ sống lại và Hội Thánh của chúng ta sẽ được vinh quang trên trời.
Như vậy ngày lễ hôm nay đem vui mừng phấn khởi đến cho chúng ta. Mọi người thêm tin tưởng. Hình ảnh Ðức Mẹ hồn xác lên trời thu hút chúng ta. Và cho được lên cao như Ðức Mẹ, chúng ta phải đi qua con đường vui buồn Người đã đi.
Người đã vui khi đón nhận ơn cứu độ, nhưng đã đau khi muốn cứu thế với Ðức Kitô Con Người. Chúng ta hãy bắt chước Người tán dương Chúa đã đoái thương số phận hèn chúng ta mà ban cho chúng ta được mang Ðức Giêsu trong mình. Không những chúng ta được mang danh Kitô hữu nhưng nhất là được mang chính sự sống ân sủng của Người. Có kho tàng quí hóa ấy trên đường đời dĩ nhiên đã phải phấn đấu vất vả với Satan muốn cướp giựt, khác nào Ðức Mẹ cũng đã phải đi trên đàng thánh giá. Nhưng lúc đau đớn nhất là khi phải quằn quại sinh Ðức Giêsu nơi người khác, làm ra các Kitô hữu mới, trở thành mẹ thiêng liêng của các linh hồn. Thế mà ơn gọi của hết thảy chúng ta phải như vậy. Chúng ta phải đem ơn cứu độ đến mọi nơi. Những hy sinh khó nhọc của chúng ta trong tương quan với người khác có giá trị cứu thế. Chúng ta phải can đảm, quảng đại, để như Ðức Mẹ làm cho mọi người sau này được phục sinh và lên trời.
Chúng ta hãy có tâm tình như vậy khi tham dự thánh lễ này. Chúng ta có thể hình dung Ðức Mẹ đứng dưới chân thánh giá. Nhưng lập tức hình ảnh ấy có thể biến ngay sang hình ảnh một bà già có mặt trời bao quanh, chân đạp mặt trăng và có triều thiên 12 sao. Ðó là Ðức Mẹ trên trời... Nhưng đó đúng ra là Hội Thánh và chúng ta sau này. Chúng ta hãy cố gắng lên trời như Ðức Mẹ và để ở với Ðức Mẹ.
Khi đọc kinh Mân Côi, chúng ta suy ngắm mầu nhiệm thứ bốn của Mùa mừng: “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời; ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ”. Như thế, nhắc đến sự kiện Đức Mẹ được cất về trời là nhắc đến việc Đức Mẹ kết thúc cuộc đời trần thế một cách thánh thiện, trong sự trung tín với Chúa, đồng thời là lời nhắc bảo chúng ta hãy sống tốt lành để chết thánh thiện trong tay Đức Mẹ. Các tín hữu từ thuở Giáo Hội sơ khai vẫn tin rằng thân xác Đức Mẹ không hề hư nát trong huyệt mộ. Bởi lẽ thân xác ấy đã được chọn là ngai tòa cho Đấng Cứu thế. Hơn nữa, Đức Mẹ đã được Chúa yêu thương gìn giữ để khỏi vương tội tổ tông. Nhưng phải đợi 19 thế kỷ sau, điều các tín hữu vẫn tin này mới được chính thức định tín. Ngày 1-11-1950, Đức Giáo Hoàng Piô thứ XII long trọng tuyên bố tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma: “Chúng tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”.
Trong lời tuyên tín long trọng trên đây, Đức Giáo Hoàng đã nhắc tới cả 4 đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ, tức là ơn vô nhiễm nguyên tội; ơn trọn đời đồng trinh, ơn làm Mẹ Thiên Chúa và ơn được về trời cả hồn và xác. Lời tuyên tín cũng nhấn mạnh đến khái niệm “cả hồn lẫn xác” để cho thấy việc Đức Mẹ được Chúa đưa về trời khác với việc các thánh được hưởng phúc thiên đàng. Bởi lẽ các thánh hay những người công chính, sau khi chấm dứt cuộc đời này thì thân xác bị hư nát trong lòng đất. Thỉnh thoảng ta thấy một số vị thánh sau nhiều chục năm an táng mà thân xác vẫn còn nguyên vẹn, nhưng thân xác ấy vẫn tồn tại trong huyệt mộ mà không được về trời. Việc khẳng định rõ “cả hồn lẫn xác” nhằm diễn tả đó là một ơn ban đặc biệt, vì theo Giáo lý Công giáo, chỉ mình Chúa Giêsu được lên trời kèm theo một thân xác trần thế, vì màu nhiệm nhập thể đã gắn liền thần tính với nhân tính nơi Đức Giêsu. Như thế, sau Chúa Giêsu, chỉ có Đức Mẹ được tiến vào vinh quang trong tình trạng có cả xác và hồn.
Lời Chúa trong ngày lễ Đức Mẹ lên trời diễn tả vai trò của Mẹ trong công cuộc cứu độ và vẻ đẹp mà Thiên Chúa trang điểm cho Mẹ. Phụng vụ thánh lễ Vọng của chiều ngày 14-8, nhắc lại việc di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ôvết Êđôm về Giêrusalem (Bài I) và lời khen ngợi của Chúa Giê-su dành cho ai “lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Tin Mừng). Khi đọc đoạn sách trích trong cuốn Sử biên niên, chúng ta liên hệ với lời tuyên xưng trong Kinh Cầu Đức Bà: “Đức Bà là Hòm Bia Thiên Chúa vậy”. Hòm Bia trong Cựu Ước chứa đựng mười Điều Răn của Thiên Chúa, một chút Manna và cây gậy nở hoa của Ông Aaron. Đức Mẹ là Hòm Bia vì đã cưu mang Lời Chúa đã thành xác thịt và thành của ăn nuôi dưỡng muôn người. Vì thế, lời ca tụng của Chúa Giêsu như muốn nhắc những người hiện diện: “Đức Maria – người phụ nữ đã cưu mang và sinh hạ Chúa – rất vinh dự vì cưu mang Đấng Cứu Thế, nhưng còn vinh dự hơn vì Mẹ luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc đời.
Phụng vụ trong thánh lễ chính ngày giới thiệu vẻ đẹp của Đức Mẹ. Người phụ nữ được diễn tả trong sách Khải Huyền là hình ảnh Đức Maria. Mẹ được trang điểm bằng mặt trời, mặt trăng và muôn vì tinh tú. Mẹ được giới thiệu như Nữ Vương trời đất để cùng với Đức Giê-su cai trị vũ trụ. Bài ca tạ ơn mà Đức Mẹ cất lên như một lời tôn vinh quyền năng của Chúa, đồng thời cảm tạ tình thương của Ngài dành cho cả nhân loại. Đức Maria đã đại diện cho cả loài người để tạ ơn Chúa, đồng thời tuyên bố thời đại mới đã đến. Đó là thời của ân sủng và tình yêu thương. Đây cũng là thời mà Chúa thực hiện lời hứa đối với ông Abraham và hậu duệ của ông, tức là những ai tin tưởng và cậy trông nơi lòng từ bi của Chúa.
Đức Mẹ đã sống một cuộc đời thật đẹp. Trước hết, đó là ơn của Chúa, nhưng cũng là sự cộng tác của Mẹ. Trong muôn vàn phụ nữ, Chúa đã tuyển chọn Mẹ, một thiếu nữ đơn sơ và thánh thiện. Chúa đã mời gọi Mẹ cộng tác với Chúa để làm cho chương trình cứu độ được thực hiện. Lễ Đức Mẹ lên trời đem đến cho các tín hữu niềm hy vọng vào hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giê-su đã lên trời để mở cánh cửa Nước Trời cho chúng ta. Đức Mẹ đã lên trời để khẳng định với chúng ta rằng, con người trần thế cũng có thể bước vào cánh cửa mà Chúa Giê-su đã mở, nếu biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Việc chiêm ngắm Đức Mẹ lên trời “cả hồn lẫn xác” cũng nhắc nhở chúng ta phẩm giá của thân xác con người. Thiên Chúa cứu chuộc con người trọn vẹn, cả hồn và xác. Sau này, Thánh Phaolô khẳng định, thân xác là đền thờ Chúa Thánh Thần. Vì thế, mọi xúc phạm đến thân xác con người cũng là xúc phạm Đấng Tối cao.
Các nghệ nhân thường trình bày Đức Mẹ lên trời bằng những pho tượng hay hình ảnh Đức Mẹ có đông đảo thiên thần vây xung quanh trong làn mây trắng cuồn cuộn, như một cuộc cung nghinh long trọng từ đất lên trời. Hôm nay mừng lễ Đức Mẹ, mỗi tín hữu chúng ta cũng như đang tham dự vào đoàn rước ấy, và chúng ta thầm cầu mong, xin cho chúng ta khi kết thúc cõi đời, được an bình thanh thản. “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời; ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ”. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Ước gì những lời kinh đơn sơ ấy luôn được nhắc lại trong trái tim và môi miệng của mỗi người chúng ta. Amen.
Tên gọi của ngày lễ hôm nay nói lên một ân huệ rất đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Đức Mẹ được về trời, không chỉ có phần linh hồn, nhưng cả thân xác nhân loại của Mẹ cũng được về trời. Điều đó có nghĩa là một con người trọn vẹn được cứu chuộc và tôn vinh. Ơn cứu chuộc nhờ công nghiệp của Đức Giêsu là ơn cứu chuộc dành cho con người toàn diện. Chúng ta hãy đọc lại tín điều được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tuyên bố ngày 01-11-1950: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”. Thiên Chúa muốn cứu với con người cả hồn và xác. Đạo Chúa không chỉ chú ý tới phần hồn mà quên phần xác; không chỉ chú trọng tới tương lai mà quên hiện tại; không chỉ nhấn mạnh tới sự sống linh thiêng mà quên cuộc sống trần gian.
Ơn cứu độ cũng không chỉ dành riêng cho con người, mà còn dành cho cả vũ tru. Hình ảnh người phụ nữ được diễn tả trong sách Khải Huyền cho thấy Đức Maria là một người phụ nữ vũ trụ. Tác giả say sưa chiêm ngắm một người Phụ nữ kỳ lạ”mình mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”. Giáo Hội Công giáo đã nhận ra chính là hình ảnh của Đức Maria, người Phụ nữ đã cộng tác với Thiên Chúa để sáng tạo một dân tộc mới trong Đức Giêsu Kitô. 12 ngôi sao tượng trưng cho 12 chi tộc của Israel mới, được tái tạo nhờ sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Như thế, cùng với Mẹ, cả một vũ trụ được canh tân tỏa sáng, đem lại niềm hân hoan cho những ai thuộc về Đức Giêsu. Mẹ Maria, một tín hữu suốt đời khiêm cung và tuân phục thánh ý Chúa, thì nay chính Chúa đã dùng cả vũ trụ mà trang điểm cho Mẹ. Mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú… đó là những vị thần linh đối với một số tín ngưỡng bình dân, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, những gì mà nhiều người coi là thần linh nay chỉ là đồ trang sức của Mẹ.
Đức Mẹ đã làm gì để có thể được tôn vinh như vậy? thưa, Mẹ đã cộng tác với công trình cứu chuộc của Chúa; Mẹ đã miệt mài loan báo tình thương của Ngài. Thánh Luca kể với chúng ta về một cuộc “lên đường” của Mẹ. Mẹ lên đường sau khi nhận lãnh sứ điệp từ trời. Mẹ lên đường cách vội vã để kể lại cho gia đình người chị họ là Bà Isave biết những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Có thể nói, suốt cuộc đời của Mẹ là một cuộc “lên đường”, luôn sẵn sàng và chu đáo, không so đo tính toán. Bài ca tôn vinh mà Mẹ cảm hứng cất lên tại nhà Bà Isave chính là điều Mẹ vẫn tâm niệm. Mẹ đã hòa cuộc đời mình vào niềm mong đợi của Israel. Mẹ đã cùng với cả dân tộc vui mừng trước biến cố Ngôi Lời nhập thể. Đây không còn là một biến cố chỉ dành riêng cho Mẹ, nhưng dành cho cả nhân loại, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa được gửi đến cho mọi người và mọi tạo vật. Chính từ thái độ sẵn sàng lên đường của Đức Mẹ, mà hôm nay, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài mà mời Mẹ tham dự một cuộc “lên đường” khác: Mẹ tiến vào thiên quốc trong tiếng reo vui của các thiên thần, cùng với cả nhân loại tung hô, với cả vũ trụ làm đồ trang sức.
Tuy vậy, cuộc đời của Mẹ không phải lúc nào cũng được êm ả an bình. Hình ảnh người Phụ nữ trong sách Khải Huyền bị Con Mãng Xà đe dọa và khủng bố cho ta thấy một Đức Maria phải đối diện với những thử thách, nhưng Mẹ luôn kiên vững và phó thác, ngay cả giờ phút thương đau dưới chân thập giá. Vâng, đó cũng là hình ảnh cuộc đời mỗi tín hữu chúng ta, cần phải noi gương Mẹ mà vươn lên mỗi ngày để trung tín với Chúa trong ơn gọi nên thánh.
Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Bởi lẽ Đức Mẹ là thành phần nhân loại. Mẹ là một con người, mang nơi mình một thân xác như chúng ta, sống giữa cuộc đời trần thế như chúng ta, mà Mẹ đã được thưởng công và tôn vinh. Nếu chúng ta cố gắng sống như Mẹ, yêu mến và vâng phục như Mẹ, chúng ta cũng được về trời để cùng với Mẹ, với các thánh và toàn thể tạo vật tôn vinh Thiên Chúa.
Ngày lễ này cũng mời gọi chúng ta hãy yêu mến Giáo Hội vì mỗi chúng ta là thành phần, yêu mến cuộc sống hôm nay cùng với vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp, vì muôn tạo vật sẽ được cứu thoát cùng với chúng ta, trong bài ca ngợi bất tận để tôn vinh Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Các bài đọc của Lễ hôm nay cho thấy những ơn phúc mà Chúa đã ban cho Đức Mẹ:
- Bài đọc I trích sách Khải Huyền mô tả những nét huy hoàng của Đức Mẹ: “Một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
- Bài đọc II trích thư 1 Côrintô ám chỉ Đức Mẹ là người đầu tiên được hưởng ơn sự sống trường sinh mà Chúa Giêsu phục sinh đã khơi mào: “Cũng như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô cũng được Thiên Chúa cho sống”.
- Bài Tin Mừng cho chúng ta biết lý do tại sao Đức Mẹ được nhiều đặc ân như thế: đó là, như lời Bà Êlisabét, “Em thật có phúc, vì đã tin…”
B. TÌM HIỂU SỨ ĐIỆP
1. Bài đọc I (Kh 11,9a; 12,1-6a.10ab)
Trong một thị kiến, tác giả sách Khải huyền nhìn thấy “Một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
Ý nghĩa đầu tiên của Người Phụ Nữ này là chính Giáo Hội.
Nhưng theo nghĩa áp dụng, Người Phụ Nữ này cũng là Đức Maria, người được Thiên Chúa yêu thương điểm trang bằng muôn vàn đặc ân cao quý.
2. Bài đọc II (1 Cr 15,20-27)
Thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô về ơn sống lại:
- Ơn sống lại này do Đức Giêsu Kitô khai mạc. Ngài là kẻ đầu tiên sống lại từ cõi chết.
- Tiếp theo, tất cả những ai liên kết với Đức Kitô thì cũng được chia xẻ ơn sống lại ấy.
Đức Maria là người liên kết mật thiết nhất với Đức Giêsu Kitô cho nên Người cũng là người đầu tiên được chia xẻ ơn sống lại.
Vì tin như thế nên Giáo Hội công bố tín điều Đức Mẹ lên trời.
3. Bài Tin Mừng (Lc 1,39-56)
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 lời ca tụng: bà Êlisabét ca tụng Đức Maria; và Đức Maria ca tụng Thiên Chúa. Cả hai lời ca tụng đều nói đến những đặc ân mà Đức Maria được hưởng:
a/ Bà Êlisabét ca tụng Đức Maria:
- Maria người được chúc phúc hơn tất cả mọi người nữ
- Maria là Thân Mẫu của Đức Chúa
- Sở dĩ Maria được như thế là vì Maria đã tin vào Lời Chúa.
b/ Đức Maria ca tụng Thiên Chúa:
- Tuy Maria chỉ là một nữ tì hèn mọn nhưng đã được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới
- Đó là cách làm thường xuyên từ xưa đến nay của Thiên Chúa: Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài; Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người khiêm tốn.
C. RAO GIẢNG SỨ ĐIỆP
I. Gợi ý giảng
1. Có phúc vì đã tin
Bà Êlisabét đã công nhận một sự thật: Đức Maria là người có phúc hơn tất cả mọi phụ nữ (câu 42). Thực ra Êlisabét nói chưa đủ, phải nói là Đức Maria có phúc hơn tất cả mọi người.
Được Thánh Thần soi sáng (câu 41), bà Êlisabét còn biết do đâu mà Đức Maria có phúc như thế: “Em thật có phúc vì đã tin” (câu 45a).
Tin là lý do để được Thiên Chúa chúc phúc; tin là nguồn hạnh phúc.
Nhưng thế nào là “Tin”? Câu hỏi này sẽ tìm được câu trả lời nơi cách sống của Đức Mẹ:
- Trước hết là không hồ nghi về những điều Chúa hứa (câu 45b): Qua miệng Thiên sứ, Chúa đã hứa “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Những lời hứa này quá cao trọng đến nỗi một thôn nữ tầm thường như Maria khó mà tin được. Dù vậy Maria vẫn tin. Chúa còn hứa rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Theo lý thuyết thì đúng là như vậy. Nhưng trên thực tế, ít ai dám tin như Đức Maria, bởi vì có nhiều việc người ta không tin là Thiên Chúa làm được, cho nên người ta tự làm, hay nhờ những kẻ khác làm giúp.
- Tiếp đến, vì không hồ nghi về những điều Thiên Chúa hứa nên phó thác đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt. Đức Maria đã để Thiên Chúa dẫn dắt vào đời sống hôn nhân, để Thiên Chúa cho mình mang thai, để Thiên Chúa xử lý tình huống rắc rối của một thiếu nữ chưa về nhà chồng mà có thai… Tóm lại là để cho ý Chúa luôn thành sự nơi cuộc đời mình (Lc 1,38: “Xin hãy thành sự nơi tôi như lời Thiên sứ nói”)
Những điều Thiên Chúa đã hứa với Đức Maria (Thánh Thần ngự xuống; Đấng Tối cao rợp bóng) thì Ngài cũng hứa với chúng ta. Lời Thiên Chúa khẳng định với Đức Maria (“Không có gì mà Thiên Chúa không làm được”) thì Ngài cũng khẳng định với chúng ta. Nếu chúng ta cũng tin như Đức Mẹ và cũng phó thác đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt như Đức Mẹ thì chúng ta cũng sẽ hạnh phúc như Đức Mẹ.
2. Có phúc vì “nghèo”
Trong bài ca Magnificat, Đức Maria nhìn nhận rằng mặc dù thân phận Người chỉ là một “nữ tì hèn mọn” (câu 48a) nhưng sở dĩ Người được “hết mọi đời khen rằng diễm phúc” (câu 48b) chỉ vì Chúa quen ưu ái kẻ nghèo hèn (câu 53).
Thế nào là nghèo?
Trong Thánh Kinh, người nghèo (anaw) là người không tìm chỗ dựa nơi tiền bạc của cải, nơi tài trí bản thân, nơi uy quyền người thế… mà chỉ dựa hoàn toàn vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Mà Thiên Chúa rất hào hiệp, ai dựa vào Ngài thì Ngài hết lòng bảo vệ, chở che và ban muôn hồng phúc.
Do đó “nghèo” cũng là lý do để được chúc phúc và cũng là nguồn hạnh phúc.
Bài ca Magnificat nhắc chúng ta xét lại xem chỗ dựa của chúng ta là đâu.
II. Để tham khảo thêm
1. Vinh quang của Đức Mẹ
Đức Maria là người phàm duy nhất được lên trời cả hồn và xác. Chẳng những thế, Người còn được tôn làm Nữ vương trời đất. Bởi đâu mà Đức Mẹ được hưởng vinh quang cao cả như vậy? Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được lý do.
Ở một vùng đất xa xôi hẻo lánh kia có một bộ lạc sinh sống. Năm đó trời hạn hán không mưa nên mùa màng thất bát, cuộc sống khổ cực. Dân bộ lạc tổ chức một buổi lễ cầu mưa. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy thần linh, xin chỉ cho chúng con biết chúng con đã phạm tội gì để đáng bị trừng phạt như vậy. Và xin dạy chúng con biết phải làm gì để có mưa”. Họ cầu nguyện như thế suốt 3 ngày nhưng trời vẫn không mưa xuống.
Khi đó những người lớn tuổi rủ nhau lên đồi, vì họ nghĩ rằng lên đó họ sẽ nghe được tiếng trả lời của thần linh trong các luồng gió thổi tới. Và quả thực họ đã được nghe câu trả lời: Lý do khiến họ bị hạn hán là vì họ quá ích kỷ: bấy lâu nay họ chỉ biết khai thác đất đai mà không ban lại cho đất cái gì để nuôi dưỡng đất gì cả. Vậy, để khỏi bị trừng phạt thì họ phải lấy những thứ quý giá nhất trong nhà đem đốt đi thành tro rồi rải xuống đất. Mọi người cảm tạ thần linh đã chỉ bảo và hứa sẽ làm theo. Nhưng khi trở về nhà, nhìn những đồ vật quý giá thì họ lấy làm tiếc. Vì thế, thay vì những món đồ quý, họ chỉ lấy những thứ xoàng xỉnh mà đốt. Dĩ nhiên trời vẫn không mưa.
Trong bộ lạc có một cô bé tên là Miriam. Cô có một con búp bê xinh xắn mà cô quý nhất trên đời. Cô bé hiểu được lý do khiến trời không mưa là vì người ta đã tiếc không dám dâng hiến cho thần linh những thứ quý giá nhất. Thế là cô mang con búp bê lên đồi, đốt nó đi, vừa đốt vừa khóc. Đốt xong, cô lấy tro rải lên mặt đất, rồi ngủ thiếp đi. Khi cô tỉnh dậy thì cả ngọn đồi đều mọc đầy hoa, những cành hoa mọc lên từ đám tro của con búp bê mà cô bé đã đốt. Việc làm của cô bé đã khiến dân làng hiểu ý thần linh: họ xấu hổ vì đã không dám hy sinh nghe lời thần linh như cô bé Miriam. Thế là ai nấy về nhà lấy tất cả những thứ quý giá nhất đem đốt. Ngay sau đó thì trời đổ mưa. Mọi người tung hô cô bé Miriam như một vị anh hùng đã cứu sống cả bộ lạc.
Câu chuyện trên chỉ là truyền thuyết và có thể là hư cấu. Nhưng nó giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của ngày lễ hôm nay. Cô bé trong câu chuyện tên là Miriam, cũng giống tên Đức Mẹ Maria; Cô bé Miriam được thần linh tôn vinh bằng cách cho bông hoa trổ đầy trên ngọn đồi nơi cô bé ngủ, cô cũng được dân làng tôn vinh như vị cứu tinh của bộ lạc là vì cô đã dám hy sinh món đồ chơi mà cô quý nhất trên đời. Đức Maria cũng thế, Người được tôn vinh làm Nữ vương trời đất và được lên trời cả hồn và xác là vì Mẹ đã hy sinh tất cả cho Chúa: Chúa muốn gì Mẹ cũng vâng theo: (1) Mẹ muốn sống cuộc đời đồng trinh, nhưng khi Thiên Chúa muốn Mẹ thụ thai sinh hạ Chúa Giêsu, Mẹ đã thưa “Xin Vâng”; (2) Chúa Giêsu là người con duy nhất của Mẹ, là nguồn hạnh phúc của Mẹ trong gia đình và là nơi nương tựa của Mẹ trong tuổi già, nhưng vì Thiên Chúa muốn nên Mẹ cũng sẵn sàng hy sinh để Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng và chịu nạn chịu chết trên Thánh giá để chuộc tội cho nhân loại. Đúng như lời bà Êlisabét nói trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hồi nãy, Đức Mẹ có phúc hơn tất cả mọi người là vì Đức Mẹ luôn làm theo ý Chúa, luôn “xin vâng” với Chúa.
Gương Đức mẹ dạy chúng ta 2 điều: (1) Chúng ta thường nghĩ rằng hạnh phúc là do “được”, có được những gì mình mong muốn. Đúng vậy. Nhưng hạnh phúc cũng còn do hy sinh, do dám cho đi, cho đi những gì mình tha thiết nhất. Có khi hạnh phúc bởi cho đi còn sâu đậm và cao cả hơn hạnh phúc do nhận được; (2) Đặc biệt trong tương quan giữa chúng ta với Chúa, chúng ta thường chỉ xin Chúa ban cho chúng ta, khi thì xin điều này khi thì xin điều khác, chỉ xin và xin, chỉ nhận và nhận. Ít khi chúng ta cho Chúa, hy sinh vì Chúa. Thực ra Chúa không cần chúng ta cho Ngài điều gì cả. Những thứ mà chúng ta cho Chúa cũng chẳng đáng gì cả. Nhưng những thứ nhỏ bé mà chúng ta cho Chúa như thế chứng tỏ tấm lòng của chúng ta đối với Chúa. Và để đáp lại, Chúa sẽ ban lại cho ta gấp bội.
Noi gương Đức Mẹ Maria, chúng ta hãy tập lắng nghe tiếng Chúa và tập thường xuyên thưa lại với Chúa 2 tiếng “Xin Vâng” (Viết theo Flor Mc Carthy).
2. Đức Mẹ lên trời và Thánh Truyền
Các sách Tân Ước nói rất ít về Đức Mẹ, lần cuối cùng Người được nói đến là khi Người ở giữa các tông đồ trong nhà Tiệc Ly để đón Chúa Thánh Thần hiện xuống. Sau đó Sách Thánh không nói gì về Người nữa. Nhưng Thánh Truyền thì có nói.
Theo Sách Thánh, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ lại cho thánh Gioan chăm sóc. Thánh Truyền cho biết thêm là sau đó thánh Gioan đưa Người về ở chung với mình trong một ngôi nhà ở Êphêxô. Rồi cũng như mọi người khác, Đức Mẹ ngày càng già yếu đi. Nhưng không như mọi người khác, Đức Mẹ được hưởng đặc ân vô nhiễm nguyên tội nên đương nhiên cũng không phải chịu những hậu quả của nguyên tội, tức là không phải bệnh hoạn và không phải chết. Vậy thì Người rời khỏi cuộc sống trần gian này như thế nào? Cũng theo thánh truyền, từ khi Chúa Giêsu lên trời, lòng Đức Mẹ lúc nào cũng thương nhớ con mình và rất ước ao được gặp lại con. Những niềm thương nỗi nhớ đó khiến một ngày kia Người lịm đi. Thánh Gioan tưởng là Người đã chết nên cũng lo an táng như mọi người khác, rồi cho người đi báo tin cho các tông đồ. Khi các tông đồ trở về, họ mở mồ Đức Mẹ ra mong được thấy mặt Người lần chót, nhưng khi mở ra thì ngôi mồ trống không: khi đó các ông tin là Chúa đã rước Người lên trời.
Năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời: “Đức Maria, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, vào cuối cuốc sống trần gian đã được đưa lên chốn vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác”.
Khi tuyên bố tín điều này, Đức Giáo Hoàng đã chuẩn nhận những dữ kiện Thánh Kinh và Truyền thống sống động của Giáo Hội trải qua nhiều thế kỷ.
Chúng ta nên hiểu cho đúng kiểu nói “được đưa lên chốn vinh quang trên trời”. Đây là kiểu nói của loài người, bị giới hạn trong các phạm trù không gian và thời gian. Khi loài người muốn diễn đạt những điều siêu nhiên (vượt khung không gian và thời gian) thì ngôn ngữ loài người trở thành bất lực. Loài người chỉ biết tạm mượn những cách diễn tả của phạm trù không gian và thời gian ấy, nhưng ta phải hiểu cao hơn và xa hơn. Trong ngôn ngữ loài người chúng ta, “trời” chỉ cái gì tốt đẹp cao cả, còn “đất” chỉ cái gì xấu xa thấp hèn; “lên” chỉ sự tiến tới một tình trạng tốt hơn, còn “xuống” chỉ sự thụt lùi về một tình trạng xấu hơn.
Thành ra nói Đức Mẹ lên trời là nói đến sự thay đổi tình trạng sống của Đức Mẹ, tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, vinh quang hơn. Cho nên hôm nay Giáo Hội mừng Đức Mẹ lên trời là mừng tất cả những hạnh phúc và vinh dự của Người: Người là Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, Người được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, Người được Thiên Chúa đặt làm Nữ Vương vũ trụ, tắt một lời, Người là Đấng hạnh phúc và vinh quang vô cùng...
Do đâu mà Đức Mẹ được diễm phúc như vậy? Trong bài Tin Mừng hôm nay chính Đức Mẹ cho chúng ta biết được lý do: Bài ca Magnificat của Đức Mẹ được các nhà Thánh Kinh gọi bằng một tên khác nữa là “Bài ca của người nghèo”. Trong Thánh Kinh, anaw Yahweh, người nghèo của Yavê, là người không có tiền bạc cho nên không cậy dựa vào tiền bạc, có người cũng có tiền nhưng không dựa vào tiền mà chỉ dựa vào Chúa; người nghèo của Yavê còn là người không có quyền thế địa vị cho nên không dựa vào quyền thế và địa vị, có người cũng có quyền thế địa vị nhưng họ không dựa vào đó mà chỉ dựa vào Chúa thôi; người nghèo của Yavê còn là người không cậy dựa vào tài năng, học thức, sức mạnh... Tóm lại người nghèo của Thiên Chúa hoàn toàn không cậy dựa vào bất cứ thứ gì khác, chỉ cậy dựa vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Và đây là chỗ dựa vững chắc và an toàn nhất, vì thế chính Thiên Chúa nâng họ lên, chính Thiên Chúa ban cho họ muôn của cải đầy dư, Chúa làm cho họ biết bao điều trọng đại... Thực ra Đức Maria đâu có gì hơn chúng ta, thâm chí còn thua kém chúng ta nữa: một thiếu nữ quê mùa, yếu ớt, ít học, nghèo nàn sinh trưởng tại làng Nazarét nhỏ bé vô danh... Chỉ vì Đức Mẹ khiêm tốn, biết chọn đúng Thiên Chúa làm chỗ dựa duy nhất cho đời mình nên Thiên Chúa đã làm tất cả những điều cao cả tốt đẹp cho Người. Như lời Người đã hát: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi bao điều cao cả... Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người khiêm nhượng... Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có đuổi về bàn tay trắng...”.
3. Cảm nghiệm ơn Chúa
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đ¬ường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu ngư¬ời hơn? Tôi xin th¬ưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm đ¬ược tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu th¬ương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời "xin vâng", Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Ngư¬ời h¬ướng dẫn cuộc đòi mình. Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ
Tác động thứ nhất: sự vội vã. Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm đ-ược tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Th¬ương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn. Cảm nghiệm đ¬ược tình Chúa th¬ương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như¬ lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca cung tiến Đức Vua. L¬ỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Êlisabét chào, Đức Mẹ đã xuất khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ. Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Êlisabét. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nh¬ưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Êlisabét và thánh Gioan Baotixita đư¬ợc chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã đ¬ược Chúa đoái th¬ương. Tâm hồn đ¬ược Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những ngư¬ời chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ. Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng chuyển sang đôi tay. Niềm tri ân cảm tạ sâu xa sẽ nhanh chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy ng¬ời đ¬ược yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi g¬ương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như¬ Ng¬ài đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm đ¬ược những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thư¬ơng đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội vã ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Maria. Những trích đoạn trong Tân Ước minh chứng điều này; tiếp đến là những bản văn của các giáo phụ; rồi đến Công Đồng chung Êphêsô năm 431 tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những thánh lễ nói về giây phút chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Maria. Ai cũng tin cuộc chấm dứt này phải tốt đẹp. Nhưng như thế nào thì không ai dám khẳng định.
Những thánh lễ nói về việc chấm dứt cuộc đời trần thế này, như Dormitio (an giấc); Transitus (chuyển hoá); Natalis (sinh ra trên đời); Assumptio (được nâng lên)... Hình như người ta tránh né cái chết thể lý của Đức Trinh Nữ. Vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ cho đến ngày nay.
Thánh lễ Dormitio (an giấc) của Đức Mẹ đã được long trọng cử hành khắp đó đây trên Giáo Hội Đông Phương, nhất là sau Công Đồng chung Êphêsô 431. Hoàng đế Mauriee (582-602) xác định thánh lễ vào ngày 15 tháng 8 hằng năm, và tuyên bố đó là ngày lễ của nhà nước được nghỉ lao động. Mãi đến thế kỷ thứ 7 thánh lễ này mới du nhập vào Giáo Hội Tây Phương. Công đồng Mayence năm 813 xác định thánh lễ này trong đế quốc của Charlemagne.
Ngày 1.11.1950 Đức Piô XII long trọng tuyên bố tín điều: Đức Maria Hồn Xác Về Trời, và như thế xác nhận niềm tin Kitô giáo này đã bàn bạc trong Hội Thánh qua bao thế kỷ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Đức Maria được bà Êlisabét gọi là người có phúc nhất trong tất cả các phụ nữ. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy được một số lý do khiến Đức Mẹ diễm phúc như thế:
- Vì Mẹ có đức tin vững mạnh: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”.
- Vì Mẹ luôn có Chúa Giêsu trong mình
- Vì Mẹ biết quan tâm mang hạnh phúc đến cho người khác
- Vì Mẹ biết sống như một “người nghèo của Thiên Chúa”: “Kẻ đói nghèo Ngài ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”.
B.... nẩy mầm.
1. Cái chết của Đức Mẹ được người ta nói tới bằng nhiều cách: Dormitio (an giấc); Transitus (chuyển hoá); Natalis (sinh ra trên đời); Assumptio (được nâng lên)... Toàn là những cách nói đẹp, bởi vì Mẹ đã sống rất đẹp.
2. Có thể ví đời người như một câu văn mà cái chết là dấu chấm câu:
- Có cái chết như một dấu phẩy (,) tức tưởi không trọn vẹn; - Có cái chết như một dấu chấm than!) buồn hiu hắt; - Có cái chết như một dấu chấm hỏi (?) băn khoăn ray rứt; - Có cái chết như dấu 3 chấm (…) còn bỏ ngõ; - Vá có cái chết như dấu chấm tròn (.) thật đầy đủ, trọn vẹn, tuyệt mỹ.
Cái chết của Đức Mẹ chính là đấu chấm tròn. Còn cái chết của tôi sẽ là gì?
3. Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)
4. Suy gẫm mầu nhiệm mân côi 5 sự mừng: “Thứ 4, Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời. Ta hãy xin cho được thường cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng”
5. “Bà Maria lên đường, vội vã đến miền núi, vào một thành thuộc chi tội Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét” (Lc 1,39-40)
Mẹ Maria ơi! Ngày xưa Mẹ thật đơn sơ và dễ thương khi hăng hái lên đường giúp bà Êlisabét. Những bước chân nhẹ nhàng, đầy niềm vui phục vụ. Rồi ngày Mẹ lo lắng sợ hãi đem trẻ Giêsu trốn sang Ai cập. Những bước chân nặng nề, cuống cuồng vì tai họa trần gian… Và con không cảm nhận hết tâm trạng của Mẹ khi theo sau Giêsu trên đường lên núi Sọ. Nhìn những giọt máu của con mình cùng cái chết dành cho loại tử tội xấu xa, những bước chân nhục nhã, đau khổ… Thánh giá Mẹ vác quá nặng mà Mẹ vẫn vượt qua và bước tới. Con cũng biết Tin là Bước đi. Nhưng nhiều khi con chới với, con ngã lòng, con chưa có sức bước trong sự dẫn dắt tuyệt vời của Thiên Chúa. Con chưa tin đủ.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con xác tín rằng những bước chân vui buồn khấp khểnh ở đời nay, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh hôm nay sẽ làm nên lối nhỏ dẫn lên Trời nếu con bước với lòng phó thác, tin yêu. (Hosanna)
“… Tôi thực sự cảm thấy yêu mẹ mình và đau lòng khi mẹ khóc. Mẹ đã luôn là người phụ nữ mạnh mẽ, mẹ gánh vác tất cả việc nhà, buôn bán không kể sớm tối để nuôi lớn chị em tôi.”... Đó là tâm sự của Phạm Nga trên một tờ báo Online.
Hình ảnh của người mẹ sinh thành, dưỡng dục cho con vào đời, xa mẹ mới nhớ về mẹ, nhớ về tấm lòng mẹ… Hình ảnh người mẹ hiền với gánh hàng rong bôn ba khắp phố để có tiền nuôi sống gia đình… Hình ảnh đó đã đi vào huyền thoại được các tác giả thể hiện qua những bức tranh sinh động, những bản thơ ca về mẹ…
Suy niệm
Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, Đấng tràn đầy ân sủng như được sứ thần Gabriel chào: “Trinh nữ đầy ân phúc vì Đức Chúa ở cùng trinh nữ” (Lc 1,25), và bà Êlisabéth vang lời ca tụng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42).
Hồng ân Mẹ Maria Mông Triệu cả hồn xác được Đức Piô XII tuyên bố bằng tông hiến “Munificentissimus Deus” vào ngày Lễ Kính Các Thánh: 1/11/1950, Đức Giáo hoàng long trọng tuyên tin: “Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn… Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”. Hồng ân Mẹ về Trời cả xác hồn là hệ quả tất yếu của các hồng ân: Mẹ Thiên Chúa, sinh con mà vẫn Đồng Trinh và Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Kể từ khi Mẹ rời thế gian lên Trời trong vinh quang với hồng phúc: Được hưởng nước Trời cả hồn lẫn xác trước hết mọi người, Mẹ Maria vẫn không hề bỏ quên những người con ở dưới thế, Mẹ luôn hằng theo từng bước đi của các con. Qua mọi thời đại, với tình Mẹ bao la luôn lo lắng cho đoàn con ở thế gian. Tấm lòng của Mẹ luôn trải rộng để đón các con cái mình, dù ở phương trời nào, khắp mọi chủng tộc, Mẹ đều đón nhận đưa về với Chúa. Hãy chạy đến bên Mẹ nhờ Mẹ chỉ cho con đường đến với Con của Mẹ Đấng là đường là sự thật và là sự sống (x. Ga 14,6). Thật thế, Mẹ chỉ dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, như những người con được Mẹ hiền chỉ cho đi trên con đường đời để về với quê thật, như lời nhắn nhủ của Công đồng Vaticanô II: “Với tình mẹ hiền, Người chăm sóc những anh em (của) Con của Người đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời” (Lumen Gentium - Hiến chế tín lý về Giáo hội 8,62).
Lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta mang đức tin, tin vào Chúa và như Giáo hội dạy: “Ðức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 8,67). Các nhân đức nổi bật nhất mà chúng ta thấy trong
Tin mừng: Nhân đức tin, nhân đức cậy như Mẹ hoàn toàn phó thác vào thánh ý bằng hai tiếng xin vâng (x. Lc 1,38). Nhân đức mến chia sẻ, viếng thăm với người chị họ Êlisabéth cần sự giúp đỡ (x. Lc 1,39-45). Học với Mẹ nhân đức can đảm, Mẹ đối mặt với bao đau thương cuộc đời: Sinh con trong khó khăn (x. Lc 2,6-7), vượt khó trong sự truy bức của Hêrôđê để bảo vệ con trẻ (x. Mt 2,13-15), lạc con và tìm kiếm trong ba ngày (x. Lc 2,41-50), đặc biệt là đau thương chứng kiến cái chết của Chúa (x. Ga 19), Mẹ vẫn một niềm can đảm đối mặt và tin vào Thiên Chúa như Mẹ đã tuyên tin lúc được truyền tin. Nhân đức biết ơn học nơi Mẹ: Mẹ ca tụng cảm tạ hồng ân Thiên Chúa Đấng làm cho mình việc trọng đại, đời sống của Mẹ là một đời sống tạ ơn (x. Lc 1,46-56)…
Chúng ta hãy luôn tiếp bước theo, noi gương Mẹ theo các nhân đức mà chính Mẹ đã sống và dạy lại cho chúng ta.
Ý lực sống:
“Maria đầy ân phúc, bởi vì Thiên Chúa đã đoái nhìn, và vì cô đã tin: Đức tin của mình là hoa trái cây tươi tốt, xinh đẹp của lòng yêu thương khoan dung Thiên Chúa” (Thánh Bernarđô).
Hôm nay chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Mừng lễ hôm nay tự nhiên tôi lại nhớ đến câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của tôi cách đây hơn gần 20 năm. Cũng vào dịp như thế này vào chiều 15-8-1981. Sau khi tôi vừa dâng lễ xong thì có một người đàn ông trạc độ 50-60 tuổi. Ông tìm đến với tôi và nói với tôi những lời rất chân thành như sau trước mặt mọi người: “Thưa Cha, hôm nay con nghe bài giảng của cha con cảm động quá. Cha còn mặc áo màu vàng...màu vui, màu chiến thắng....Nhưng cha có biết không....hôm nay là ngày giỗ của mẹ con....Mẹ con mất...ở đời con chỉ có mẹ...Con nhớ mẹ con quá....Xin cha cho con địa chỉ của Vatican....Con gửi thư con nói với Chúa....con đòi mẹ con lại. Ở đời con chỉ có mẹ. Đời con chỉ có mẹ. Mẹ là lẽ sống, mẹ là niềm vui của con. Con muốn đòi mẹ con lại.
Vâng kính thưa anh chị em. Mẹ là lẽ sống, là niềm vui. Có Mẹ thật không có gì hạnh phúc hơn.
Không thể có niềm vui nếu không có mẹ. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời: Mẹ Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta.
Hôm nay chúng ta mừng mẹ được về trời. Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Vâng ngay từ thuở đời đời Thiên Chúa đã muốn cho người mẹ đó luôn ở với chúng ta.
1. Ngay từ những ngày tháng đầu tiên khi mới có con người trên trái đất này, Mẹ đã có mặt ở đó:
“Ta sẽ đặt giữa ngươi và người phụ nữ Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ một mối cừu địch Người phụ nữ đó sẽ đạp dập đầu mi”
Vâng ngay từ những ngày đầu tiên của lịch sử loài người Mẹ đã có mặt tại đó như một bảo đảm cho nguồn ơn cứu rỗi, như một lời hứa chắc chắn sẽ được thi hành, như một hy vọng chắc chắn sẽ thành sự thật cho cả loài người mai sau.
2. Rồi khi đến thời đến buổi, lúc Thiên Chúa muốn thực hiện lời hứa của Người. Mẹ Maria đã có mặt ở đó. Bằng Lời Xin vâng với tất cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.
Sau hai tiếng Xin Vâng cuộc đời của Đức Mẹ không còn gì là của mình nữa. Tất cả đã hoàn toàn thuộc về Chúa.
Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
Mt 2,11: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.”
Lc 2,6: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.”
Lc 2,16: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.”
Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình
Ga 2,1: “ Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.
Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. Thánh Gioan “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu...như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.
Ga 19,25: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.”
Rồi ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
Cv 1,14: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.”
Chưa hết: Sau khi Chúa về trời, Mẹ tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội tôi thấy vào những thế kỷ gần đây Mẹ đã hiện ra với con cái của Mẹ rất nhiều lần.
Mẹ đã hiện ra với nữ tu Catharina Labouré tại khu phố Dubac ở Thủ đô nước Pháp năm 1830
Năm 1846 tại La Salette Mẹ hiện ra với hai trẻ mục đồng: Mélaine (10 tuổi) và Maximin (15 tuổi)
Tại Lộ Đức năm 1858 với cô bé chăn cừu Bernadette Tại Pontmain 1871 với Cha Barbedette và cậu Eugène Tại Pellevoisin 1876 với Estelle Faguette (12 tuổi) Tại Fatima 1917 với ba trẻ: Giaxinta (7 tuổi)- Phanxicô (9 tuổi) - Và Lucia 10 tuổi) Tại Beauring Bỉ với Albert (11 tuổi) - Fernande Versin (15 tuổi) Gilberte Degeimbre (9 tuổi) và André Degeimbre (14 tuổi) Và sau đó tại Banneux cũng ở tại nước Bỉ với Mariette (12 tuổi)
Tại Hang Ba suối ở Roma với 1 người đàn ông và ba em nhỏ: Ông Bruno Cornachiola và ba em là: Isala (10 tuổi) - Carlô (7 tuổi) và Gioanfraco (4 tuổi)
Và gần đây ngày 24/6/1981 tại Medjugorji thuộc trung tâm nước Nam tư cũ với hai thiếu nữ Mirjana Dragicevic và Ivanda Ivankovic
Tôi chưa được tới Medjugorji nhưng những sự việc ở Medjugorji ngày hôm nay vẫn đang là một hiện tượng mà Khoa học không thể nào cắt nghĩa được. Tại Medjugorji hằng ngày vẫn có hàng ngàn, hàng ngàn người đến đó để lãnh nhận những sứ điệp rất đặc biệt Đức Mẹ ban để cùng với Đức Mẹ gìn giữ Hòa Bình cho thế giới.
Cuối cùng chúng ta cũng không quên Mẹ đã hiện ra nhiều lần cách đây 200 nam tại Lavang.....
Ngày hôm nay tại Lavang, các tín hữu từ khắp nơi, từ khắp mọi miền đất nước đang tề tựu tại đó chung quanh Mẹ để tạ ơn Thiên Chúa, để cầu xin cho Giáo Hội VN của chúng ta. Chúng ta hãy hiệp lòng hiệp ý với hàng Giáo Phẩm VN trong những ngày trọng đại này. Tất cả những lần hiện ra như thế dường như chỉ để chứng minh có một điều: Mẹ vẫn có mặt, có mặt thường xuyên và gần gũi với con cái loài người chúng ta, giúp cho con cái loài người hãy biết sống để chiếm hữu được trời cao như Mẹ.
Vâng chúng ta hãy biết nghe lời Mẹ và nhất là hãy biết sống như Mẹ đã sống để mai sau khi kết thúc cuộc đời trần thế này, chúng ta được Đức Mẹ dẫn đưa chúng ta về quê trời.
Tuy còn đang sống ở trần gian những lòng chúng ta đừng quên hướng về trời.
Thánh Giáo phụ Basilio bị điệu ra tòa án Roma trước mặt Hoàng đế:
- Người bỏ đạo, ta sẽ ban cho chức cao lộc hậu.
- Lời dạy bảo của bệ hạ dạy dỗ được trẻ con. Kinh Thánh tôi dạy khác hẳn, nên thà chết hơn lìa bỏ đấng Kitô.
- Ngươi không biết Trẫm là ai sao ?
- Tôi không tuân lệnh Bệ hạ đâu.
- Ngươi không biết ta có quyền ban chức tước cho ngươi sao ?
- Chức tước bổng lộc có thể thay đổi như chính bệ hạ.
Thấy không thể lay chuyển lòng Thánh nhân Vua đe tịch thu tài sản, tra tấn tù tội và giết.
- Tâu bệ hạ tôi chẳng có gia tài cho bệ hạ tịch biên. Lưu đày chăng ? Tôi có quê thiên đàng. Tra tấn ư ? Tôi sẵn sàng chịu vì Chúa. Giết tôi ư ? Càng sớm về trời.
- Ngươi thật điên cuồng!
- Tôi mong được điên mãi như thế này.
Trên con đường chúng ta đi chúng ta chẳng có gì phải sợ hãi. Mẹ sẽ luôn đồng hành với chúng ta. Mẹ sẽ có mặt kịp thời để che chở, phù giúp chúng ta miễn là chúng ta biết tin tưởng ở Mẹ.
Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử…đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianney đi qua….Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà: - Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
- Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không ? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông tạ ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria Đã một lần Mẹ nhận nhân loại chúng con làm con của mẹ
Và từ dạo ấy
Mẹ đã yêu nhân loại với tất cả tấm lòng từ mẫu Chúng con là những người trong khối nhân loại ấy
Và như thế chúng con đã đương nhiên là con của Mẹ Và đương nhiên là Mẹ thương chúng con Xin dạy chúng con biết chiêm ngắm Chúa Kitô và suy đi nghĩ lại những Lời của Người trong tâm tình yêu mến như Mẹ Xin dẫn lối cho chúng con trên bước đường theo Chúa cũng như đem Chúa đến cho mọi người Xin dạy chúng con biết luôn bước đi trên con đường tình yêu Với tâm tình phó thác Xin dẫn chúng con đến sự sống muôn đời bằng cách đặt bàn tay chúng con vào bàn tay của Chúa Kitô Đấng đã có lần nói với mọi người Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Amen.
Với đoạn Tin Mừng ngắn gọn vọng lễ chiều nay dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc được ân thưởng hồng phúc hồn xác về trời, đồng thời khuyến khích chúng ta chuyên chăm lắng nghe và thực hành Lời Chúa để cũng Chúa thưởng hồng phúc như Mẹ.
Đức Maria Người Nữ hạnh phúc
Chuyện xảy ra là khi Chúa Giêsu đang giảng dạy dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng có một phụ nữ vì thấy quyền năng và sự khôn ngoan thể hiện trong lời nói và việc làm của Chúa Giêsu, bà đã không thể kìm hãm nổi sự ngưỡng mộ của mình liên cất tiếng ngợi khen Chúa Giêsu bằng cách ca tụng người mẹ đã cưu mang Chúa: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27).
Đức Maria là người nữ hạnh phúc, lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ là bằng chứng: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc 1, 28) là bằng chứng. Quả thật, mọi phúc lành con người có được kể cả Đức Maria hệ tại ở phúc lành Thiên Chúa ban chứ không tùy thuộc các sự thế trần. Đức Maria là người hạnh phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. "Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! " (Ps 65,5). Phúc của Mẹ vượt trên mọi người nữ trần gian, lời của bà Êlisabeth xác nhận: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc" (Lc 1, 42). Mẹ là người diễm phúc vì có: "Thiên Chúa ở cùng" (Lc 1, 28). Trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Nghe và giữ Lời Chúa thì có phúc hơn
Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy: "Người bảo gì các con cứ làm theo" (Ga 2, 5). Lời Chúa Giêsu đáp lại người đàn bà đã khen Đức Maria là người diễm phúc: "Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" (Lc 11, 28) cũng là lời Chúa dạy chúng ta hôm nay. Lời này mạc khải cho chúng ta một mối phúc khác ngoài tám mối phúc đã được Chúa Giêsu công bố trong bài giảng trên núi, chúng ta có thể gọi mối phúc đây là mối phúc "lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa". Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng, mối phúc mà Mẹ Maria đang vui hưởng, là vì Mẹ đã lắng nghe, cẩn thận ghi nhớ và nỗ lực thực hành Lời Chúa từng ngày.
Mẹ trở nên cao trọng không những vì Mẹ đã cưu mang Chúa Giêsu và cho Chúa bú mớm, mà còn vì Mẹ đã lắng nghe và thực thi Lời Chúa hơn ai hết, nhờ vậy Mẹ luôn nhận ra được thánh ý Chúa muốn nơi cuộc đời để rồi cộng tác hết mình với Chúa.
Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò của Mẹ Maria trong việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Người; nhưng qua những lời trên đây, Chúa mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Đức Maria Mẹ Người với Người; tương quan ấy không chỉ dừng lại ở huyết nhục, nhưng hơn ai hết, Mẹ là người đã triệt để lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa, vì thế Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta noi theo.
Để được vào số những người diễm phúc
Mừng lễ Đức Maria hồn xác về trời hôm này, chúng ta dễ dàng nhận ra năng động thiêng liêng của Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta có thể trở thành người có phúc do việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa”.
Ai trong chúng ta cũng có thể có được mối phúc ấy, nếu biết khiêm tốn lắng nghe và thực hành lời Chúa truyền dạy. Mối phúc lời Chúa này không phải là độc quyền dành cho Đức Maria. Mẹ đã đi trước làm gương cho chúng ta và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống hầu được Thiên Chúa ân thưởng vinh quang hạnh phúc thiên đàng với Mẹ.
Mẹ Maria ơi, trên thiêng đàng con sướng vui, trên thiên đàng con sướng con cùng vui, xin Mẹ giúp chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để có được chỗ đứng trên nước trời. Amen.
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc 1, 28). Đó là lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ. Hôm nay từ miệng của một người nữ thích giả đang nghe Chúa Giêsu giảng cũng cất cao giọng nói: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27)
Vâng Đức Maria là đấng đầy ơn phúc, Mẹ là người diễm phúc. Bài Tin Mừng theo thánh Luca Thánh lễ vọng chiều nay được Giáo hội dùng, dìu chúng ta về với tước hiệu Đức Maria đầy ơn phúc. Người việt ta vẫn thường nói: "Phúc đức tại mẫu", nghĩa là theo quan niêm truyền thống, con cái được thừa hưởng điều tốt lành, may mắn từ người mẹ, do cách ăn ở cư xử, sự gương mẫu, cách giáo dục của người mẹ mà ra. Người mẹ chính là thầy dạy đầu tiên của việc hình thành nhân bản nơi đứa con. Chẳng thế, George Herbert đã viết một câu rằng: "Một bà mẹ tốt thì giá trị hơn cả trăm ông thầy!"
Người Do thái cũng vậy, khi Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ vì ngưỡng mộ con người cũng như cách giảng dạy của Chúa Giêsu, bà cho rằng, Thầy tài giỏi như thế này, hẳn là Mẹ Thầy phải là người có phúc lắm, nên bà đã không ngần ngại vượt qua rào cản của chính mình là phục nữ, bà đã cất tiếng nói với Đức Giêsu về Mẹ của Ngài: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27).
"Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy" (Lc 11, 27)
Đức Maria là người diễm phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. "Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! " (Ps 65,5). Câu này ám chỉ, dân có phúc là dân được Thiên Chúa trị vì, nhất là được Thiên Chúa thiết lập ngai báu vương quốc của Ngài ngay giữa họ; người có phúc là người được Thiên Chúa đến ở cùng, và dĩ nhiên chúng ta nghĩ ngay đến Đức Maria, người diễm phúc như lời Thiên Thần Grabirel chào và nói: "Thiên Chúa ở cùng bà " (Lc 1, 28), lời bà Êlisabeth xác nhận cái phúc của Mẹ: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc" (Lc 1, 42). Phúc của Mẹ trổi vượt trên mọi thần thánh trên trời, Mẹ có phúc vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là Hồng Phúc đã chọn Mẹ, cư ngụ trong dạ Mẹ chín tháng mười ngày, đến khi chào đời, Mẹ đã ôm ấp bú mớm nâng niu… những điều đó đã làm cho vai trò làm mẹ của Đức Maria trở thành mật thiết, gắn liền với cuộc sống của Chúa Giêsu hơn; không những thế, Chúa Giêsu còn ở với Mẹ trong suốt nhiều năm và đã vâng phục Mẹ. Giờ đây, Mẹ thật diễm phúc và Mẹ luôn hạnh phúc, Chúa Giêsu Con Mẹ đã phủ đầy vinh quang của Ngôi Lời nhập thể trên Mẹ bên trong cũng như bên ngoài, hạnh phúc của Mẹ vượt quá sự hiểu biết của chúng ta.
"Phúc cho vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27)
Mẹ là người trinh nữ duy nhất đã được vinh dự cưu mang và sinh hạ và dưỡng nuôi Con Một Thiên Chúa Chúa cho trần thế. Người đàn bà khi nghe Chúa Giêsu giảng đã không ngần ngại nói đến những nét đặc trưng và kín đáo của một người mẹ, những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống của con. Ngoài lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy, mà còn "vú đã cho Thầy bú mớm" ba năm. Như thế, thân xác và tâm hồn mẹ là cái nôi ru cho con lớn lên. Mẹ vừa cưu mang, vừa lo sinh, lo dưỡng.
Nếu "yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời" như kiểu nói của văn hào shakespears, thì Đức Maria là người diễm phúc, vì Mẹ được Chúa yêu thương, chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu của mình cho Thiên Chúa. Ngay trong mầu nhiệm lên Trời, Mẹ Maria đã được diễm phúc hưởng nếm ơn phục sinh "hồn xác lên trời" trước bất cứ ai, vì Mẹ chẳng vướng mắc tội truyền. Mẹ hạnh phúc tự nhiên vì cưu mang Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng chính Mẹ biết rõ hơn ai: Mẹ hạnh phúc siêu nhiên vì được Tình Yêu Thiên Chúa cưu mang từ thủa đời đời. Mẹ hạnh phúc là như thế đó, và trong hạnh phúc của Mẹ chúng ta tìm thấy hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Mẹ sẵn sàng cưu mang hạnh phúc của mỗi chúng ta
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã cưu mang và cho bú mớm là Đấng Cứu Độ thế gian, mặc lấy xác phàm nhân loại và thánh hiến với tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Trái đất là bệ dưới chân của Đấng là Hồng Phúc. Nên trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Như Mẹ hiền, khi bồng ẵm Chúa Giêsu Con Mẹ, với vòng tay rộng mở của tình mẫu tử, Mẹ ôm cả nhân loại trong tình yêu của Người Con ấy, "vì nhân loại là chi thể của Thân mình Ngài" (Ep 5,30), và Mẹ không xấu hổ vì được gọi là Mẹ của tất cả những ai được sinh ra trong Chúa Kitô nhờ ơn cứu chuộc của Người. Mẹ được gọi là Evà mới "Mẹ của tất cả chúng sinh" (St 3,20), nhưng trong thực thế, Mẹ là Mẹ của những kẻ chết… Vì Evà cũ đã không thực hành ý định của Chúa cách trung thành, Mẹ là người đã hoàn thành mỹ mãn mầu nhiệm ấy. Cũng như Giáo hội là mẹ của tất cả những ai tái sinh trong đời sống Giáo hội. Giáo hội là mẹ của những người sống làm cho mọi người được sống (Ga 11,25; 5,25s). Khi trao ban sự sống cho trần gian dưới nhiều hình thức, Giáo hội đã trao bao sự sống cho tất cả những ai tìm thấy sự sống của mình trong Đấng Hằng Sống.
Chính vì thế, người mẹ diễm phúc của Chúa Kitô là mẹ chúng ta nhờ mầu nhiệm thân thể này, Mẹ cũng tỏ cho chúng ta biết Mẹ rất ân cần và trìu mến… Và giờ đây chúng ta "ở trong sự che chở " của Mẹ "Đấng Tối Cao", chúng ta "ngụ cung cấm của Ðấng Tối Cao, và trọ dưới bóng của Ðấng Toàn năng; Tôi đã đặt Chúa luôn luôn trước mắt, vì có Người bên hữu, tôi sẽ không lay! " (Ps 90,1; 16,8). Hơn nữa, vì Vua vinh quang đã ngự nơi Mẹ, với tình mẫu tử hải hà, Mẹ sẽ chia sẻ vinh quang ấy cho chúng ta.
Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy: "Người bảo gì các con cứ làm theo" (Ga 2, 5). Chúa Giêsu bảo: "Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" (Lc 11, 28). Xin Mẹ giúp chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để trở nên những người con diễm phúc của Mẹ. Amen.
Hôm nay, Giáo hội long trọng cử hành lễ Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về Trời. Đức Maria lên Trời cho chúng ta biết chết không phải là hết, nhưng ranh giới giữa cuộc sống trần thế lữ hành trong đức tin với cuộc sống mai hậu ở trên trời.
Cuộc đời của Đức Maria là bằng chứn, Mẹ có hai cuộc lữ hành, một là cuộc lữ hành vật chất, Mẹ đi (từ Nazareth đến Bethlehem, từ Bethlehem sang Ai Cập, từ Ai Cập trở về Nazareth, từ Nazareth đến Giêrusalem, lên tới Êphêsô); hai là cuộc lữ hành về tinh thần (Mẹ bước di trong đức tin, vâng phục và yêu thương khởi đi từ lòng Mẹ đến Thiên Chúa, ban tặng cho Chúa Giêsu một trái tim bằng thịt).
Lấy lại những lời lẽ của sắc chiếu định nghĩa tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời Công Đồng Vaticanô II viết như sau: "Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết " (Vatican II, LG, số 59).
Bàn về cái chết của Đức Maria, một câu hỏi được đặt ra: Có thể nào Đức Maria Nazareth lại phải trải qua thảm cảnh chết chóc nơi thân xác mình hay không?
Một số nhà thần học đã chủ trương, Đức Maria được miễn khỏi phải chết, Người đã được đưa thẳng từ cuộc sống đời này về vinh quang trên trời. Tuy nhiên, một lưu truyền lâu đời vẫn coi cái chết của Đức Maria như là sự dẫn đưa vào vinh quang trên trời.
Khi suy nghĩ về số phận của Đức Maria và mối tương quan của Người với Chúa Con, một số người khẳng định: chính vì Đức Kitô đã chết, vì thế khó lòng chủ trương một điều trái ngược đối với Thân Mẫu của Chúa.
Theo đường hướng đó Các giáo phụ đã lập luận và không mảy may nghi ngờ gì về điểm này. Thánh Giacôbê Sarug (+ năm 521), viết: “ca đoàn mười hai Tông Đồ, khi Đức Maria đã đến thời đi vào con đường của hết mọi thế hệ, nghĩa là con đường của sự chết, thì đã tụ họp để an táng thân xác trinh khiết của Đấng đáng chúc tụng”. Thánh Modestô Giêrusalem (+ năm 634), sau khi đã dài dòng bàn về “giấc ngủ hạnh phúc của Đức Mẹ Chúa Trời”, đã kết luận: “lời từ giã” qua việc tán dương sự can thiệp diệu kỳ của Chúa Kitô, Đấng đã cho Đức Maria “chỗi dậy từ ngôi mộ” để đưa Người về với mình trong vinh quang. Thánh Gioan Đamascêno (+ năm 704) đã tự hỏi: “Tại làm sao mà Đấng vào lúc sinh hạ đã vượt qua hết mọi giới hạn của thiên nhiên, giờ đây lại phải chịu khuất phục những luật lệ của thiên nhiên, và làm sao thân thể vô nhiễm của Người lại có thể khuất phục cái chết?”. Ngài trả lời: “Chắc hẳn là cái phần hay chết cần phải được chôn táng để có thể mọc lên sự bất tử, xét vì chính Chủ tể thiên nhiên cũng đã không muốn khước từ cảm nghiệm cái chết. Thực vậy, Người đã chết theo xác thể và bằng cái chết Người đã hủy diệt cái chết, Người đã mang lại sự bất diệt cho sự hủy hoại, và Ngài đã biến cái chết thành nguồn của sự sống lại”.
Đành rằng, dựa theo mặc khải, cái chết được trình bày như là án phạt của tội lỗi. Tuy vậy, sự kiện Hội Thánh tuyên bố Đức Maria được giải thoát khỏi tội nguyên tổ do một đặc ân của Chúa, không minh định Đức Maria cũng đã lãnh nhận đặc ân bất tử về thân xác. Bà Mẹ không thể hơn Con mình được, Đấng đã lãnh nhận cái chết, để ban cho nó một ý nghĩa mới và biến đổi nó thành một dụng cụ của sự cứu rỗi.
Cho dù cuộc đời của Đức Maria đã chấm dứt do một sự kiện hữu cơ hay sinh lý nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nói, việc chuyển bước từ cuộc đời này đến cuộc đời bên kia đối với Đức Maria là một sự trưởng thành của ơn thánh tiến tới vinh quang; vì thế cái chết của Người có thể được quan niệm như là một “giấc ngủ”.
Thánh Bernard nói với chúng ta rằng: "“Đức Maria Nữ Trinh vinh hiển về Trời đã gia tăng hạnh phúc và niềm hy vọng nơi chúng ta”. Ngài thêm: “Đức Maria, Phần Tử ưu tú trên địa cầu chúng ta đang sống được đưa từ đất về trời, là một món quà vô cùng cao quí, sự vinh thăng ấy là cuộc trao đổi kỳ diệu giữa đất với trời, giữa con người trần thế với thế giới thần linh. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của trái đất đã được đưa lên cao, để từ trên nơi cao xanh ấy ơn sủng lại tuôn đổ chan hòa xuống trên mặt đất, nghĩa là chính từ nơi Đức Maria diễm phúc được rước lên đó, đến lượt mình, Mẹ lôi kéo muôn vàn ân sủng xuống cho nhân loại”.
Ân sủng Mẹ chuyển xuống chính là Lời, Lời mà Mẹ đã đón nhận và cẩn thận ghi nhớ cũng như cưu mang trong lòng. Khi cưu mang Lời trong lòng, Mẹ cũng cưu mang Sự Sống của chúng ta: “Đức Maria vội vã lên đường, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét” (Lc 1,39-40). Sự hiện diện của Mẹ Maria làm cho thế giới vui mừng như bà Êlisabét nói: “Vì khi vừa nghư tiếng em chào, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng tôi” (Lc 1,44).
Mẹ vui mừng, Mẹ cũng làm cho thế giới mừng vui, niềm vui của Mẹ trở thành bài thánh ca muôn thủa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi!” (Lc 1,46-47). Thật là một quả phúc tuyệt vời trên cõi trời cao ban xuống cho nhân loại. Bài Ca Tạ Ơn của Đức Maria đã trở thành Lời Thiên Chúa. Trong bài ca ấy, chúng ta tìm ra con đường để hiểu biết con người và Thiên Chúa như thế nào, và trần thế cũng như thiên đàng ra làm sao. Tất cả hợp nhất cùng nhau và có thể làm như Mẹ đã làm, món quà mà Thiên Chúa làm cho chúng ta trong Con yêu dấu của Chúa qua Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh: để trở thành món quà Chúa cho thế gian, và mai ngày, trở thành món quà của nhân loại dâng lên Thiên Chúa, chúng ta phải noi gương của Đức Maria, người đã bước vào vinh quang trước chúng ta và đang đợi chúng ta ở đó.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, cầu cho chúng con. Amen.
Con rồng trong sách Khải Huyền được mô tả như là mầm mống của sự chết chóc vì nó đứng “rình người nữ sắp sinh con để nuốt lấy đứa trẻ” (Kh 12, 4). Với từ ngữ và hình ảnh tượng trưng, sách Khải Huyền còn gợi lên cuộc chiến lâu dài giữa sự sống và sự chết, giữa Satan với Đức Kitô và Giáo hội của Người. Người sẽ toàn thắng.
Chúng ta biết, cuộc chiến giữa sự sống và sự chết, giữa sự thiện và sự ác là không cùng. Con người dù tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, vẫn luôn mang trong mình sự mỏng giòn.
1. Sự mỏng giòn của con người
Vốn mỏng giòn yếu đuối, cộng thêm lo âu, phiền muộn về sức khỏe, việc làm, về công việc gia đình phải gánh vác, những mập mờ vô định ngày mai của cuộc đời, lo con còn trẻ, cha mẹ khi đã về già, ốm đau bệnh tật, khủng hoảng về luân lý…tất cả đè nằng lên lòng trí con người. Làm sao không khỏi ngạc nhiên khi thấy thời đại chúng ta đang tụt hậu trước những biến cố của cuộc đời?
Trước những bất hạnh của thế giới, có người buông xuôi không làm gì hết, để mặc cho số phận. Có người cấp tiến hơn, quyết định từ bỏ một phần và tự sát. Có người từ chối truyền lại sự sống mà họ đã lãnh nhận và không chịu nhận cái khả năng có thể cho tương lai của chính họ và xã hội. Dần dần những nhà trẻ sẽ thay thế nhà hưu dưỡng!
Giữa cảnh đời lữ thứ, người kitô hữu sống ra sao? Đức tin của chúng ta thế nào khi đối diện với các thực tại như thế? Lễ Đức Maria hồn xác về Trời mang lại cho họ hy vọng gì trong cuộc sống?
2. Cuộc chiến thắng!
Chúng ta long trọng cử hành lễ Đức Maria hồn xác về trời với lòng sùng kính, giúp chúng ta trả lời những vấn nạn trên. Trước hết niềm tin của Giáo hội đối với tín điều Đức Piô XII đã xác quyết năm 1950. Chúng ta tin Đức Maria, đã được đặc ân cả hồn lần xác về Trời. Điều đó muốn nói rằng sự chiến thắng con rồng trong sách Khải Huyền hoàn tất nơi Mẹ, Mẹ về ngự bên hữu Chúa để chuẩn bị chỗ cho chúng ta như Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.
Chúng ta tự hỏi, Đức Maria đã được rước lên Trời cả hồn lẫn xác có làm chúng ta thay đổi không?
Thánh Phaolô cho chúng ta câu trả lời: “Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc” (1 Cr 15, 20). Đức Giêsu sống lại, có người tin, người không tin. Nhưng, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã sống lại thật, đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Việc Đức Maria hồn xác lên Trời là một thực tại khác: Đức Maria không phải là Thiên Chúa; Mẹ là nữ tử Israel, là một trong những thụ tạo như chúng ta, là người nữ giữa muôn vàn người nữ trên trần gian. Mẹ đã được tôn vinh, vinh quang của Mẹ liên quan đến chúng ta. Những đặc ân của Mẹ là kết quả cụ thể của ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho Mẹ và nhân loại (x. 1 Cr 15, 20-26). Mẹ được vinh hiển là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con của Mẹ. Việc Đức trinh Nữ được lên trời hồn xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu (GLCG số 966).
Đức tin không nói cho chúng ta biết điều gì về cái chết của Đức Maria. Có người cho rằng Đức Maria không chết, nhưng Đức tin nói với chúng ta rằng sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria được Thiên Chúa tôn vinh. Nơi Mẹ, cũng như Đức Giêsu Con Mẹ, cái chết không phải là hết, sự chết đã bị đập tan. Trái đất không còn là nơi giam hãm con người trong số phận đau thương, các tầng trời mở ra để loan báo một tương lai sáng ngời cho nhân loại. Sự chết đã bị tiêu diệt bởi sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta!
3. Sống trong hy vọng
Kinh Tạ Ơn của Đức Maria nêu rõ: “Chúa đã ra oai cánh tay thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng, Chúa lật đổ những người quyền thế, và nâng dậy những kẻ khiêm nhường. Phận đói nghèo Chúa ban của đầy dư... Vì Người nhớ lại lòng thương xót” (x. Lc 1, 39-56). Chắc chắn Thiên Chúa không thể để chúng ta bị nghèo đói đè bẹp, khi chúng ta tin vào lời Chúa hứa.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng vì tương lai của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Anh em khỏi phải phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng” (1 Tx 4, 13). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày, không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất. Nếu như khi xưa Mẹ đã đến với bà Êlisabet, làm cho cả gia đình bà vui mừng, thì ngày hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng ta rằng: hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, Chúa đã dọn chỗ cho con.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, cầu cho chúng con. Amen.
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
CHÚ THÍCH:
- C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
- C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50: +”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
- C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
- C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu và để làm gì?
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và là bệ chân của Thiên Chúa.
+ Đức Maria, Hòm Bia của Giao Ước Mới: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) Mẹ luôn cứu giúp những ai tin cậy kêu cầu:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ!” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) Những bằng chứng về đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Đức Maria:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Maria là Evà Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
4) Từ tín điều Mẹ Thiên Chúa đến Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3. SUY NIỆM:
1) Đức Maria là Mẹ Đức Giêsu:
Là Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức Maria chứa đựng chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là có phúc vì đã trở thành môn đệ Đức Giê-su như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người Mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
4) Đức Maria được rước về trời để chuyển cầu cho chúng ta:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường đau khổ thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn được chết lành trong tay Đức Mẹ và sau này được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Ta hãy gắn bó với Mẹ và nhờ Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban ơn lành hồn xác cho ta như Mẹ đã làm cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến với Chúa noi gương Đức Mẹ: Tin những Lời Chúa phán, tìm hiểu ý Chúa dạy và xin vâng ý Chúa muốn, chấp nhận mọi may rủi xảy đến cho ta với lòng cậy trông phó thác.
4. THẢO LUẬN: 1) Việc về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao? 2) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc lên trời với Mẹ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) Lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con của mình là Chúa Giê-su: nhờ giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa để trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ thông phần với nỗi đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá... mà Mẹ Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu lên trời cả hồn lẫn xác.
2) Lạy Đức Maria Là Mẹ Rất Nhân Từ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách: khi bị thất bại trong việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
Có lẽ không có loài hoa nào vừa bình dị, vừa cao sang, vừa gần gũi lại rất thanh khiết cao quý cho bằng hoa sen Việt Nam. Cây sen tươi đẹp, hoa sen xinh tươi, thơm ngát, thanh tao nhưng lại rất gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Gần gũi đến nỗi người Việt Nam nào cũng biết nó, cũng yêu quý nó. Gần gũi đến nỗi người ta thi vị nó, nhân cách hoá nó như là tâm hồn của một con người. Một tâm hồn trong sáng, thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời.
"Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn".
Lời ca dao thật nhẹ nhàng dẫn dắt người nghe về vẻ thanh tao của một loài hoa dân dã, bình dị để gợi mở về hình ảnh người nông dân lam lũ quanh năm nơi đầm lầy nước đọng nhưng tấm lòng lại thanh cao như loài hoa sen.
Ngay từ hai câu đầu tác giả khẳng định về vẻ đẹp của loài hoa sen: "Trong đầm gì đẹp bằng sen - Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng". Quả thực, ở giữa đầm lầy thì bông sen đẹp nhất. Cây sen được nổi lên với những cánh lá xanh nhô lên mặt nước như những cái dù xinh xắn. Bông sen mở cánh trắng muốt sáng lên dưới nắng mặt trời, toả hương ngào ngạt từ nhị hoa vàng. Tất cả tạo lên một bức tranh thôn quê bình dị, yên hàn. Thế nhưng, tác giả dường như không dừng lại ở việc ngắm đoá hoa sen một cách chung chung hay ở đàng xa, mà dường như tác giả nâng niu từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng. Có như vậy, tác giả mới có thể nói lên rằng:
"Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Lời kết tác giả như muốn lội ngược dòng khi tác giả thi vị hoá cây sen thành nét đẹp của tâm hồn con người. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ đây, cây sen đã trở thành biểu tượng của tâm hồn trong sáng, hiền lành của người nông dân chân lấm tay bùn Việt Nam. "Gần bùn" ở đây chính là môi trường tiếp xúc của sen hay nói đúng hơn chính là xã hội phong kiến bất công bấy giờ có quá nhiều những tham nhũng, dơ bẩn, ô uế. Tuy vậy mà bông sen vẫn rực rỡ, sáng ngời, toả ánh hào quang, không hề dơ bẩn. Mà ngược lại nhờ những môi trường xung quanh ấy mà sen càng thêm đẹp, làm tăng sự thanh cao.
Bài ca dao trên là một bài thơ hay. Chỉ bằng những câu từ mộc mạc, giản dị kèm theo thể thơ lục bát bình dân của truyền thống dân tộc Việt Nam, đã làm nổi bật lên hình ảnh nên thơ của người nông dân Việt Nam chân lấm tay bùn nhưng tâm hồn lại thanh cao trong sáng. Họ sống giữa bùn nhơ nhưng không để lòng mình vướng bận những tham sân si giòng đời. Họ sống giữa đầm lầy tội lội nhưng không để lòng mình ngụp lặn trong đam mê tội đời.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Hồn Xác về trời. Mẹ Maria chính là một đoá hoa đẹp nhất trần gian. Nhìn vào cuộc đời Mẹ, chúng ta thấy một Maria trong trắng dịu dàng. Một Maria đoan trang mực thước. Một Maria bác ái bao dung. Một Maria nữ tỳ được Chúa yêu thương và chúc phúc. Mẹ luôn giữ lòng thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời. Người ta nói Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn đó giữa môi trường đầy những cám dỗ tội lỗi, đầy những thói đời xấu xa. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông sen đẹp lộng lẫy giữa đầm lầy. Tâm hồn Mẹ lại càng thanh cao, thanh cao đến nỗi hoàn toàn xứng đáng cho Con Chúa Trời ngự trị. Mẹ hoàn toàn xứng đáng với lời giới thiệu: "Trong đầm gì đẹp bằng sen". Mẹ xứng đáng là đoá sen không phải là vì nét đẹp kiêu sa mà là vì nét đẹp tâm hồn "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Mẹ đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời như là phần thưởng xứng đáng cho những gì Mẹ đã dâng tặng cho Chúa và cho đời. Cuộc đời Mẹ hoàn toàn thanh sạch dành trọn vẹn cho Chúa. Cuộc đời Mẹ luôn toả hương bác ái yêu thương cho tha nhân. Mẹ đã sống một cuộc đời như đoá sen dâng hiến cho trần gian trong sự khiêm nhu của người Nữ Tỳ xin được làm mọi sự vâng theo thánh ý nhiệm màu.
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết gì giữ nét đẹp cao quý nơi phẩm giá làm người và làm con Chúa của chúng ta. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen.
Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:
“Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu, “Có đàn, có đàn gà con nương náu, “Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều, “Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…” (nhạc Phạm Duy)
Bài hát diễn tả hình ảnh người Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Nơi thôn quê, bà mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!
Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay…bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.
Tất cả những điều đó như thể hiện tấm lòng người mẹ. Một người mẹ luôn hy sinh cho con, luôn lo cho con, ngay cả khi con cái đã lớn khôn tung cánh vào đời, mẹ vẫn mong được chăm sóc cho con:
Biết chiều nay con về thứ bảy Gánh rau xanh mẹ hái nhiều hơn Chợ huyện cách xa, ngày đông tê tái Bước chân gầy vẫn bám chặt đường hơn.
Với mẹ, không đứa con nào là lớn cả, dù có làm đến ông nầy bà nọ, vẫn luôn cần đến những lời an ủi chia sẻ hay đơn thuần chỉ là bóng dáng còm cõi theo năm tháng của mẹ hiền. Mẹ luôn bênh vực che chở cho con. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bất tử, mãi mãi theo con, cho dù:
“Nếu ngày mai trên đường đời vấp ngã Con hãy gọi hai tiếng MẸ YÊU! Mẹ đi xa, nhưng mẹ vẫn bên cạnh. Linh hồn này, mẹ vẫn mãi theo con”.
Cuộc đời người tín hữu chúng ta cũng có một người mẹ yêu thương, chăm sóc chúng ta. Một người mẹ luôn theo chúng ta suốt đời. Mẹ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta không chỉ là linh hồn mà còn cả thân xác Mẹ, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Thế nhưng, biết bao người Công giáo đã sống như những người mồ côi Mẹ. Vì rất nhiều người đã không cầu nguyện cùng Mẹ. Rất nhiều người đã đẩy mẹ ra khỏi cuộc đời mình. Chỉ cần một câu kính mừng, chúng ta ca tụng mẹ là Đấng đầy ân phước để rồi từ đó chúng ta xin Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc đời. Nhiều người cho rằng không có giờ cầu nguyện, nhưng họ quên rằng, tâm lý của các bà mẹ chỉ cần con còn cần đến mẹ thì bà sẵn sàng làm tất cả cho con.
Hôm nay lễ mẹ hồn xác lên trời, thiết tưởng đây là niềm vui cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có một người Mẹ bất tử, một người Mẹ ở trên thiên quốc luôn sẵn lòng ban ơn cho con cái khi chúng kêu xin. Một người Mẹ đã đi qua biết bao thăng trầm của dòng đời để có thể hiểu hết những khó khăn của con người. Mẹ đã hiểu và chắc chắn Mẹ sẽ chia sẻ với những khó khăn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, với lòng hân hoan chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát “Bông Hồng Cài Áo” của Phạm Thế Mỹ để thưa với Mẹ:
Rồi một chiều nào đó con về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng "Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không?"
- Biết gì? "Biết là, biết là con thương Mẹ không?"
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen.
Văn chương Việt Nam thường diễn tả hình ảnh về người mẹ thật mộc mạc chất phác, đơn sơ và giản dị. Người mẹ Việt Nam luôn gắn bó với ruộng rẫy nương dâu, nơi đồng chua nước mặn, ăn mặc giản dị nâu sồng, không phấn sáp xa hoa, mà tâm hồn hiền hòa, đôn hậu. Những bà mẹ sống cuộc đời bình lặng như mặt nước hồ thu, nhưng vẫn giữ tiết kiên trung, cao cả. Chính những bà mẹ ấy đã đem những giọt mồ hôi tưới mát ruộng đồng, làm đẹp cuộc đời và đẹp cả quê hương:
"Mẹ Việt Nam không son, không phấn, Mẹ Việt Nam chân lấm, tay bùn, Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm, Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng". (Phạm Duy, Trường ca Mẹ Việt Nam)
Hình ảnh của người mẹ Việt Nam thật cao đẹp, công ơn của mẹ đối với con thật bao la. Công ơn ấy đã được khắc ghi sâu đậm vào tâm não của con, bộc phát thành những lời ca, tiếng nhạc hết sức dạt dào:
"Rủi mai này mẹ hiền mất đi, thì con côi... Như đóa hoa không mặt trời Như tuổi thơ không nụ cười Như đời mình không lớn khôn thêm Như bầu trời thiếu ánh sao đêm. Mẹ là dòng suối dịu hiền. Mẹ là bài hát thần tiên, Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối. Mẹ là lọn mía ngọt ngào, mẹ là nải chuối, buồng cau, Là tiếng dế đêm thâu, là nắng ấm nương dâu, Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời".
Vâng, khi nói về người mẹ trần thế chúng ta thường nói đến công lao trời bể, những hy sinh trải rộng suốt dọc dài cuộc đời của mẹ, thế nhưng, còn người Mẹ thiên quốc thì sao? Xem ra ít ai nhìn thấy những đắng cay mà Mẹ phải chịu trong đời, sau lần thưa xin vâng ấy! Chúng ta quá đề cao ân sủng của Chúa nơi Mẹ mà quên rằng: Mẹ chỉ được ơn phước đó nhờ đời sống luôn nở hoa yêu thương, hoa hy sinh, hoa khiêm nhường, hoa bác ái trong đời sống thường ngày của Mẹ, đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa đã nhìn thấy Mẹ "hằng đẹp lòng Thiên Chúa".
Thực vậy, Mẹ hằng đẹp lòng Chúa qua cung lòng thanh khiết không vấn vương tội lỗi, rất xứng đáng nên cung điện cho Con Chúa Trời ngự trị
Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi Mẹ từ bỏ con đường riêng của mình để thưa xin vâng cho ý Chúa được thực hiện.
Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ vội vã băng đồi lội suối, thăm viếng và phục vụ bà chị họ, sinh con trong lúc tuổi già.
Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi tiếp tục xin vâng trong mọi hoàn cảnh thiếu thốn cùng cực nhất: sinh con trong nghèo khó, chốn chạy qua Ai Cập, trở về Nagiaret với đôi tay tần tảo may vá thêu thùa.
Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ đồng công thưa xin vâng với thánh ý Chúa Cha qua cái chết Cứu độ của Chúa Giê-su con Mẹ.
Vâng, Mẹ Maria với tư cách là người mẹ trần thế, mẹ cũng trải qua những gian truân, vất vả để nuôi con khôn lớn như bao bà mẹ khác. Mẹ Maria cũng trải qua những tháng ngày tần tảo một nắng hai sương để gồng gánh gia đình đi qua những thăng trầm của dòng đời. Mẹ Maria còn đau khổ hơn bao bà mẹ khác vì con của Mẹ luôn phải đối đấu với nghi nan và nhất là không ai khổ bằng Mẹ, một người mẹ đau khổ phải ôm thân xác tả tơi, bất động của con yêu quý vào lòng với nỗi niềm xót xa, mà cha ông ta diễn tả rằng: "Lá vàng còn ở trên cây lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời?".
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm Mẹ được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Ðây là phần thưởng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho Mẹ sau một đời nỗ lực sống theo thánh ý Chúa. Ðây là vinh quang mà Mẹ nhận lãnh sau hành trình dương thế luôn lắng nghe và thực thi thánh ý Chúa.
Mừng Mẹ về trời cũng là dịp nhắc nhở chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ trên con đường tìm kiếm và thực thi ý Chúa. Mừng Mẹ về trời để giúp chúng ta hiểu rằng những khốn khó, gian truân đời này chẳng là gì so với hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phúc vì Mẹ luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và sống cho thánh ý Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con cũng tìm được cõi phúc như Mẹ khi buông mình trong sự tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và mau mắn thi hành thánh ý Chúa với trọn niềm mến yêu. Amen.
Mỗi lần mừng lễ về Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi hướng về Mẹ như là một kiệt tác của Thiên Chúa, một thụ tạo được ưu tuyển và trổi vượt trên hết mọi loài được dựng nên. Bởi lẽ Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn cách đặc biệt. Không những thế, Thiên Chúa còn gìn giữ Mẹ cách nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Những ân huệ đó không thể có nơi bất cứ loài thụ tạo nào ngoài Mẹ.
Vì thế, khi mừng kính trọng thể lễ Đức Maria hồn xác về trời, phụng vụ mời gọi chúng ta cùng nhau khám phá vị thế ưu việt của Mẹ trong chương trình cứu độ nơi tín điều, truyền thống và giáo huấn của Giáo Hội. Mặt khác, Giáo Hội cũng chỉ cho con cái mình thấy và hiểu được việc Đức Maria hồn xác lên trời có tầm ảnh hưởng thế nào đến đời sống đức tin và niềm hy vọng cua chúng ta.
1. Giáo huấn của Giáo Hội
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về Giáo Huấn của Giáo Hội qua biến cố Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Lễ Đức Mẹ lên trời là lễ trọng và cũng là lễ cổ xưa nhất trong các ngày lễ kính Đức Mẹ được cử hành trong Giáo Hội hiện nay.Vào thời điểm đầu, lễ này được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Nhưng đến năm 1950, Đức Cố Giáo Hoàng Piô XII đã đổi tên thành lễ Đức Mẹ lên trời qua Tông hiến Munificentissimus Deus. Với tín điều này, Giáo Hội tin nhận: “Thân xác của Người Phụ Nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa đã không phải chịu định luật của sự thối rữa”; “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc” (Tông hiến Munificentissimus Deus). Từ lời tuyên bố long trọng hôm ấy, đã trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo Hội hôm nay.
Với lời tuyên tín trên, Đức Giáo Hoàng đã liệt kê bốn chân lý tuyệt đối thuộc về lòng tin nơi Đức Maria. Bốn chân lý đó là: 1) Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; 2) Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội; 3) Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời; 4) Đức Maria Hồn Xác Lên Trời.
Khi tuyên bố cùng lúc những đặc ân đó của Đức Mẹ, Giáo Hội muốn cho các tín hữu hiểu được cách tổng quát những ân huệ cao cả của Đức Maria, và đây cũng là dịp để xác tín hơn nữa những nguyên lý liên quan đến việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Nguyên lý thứ nhất: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Vì Mẹ được ưu tuyển để đón nhận việc cưu mang và sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa, và Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu Thiên Chúa.
Việc được Thiên Chúa cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời là điều không có gì khó hiểu, bởi lẽ cả cuộc đời của Mẹ đã hiệp thông cách chặt chẽ vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Nên khi Đức Giêsu về trời, Ngài không thể để lại để thân xác của người mẹ yêu dấu phải hư nát trong mồ được.
Nguyên lý thứ hai: vì Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi cách nhiệm mầu, nên khi mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế quyền năng, Mẹ vẫn đồng trinh trước, trong và sau khi sinh. Vì thế, việc đưa cả hồn lẫn xác Mẹ về trời là điều cần thiết để bảo tồn vẻ trinh nguyên nơi Mẹ.
Nguyên lý thứ ba: nếu trước kia, Nguyên Tổ loài người đã bất tuân, chống lại Thiên Chúa và đi vào cõi chết, thì khi Đức Maria xuất hiện với lời “Xin vâng” tuyệt đối, Mẹ đã trở thành Evà mới liên kết mật thiết với Đức Giêsu – Ađam mới, Đấng là nguồn cội của sự sống, đã từ cõi chết sống lại và lên trời hiển vinh, thì không có lẽ gì Mẹ lại phải chịu cảnh hư nát, bởi vì hư nát là kết quả của tội lỗi. Như vay, Mẹ đương nhiên và rất hợp lý để được đưa lên trời cả hồn lẫn xác (x. GLHTCG số 963- 975).
Tóm lại, ngay từ khi thân xác Mẹ cưu mang chính xác thân Đấng Cứu Thế, thì Đức Giêsu con của Mẹ, đồng thời là Thiên Chúa đã thánh hóa Mẹ cả xác và hồn ngay từ lúc đầu thai. Vì vậy, sự phục sinh của Đức Giêsu không thể tách rời việc phục sinh Thân Mẫu là người đã cưu mang Cây Sự Sống nơi cung lòng thanh khiết của mình. Mẹ không thể “nhục thân bất hoại” theo lẽ thường được.
2. Cùng với Mẹ ngợi khen Thiên Chúa
Như vậy, mỗi khi mừng lễ Mẹ lên trời, chúng ta hãy cùng với cả triều thần ca mừng Nữ Hoàng Thiên Quốc: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?” (Dc 6,10).
Thế nên, phụng vụ hôm nay làm toát lên vẻ huy hoàng và sắc thái hân hoan, vì: kể từ đây, Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất; làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ đáng được mọi đời khen ngợi vì Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc”; “Thiên Chúa ở cùng Mẹ”. Mẹ trở thành Evà mới, thành Cây Quả Phúc mà Thiên Chúa đem trồng vào vươn Địa Đàng mới để được cưu mang và sinh ra quả phúc trường sinh là chính Đấng Cứu Thế.
Sự xuất hiện của Mẹ đã đưa nhân loại sang một trang sử mới. Lịch sử cứu độ được mở ra với biết bao ân huệ.
Đứng trước hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, và đặt mình trong tâm tình của Mẹ, chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm nơi Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thien Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1, 46-48).
Đây chính là lời kinh tuyệt mỹ mà Mẹ Maria đã cất lên để ca tụng Thiên Chúa, và đây cũng là những cảm nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhiệm mầu.
Biến cố Mẹ được đưa về trời, đã đem lại cho con người niềm hy vọng lớn lao và tuyệt đối.
Bởi vì sự phục sinh của Mẹ gắn liền với sự phục sinh của Đức Kitô: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu [...] cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (x. 1Cr 15, 20-22).
Qua biến cố này, mặc khải cho chúng ta rằng: Mẹ Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, và nếu chúng ta theo chân Mẹ, sống như Mẹ và thực hành Lời Chúa cách yêu mến, trung thành thì mai ngày cũng được lên trời hiển vinh như Mẹ. “Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dư độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Bởi vì “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (x. 1Cr 15, 23-24) cũng sẽ được phục sinh như Người.
“Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG. số 69). Mẹ Lên Trời, nhận lãnh vai trò Nữ Vương trời đất, nên hơn bao giờ hết, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại, và như thế: “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLHTCG. số 969).
Như vậy, việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác đem lại niềm hy vọng phục sinh cho tất cả chúng ta.
Mầu nhiệm Mẹ được rước lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan, long trọng mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đây là một trong những lễ quan trọng về Mẹ Maria.
Lễ này được chính thức bắt đầu mừng kính cách công khai rộng rãi trên toàn thể Giáo Hội qua tín điều Đức Maria hồn xác lên trời vào ngày 1-11-1950 của Đức Thánh Cha Piô XII. Điểm chính yếu trong Tín điều nêu rõ: "Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiễm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”.
Giờ đây, một lần nữa, chúng ta cùng nhau đào sâu về ý nghĩa này cách đặc biệt, để thêm niềm xác tín, yêu mến và nhất là qua thánh lễ này, mỗi người hãy ái mộ những sự trên trời.
1.- Kinh Thánh tiên trưng về biến cố đặc biệt này
Sự kiện Đức Maria về trời là một điều vĩ đại. Biến cố này cho thấy Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ cách trọn vẹn trong vinh quang Thiên Quốc. Nó đánh dấu một bước ngoạt mới trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Khi cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời trong vinh quang, Thiên Chúa muốn đề cao vai trò của mẹ như là ưu phẩm có một không hai trong thế giới loài người. Cũng từ đó, khơi gợi lên lòng kính yêu của con cái trần gian về Mẹ mình như một kiệt tác tuyệt vời trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa.
Chính vì lẽ đó, Kinh Thánh đã nhiều lần tiên trưng về biến cố vĩ đại này:
Trong sách Sáng Thế, ngay sau khi Evà phạm tội bất tuân Thiên Chúa, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế được sinh ra bởi Người Nữ Đầy Ơn Phúc (x. St 3, 15). Lời xác tín này được lập lại khi sứ thần Gabriel đến truyền tin và kính chào Mẹ bằng ngôn từ hết sức kính trọng và suy tôn: kính chào Bà đầy ơn phúc (x. Lc 1, 28).
Rõ nét hơn cả, đó là sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Còn Người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Bà một chỗ ... Bà được ban cho đôi cánh Đại Bàng, để bay vào sa mạc, lên Ngai của Ngài... Bà đã tiến vào sa mạc, ở đó đã sẵn một chỗ Thiên Chúa dọn sẵn cho bà” (x. Kh 12, 5-14).
Trên đây là một số hình ảnh minh họa về Mẹ Maria như là một Đấng Đầy Ơn Phúc đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Còn trong truyền thống Giáo Hội, các thánh đã ca ngợi Mẹ và rất vui mừng, hãnh diện khi Thiên Chúa trọng thưởng Mẹ một cách đặc biệt.
2.- Các Giáo Phụ nói về biến cố trọng đại này
Nơi các thánh Giáo Phụ, việc tin nhận Mẹ Maria vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác được các ngài tuyên tín như là một điều đương nhiên, bởi vì: “Mẹ đồng trinh vẹn tuyền. Mẹ đã cưu mang Con Thiên Chúa chí thánh bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, nên thân xác Mẹ không thể bị hư nát như hậu quả của cái chết thân xác mang tội Tổ Tông và tội riêng”.
Thánh Gioan Đamscênô thì quả quyết: “Người đã gìn giữ nguyên vẹn được sự Đồng Trinh sau khi sinh thì nhất định giữ được sự nguyên vẹn Thân Xác sau khi chết. Người đã cưu mang trong lòng Đấng Tạo Hóa, Con mình, thì cũng phải ở bên tòa Con Mẹ. Thiên Chúa Cha đã đính hôn Mẹ là Hiền Thê thì nhất định phải được ở phòng loan trên Trời. Mẹ ngắm nhìn Con Mẹ sinh ra và trên Thánh Giá, thì phải được chiêm ngắm Con Mẹ trên Trời”.
Còn thánh Giêmanô Constantinô thì nói: “Nếu thân xác Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, không bị hư hoại và được đưa về Trời, thì điều đó không những xứng hợp với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Mẹ nữa... Theo Kinh Thánh, Mẹ kiều diễm; thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thật là nơi Thiên Chúa ngự trị. Cũng vì thế, thân xác ấy không thể tan thành bụi đất”.
Với thánh Germanô thì cảm nghiệm sâu xa khi tuyên tín: “Thân xác Mẹ diễm phúc chí thánh trong trắng đến nỗi không thể trở về bụi đất được nữa”.
Ngoài ra, việc Mẹ Maria được rước lên trời cả hồn lẫn xác, chúng ta cũng nhận thấy đây là điều hiển nhiên, vì Mẹ đã cùng chịu đâu khổ với Đức Giêsu con của Mẹ, thì không có lý do gì Mẹ lại không được vinh quang với con của Mẹ trên Thiên Quốc, và thân xác của Mẹ không thể bị hủy hoại khi chính thân xác này đã cưu mang và sinh hạ cũng như nuôi dưỡng Đấng Hằng Sống.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thánh Tôma Aquinô lý luận rằng: “Yêu ai là muốn sự lành cho kẻ ấy”. Thiên Chúa yêu thương Đức Mẹ hơn mọi tạo vật, không lẽ Ngài từ chối việc Mông Triệu đáng công thưởng cho kẻ Ngài yêu sao?” (Thomas III, 17, 2).
Với tất cả những lý chứng trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: “Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là hoa quả tốt nhất của Ơn Cứu Độ, là thành quả vĩ đại nhất của Ơn Thánh, là kì công tuyệt vời của Thiên Chúa, hẳn Mẹ phải xứng đáng được hưởng ơn hồn xác lên trời.
3.- Mẹ lên trời, niềm hy vọng của chúng ta
Mỗi khi mừng lễ Mẹ Maria hồn xác lên trời, Giáo Hội tuyên xưng tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của Đức Mẹ và giúp cho người tín hữu thêm xác tín vào niềm hy vọng phục sinh của mỗi người. Đồng thời, mời gọi con cái của mình hãy hướng về Mẹ Maria như là mẫu gương sáng ngời, ngõ hầu noi gương các nhân đức của Mẹ, để sau cuộc đời này cũng được phục sinh vinh hiển.
Sứ điệp của ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời hôm nay mời gọi chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa tha thiết, trung thành tuân giữ những điều Chúa truyền dạy trong việc suy niệm, yêu mến và thực hành như Mẹ để đáng được trở thành người có phúc.
Bên cạnh đó, Lời Chúa hôm nay gợi lại cho chúng ta tâm tình cần phải có, đó là lời tạ ơn. Tạ Ơn thiên Chúa như Mẹ Maria. Mẹ đã coi mình là người không xứng đáng. Nhưng được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, nên Mẹ đã cất cao lời tạ ơn Chúa vì người đã đoái thương đến phận hèn mọn. Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy tạ ơn Chúa như Mẹ khi xưa, vì biết bao ơn lành Người đã ban xuống trên cuộc đời chúng ta, mặc dù không xứng đáng.
Bên cạnh đó, chúng ta hãy biết chạy đến với Mẹ Maria với niềm tin tưởng sẽ được Mẹ ra sức phù trì bênh đỡ và chuyển cầu cho chúng ta như xưa Mẹ đã cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Canan.
Thiết nghĩ, nhờ gương sáng của Mẹ Maria trong việc sống đức tin, cậy, mến... sẽ là điểm cuốn hút đời sống nội tâm mỗi người, để mai ngày, chúng ta cũng được chung hưởng phúc vinh quang trên Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, sống trung thành với Lời Chúa dạy, để sau cuộc đời tại thế này, chúng con được về vui sống bên Mẹ trong vinh quang của Thiên Chúa. Amen.
Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời, là chúng ta tôn vinh một người nữ, Mẹ của Đức Giêsu và Mẹ của mọi người tín hữu, đồng thời thắp lên cho nhân loại niềm hy vọng cứu độ.
1. Mẹ của Đức Giêsu: Trong Tân ước, người ta thường gọi Đức Maria là "Mẹ Đức Giêsu" (Mc 3,31; Ga 2,1-5; Cv 1,14). Nhưng trang Tin mừng hôm nay ghi lại một cách gọi đặc biệt dành cho Đức Maria, đó là 'Mẹ Thiên Chúa' (Lc 1,43).
Với tước hiệu này Mẹ đã đi vào lịch sử cứu độ, như là một mắt xích không thể thiếu được (Gl 4,4-5). Mẹ đã đồng ý thực hiện trọn vẹn kế hoặch của Thiên Chúa, làm cho Chúa Con sinh hạ trong lòng Mẹ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Các Giáo phụ đã dạy rằng trước khi cưu mang Đức Giêsu trong thân xác, thì Mẹ đã cưu mang Người trong tâm hồn chan chứa niềm Tin - Cậy - Mến.
Tình mẫu tử này đã dành cho Mẹ một quan hệ rất độc đáo với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Khi nhận ra ân huệ này, Mẹ cất lời ca Magnificat, vừa ca tụng các kỳ công của Thiên Chúa, đồng thời xưng tụng các hành vi quả là cách mạng của Người và sống trước các mối phúc thật mà Đức Giêsu, con Mẹ sẽ loan báo sau này.
Lời fiat - xin vâng - ngày Truyền tin ngân nga xuyên suốt đời Đức Maria. Mẹ luôn xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình, dù phải trải qua những đau thương, từ bỏ dưới chân thập giá, nên Mẹ đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ khám phá này đến khám phá khác và từ ưng thuận này đên ưng thuận khác.
2. Đức Maria, người phụ nữ mới và cũng là Mẹ của người tín hữu: Trên núi Sọ, dưới chân thập giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan và chối thánh Gioan cho Đức Mẹ. Từ đó Mẹ luôn ở bên cạnh các môn đệ vào mọi thời đại, để nhắc nhở các môn đệ "Thày bảo gì thì anh em cứ việc làm theo" (Ga 2,5) và trợ giúp các môn đệ trong việc dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô.
Chúng ta có thể tìm gặp lại mình nơi Đức Maria vào những ngày u tối cũng như những ngày vinh quang, để học biết khiêm nhu phục tùng lời Chúa, biết vui vẻ đợi chờ hồng ân của Chúa Thánh Thần và biết nhận ra các hành động quen thuộc của Chúa Cha nơi Chúa Con (x.Lc 2,51-52).
3. Niềm hy vọng cứu độ: "Kết thúc cuộc đời trần thế, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác" (PVGK, ngày 15 tháng 8, trang 1360).
Khẳng định như vậy, truyền thống Giáo Hội muốn nhìn nhận Đức Maria được hưởng một cái gì đó của cương vị mà Đức Kitô phục sinh đang sở hữu: Thần Khí đã chiếm hữu trọn vẹn Đức Maria, biến Mẹ trở thành đền thờ của Người và hòm bia của Thiên Chúa trên trần gian, thì sau khi hoàn tất cuộc đời lữ khách, Mẹ đã trở thành chi thể đầu tiên của Hội Thánh, một con người đầu tiên của nhân loại ở bên cạnh Thiên Chúa, một hoàn thành thật diễm phúc cho Thiên Chức làm Mẹ Thiên Chúa và cho ơn gọi làm người môn đệ Đức Kitô của Mẹ Maria. Đó là lý do tín điều Hồn Xác Lên Trời của Đức Maria không được công bố vào ngày 15 tháng 8, nhưng vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ (01/11) năm 1950.
Khi công bố vào dịp lễ Các Thánh, Đức Piô XII đã đặt Đức Maria, một thụ tạo và cũng là vị nữ tỳ hoàn hảo của Thiên Chúa về phía nhân loại được cứu độ, để loan báo cho mọi người biết vận mệnh sáng ngời của mình:
"Chúa Kitô phục sinh vinh quang là hoa quả đầu mùa, rồi mới đến những người thuộc về Chúa Kitô" (1Cr 15,23). Mẹ đã thuộc về Chúa Kitô, và chúng ta cũng thuộc về Chúa Kitô. Nếu biết sống đức tin mạnh mẽ như Mẹ, mến Chúa yêu người như Mẹ, hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô như Mẹ, chúng ta cũng được hồn xác về trời giống như Mẹ. Những gì Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, Người cũng sẽ thực hiện nơi mỗi người, từng người và từng người một trong chúng ta. Chúa Kitô đã về trời, Mẹ Maria cũng đã về trời, chắc chắn chúng ta cũng sẽ về trời, chúng ta phải xác tín như vậy.
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng lễ Đức Maria hồn xác về trời, xin cho mỗi người chúng con mai sau cũng được về trời như Mẹ trong niềm tin yêu và hy vọng vào Đức Kitô tử nạn và phục sinh. Amen.
Trong một đan viện nọ, có hai tu sỹ ngồi đàm đạo để cùng giúp nhau thăng tiến về đời sống thiêng liêng. Họ mở Kinh Thánh ra và cùng nhau chia sẻ. Đoạn Kinh Thánh được đọc lên, trích trong Tin mừng Luca chương 15, nói về dụ ngôn đứa con hoang đàng. Câu chuyên khá dài với nhiều tình tiết. Gấp sách lại, cả hai thinh lặng cầu nguyện và trao đổi. Một đan sĩ lên tiếng “Tôi không hiểu tại sao thằng bé này lại bỏ nhà đi hoang. Nó có một gia đình khá đầy đủ về vật chất. Hơn nữa, nó còn có một ông bố yêu thương nó hết lòng. Vậy tại sao nó lại thoát ly gia đình ?”. Suy nghĩ một lát, vị đan sĩ kia lên tiếng “Đứa bé này bỏ nhà đi bụi, vì trong ngôi nhà ấy vẫn vắng bóng một người mẹ”.
May mắn, chúng ta có một người Mẹ tuyệt vời là chính Đức Maria. Người vừa là hiền mẫu, vửa là Thầy dạy đức tin và cũng là đấng phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin trần thế. Mừng lễ Mẹ lên trời hôm nay, Giáo hội cũng nhắc nhớ chúng ta hướng về người mẹ thiêng liêng và tuyệt diệu này. Đồng thời, chúng ta cũng nhìn về Đức Maria như là khuôn mẫu đức tin để noi theo.
Ý nghĩa mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác.
Năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã công bố tín điều này. Đây là tín lý thuộc đức tin mang tính thần khải và Công giáo. Giáo hội xác tín chân lý ấy dựa vào nhiều lý chứng.
Trước hết, bởi vì Mẹ là thụ tạo vượt trổi, đã được Chúa giữ gìn khỏi lây nhiễm tội lỗi. Tội tổ tông không để lại âm hưởng gì nơi Mẹ, đồng thời Thiên Chúa cũng gìn giữ mẹ luôn mãi vẹn tuyền. Ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Ngài phó trao cho Mẹ những đặc sủng tương thích với sứ vụ cao cả này. Thân xác Mẹ cho dù có phải nếm trải sự chết giống như Đức Giêsu, nhưng thân xác vẹn tuyền đó không thể bị hủy hoại. Vì vậy Giáo hội xác tín rằng sau khi chết, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Thứ đến, cuộc đời của Mẹ đã gắn kết chặt chẽ với Đức Giêsu. Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Mẹ cũng vậy. Phần thưởng nước trời dành cho Mẹ như một hệ quả tất yếu của sự hiệp thông vẹn tròn với Đức Giêsu.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy ngay từ những trang đầu tiên, Kinh Thánh đã nói đến sự chiến thắng của người nữ trên con rắn. Người nữ đạp dập đầu con rắn và con rắn rình cắn gót chân bà. Người phụ nữ này là hình tượng chỉ về Hội thánh, về Đức Maria, về những con người sống hiệp thông chặt chẽ với Đức Giêsu trong nhiệm cục cứu độ. Cũng tương tự, người nữ trong sách Khải Huyền đã chiến thắng con rồng đỏ, cũng ám thị về Đức Maria và về toàn thể Giáo hội.
Giáo hội công bố tín điều này để mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như khuôn mẫu đức tin. Mẹ chính là Thầy dạy Đức tin cho chúng ta.
Thầy dạy đức tin.
Sau khi Chúa về trời, Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ. Tin mừng Gioan chỉ tóm gọn trong một câu ngắn: “Từ lúc ấy, môn đệ đem Mẹ về nhà mình (Ga 19,27). Sách Tông đồ Công vụ chỉ duy nhất một lần nói về sự hiện diện của Đức Maria giữa các tông đồ khi cầu nguyện tại Giêrusalem trong dịp lễ Ngũ Tuần. Sau đó, Chúa Thánh Thần đậu xuống trên các tông đồ và trên Đức Mẹ. (Cv. 1,12). Như vậy, sau biến cố Phục sinh, Mẹ đã hoàn toàn rút vào trong thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện. Thái độ đức tin này cũng được Thánh Luca tóm kết bằng một câu đơn giản : “ Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc. 2,19). Vì vậy, qua phụng vụ hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của mọi tín hữu.
“Phúc cho bà là kẻ đã tin” (Lc. 1,45). Đây là lời được mặc khải qua miệng bà Elizabeth. Trước khi chúng ta chiêm ngắm các nhân đức và những đặc phúc nơi Mẹ, chúng ta hãy nhìn về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của chúng ta.
Cuộc hành trình đức tin của Mẹ được dàn trải trong suốt cả cuộc sống, từ biến cố truyền tin đến cao điểm là phút giây hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu dưới chân Thập giá. Thái độ đức tin đó được thể hiện bằng cách Mẹ luôn tìm kiếm và quy thuận thánh ý Thiên Chúa. Có lần, khi Chúa Giêsu đang giảng giữa đám đông, Đức Maria chợt đến. Người ta báo cho Chúa biết là ‘bà cố’ đang đến. Người trả lời :”Ai là mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Mc. 3,31-35). Đức Giêsu gián tiếp đề cao thái độ đức tin nơi Mẹ. Tính cách làm Mẹ của Ngài hệ tại ở việc biết nghe lời Thiên Chúa và đem ra thi hành.
Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác là dấu chứng của một cuộc vinh thắng, và đó chính là cuộc chiến thắng trong đức tin. Trong thư Rôma, thánh Phaolô so sánh Ađam với Đức Kitô (xem chương 5). Ađam gieo sự tội vào trần gian vì bất tuân, còn Đức Kitô đưa sự giải án tuyên công đến cho con người qua vâng phục. Cũng như Evà đã liên đới với Ađam trong tội nguyên tổ, thì Đức Maria được sánh ví như Evà mới, đã hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu để đem ơn cứu độ đến cho con người. Nhiều thần học gia còn gọi Mẹ là Đấng ‘Đồng công Cứu chuộc’ (Corredemptorist). Sách Giáo lý Công giáo cũng mời gọi chúng ta hướng nhìn về Mẹ như là Biểu tượng Cánh chung (Eschatological Icon) cho toàn Giáo hội trong cuộc lữ hành trần thế ( Giáo lý Công giáo số 972). Những điều này nói về Mẹ như là khuôn mẫu và Thầy dạy đức tin cho chúng ta.
Kết luận
Ở Đức, trong một vở kịch diễn lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, diễn viên trình diễn cảnh Giuđa sau khi phản bội đã ra đi tự vẫn. Trước khi chết, anh ta thét lên: “Khốn thân tôi, tôi biết chạy đến với ai bây giờ ?”. Nghe vậy, một đứa trẻ ở gần đó nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao anh ta không chạy đến với Đức Maria”.
“Trên đời này, không có một kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng trái tim của người mẹ”. Cũng vậy, chúng ta có Đức Maria là Hiền Mẫu, là Thầy dạy đức tin và cũng là nơi nương náu an toàn nhất trong cuộc lữ hành trần thế hôm nay.
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giời trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến… Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
***
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời “Xin vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse. Và qua lời “Xin vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphacnaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu Thế vì Mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: “Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói”.
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước và cuộc đời.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khỏi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu sa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ òa trên bờ môi hạnh phúc trong lời Kinh Manificat.
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang tỏa hương thơm của thiên đàng.
Đối với Đức Ma-ri-a, ngày qua đời là ngày đẹp nhất cuộc đời. Đó là cuộc hành trình hiệp hoan. Mẹ không còn dưới thế nữa. Mẹ về với Chúa Con như Đức Giê-su về với Chúa Cha.
“Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ”. Đến vời Đức Ma-ri-a, chết là chiến thắng, Mẹ không bị tan biến qua lỗ hổng đen tối của hư vô, nhưng đi vào vinh quang trong cuộc sống muôn đời. Hoàn toàn hiệp thông vô cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần vì các Đấng làm nên một.
Thiên Chúa thỏa mãn mọi cơn đói của Mẹ.
“Ai tin vào Ta sẽ không phải khát bao giờ”. Mẹ Ma-ri-a luôn luôn nói xin vâng lời Thiên Chúa suốt cả đời ở trần thế: Thiên Chúa vui lòng làm thỏa mãn mọi ước nguyện của Mẹ cầu xin đề đáp lại sự vâng lời của Mẹ: “Tất cả những gì anh em cầu xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14, 14) “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì cứ xin, anh em sẽ được như ý”. (Ga 15, 7). Chúng ta có cậy tin vào sự can thiệp của Đức Mẹ không?
Tin Mừng.
Ngày lể Đức Mẹ Lên Trời là một Tin Mừng mà Giáo Hội loan báo cho tất cả những người nghèo khổ ngày nay: Cho những người sống khó nghèo - Cho những người lao động - Cho những người cam chịu đau khổ trong thử thách - Cho những người vui lòng vững tin vào Thiên Chúa, dù phải sống trong đêm tối.
Từ nay, là những phần tử trong gia đình Thiên Chúa, chúng ta như những đứa trẻ sắp ra đời, không thể nào kể cho xiết hạnh phúc đang đón chờ chúng ta ngày mai.
Trong cuộc đời ngắn ngủi trên trái đất, như Mẹ Ma-ri-a, chúng ta chỉ làm những việc nhỏ mọn nặng nhọc, nhưng chúng ta có thể mang lại lợi ích lớn lao cho nó nhờ vào tình yêu của chúng ta, nhờ vào tình yêu vô cùng của Đức Giê-su Ki-tô đang sống trong chúng ta. Trái đất sẽ qua đi, nhưng lời Chúa hứa không bao giờ qua đi. Chỉ có tình yêu của Ngài tồn tại mãi: “Chính tình yêu mới đáng kể thôi”. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã nói thế.
Trong năm Phụng vụ có bốn ngày lễ lớn. Lễ Giáng sinh để mừng kính Chúa Cha. Lễ Phục sinh để mừng kính Chúa Con. Lễ Hiện xuống để mừng kính Chúa Thánh Thần và lễ Lên Trời để mừng kính cái chết và cuộc khải hoàn của Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Mẹ Hồn xác lên trời trước hết khiến chúng ta tưởng nhớ đến cái chết của Mẹ. Đây là một vấn đề gây nên nhiều cuộc tranh cãi và tìm hiểu, Giáo Hội chỉ công bố Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác, nhưng không đả động gì tới cái chết của Mẹ. Có người chủ trương rằng: Mẹ Maria được đưa về trời mà không đi qua khung cửa sự chết. Đây là một đặc ân Ngài được hưởng vì như lời thánh Phaolô đã nói: Vì một người mà tội lỗi đã đột nhập vào trần gian và cũng vì tội lỗi đó là cái chết. Tất cả chúng ta đều phải chết vì tất cả chúng ta đều đã phạm tội. Tiền công của tội lỗi đó là cái chết. Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm nguyên tội đã đành, mà trong suốt cuộc sống dương thế, Mẹ cũng chẳng vấp phạm và nghiêng chiều về đàng trái, cho nên Mẹ sẽ chẳng phải lãnh nhận hậu quả thảm khốc của tội lỗi là cái chết.
Tuy nhiên phần đông các nhà thần học đều chủ trương rằng: Mẹ Maria đã đi qua cái chết. Lập trường này được dựa trên những lý chứng chắc chắn. Trước hết Mẹ Maria hẳn không muốn cho mình được ưu đãi trong mối liên hệ với Đức Kitô. Đức Kitô đã muốn chịu chết để tẩy xoá tội lỗi nhân loại. Phải chăng Đức Maria là Đấng đồng công cứu chuộc lại muốn khước từ những đau khổ và cái chết hay sao? Cái chết của Mẹ phải là một cái chết an lành, không mang chút lo lắng, sợ hãi và đắng cay. Làm sao Mẹ có thể sợ hãi khi Mẹ không dính bén một chút tội lỗi. Làm sao Mẹ có thể lo lắng trước vị thẩm phán tối cao cũng chính là Đấng Mẹ đã cưu mang trong lòng. Sự ra đi của Mẹ cũng không phải vì đau yếu bệnh tật, nhưng chỉ vì lòng ao ước được kết hiệp với Đức Kitô, Con Mẹ. Ước ao này, kể từ ngày Chúa về trời, mỗi lúc một thêm tha thiết, và khi tới giờ Chúa đã định, tâm hồn Mẹ nhẹ nhàng thoát khỏi những ràng buộc của thể xác mà không gây nên đau đớn như một ngọn nến chợt tắt như một làn hương trầm toả khói nghi ngút.
Mẹ Maria ra đi bình yên, Mẹ chết trong tình yêu mến Chúa. Cái chết loại này đôi khi cũng xảy ra nơi các thánh. Cách đây mấy chục năm tại nhà dòng Phanxicô ở Bavièra, trong một Thánh lễ an táng, có một chị mặt chăm chú nhìn vào chiếc quan tài và khoảng huyệt đào sẵn, dáng điệu thật đăm chiêu như chìm vào những suy tư. Sau cùng chị cho biết những ý tưởng của mình trong giây phút đó như sau: Tôi muốn về trời. Tôi không hề ghen tức. Mỗi khi có một chị em trong dòng chết đi, thì tôi cũng ao ước được như vậy. Trong phòng riêng, ở nhà cơm hay trong lớp học, khắp nơi tôi đều cảm thấy như ở trong tù ngục. Tôi chỉ được thoải mái khi quỳ trước Thánh Thể Chúa vì tại đây tôi được nếm thử niềm hạnh phúc Nước Trời. Lần khác chị nói: Tôi dường như thờ ơ trước tất cả mọi sự. Những điều tôi nghe cũng như những cái tôi nhìn, đều không đem lại cho tôi những thích thú. Tôi có cảm tưởng rằng mình sẽ mất thời giờ nếu không suy tưởng về Chúa. Một tình yêu sâu xa như thế đã hướng dẫn cả cuộc đời chị, cho đến tận giây phút cuối cùng, chị vẫn còn nói: Tôi muốn trở về nhà Cha. Cái chết của chị không thể nào so sánh với cái chết của Mẹ Maria vì đó mới chỉ là một đặc ân dành cho những tâm hồn hoàn toàn hiến dâng và thuộc về Chúa. Tôi muốn trở về nhà Cha. Các thánh thường chết trong niềm ao ước như thế.
Không phải Thiên Chúa ban cho Đức Ma-ri-a được hưởng ơn rất phi thường để làm nhẹ bớt gánh nặng của Mẹ. Như Con Ngài “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền cứu ngươi khỏi chết” (Dt. 5, 7). Thì Mẹ cũng phải sống kiếp phàm nhân như vậy. Chính sống qua kiếp đau khổ này, Mẹ đã cảm nghiệm được lòng trung tín với Thiên Chúa.
Một đời sống đức tin.
Đức Ma-ri-a đã sống trong đức tin, tức là sống trong tăm tối như chúng ta, không nắm bắt được những ý nghĩa rối mù luôn xảy đến với Ngài. Nhưng dần dần, ý nghĩa mầu nhiệm của đời Mẹ được liên kết với đời Con Mẹ, dù luôn luôn bao phủ trong sương mù của đức tin cũng hiện lên trong lương tri của Mẹ như mặt trời ló rạng báo hiệu bình minh sáng tỏ ở vầng đông. “Điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta” (Ga 5, 4). Với đêm Phục Sinh “Bóng tôi đang qua đi, và ánh sáng thật đã tỏ rạng” (1 Ga, 2, 8).
Đức Ma-ri-a sau Phục Sinh của Đức Giê-su và ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, tiếp tục sống với Giáo Hội đang tiến triển trong đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Mẹ Ma-ri-a không được trông thấy sự sống lớn mạnh của Giáo Hội, nhưng mẹ được nếm hạnh phúc vì biết sự sống đó từ nay hiện diện ở những nơi mà Giáo Hội sẽ tới.
Hình bóng của Giáo Hội.
“Con sẽ ở cùng Mẹ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20) Mẹ Ma-ri-a là hình bóng Giáo Hội đã liên kết chặt chẽ với Đấng mà Mẹ yêu mến, chắc chắn trong bóng tối của đức tin. Mẹ nóng lòng chờ đợi lời hứa này của Con Mẹ thực hiện: “Con đi dọn chỗ cho Mẹ và Con sẽ trở lại để đưa Mẹ về cùng Con, để Con ở bên Chúa Cha, thì Mẹ cũng ở đấy với Con”.
Chính vì thế, người ta có thể hình dung hơi thở cuối cùng của Mẹ Ma-ri-a như cuộc đàm thoại yêu thương hoàn tất bộ Kinh Thánh rằng: Thánh Thần và Tân Nương nói: “Xin Ngài ngự đến”. Đấng rất yêu mến đáp: “Phải chăng bao lâu nữa Ta sẽ ngự đến” “Ô lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến!” (Kh 22, 17 và 20).
Cả cuộc đời dương thế của chúng ta là một cuộc hành hương, một cuộc lữ hành, về nhà Chúa. Giờ đây, tất cả chúng ta là những lữ khách trần gian, có nghĩa rằng chúng ta còn đang đi, cuộc sống này chưa phải là nơi định cư vĩnh viễn. Ngày hôm nay, toàn thể Hội thánh tin và tuyên xưng rằng Mẹ Maria được Thiên Chúa cho lên trời cả hồn lẫn xác. Trong khi đó Mẹ Maria cũng là kẻ lữ hành như chúng ta khi còn ở trần thế và hành trình đức tin của Mẹ Maria cũng lắm gian truân và thậm chí còn đen tối chứ chẳng sáng sủa gì! Thế tại sao Mẹ Maria được đặc ân này? Tin Mừng hôm nay trả lời ngay rằng vì Mẹ đã tin vững vàng vào Thiên Chúa và công trình Người sẽ thực hiện nơi Mẹ và cuộc đời của Mẹ, “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45).
Chúng ta tạm ngừng chiêm ngắm những đặc ân cao cả của Mẹ Maria để quay về với cuộc sống bình thường giản dị và đơn sơ của cô Maria tại làng Nazarét nghèo nàn. Chắc chắn, cô Maria cũng như bao cô gái khác trong làng đều có những ước mơ thật tốt đẹp và tươi sáng về cuộc đời mình khi đến tuổi vào đời. Đùng một cái, Thiên Chúa mời cô làm mẹ Con Một của Ngài trong khi cô không biết đến chuyện vợ chồng, liệu cô Maria có tin chuyện ấy có thể xảy ra không? Rồi tới giờ mãn nguyệt khai hoa mà chẳng một ai, một nhà nào cho cô Maria và thánh Giuse mướn một chỗ để sinh, lúc ấy cô Maria có tin mình sắp sinh Ngôi Hai Thiên Chúa không? Rồi nữa, khi thấy con mình đi từ làng này sang làng khác để rao giảng Tin Mừng, chữa lành nhiều bệnh nhân mà không biết mệt mỏi, có lúc quên ăn ăn ngủ, thậm chí quên giờ quên giấc đến nỗi người bà con nói với cô đi bắt con trai Giêsu bà về đi nó điên rồi (Mc 3,20-21), cô có còn tin đó là Con Thiên Chúa thật không? Chưa hết, khi lạc con ba ngày, vừa lo vừa sợ, vừa mệt vừa tủi trong lúc tìm con; khi tìm được rồi chưa kịp mừng thì người con nói một câu như gáo nước lạnh tạc vào mặt, thư hỏi cô có tin đó là Thiên Chúa thật không? Chưa nói, khi thấy con mình bị phỉ nhổ, khinh chê, đánh đập bầm thâm loạn bì và chết trên treo thập giá, liệu cô Maria có tin đó là điều đẹp ý Chúa không?
Quả thật, Mẹ Maria không hề biết trước những chuyện như thế? Cũng không hề nghĩ rằng tất cả là chương trình Thiên Chúa xếp đặt cả rồi, thôi mình cứ cam lòng chịu đựng hết đi rồi sẽ được thưởng công xứng đáng như hôm nay. Ấy thế, Mẹ Maria vẫn tin mạnh mẽ, vững vàng và xin Thiên Chúa cứ thực hiện nơi cô những gì Ngài muốn. Đức tin của Mẹ là đức tin của sự chấp nhận dâng hiến xác hồn, phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Cho nên, Mẹ thưa “xin vâng” để rồi thụ thai Chúa Giêsu trong lòng dạ mình bất chấp rằng chắc chắn mình sẽ bị chồng đưa ra pháp luập, bị ném đá chết tươi vì mới đính hôn mà đã có thai.
Là lữ khách trần gian, Mẹ Maria bước những đi của đức tin tuy nhẹ nhàng nhưng đầy niềm vui và phục vụ; bước những chân nặng nề, cay đắng, gian truân khốn khó nhưng đầy tín thác và hy vọng vì thế Mẹ đã đi tới nơi và trở thành người dẫn lối đưa đường cho chúng ta. Cho nên, Giáo Hội tin và dạy rằng: “Sau khi về trời, vai trò của Mẹ trong công trình cứu độ không chấm dứt, nhưng Mẹ vẫn luôn tiếp tục cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ được phần rỗi đời đời. Với tình Mẹ hiền, Mẹ chăm sóc những anh em của Con Mẹ đang lữ hành trên dương thế và đang gặp biết bao nguy hiểm, thử thách cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc Quê Trời” (LG, Số 62).
Cuộc đời dương thế và hành trình đức tin của Mẹ Maria thật lắm tối tăm, nhiều thử thách cam go đồng thời cũng không thiếu gian nan, đắng cay! Nhưng Mẹ Maria đã đến được bến bờ hạnh phúc bằng những hành động đức tin sống động và cụ thể chứ không phải là đức tin tưởng tượng trong trí óc hay trên môi miệng. Đức tin là điều kiện để được cứu độ (Mc 16,16) và đạt hạnh phúc thiên đàng (Mt 25,34), nhưng chúng ta phải làm cho đức tin ấy thật sống động và linh hoạt bằng những hành động cụ thể trong đời sống thường nhật, nhờ đó đức tin mới nên hoàn hảo. Cho nên, Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành dộng là đức tin chết” (Gc 2,26), vì chưng, “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Chúng ta phải noi gương Mẹ Maria sống đức tin chân thành và kiên trì bằng cách tuân giữ và thi hành Lời Chúa dạy qua việc sống hết mình cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và buông mình cho Chúa Thánh Thần, sau là yêu thương mọi người qua việc khiêm nhường, tha thứ, cầu nguyện và phục vụ tha nhân ngõ hầu mai ngày, Thiên Chúa sẽ đưa ta về Quê Trời như Mẹ. Hành trình đức tin của chúng ta phải được đan kết bằng những kinh nguyện, hy sinh, bác ái, khó nghèo, hiền lành, công chính, nhân hậu, bao dung và từ tâm, đặc biệt hăng say thông truyền Tình Yêu Thiên Chúa cho mọi người hôm nay. Đó chính là những nẻo đường Mẹ Maria và Chúa Giêsu con Mẹ đã đi. Chúng ta hãy mạnh dạn lên đường dấn thân và bước đi trong sự tự do, vui mừng và hy vọng để vác thập giá với Chúa Giêsu có Mẹ cùng bước dù những bước chân vui buồn khập khểnh, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh trên dương thế hôm nay để rồi không phải dừng lại ở đồi Canvê trong Mùa Thương nhưng cùng với Mẹ hưởng trọn Mùa Mừng vui và hạnh phúc trên Nước Trời. Amen.
Có một bà mẹ ẵm đứa nhỏ trên tay, bà nói với nó về Thiên Chúa, là người Cha chúng ta ở trên trời. Bấy giờ đứa nhỏ đơn sơ hỏi lại bà: Thưa má, vậy thì ở trên trời, chúng ta cũng có một người mẹ nữa chứ?
Đúng thế, sống trong Giáo Hội, chúng ta như sống trong một đại gia đình. Ở đó chúng ta có những người anh, những người chị và những người em. Ngước mắt nhìn về quê trời, chúng ta có được chính Thiên Chúa là cha của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng có được một người mẹ dịu hiền. Người mẹ dịu hiến ấy là Đức Maria.
Thực vậy, Đức Maria vừa là mẹ Chúa Giêsu, vừa là mẹ của nhân loại, vừa là mẹ của mỗi người chúng ta. Đời sống trong sạch không vương vấn tội lỗi của Mẹ, cũng như những công nghiệp mà Mẹ đã đóng góp vào chương trình cứu độ, đã khiến Mẹ trở nên xứng đáng được Chúa ân thưởng bội hậu, đã đưa về trời cả hồn lẫn xác liền ngay sau khi chết.
Nhìn vào một thửa ruộng thần nông chúng ta thấy được biết bao nhiêu công lao vất vã từ lúc gieo trồng cho đến lúc gặt hái. Chúng ta có thể nói được rằng những hạt lúa chín vàng là kết quả của biết bao nhiêu giọt mồ hôi, của biết bao lao công chăm sóc: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Cũng vậy, biến cố Mẹ về trời phải chăng cũng chỉ là một kết quả đương nhiên của một cuộc đời trong trắng và chất đầy công nghiệp nơi Mẹ. Một khi những công nghiệp ấy đã chín vàng như những hạt lúa trên ruộng đồng, thì các thiên thần bèn thu lấy mà đem vào kho lẫm của Thiên Chúa.
Trong một bức thư, thánh Phaolô đã bày tỏ ước vọng của mình như sau: Tôi muốn chết đi để được ở cùng Đức Kitô luôn mãi. Trong những ngày còn sống ở trần gian, Mẹ Maria hằng ao ước được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, và sau khi Mẹ trút hơi thở cuối cùng, thì ước vọng ấy mới được thực hiện một cách đầy đủ. Cùng với cái chết, bức tường ngăn cách giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu cũng đã sụp đổ để rồi cả hai được kết hiệp mật thiết với nhau.
Cái chết đối với chúng ta là một cái gì cay đắng, bàng hoàng và khủng khiếp vì nó chia lìa hai người bạn thân thương nhất là hồn và xác, đồng thời nó làm cho con người chúng ta bị mục nát và trở về cát bụi. Nhưng với Mẹ Maria thì khác. Cái chết chỉ là một khung cửa qua đó Mẹ tiến thẳng tới nơi gặp gỡ với Chúa Giêsu. Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, đồng thời cũng là Đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, vì thế thân xác của Mẹ không thể nào trở thành miếng mồi ngon cho tử thần. Do đó Chúa Giêsu đã muốn đưa Mẹ về trời cả hồn lẫn xác, như một bông hoa không bao giờ tàn úa nhưng luôn giữ được màu sắc thắm tươi của mình. Thực vậy, Kinh Thánh thường sánh ví Mẹ với những cánh hoa tỏa hương thơm ngào ngạt. Chẳng hạn với bông hồng, với cánh huệ tươi nở ngay từ lúc ban mai. Mẹ Maria cũng vậy, ngay từ buổi ban mai của cuộc đời, nghĩa là ngay từ những ngày còn tấm bé, trái tim Mẹ đã mở ra để đón nhận hồng ân Thiên Chúa.
Từ những điều vừa chia sẻ, tôi muốn đi tới một kết luận, đó là mỗi người chúng ta trong cuộc sống riêng tư, hãy noi gương bắt chước Mẹ để rồi Mẹ ở đâu, thì chúng ta, những người con cái Mẹ cũng sẽ được ở đó với Mẹ.
Tại nhiều giáo xứ bên Ý, vào ngày lễ Đức Me hồn xác lên trời, người ta có tục lệ rước kiệu như thế này:
Một kiệu Đức Mẹ từ cuối làng đi lên. Còn một kiệu Chúa Giêsu từ đầu làng đi xuống. Cả hai sẽ gặp nhau tại sân nhà thờ. Người ta sắp đặt để cả hai tượng đều cúi đầu chào nhau ba lần, rồi sau đó cũng tiến vào nhà thờ, tượng trưng cho việc Chúa Giêsu dẫn đưa Mẹ Ngài vào quê hương Nước Trời. Nghi thức này tuy đơn sơ nhưng lại gây một ấn tượng mạnh mẽ nơi những người người tham dự. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy niềm tin vào việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được manh nha từ một thời rất xa xưa. Thực vậy, vào năm 457, Đức Giám Mục Giêrusalem đã viết như sau: Mẹ Maria qua đời, có các tông đồ vây quanh. Nhưng rồi sau khi chôn cất được ít lâu, ngôi mộ bỗng được mở ra, các tông đồ nhận thấy nó hoàn toàn trống rỗng và rồi các ông đã kết luận Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Đúng thế, Chúa Giêsu đa không muốn để Mẹ Ngài phải chịu một giây phút nào dưới quyền lực của Satan và tội lỗi, nên đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Đồng thời Ngài cũng không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu cảnh mục nát trong mồ, nên đã ban cho Mẹ đặc ân được về trời cả hồn lẫn xác. Thiên Chúa Ba Ngôi cùng với triều thần thánh trên trời mừng rỡ chúc tụng Mẹ.
Đó là niềm hạnh phúc của những người thân yêu gặp lại nhau. Và đó cũng là niềm hạnh phúc mà mỗi người chúng ta đều có thể mong đợi. Đúng thế, trong ngày lễ Mẹ về trời chúng ta có thể nghĩ tưởng tới ngày chúng ta cũng sẽ được bước vào quê hương Nước Trời, sau một cuộc đời trung thành phụng sự Chúa. Chính tại quê hương Nước Trời này, chúng ta sẽ được gặp lại những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta.
Đồng thời chúng ta cũng có thể suy nghĩ về sự chết. Thực vậy, cái chết không còn là một ngõ cụt, một chấm dứt, như nhiều người thường bảo: chết là hết. Trái lại đối với chúng ta, những người có đức tin, thì chết là giây phút chúng ta được trở về nhà Cha, được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được gặp lại những người thân yêu như lời kinh nguyện Thánh Thể chúng ta vốn thường nghe đọc: Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và toàn thể các thánh.
Chúng ta hãy sốt sắng đọc kinh Kính Mừng và đặc biệt chú ý tới lời kêu xin: Cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi, khi này và trong giờ lâm tử.
Vì thế, hãy cầu nguyện và ra sức uốn nắn những sai lỗi để đổi mới cuộc đời, nhờ đó trong ngày sau hết chúng ta cung sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Ngày nọ có một chiếc máy bay bị trục trặc và rơi xuống trong một khu rừng già. Viên phi công tên là Tom Marmon, mặc dù biết rõ khó mà sống sót để trở về quê nhà, nhưng ông vẫn cố gắng. Cuối cùng ông đã được cứu thoát. Các phóng viên báo chí đã hỏi ông nhờ đâu mà đã làm được một việc kỳ diệu như thế. Ông đã trả lời: Nhờ tôi cầu nguyện. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông đã cắt nghĩa: Tôi đã đọc ít nhầt cả triệu lời kinh Kính Mừng, suốt thời gian dò tìm đường ra. Tôi không đọc nhỏ, nhưng đã đọc thật to với hy vọng có người nào đó sẽ nghe thấy tiếng tôi mà dẫn đường chỉ lối. Nếu không nhờ lòng tin mạnh mẽ này, có lẽ tôi đã không thể nào ra khỏi khu rừng rậm rạp ấy.
Kinh nghiệm của viên phi công cũng đã là kinh nghiệm của hằng triệu Kitô hữu, bởi vì họ cũng đã dành cho Mẹ Maria một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn và trong cuộc sống của họ. Đó cũng là lý do hôm nay chúng ta vui mừng tụ hợp nhau đây để mừng kính biến cố Mẹ về trời.
Dưới khía cạnh thần học, biến cố này nhắc nhở chúng ta rằng Mẹ Maria hiện đang ở trên trời cả hồn lẫn xác. Bởi vì suốt trong cuộc đời trần gian, Mẹ không hề phạm tội, nên cũng như thân xác Chúa Giêsu, Mẹ đã được chuyển trực tiếp từ trạng thái của con người dương thế sang trạng thái khải hoàn vinh quang trên thiên đàng.
Tuy nhiên dưới khía cạnh thực tiễn, biến cố này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đôi khi chúng ta quên rằng trên thiên đàng, chúng ta vẫn có một thân xác, dĩ nhiên thân xác ấy không phải là thân xác vật chất, mà là thân xác thiêng liêng như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Thân xác bị chôn vùi là thân xác hay chết, nhưng khi sống lại, nó sẽ trở thành bất tử. Khi bị chôn vùi, nó xấu xí và yếu đuối, khi sống lại, nó trở thành xinh đẹp và mạnh mẽ. Khi chôn vùi, nó là thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó trở nên thân xác thần linh.
Điều này dẫn chúng ta đến một điểm thực tiễn khác, đó là Mẹ Maria không ở trên trời một cách thụ động, chỉ biết vui hưởng nhan thánh Chúa. Nghĩa là Mẹ không chỉ ngồi yên chờ đợi chúng ta lên đoàn tu với Ngài. Trái lại, Mẹ vẫn tích cực quan tâm đến chúng ta. Nói cách khác, Mẹ vẫn muốn giúp đỡ chúng ta chiến đấu để được về quê trời.
Vì thế, cũng như viên phi công, chúng ta cần phải chạy đến với Mẹ và kêu cầu Mẹ trợ giúp trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ bao lâu còn sống nơi trần gian, bởi vì như lời thánh Bernado đã nói: Kêu cầu Mẹ chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng, bước theo Mẹ sẽ không bao giờ bị lầm đường lạc lối.
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời. Vậy thì về trời có nghĩa là gì?
Về trời ở đây không phải là chuyện đi lên hay đi xuống trong một khoảng không gian, mà là một tình trạng hoàn toàn được kết hiệp với Thiên Chúa, được đem vào sự thánh thiện và sự sống của chính Thiên Chúa.
Như thế, về trời trước hết phải là con đường của Đức Kitô, đây là lẽ đương nhiên bởi vì Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, nay trở về với ngôi vị của mình. Có khác chăng là cùng với Ngài, có cả thân xác vật chất của mình nữa.
Tiếp đến, đó phải là con đường của Mẹ Maria. Đối với Mẹ thì về trời là hiệu quả của ơn Phục sinh nơi Đức Kitô, vì Mẹ cũng là một thụ tạo cần được cứu độ. Mẹ là người đầu tiên được hưởng hiệu quả trọn vẹn của ơn cứu độ, vì cuộc đời và sự cộng tác của Mẹ làm cho Mẹ được trở nên xứng đáng với đặc ân cao cả ấy.
Sau cùng về trời còn phải là con đường, còn phải là mục đích cuối cùng mà chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống này, như lời thánh Augustinô đã nói: Tâm hồn tôi luôn băn khoăn lo lắng cho tới khi nào được nghỉ yên trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, để đạt tới mục đích cuối cùng ấy thì chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa là ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô và cố gắng thực thi những điều Ngài truyền dạy. Phải làm cho Đức Kitô được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn những người chung quanh.
Con đường ấy chắc chắn sẽ không phải là một con đường rộng rãi thênh thang với những hoa thơm cỏ lạ. Chính Mẹ Maria cũng đã kinh qua một cuộc đời trần gian đầy gian nan và thử thách như lời ông già Simêon đã nói: Một lưỡi gươm sẽ đâm qua lòng bà. Đúng thế, từ lúc xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin cho đến khi đứng dưới chân cây thập giá, cuộc đời của Mẹ là một cuộc đời vâng phục đầy khổ đau, đầy cay đắng, thế nhưng chính những khổ đau này đã làm cho Mẹ được trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta hãy ngước mắt trông lên Mẹ để thấy được rằng: Đau khổ sẽ làm cho niềm tin thêm tinh ròng, đồng thơi không có một con đường nào của niềm tin mà không có những gian nan thử thách của nó.
Tuy nhiên, chúng ta tin chắc chắn rằng Đức Maria là Mẹ chúng ta, Ngài sẽ ra tay nâng đỡ và dìu dắt chúng ta trên con đường lữ hành của niềm tin cho đến lúc chúng ta được yên nghỉ trong tình thương của Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời, đó là một ngày vui mừng bởi vì chúng ta có được một người mẹ vừa quyền năng vinh hiển, vừa dạt dào tình thương để bầu cử cho chúng ta ở trên trời. Chúng ta hãy hợp ý với Giáo Hội mà cầu xin cho mỗi người biết luôn hướng tâm hồn lên những sự trên trời, để nhờ đó sẽ được chia sẻ phần hạnh phúc với Mẹ. Bởi vì Nước Trời mới thật sự là quê hương của chúng ta, hay như lời một câu dan ngôn đã bảo: Cuộc đời là quán trọ. Trái đất là con tàu chứ không phải là một nơi cư ngụ vĩnh viễn. Vậy thì tại sao Mẹ Maria lại được Chúa dành cho cái đặc ân cao cả ấy?
Tôi chỉ xin trình bày một cách vắn tắt. Sở dĩ Mẹ được như vậy, vì Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ liên kết mật thiết với Chúa trong tình thương, Mẹ chia sẻ với Chúa trong đau khổ. Cho nên Mẹ xứng đáng dự phần vinh quang phục sinh với Chúa. Hơn nữa Mẹ còn là Đấng Vô Nhiêm nguyên tội. Tâm hồn và thân xác Mẹ không hề bị hoen ố bởi tội lỗi, chính vì thế mà thân xác Mẹ sẽ không thể bị mục nát trong mồ.
Sau cùng qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta còn tìm thấy nơi Mẹ một đức tin sống động, làm nền tảng cho cuộc đời của Mẹ. Về điểm này, Đức Hồng Y Renau đã viết như sau: Đức tin của Mẹ Maria là một đức tin can đảm và vững chắc. Mẹ đã phải cùng con trốn sang Ai Cập. Bằng cặp mắt yêu thương Mẹ không ngừng theo dõi và nhìn ngắm Chúa trên mọi nẻo đường truyền giáo, để rồi cuối cùng chính Mẹ đã đứng dưới chân cây thập giá. Mẹ là người phụ nữ có đức tin vững chắc không chao đảo, có một đức tin Kitô giáo trưởng thành.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta hãy xin Mẹ luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Là một người mẹ khi còn ở trần gian, Mẹ đã hiểu được thế nào là tình mẫu tử, thế nào là cõi lòng của một người mẹ, thì bây giờ ở trên trời, Mẹ sẽ cầu bầu để Chúa ban xuống cho chúng ta những ơn huệ cần thiết.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta hãy chạy đến với Mẹ và suy gẫm cuộc đời của Mẹ, chúng ta sẽ được những tia sáng nhân đức của Mẹ chiếu soi. Cuộc đời của Mẹ là một lời mời gọi. Nhân đức của Mẹ là một cái gì hay lây lan. Nếu thực tâm tôn kính Mẹ, chúng ta sẽ sống một cuộc sống tin tưởng và phó thác, nhân từ và yêu mến, hy sinh và chấp nhận như Mẹ. Việc chúng ta tôn kính, ca tụng và yêu mến Mẹ sẽ làm cho chúng ta, những người con của Mẹ được tốt lành hơn.
Để kêt thúc tôi xin gợi lên ý tưởng đó là nhờ Mẹ mà chúng ta tiến đến cùng Chúa. Đức Kitô chính là trọng tâm, chính là trung điểm của đời sống chúng ta. Thế nhưng nhờ Mẹ mà chúng ta trở nên giống Chúa, nhờ Mẹ mà chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa, nhờ Mẹ mà chúng ta có được một đức tin kiên vững và trưởng thành, nhờ Mẹ mà chúng ta trở nên những Kitô hữu biết chu toàn những bổn phận của mình.
Như chúng ta đã biết Marilyn Monroe là một nữ tài tử nổi tiếng của Mỹ. Cách đây đúng 52 năm, tức là vào ngày 15.8.1962 cô đã chết. Cái chết của cô cho đến ngày hôm nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Có thể là cô đã tự tử. Có thể là cô đã bị Mafia hay dòng họ Kennedy giết chết. Cô đã ra đi giữa lúc danh vọng đang lên, tiền bạc đang lắm và thành công đang nhiều. Thế nhưng từ lúc cô nằm xuống cho đến ngày hôm nay, mỗi năm hàng ngàn, hàng vạn du khách đã viếng thăm ngôi mộ của cô tại thành phố Los Angeles và những cánh hồng không ngừng phủ kín nơi an nghỉ của một ngôi sao cô đơn. Viết về cô, người ta đã ghi nhận: Cô không còn là một con người, nhưng đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật, nhưng đã trở thành một thần tượng cho nhiều người. Và hơn thế nữa, mãi mãi cô đã trở thành một câu hỏi được nêu lên cho con người thời nay: Con người bởi đâu mà ra? Con người sống để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Tiền bạc và danh vọng có đủ để đem lại cho con người niềm hạnh phúc đích thực hay không? Trên phần mộ của cô, người ta đọc thấy một hàng chữ như sau: Chúng tôi thông cảm với cô. Bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những câu hỏi quá lớn về cuộc sống. Và nhất là, nếu như thiếu vắng một niềm tin vào cuộc sống thì sẽ không còn một chọn lựa nào khác hơn là cái chết.
Còn đối với chúng ta, những người đã có một niềm tin thì sao? Chúng ta không chối cãi: đã là người thì ai cũng phải chết. Cái chết gắn liền với thân phận con người. Nào có ai đã thoát khỏi lưỡi hát của tử thần. Thế nhưng, cũng có người đã chiến thắng được cái chết. Chúa Giêsu đã chết nhưng sau đó Ngài đã sống lại. Mẹ Maria cũng đã chết, nhưng rồi sau đó đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Với Chúa Giêsu và Mẹ Maria thì cái chết là khởi đầu của niềm hy vọng, là giây phút chúng ta được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu. Chính cái chết sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi vì có chết thì mới được sống đời đời. Như mùa đông có qua đi thì rồi những đợt nắng xuân hồng mới trở lại. Hạt giống có mục nát, thì mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái.
Nếu cái chết của Marilyn là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được đưa về trời, Mẹ Maria cho chúng ta thấy ý nghĩa của cuộc sống cũng như của cái chết, để rồi Mẹ trở thành niềm hy vọng cho chúng ta. Cho dù cuộc sống này có nghèo túng, có khổ đau thì nó vẫn có cái giá trị của nó. Bởi vì phải nhờ vào cuộc sống này mà chúng ta mới có thể chiếm lấy niềm hạnh phúc Nước Trời và cái chết chính là nét vẽ cuối cùng hoàn tất cho tác phẩm một đời của chúng ta, để rồi chúng ta sẽ dâng tác phẩm ấy lên Thiên Chúa. Và như vậy, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chúng ta chết là để được sống đời đời.
Chúng ta phải hiểu thế nào về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời?
Một số người trong chúng ta nghĩ tưởng rằng: Đức Mẹ được rước qua chín tầng mây để tới một nơi, gọi là quê trời. Nghĩ tưởng như vậy là lầm, bởi vì Giáo Hội không bao giờ chủ trương một sự chuyển hộ khẩu, một sự thay đổi nơi cư trú, một sự di chuyển trong không gian, trong vũ trụ như thế. Trái lại Giáo Hội muốn chúng ta dựa vào Tin Mừng để tìm hiểu về Mẹ, cho dù Tin Mừng nói rất ít về Mẹ nhưng cũng cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ với những đường nét chính yếu về Mẹ.
Thực vậy, Mẹ đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa bằng một lòng tin tưởng vững mạnh. Mẹ đã trở thành người tín hữu đầu tiên với lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. Hai chữ tôi tớ muốn diễn tả điều gì nếu không phải là tâm tình khiêm cung và niềm tin mến của Mẹ.
Với lời xin vâng ấy, Mẹ đã mở rộng cõi lòng đón nhận Con Thiên Chúa xuống thế làm người, không phải chỉ trong tâm hồn, mà còn nơi thân xác, nghĩa là trọn vẹn nơi con người của Mẹ. Bởi đó Đức Mẹ cũng là mẹ Con Thiên Chúa làm người, không phải chỉ bằng cách đã cưu mang, đã nuôi dưỡng, mà còn bằng cả tâm hồn, cả cõi lòng cũng như bằng cả cách lắng nghe và thực thi ý Chúa.
Mẹ đã đón nhận và hấp thụ trọn vẹn giáo huấn của Chúa Giêsu. Vì thế, không lời nào có tính cách tuyên dương Mẹ một cách mạnh mẽ cho bằng chính lời của Chúa Giêsu: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta? Đó chính là những người nghe và làm theo ý Cha Ta.
Mẹ Maria là một người tín hữu trọn vẹn. Mẹ đã lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ nơi tâm hồn và thể xác. Và như thế, Thiên Chúa cũng sẽ đón nhận Mẹ một cách trọn vẹn, cả hồn lẫn xác qua sự sống lại. Thực ra Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho tất cả những ai tin nơi Ngài vào ngày sau hết, khi mọi người cùng được sống lại.
Thế nhưng qua tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Giáo Hội muốn tuyên xưng điều đã xảy ra nơi Mẹ Maria thì cũng sẽ xảy ra cho mỗi người chúng ta. Từ đó chúng ta rút ra được một kết luận đó là mừng kính Mẹ Hồn Xác Lên Trời một cách thích hợp nhất đó là chúng ta hãy tiếp nối lời xin vâng của Mẹ một cách trọn vẹn, không so đo, không tính toán trước lời mời gọi của Chúa, để xây dựng một xã hội đầy bác ái và yêu thương.
Trong niềm tin của người Công giáo, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt qua chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Thực vậy Ngài đã được chọn giữa hàng con cái loài người để đón nhận Con Thiên Chúa vào trong thế giới con người và sống cuộc sống con người. Ngài đã khởi sự vai trò của Ngài bằng thái độ xin vâng đầy tin tưởng nơi tình thương của Thiên Chúa khi chương trình ấy còn là một mầu nhiệm. Nhưng thái độ xin vâng và phó thác ấy không thay thế nỗ lực lắng nghe và tìm hiểu. Những lời tiên đoán của các tiên tri về Chúa Giêsu, Con của Ngài, những lời giảng dạy, những thái độ và những việc làm của vị cứu tinh, đều được Đức Maria ghi giữ và suy nghĩ trong tâm trí.
Ngài đã không chỉ bị lôi cuốn vào công trình thực hiện ơn cứu độ xuất phát từ Thiên Chúa, mà Ngài còn đi vào trong mầu nhiệm cứu độ ấy bằng tất cả lòng trí của Ngài. Ngài đã không chỉ đón nhận Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cho con người, nơi thân xác Ngài, mà Ngài còn đón nhận ơn cứu độ ấy trong chính tâm hồn của Ngài. Đức Maria đã trở thành người đầu tiên trong hàng ngũ con người được lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa. Gạt bỏ những hình thức ông sùng mang nặng tính cách tình cảm và vô bổ, theo tôi nghĩ, cách sùng kính Đức Maria một cách đúng đắn nhất, vẫn là noi gương bắt chước Ngài đón nhận và sống ơn cứu độ của Thiên Chúa trong toàn bộ con người và cuộc sống của chúng ta. Xin vâng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đọc và tìm hiểu thánh ý Chúa, nhất là thể hiện thánh ý ấy trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Như Đức Maria, chúng ta phải đi vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, để trở thành một con người được cứu độ. Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những ân sủng thật lớn lao, trong đó có ơn Hồn xác lên trời, không phải chỉ vì Ngài đã cưu mang và hạ sinh Chúa Giêsu mà còn chính vì Ngài đã nghe và thực hiện lời Chúa, nghĩa là trở thành con người được cứu độ một cách trọn vẹn. Như thế, những ân sủng Đức Maria lãnh nhận được cũng là những ân sủng Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể cùng với Đức Maria hát bài ca Ngợi Khen Chúa vì những việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho Ngài và đang làm cho mỗi người chúng ta.
Bên ngoài Trinh Nữ Maria cũng giống như hầu hết các cô thôn nữ đồng quê chất phác ở Galilêa. Nhưng bên trong là cả một kho tàng thánh thiện. Và nhất là không ai có thể ngờ: là Mẹ Thiên Chúa.
Sứ thần Gabriel đã chào kính: Mẹ có phước hơn mọi phụ nữ. Trong Kinh Thánh có kể nhiều chuyện về thiên sứ, nhưng không hề ai được thiên sứ cháo trước và chào một cách kính cẩn như với Mẹ: Kính chào Maria. Với Giacaria chẳng hạn, thiên sứ không những không chào mà còn lên giọng nghiêm nghị. Và khi ông tỏ ra bỡ ngỡ: Làm sao có thể được như thế, vì tôi đã già, thì thiên thần liền quở phạt ông: Ngươi sẽ câm cho đến khi mọi sự việc ấy xảy ra.
Với Mẹ thì khác. Khi Mẹ hỏi lại: Làm sao có thể được như thế, vì tôi không biết đến người nam, thì sứ thần đã vội trấn an: Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền lực Đấng Tối Cao sẽ bao trùm cô. Rồi sứ thần còn đưa ra một bằng chứng: Hãy xem Elisabeth, người chị họ của cô. Bà ấy đã già mà cũng đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa chẳng có gì khó khăn hết.
Cố nhiên câu vặn hỏi của Mẹ không do lòng thiếu tin tưởng, nhưng do đức hạnh và tinh thần tận hiến thúc bách. Chính vì tư cách siêu phàm ấy Thiên Chúa đã chọn nàng vào một địa vị cao cả: Người con do cô sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Và như thế, Mẹ chính là mẹ của Ngôi Lời nhập thể, đồng thời cũng là mẹ chung của toàn thể nhân loại được cứu rỗi, của tất cả những người rồi đây sẽ mang tên Đức Kitô con Mẹ. Bởi vì nhờ Mẹ mà sự sống thần linh được trao lại cho chúng ta.
Hơn thế nữa dưới chân cây thập giá lời Chúa Giêsu còn vang vọng: Này là mẹ con. Này là con mẹ. Phải chăng kể từ giây phút ấy, giây phút của chương trình cứu độ được hoàn tất, cộng tác với Chúa Giêsu, Mẹ đã sinh ra một nhân loại mới, một thế hệ mới.
Và ngày hôm nay Mẹ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác để ân thưởng bội hậu. Với chức làm Nữ Vương trời đất, Mẹ dư khả năng để trợ giúp chúng ta. Với chức làm mẹ nhân loại, Mẹ dư tình thương để ra tay cứu vớt, bởi vì người mẹ nào chẳng yêu thương con mình, người mẹ nào mà chẳng muốn cho con mình những sự may mắn tốt lành. Bởi đó hãy tin tưởng và chạy đến với Mẹ như lời kinh chúng ta thường đọc: Xưa nay chưa từng có ai chạy đến cùng Mẹ mà Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
c. 39 - "Lên đường": Luca là người viết về những cuộc lên đường. Toàn quyển Tin Mừng là một cuộc lên đường của ơn cứu độ từ Nagiarét đến Giêrusalem. Quyển kế tiếp của Luca, Công vụ Tông đồ, lại là một cuộc lên đường khác của ơn cứu độ từ Giêrusalem đến trung tâm của thế giới thời đó là Rôma, để từ đó lên đường tỏa đến toàn thể thế giới.
- Đầu tiên hết là cuộc lên đường của Đức Maria. Người vừa được một niềm vui to lớn (x. bài "Truyền tin" Lc 1,26-38). Mà niềm vui thì không được giữ riêng cho mình, phải chia sẻ với người khác. Do đó Maria lên đường.
- Maria lên đường đi tới đâu? "Tới một thành thuộc miền núi vùng Giuđêa". Có lẽ đây là thành Ain Karim, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía Tây. Nếu đi từ Nagiarét thì phải mất chừng 3 hoặc 4 ngày.
- Chú ý trạng từ "vội vã": Maria nôn nóng đem niềm vui tới người khác.
c. 40 - Kẻ mà Maria muốn đem niềm vui tới chia sẻ là Êlisabét, vợ của Tư tế Dacaria. Êlisabét và chồng tuy đã rất già nhưng vừa mới được Thiên Chúa cho thụ thai đứa con đầu lòng.
c. 41 - Khi Maria vừa chào Êlisabét thì thai nhi "nhảy mừng" trong lòng bà. Sự thật có lẽ không đến như thế. Ở đây Luca diễn tả theo niềm tin bình dân: những cử động của bào thai là điềm báo trước tương lai của nó. St 25,22 viết rằng, bà Rêbecca mang thai hai đứa con (Êsau và Giacóp). Hai đứa "va chạm nhau" trong bụng mẹ, báo trước sau này chúng kình địch nhau. Còn trong chuyện này, thai nhi "nhảy mừng" trong bụng Êlisabét nghĩa là sau này nó sẽ là người mang tin mừng cho kẻ khác.
Trong chi tiết này, Luca cũng liên tưởng tới trường hợp của Giêrêmia (Gr 1,5), kẻ đã được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ ngay từ trong bụng mẹ.
Tóm lại, chi tiết này có nghĩa là Gioan Tẩy giả được Thiên Chúa chọn làm Tiền hô cho Đức Giêsu.
c. 42 - Khi ấy Êlisabét "kêu lên lớn tiếng": một phản ứng bất thường. Không phải chỉ lên tiếng đáp lại lời chào của Maria, mà "kêu lớn". Trong nguyên ngữ, động từ này có nghĩa là "bắt giọng", giống như người xướng kinh bắt giọng cho cả nhà thờ đọc kinh.
- "Em được chúc phúc giữa các phụ nữ": Cách nói của người Do Thái để diễn tả sự so sánh tối thượng cấp, nghĩa là: "Em là người có phúc nhất trong tất cả các người nữ".
c. 43 - "Mẹ của Chúa tôi": trong xã hội đa thê thời xưa, một ông vua có nhiều vợ, nhưng trong số đó, người vợ nào là mẹ của thái tử (sẽ lên ngôi) là có uy thế nhất. Bà được gọi là "mẹ của Chúa tôi". Như thế, danh hiệu này chỉ người đàn bà uy thế nhất trong nước.
- Thánh Luca cố ý viết câu nói của Êlisabét giống câu nói của ông Ôzia nói với bà Giuđitha (Gđt 13,18-19) "Bà có phúc trong mọi người nữ, và phúc thay Thiên Chúa là Chúa" (so với Lc 1,42: "Em có phúc trong tất cả các người nữ, và phúc thay hoa trái của lòng em"). Ý của Luca là so sánh Maria với bà Giuđitha, và so sánh Đức Giêsu với Thiên Chúa.
c. 45 - "Phúc cho em vì em đã tin": lịch sử cứu độ của dân Israel bắt đầu bằng một hành vi đức tin (Abraham tin Lời Thiên Chúa) (St 12, 1-5); lịch sử cứu độ của cả loài người cũng bắt đầu bằng một hành vi đức tin (của Maria). Và lịch sử cứu độ của mỗi người chúng ta cũng thế.
II - MỘT SỰ SO SÁNH KHÉO LÉO
Chúng ta đã thấy Luca khéo viết lời của Êlisabét cho giống với lời của ông Ôzia khen bà Giuđitha. Ngoài ra Luca còn cố ý viết toàn câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6). Sau đây là các chi tiết:
1- Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. * Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
2- Đavít đã "kêu lên" rằng: làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. * Êlisabét cũng "kêu lên": làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
3- Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. * Đức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
4- Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng; * Đức Maria cũng ở nhà Elisabét 3 tháng (xem câu 56)
III. BÀI CA MAGNIFICAT: cc 46-56
A. Nguồn gốc
- Về nội dung, bài thơ này góp nhặt nhiều ý tưởng của Cựu Ước (xem các ghi chú bên lề bản dịch: ít là 14 ý tưởng); về hình thức thì tương tự với bài ca của bà Anna (1Sm 2,1-10).
- Tác giả là ai? Có thể là Giáo Hội sơ khai, soạn để hát trong phụng vụ. Luca đã mượn và thích nghi để đặt vào môi miệng của Maria.
- Ý chính: Ngợi khen Thiên Chúa vì đã a/ bênh vực kẻ nghèo hèn và b/ yêu thương Israel. Khi áp dụng bài ca này cho Đức Maria, Luca muốn nói rằng Đức Maria chính là "người nghèo" chân chính nhất và là "Israel" thật.
B. Giải thích
46-47- Phải biết đến bối cảnh là 1Sm 1-2: Bà Anna là vợ chính của ông Elqanah, nhưng bà không có con, trong khi vợ nhỏ của ông lại có con. Người vợ nhỏ này chế nhạo và chọc tức Anna khiến bà vô cùng đau xót. Bà lên đền thờ cầu nguyện. Cuối cùng Thiên Chúa đã nhậm lời cho bà sinh con, tức là Samuen. Anna hớn hở vui mừng vui mừng cất lời tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa.
- "Hớn hở vui mừng" cũng là tâm tình của Đức Maria, vì thế Người ngợi khen Thiên Chúa.
46 "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa":
- "Linh hồn": các tác giả Thánh Kinh thường nói một phần để chỉ toàn thể. Nói "Linh hồn ngợi khen" là nói toàn thề con người ngợi khen. (xem Mc 14,34 "Linh hồn Thầy buồn đến chết")
- "Ngợi khen": cũng đong nghĩa với tạ ơn. Ngợi khen là một cách tạ ơn, tạ ơn bằng cách ngợi khen. Trong tiếng Việt, có một kiểu nói chứa dựng cả 2 ý ngợi khen và tạ ơn, đó là "Tán tạ".
48-53 Lý do 1 để ngợi khen: Vì Thiên Chúa đã bênh vực kẻ nghèo hèn, hiện thân cụ thể là Đức Maria.
- "Kẻ nghèo" (anaw) là một hạng người đặc biệt trong Thánh Kinh. Cái nghèo của họ không phải chỉ có nghĩa kinh tế (không tiền của), mà nhất là theo nghĩa tôn giáo: họ không nương tựa (vì không có, hay đúng ra không muốn có) bất cứ chỗ dựa nào khác (như tiền bạc, quyền lực, tài năng... kể cả uy tín đạo đức của bản thân) ngoài một mình Thiên Chúa. Vì thế chính Thiên Chúa đứng ra làm chỗ nương tựa cho họ, làm Đấng bảo vệ họ. "Kẻ nghèo của Yavê" (anaw Yahweh) là hạng người được Thiên Chúa ưu ái nhất.
- Đức Maria chính là một "kẻ nghèo" được Thiên Chúa ưu ái: a/ Qua biến cố Truyền tin, Chúa đã đoái thương nhìn đến Maria, một thiếu nữ tầm thường ở Nagiarét, khiến Người trở nên biểu tượng của hạnh phúc đến nỗi từ này về sau mọi thế hệ đều khen Người là diễm phúc; b/ Thiên Chúa còn làm cho Maria biết bao điều cao cả: thụ thai đồng trinh, làm mẹ Đấng Messia mà muôn dân hằng trông đợi.
- Sở dĩ Maria được như vậy vì Người có những đức tính của một "kẻ nghèo" đích thực: "kính sợ Ngài", "khiêm nhường", tin tưởng phó thác như một "nữ tì" của Chúa.
54-55 Lý do 2 để ngợi khen: Thiên Chúa đã yêu thương Israel mà Maria cũng là hiện thân:
- Xưa kia Ngài đã nhiều lần hứa với Abraham và các tổ phụ rằng Ngài sẽ cho các ngài có một dòng dõi đông đúc và từ dòng dõi ấy sẽ sinh ra Đấng Messia.
- Những lời hứa đó hôm nay được thực hiện nơi Đức Maria.
Ngay từ thời Trung cổ, Giáo hội đã tin chắc Mẹ Maria được đặc ân về trời cả hồn lẫn xác, thế nhưng mãi đến năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII mới long trọng công bố tín điều này cho toàn thể thế giới Công giáo.
Vậy dựa vào đâu chúng ta xác quyết được điều ấy?
Qua bài đọc thứ nhất, thánh Gioan đã mô tả cho chúng ta thấy cảnh tượng huy hoàng của Đức Trinh Nữ Maria:
“Một điềm lạ xuất hiện trên không trung. Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp vừng trăng và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
Công đồng Vatican II đã giải thích về cảnh tượng huy hoàng ấy như sau:
- Thiên Chúa đã nâng Mẹ lên, đặt Mẹ làm Nữ Vương trời đất, bởi vì Mẹ đã liên kết mật thiết với Đức Kitô, Con của Mẹ, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Một em nhỏ 8 tuổi, được cha mẹ dẫn tới Lộ Đức, và sau khi Đức Mẹ hiện ra, em đã hỏi chị Bernadette một cách đơn sơ:
- Thưa chị, thế Đức Mẹ có đẹp hơn mặt trời hay không?
Và chị Bernadette đã trả lời:
- Đẹp hơn nhiều lắm, nhưng chị vẫn có thể nhìn vào Mẹ.
Đúng thế, Mẹ Maria đẹp hơn cả mặt trời, nhưng không chói lòa, bởi đó trong ngày hôm nay, chúng ta hãy nhìn ngắm Mẹ bằng cặp mắt đơn sơ của chúng ta, cũng như hãy tìm lấy những lời nhủ bảo mà Mẹ muốn truyền đạt cho chúng ta.
Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác, đó là một ân huệ đặc biệt Chúa dành cho Mẹ. Tất cả các thánh, dù trong sạch đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải chờ ngày sống lại, thân xác mới được mặc lấy ánh vinh quang. Vậy tại sao Mẹ là người duy nhất được hưởng đặc ân này?
Tôi xin thưa:
Lý do thứ nhất, vì là Mẹ Chúa Giêsu, Đức Maria luôn kết hiệp mật thiết với Chúa và sự vinh quang của Mẹ cũng chỉ là một sự tham dự vào vinh quang của Chúa. Trước khi về trời Chúa Giêsu đã nói:
- Thầy đi để dọn chỗ cho các con.
Chắc hẳn Chúa sẽ không bắt Mẹ phải chờ đợi để thực hiện lời phán hứa ấy.
Lý do thứ hai, với đặc ân Vô Nhiễm, tâm hồn và thể xác Mẹ không hề bị hoen ố bởi tội lỗi, vì thế lý đương nhiên Mẹ sẽ không phải chịu cảnh hư nát trong mồ.
Lý do thứ ba, vì Mẹ đã chia sẻ những đau khổ thập giá với Chúa, nên Mẹ cũng được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài, như lời Mẹ đã nói:
- Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và danh Ngài là thánh.
Mặc dù bây giờ đã lên trời, nhưng Mẹ vẫn còn gần gũi với chúng ta và luôn chăm sóc đến mỗi người chúng ta, như Công đồng Vatican II đã xác quyết:
Với lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin, với những khổ đau khi đứng dưới chân thập giá, Đức Mearia đã trở nên Mẹ của chúng ta trong đời sống ơn sủng. Và bây giờ ở trên trời, Mẹ không ngừng bầu cử để chúng ta lãnh nhận được những ơn huệ cần thiết, hầu bảo đảm cho chúng ta phần rỗi linh hồn.
Với tấm lòng của một người mẹ, Đức Maria sẽ ra tay nâng đỡ và phù trợ chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách của cuộc hành trình trần gian, cho đến khi chúng ta đạt tới quê hương hạnh phúc nước trời.
Trên thế giới có những nơi đã được Mẹ chọn lựa để biểu lộ tình thương của Mẹ, như Lavang, như Lộ Đức, như Fatima.
Câu chuyện dưới đây đã xảy ra tại Lộ Đức.
Có một bệnh nhân đau nặng, được đặt nằm trên một chiếc ghế bố, bên cạnh con đường mà cuộc rước kiệu sẽ đi qua. Đức Giám mục cầm mặt nhật và ghi hình thánh giá trước mỗi bệnh nhân.
Người bệnh của chúng ta có một niềm tin tưởng vào Mẹ Maria. Thế nhưng khi Thánh Thể Chúa đi qua, anh vẫn chẳng cảm thấy một chuyển biến nào. Hơi buồn và thất vọng anh đã kêu lên:
- Con sẽ mách với Mẹ Maria cho mà xem.
Vị Giám Mục nghe thấy, quay lại và một lần nữa giơ cao mặt nhật và vẽ hình thánh giá. Lập tức anh ta được khỏi bệnh.
Là Nữ Vương trời đất, Mẹ có dư khả năng, là Mẹ chúng ta Mẹ có dư tình thương. Bởi đó, hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ, vì như lời thánh Bênađô đã xác quyết: Kêu cầu Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng.
Đức Maria là người được chúc phúc, không chỉ vì Mẹ là người đã lắng nghe Lời Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã đem Lời Chúa ra thực hành. Khi đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa vào lòng của mình, Mẹ đã không giữ Ngôi Lời lại cho riêng mình mà vội vàng đem Chúa đến cho người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria, hồn xác lên trời. Mẹ lên trời, mang lại cho chúng niềm hy vọng, cậy trông và đầy ủi an, vì Mẹ đi đâu thì chúng ta cũng đi đó.
Nhưng tại sao Đức Mẹ lại được đặc ân cao cả như vậy? Bởi cứ theo lẽ thường, thì sau khi nguyên tổ phạm tội, tất cả loài người đều phải chịu đau khổ và cuối cùng phải chết. Thân xác của chúng ta, khi kết thúc cuộc đời này, phải hư nát đi, đợi chờ ngày phán xét trong cuộc phán xét chung thẩm. Nhưng đối với Đức Mẹ, trong niềm tin của chúng ta, thân xác Mẹ đã không bị hủy diệt, vì Mẹ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Phải chăng vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa? Phải chăng vì Mẹ đã được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc đầu thai? Phải chăng vì Mẹ là Đấng trọn đời đồng trinh? Hay phải chăng Mẹ đã đồng công cứu chuộc cùng với người Con chí thánh của mình là Đức Giêsu Kitô?
Vâng, đúng như vậy. Nhưng hôm nay, Tin Mừng theo thánh Luca còn cho chúng ta biết thêm một lý do quan trọng nữa. Sở dĩ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác là vì Mẹ là Đấng đã vâng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa.
Mẹ là mẫu gương lắng nghe Lời Thiên Chúa
Bài đọc thứ nhất được trích trong sách Sử Biên Niên, nói về việc vua Đavít cho triệu tập toàn dân lại, và tổ chức một cuộc rước kiệu hòm bia Thiên Chúa thật linh đình. Cùng với nhà vua, còn có những người đứng đầu các thầy Lêvi, các ca viên, nhạc công, với đàn sắt, đàn cầm, thanh la não bạt. Đoàn rước tiến đi trong tiếng đàn ca hoan hỉ cùng tiến về Lều Hội Ngộ – là nơi đặt Hòm Bia. Họ vừa đi vừa hát: “Lạy Chúa, xin lên đường tới nơi an nghỉ. Chúa và Hòm Bia oai quyền Chúa cùng đi”. Hòm Bia giao ước là chiếc hòm được chạm trổ công phu, trong đó có chứa 2 tấm bia giao ước có ghi 10 điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho dân của Ngài qua trung gian là Môsê. Đối với Itraen, sự hiện diện của Hòm Bia giao ước cũng chính là sự hiện diện của Giavê Thiên Chúa. Đó cũng là niềm tự hào của dân Chúa chọn, bởi vì xung quanh Itraen, không có vị thần nào lại trực tiếp ở với dân của mình. Quả thật, còn gì hạnh phúc hơn khi được Thiên Chúa ở cùng.
Đức Trinh Nữ Maria cũng được nhìn nhận là Hòm Bia Thiên Chúa, như chúng ta vẫn đọc trong kinh cầu Đức Bà: “Đức Bà là Hòm Bia Thiên Chúa”. Sở dĩ chúng ta tuyên xưng như vậy, là vì Đức Mẹ là người đã cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô trong cung lòng của mình. Kể từ lúc Mẹ nói lời xin vâng khi sứ thần Thiên Chúa truyền tin, thì cung lòng của Mẹ trở nên Hòm Bia cho Thiên Chúa ngự vào.
Khi xuống thế làm người, Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chọn một người Mẹ cao sang, quyền quý, nhưng đã chọn Đức Maria, một tì nữ thấp hèn, trong ngôi làng nhỏ bé Nazaret. Tại sao vậy? Thưa bởi vì Mẹ đã lắng nghe lời Thiên Chúa. Cũng như biết bao thiếu nữ Dothái khác, Mẹ cũng biết rõ lời ngôn sứ Isaia loan báo 8 thế kỷ trước đó: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”. Nhưng Mẹ không bao giờ nghĩ là mình lại chính là “thiếu nữ đầy ơn phúc ấy”. Chẳng thế mà khi thiên thần Gabriel truyền tin, Mẹ hết sức ngỡ ngàng: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam?”. Sau khi nghe thiên thần giải thích, Mẹ đã hiểu rằng, Mẹ đang được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa và Mẹ đã cúi đầu thưa “Xin vâng” với tất cả sự khiêm tốn và lòng tin tưởng thiết tha: “Này tôi là nữ tì của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Nếu không là người thường xuyên suy gẫm Lời Chúa, chắc hẳn khó lòng mà hiểu ngay ra được đâu là chương trình và ý định của Thiên Chúa.
Mẹ là mẫu gương thực hành Lời Thiên Chúa
Đức Maria là người được chúc phúc, không chỉ vì Mẹ là người đã lắng nghe Lời Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã đem Lời Chúa ra thực hành. Khi đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa vào lòng của mình, Mẹ đã không giữ Ngôi Lời lại cho riêng mình mà vội vàng đem Chúa đến cho người khác như Tin Mừng theo thánh Luca đã thuật lại: Trong những ngày ấy, Đức Maria vội vã lên đường đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, để gặp bà chị họ Êlisabet, khi ấy đang có mang được 6 tháng. Mẹ đã ở đó giúp bà chị họ cho tới khi “Mẹ tròn con vuông”.
***
Mừng lễ Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời hôm nay, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình xem chúng ta đã biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa hay chưa?
Trên một tấm bia mộ cổ của một người Công Giáo đạo đức có ghi đôi câu đối: “Tin không việc làm, đức tin chết. Sống chẳng yêu thương, cuộc sống tàn”. Quả thật, chủ đề “Lắng nghe và thực hành Lời Chúa”, có thể chúng ta đã nghe đến nhàm tai; nhiều người chép miệng: “ôi dào, biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.
Vâng, từ xưa tới nay, tôi và anh chị em đã từng tự hào mình là người có đạo, chúng ta đã nghe Lời Chúa rất nhiều, nhưng trong giáo xứ, đây đó vẫn có những tranh giành, vẫn có những gia đình chưa được hòa thuận, vẫn có những gian lận trong làm ăn, vẫn có những bất công trong việc hành xử với anh chị em cùng xóm làng, cùng xứ đạo. Liệu như vậy, có phải chúng ta đang thực hành Lời Chúa dạy ?
Chúng ta tự hào rằng: mình vẫn đi nhà thờ, vẫn đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, nhưng đôi khi lại thiếu bác ái với anh chị em của mình.
Chúa nói: “Ai nghe và thực hành Lời Chúa thì như người khôn biết xây nhà trên đá”. Còn chúng ta, mặc dù tin vào Đức Ki-tô, nhưng trong cuộc sống thực tế, chúng ta lại xây ngôi nhà cuộc đời của mình trên những thứ cát như tiền tài, quyền lực, danh vọng…
Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã khẳng định: “Ngày nay, người ta cần những chứng nhân hơn là những nhà giảng thuyết. Sở dĩ người ta nghe lời những nhà giảng thuyết bởi vì người ta đã thấy họ sống chứng nhân”. Thánh tông đồ Giacôbê Tông đồ cũng đã từng nói: “Bạn hãy chứng minh cho tôi thấy đức tin không có việc làm của bạn. Còn tôi, bằng việc làm, tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2, 18). Chúng ta nghĩ gì về lời mời gọi đó?
“Lạy Chúa, từ trước tới nay, chúng con vẫn thường tự hào mình là người có đạo, chúng con đã nghe Lời Chúa dạy rất nhiều, nhưng lại chưa đem ra thực hành. Nhiều lần chúng con ngại ngần, nhát đảm, không dám làm chứng cho Chúa qua việc làm chứng cho sự thật, cho những điều thiện khiến cho nhiều người vì chúng con mà mất niềm tin vào Chúa.
Nguyện xin Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, giúp chúng con kể từ đây, thống nhất giữa lời nói và việc làm; để mai ngày, khi đến trước tòa Chúa, chúng con sẽ vui mừng nhận được lời chúc phúc của Chúa: “Phúc cho anh em là những người đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa”. Amen.
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời. Quả thật, việc Mẹ được vinh thăng về thiên quốc không chỉ mang đến cho chúng ta niềm vui, nhưng còn cho chúng ta niềm tin yêu và hy vọng.
Chúng ta vui vì Mẹ đã về quê hương đích thực trên trời, nơi không còn khổ đau, không còn tang ma, khóc lóc. Chúng ta hy vọng, vì sẽ có ngày chúng ta cũng được cùng Mẹ hưởng vinh phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhưng bởi đâu Mẹ được những đặc ân cao cả đó? Phải chăng vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa? Phải chăng vì Mẹ được đặc ân vô nhiễm nguyên tội? Phải chăng Mẹ là Đấng đồng trinh trọn đời?
Vâng, đúng như vậy. Nhưng Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1, 39-56) hôm nay còn cho chúng ta biết thêm, sở dĩ Mẹ được vinh phúc đó là vì Mẹ đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa, như chính lời Mẹ ca lên trong bài Magnificat: “Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn đến” (Lc 1, 48). Và để đáp trả lại tình thương ấy, Mẹ đã biết mau mắn vâng theo những tác động của Chúa Thánh Thần.
Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại rằng: “Trong những ngày ấy, Đức Maria vội vã lên đường đến một thành thuộc xứ Giuđa, vào nhà bà Eâlisabet” (Lc 1, 39). Sự “vội vã” ở đây không phải là hấp tấp, nhưng thể hiện một sự mau mắn, ước muốn được chia sẻ. Chúng ta biết rằng, để đi đến được với người chị họ, Đức Mẹ đã phải vượt qua quãng đường gập ghềnh, hiểm trở, dài hơn một trăm cây số, với phương tiện giao thông hết sức thô sơ. Sự “vội vã” của Mẹ, còn thể hiện một niềm hân hoan, vì Mẹ được đem Chúa đến cho người khác.
Khi được người chị họ khen là người có phúc nhất trong những người phụ nữ, Đức Mẹ đã không tỏ ra kiêu căng, tự phụ, nhưng Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa qua bài ca bất hủ mà cho đến hôm nay, Hội Thánh vẫn giữ lại trong lời kinh của mình: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).
Cũng như biết bao thiếu nữ Do-thái cùng thời, Mẹ biết rõ lời ngôn sứ Isaia đã từng nói trước đó 8 thế kỷ: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”, nhưng có lẽ, chưa bao giờ Mẹ nghĩ mình là người thiếu nữ “đầy ơn phúc” đó. Chẳng thế mà khi nghe thiên thần truyền tin Con Thiên Chúa nhập thể, Mẹ đã tỏ ra hết sức ngạc nhiên: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Nhưng khi nghe thiên thần giải thích, Mẹ đã hiểu rằng, mình đã được Thiên Chúa chọn để thực hiện công trình cứu độ của Người. Với tất cả sự khiêm tốn của một người tì nữ, Mẹ đã nói lời “xin vâng”: “Này tôi là nữ tì của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,38).
Braunstein đã từng nói một câu rất nổi tiếng rằng: “Có thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho”. Mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ đã không ngần ngại dấn thân phục vụ người chị họ mình đang mang thai trong lúc tuổi già. “Maria ở lại với bà Eâlisabet độ ba tháng, rồi trở về nhà mình” (Lc 1,56). Kinh Thánh chỉ diễn ta bằng mấy lời ngắn ngủi, nhưng chúng ta cũng có thể mường tượng ra sự vất vả của Mẹ khi phục vụ người chị họ sinh nở trong lúc tuổi già là như thế nào. Tuy nhiên, Mẹ đã không một lời phàn nàn, than trách.
***
Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi biến đổi đời sống của mình để trở nên giống như Mẹ.
Trước tiên là bài học về sự khiêm tốn. Mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, những Mẹ chỉ nhận mình là “tì nữ thấp hèn của Thiên Chúa”. Quả vậy, nếu không có một tâm tình đơn sơ khiêm tốn, chúng ta khó có thể nhận biết được ơn Chúa ban. Chính thánh Phaolô Tông đồ đã có kinh nghiệm này khi ngài khẳng định rằng: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,9-10).
Thứ đến là bài học về tâm tình tạ ơn. Sở dĩ Mẹ vội vã ra đi đem Chúa đến cho người chị họ, vì Mẹ đã cảm nếm được những ân huệ cao cả mà Thiên Chúa đã thi ân cho Mẹ, cho dù Mẹ chỉ là một tì nữ thấp hèn. Còn chúng ta, mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn lành từ nơi Chúa, như ơn được sinh ra làm người, ơn được làm con cái Chúa và Hội Thánh, ơn sức khỏe, ơn bình an… nhưng chúng ta có biết tạ ơn Chúa cho tương xứng hay không?
Sau cùng là bài học về sự phục vụ. Có lẽ, lời tạ ơn đẹp lòng Chúa nhất không phải là những lễ vật chúng ta dâng, nhưng là tình yêu thương, như lời Chúa phán: Ta đã chán ngấy của lễ toàn thiêu, chiên bò. Ta chỉ muốn tình yêu chứ không cần hy lễ…
Noi gương Mẹ đi thăm viếng, chúng ta cũng hãy biết mở lòng ra để đến với muôn người. Cuộc sống quanh ta, có biết bao người đang cần đến chúng ta trợ giúp. Sự giúp đỡ ấy, có thể chỉ là một lời thăm hỏi, một cái bắt tay, một ánh mắt cảm thông… Những sự chia sẻ tưởng chừng như đơn giản đó, đôi khi lại mang lại những kết quả to lớn.
Công việc tông đồ của chúng ta chắc chắn sẽ thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nếu như chúng ta biết đặt dưới sự trợ giúp của Mẹ. Để chớ gì, qua đời sống chứng tá của chúng ta, mọi người sẽ nhận biết, chúng ta là con của Mẹ và là con của cùng một Cha trên trời.
***
Lạy Mẹ Maria, hôm nay, Mẹ đã được Thiên Chúa đưa lên trời cao cả hồn lẫn xác. Hợp cùng với triều thần thiên quốc, chúng con xin chúc mừng Mẹ. Chúng con tin rằng, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng con. Với trái tim từ mẫu và đầy dịu hiền, xin Mẹ giúp chúng con cũng biết noi gương Mẹ, sống đơn sơ, khiêm tốn. Nhờ đó, chúng con có thể nhận ra những ơn lành của Thiên Chúa ban xuống trên cuộc đời mỗi người chúng con, để chúng con có thể sẵn sàng giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.
Trong dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có đến Nhà Thờ Thăm Viếng, nơi có tượng Đức Mẹ ngũ. Từ Nhà Thờ kính Thánh Gioan Tẩy Giả tại En Kerem, đi bộ một đoạn đường khá xa, lên một dốc cao rồi bước thêm đúng 66 bậc thang mới đến Nhà thờ. Từ trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng xa xa, quê hương Thánh Gioan Tiền Hô đẹp như một bức tranh mờ trong sương sớm.
Nhà Thờ dâng kính cuộc thăm viếng của Đức Mẹ. Khi nghe tin bà Isave mang thai, Đức Mẹ đã vượt đường sá xa xôi đến thăm và giúp đỡ. Từ Nazarét về tới En Kerem đường xa lắm, chừng 90 km và rất nhiều trắc trở hiểm nguy. Mẹ đã thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đặc biệt đến người chị họ Isave. Nơi đây, bài Magnificat đã được viết trên tường bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt Nam.
Sau kinh cầu nguyện trong Nhà Thờ Thăm Viếng, chúng tôi đi xuống tầng hầm, mỗi người thành kính quỳ gối lần hạt trước tượng Đức Mẹ ngủ. Nhìn Đức Mẹ thánh thiện ngủ giấc bình an, ai cũng cảm động nguyện cầu khấn xin. Nhiều người thổn thức bên Mẹ.
Theo truyền thống xa xưa, Đức Mẹ không chết, mà chỉ ngủ một giấc, rồi Chúa đưa Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác.
Phụng vụ đã cử hành ngày qua đời của Mẹ dưới nhiều tên gọi: Dormitio (an giấc), Depositio (an táng), Transitus (qua đời), Natalis (ngày sinh vào Nước Chúa). Tất cả những danh từ đó được dùng để nói tới cái chết của Đức Mẹ. Tiếng “assumptio” (bởi động từ assumere; sumere: cất lấy; ad: kết hợp, đoàn tụ), lúc đầu, ám chỉ việc linh hồn Mẹ được đưa vào vinh quang của Chúa (giống như các thánh); về sau, từ ngữ này được dùng để chỉ việc Mẹ được cất về trời. Giáo hội phân biệt hai từ ngữ ”ascensio” áp dụng cho Chúa Giêsu vì Ngài lên trời do quyền năng riêng, còn “assumptio” áp dụng cho Mẹ để nói rằng Mẹ được Chúa đưa về trời.
Tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời được Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố vào ngày 1.11.1950: “Sau khi đã mãn cuộc đời dưới đất, Đức Maria được đem về trời cả xác hồn”.
Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rằng Đức Maria không phải chết và xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ, nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ. Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về trời cả xác và hồn.
Nhìn Đức Mẹ ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Hôm nay, Giáo hội mừng kính Đức Maria được khải hoàn bước vào quê hương Nước Trời.
Bầu khí phụng vụ đượm sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây, Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất, là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi... khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này, chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Giáo Hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Đức Mẹ được lên trời hồn xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời, cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa.
Hồn xác lên trời là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho Mẹ. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất, là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Trong bài giảng tại Thánh địa La Vang ngày 15/8/2007, Đức Tổng Giám Mục Huế đã suy niệm: Đức Mẹ lên trời sau khi đã đi qua hết mọi nẻo đường đời của một người bình thường nghèo khó: nẻo đường không nơi trú ngụ; phải sinh con trong hang đá Bêlem; nẻo đường lánh cư sang Ai Cập đầy tiếng khóc than của các bà mẹ mà những đứa con thơ vô tội bị vua Hêrôđê sát hại; đường vào tiệc cưới Cana có tiếng vui cười của thực khách và đôi tân hôn; đường lên núi Calvariô, có tiếng nguyền rủa, tiếng búa đóng đinh của các lý hình; đường loan Tin mừng Chúa Phục Sinh và đường thẳng lên trời hồn xác trong tiếng reo vui của đất trời, của thần thánh, của loài người. Đức Mẹ đã sống thánh giữa đời, đã nên thánh qua những chặng đường vui, đường sáng, đường thương, đường mừng.
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng đang đi lại những chặng đường của Đức Mẹ: có cả vui, sáng, thương, mừng. Chúng ta lần hạt, tràng chuỗi nơi tay, miệng thầm thỉ, lòng kết hiệp với các mầu nhiệm vui mừng và đau thương của Đức Mẹ. Chúng ta cũng lần hạt một cách thiết thực nữa trong cuộc sống hằng ngày, mà tràng chuỗi và những hạt chuỗi giờ đây, chính là những hạt mồ hôi, những giọt nước mắt, những khổ đau, những oan ức..., và cũng chính là những tiếng vui cười, những tia hy vọng, những niềm hân hoan... Đó là tràng chuỗi sống, đi đôi với việc đọc kinh lần hạt của chúng ta.
Đức Mẹ được vinh hiển hồn xác trên trời là hình ảnh và là khởi đầu bảo đảm cho tương lai của chúng ta sau nầy cũng sẽ được như vậy, miễn là bây giờ chúng ta biết noi gương Mẹ mà sống thánh giữa đời, qua những chặng đường vui, sáng, thương, mừng của cuộc sống (x. LG 68).
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
1. Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
2. Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ ngay khi thành thai trong lòng mẹ.
3. Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh khiết vẹn toàn.
4. Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, kể ra 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
1. Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
2. Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
3. Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
4. Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
5. Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.
Mẹ đầy ơn phúc, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi... khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Ngày lễ hôm nay với sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Giáo hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Ngày lễ hôm nay, Giáo hội mừng kính một tạo vật đầu tiên, Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương thiên quốc. Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời: một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)…
Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”. Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu.Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. “Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 69).
“Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Mẹ Lên Trời, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969).Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, tin yêu phó thác nơi lòng thương xót Chúa.
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Lên trời không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc khám phá “lỗ đen” trong vũ trụ. Lên trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi thân xác chúng ta được sống lại.
Mừng lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Nói đến việc “lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc chắn!
MẶC KHẢI
Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12,2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12,3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12,5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12,5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12,6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Cựu ước cũng đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45),10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45),11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45),12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác:”Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45),16].
ỨNG NGHIỆM
Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15,22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15,25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!
Thánh sử Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Rồi chị Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,43-45).
Vấn đề là đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!
Nghe chị Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy (Lc 1,46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời Đức Mẹ nói chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh Magnificat mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt trong giờ kinh Thần vụ (kinh Nhật tụng).
Thánh sử Luca kể: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, nhất là để phục vụ bà chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả. Đức Mẹ là một nữ-tu-không-áo-dòng, không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Trên cả tuyệt vời. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một người Mẹ Thánh tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết khiêm nhường phục vụ và “xin vâng” như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, để chúng con chắc chắn được cùng Mẹ vui hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.
Mười lăm tháng Tám mừng vui Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang Niềm hy vọng thật rõ ràng Chúng nhân sẽ được hưởng chung Nước Trời
Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “mông triệu” (*). Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.
Thánh Gioan kể lại thị kiến, y như một đoạn phim dài đầy kịch tính và nhiều tình tiết: “Đền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 11:19a, 12:1-6).
Thị kiến kỳ lạ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.
Ngay cả Hồi giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ vương Hòa bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,... và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu,...
Tác giả Thánh vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” (Tv 45:10-12). Chắc hẳn phàm ngôn không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.
Tất cả phàm nhân đều phải bước qua ngưỡng-cửa-sự-chết theo quy luật sinh-tử, vì ai trong chúng ta cũng từng phạm tội nhiều. Nhưng chết không là hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chết đi để được sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.
Niềm hy vọng của Kitô hữu thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15:19). Niềm hy vọng của chúng ta không hề như vậy. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15:20-22).
Ai cũng lần lượt ra đi, kẻ trước người sau, như lá rụng về cội, dù lá xanh hay lá vàng, như Thánh Phaolô giải thích thêm: “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:23-24). Tất cả đều xảy ra đúng theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1 Cr 15:25-26).
Đức Kitô dùng thập giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét (x. Ep 2:16) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm của Thiên Chúa, tức là Lòng Chúa Thương Xót, điều mà không ai trong chúng ta khả dĩ hiểu thấu. Thánh sử Luca kể…
Hồi ấy, Cô em Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).
Đây là cuộc gặp lịch sử. Một người là mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của Vị Tiền Hô Gioan. Thấy Em họ Maria đến, Chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, Đức Maria cũng quá đỗi vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen (Magnificat, Lc 1:46-55), y như một bài thơ vậy:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, Như đã hứa cùng cha ông chúng ta, Vì Người nhớ lại lòng thương xót Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.
Kinh thánh cho biết rằng Đức Maria ở lại với Chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở về nhà. Đức Mẹ đã chứng tỏ lòng yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm Chị Êlisabét, đồng thời lại muốn chứng tỏ tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.
Trong Mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “ái mộ những sự trên trời”, quyết tâm hành động vì Nước Trời, dám khước từ trần gian để ưu tiên mọi sự vì Nước Trời, nhờ đó mà chúng con xứng đáng trở thành công dân Nước Trời vĩnh hằng. Lạy Mẹ, xin đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
***
(*) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ (chúa) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi (về trời), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.
Ngày 1.11.1950 Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau:"Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”. Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria. Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bầng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ. Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sung, dể mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.
1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?"
Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu. Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.
1.1 Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn
Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11,27). Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ. người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu. Đó là cái nhìn thường tình. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa".
Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: "Mẹ tôi và anh em tôi, chinh là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,2) Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu - Thiên Chúa làm người - tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ. Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác. Thán Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).
1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác.). “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người” Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác. Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa. Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác. Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.
2. "Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới"
Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quả khứ hiện tại và tương lai. Mẹ đã không ngừng “xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay. Và giờ đây tiếng xin vâng thết ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa" là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1 Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội
Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ. Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối. Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái "tôi" của mình. Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa. Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.
2.2 Mẹ Maria trọn đời đồng trinh
Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu. Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: "Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến" (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ). Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn. Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền cua Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa. Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.
Kết luận
Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và "Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.
Hôm nay, Giáo Hội tôn vinh người nữ tỳ khiêm tốn làng Nazareth, qua người nữ này mà trần thế nhận được ơn cứu độ. Chúng ta hân hoan vì Mẹ Maria được thông phần vinh quang của Con Mẹ trên thiên quốc. Từ trời cao, Mẹ hằng dõi theo chúng ta. Giờ đây, chúng ta hãy hướng về Chúa, Đấng mà Mẹ Maria đã nói là Người giàu tình yêu và thương xót.
Lạy Chúa Giêsu, lòng thương xót Chúa trải qua từ đời này đến đời kia.
Chúa ban dư đầy những điều thiện hảo cho người khiêm nhường.
Chúa nâng dậy những người hèn mọn biết đặt trọn niềm tin vào Chúa.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab
Mô tả trận chiến giữa Thiên Chúa và sự dữ, với chiến thắng cuối cùng thuộc về Thiên Chúa. Đức Maria và Con của Mẹ là trung tâm điểm của cuộc chiến đấu.
Bài đọc 2: 1 Cr 15,20-26
Chúa Kitô là Adam mới, Đấng xoá bỏ những thiệt hại do Adam cũ gây nên. (Giáo Hội nhìn Đức Maria như Eva mới, Đấng huỷ bỏ những thiệt hại do Eva cũ gây nên).
Tin Mừng: Lc 1,39-56
Đức Maria viếng thăm bà Elizabeth, Mẹ đã cất tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa vì muôn điều thiện hảo Người đã ban xuống trên Mẹ và trên dân Người tuyển chọn.
CHÚ GIẢI CÁC BÀI ĐỌC
Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời). Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: "Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc "thực hiện chính mình". Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức tin không luôn luôn đưa đến những sự dễ dãi. Thường thì ngược lại. Đức tin buộc chúng ta phải chiến đấu, mà không bảo đảm rằng có kết quả hạnh phúc. Một người sống đức tin sẽ không bao giờ thoái lui.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.
Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ. Hình ảnh con mãng xà tượng trưng cho quyền lực của sự dữ (con rắn trong sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia).
Người phụ nữ đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con, hình ảnh thông thường của quá trình hình thành một thế hệ mới. Con mãng xà tiến đến người phụ nữ với ý định nuốt ngay con của bà. Nhưng con bà được đưa ngay lên cho Thiên Chúa, ám chỉ sự lên trời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đánh bại con mãng xà và đã ngự trị bên hữu Thiên Chúa. Trong khi đó, người phụ nữ (Giáo Hội) trốn vào trong sa mạc, nơi đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, giống như dân Israel thuở xưa. Những vần thơ cuối là lời ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và của Đức Kitô.
Khi thị kiến này được viết ra, như người phụ nữ trong thị kiến, Giáo Hội đang trải qua đau khổ và bị bách hại, và phải đi vào trong hoang mạc để trốn thoát. Bài đọc có ý nghĩa khích lệ các Kitô hữu tiên khởi bằng lời xác quyết rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng. Điều đó cũng khích lệ chúng ta ngày hôm nay.
Mặc dù "người phụ nữ" chủ yếu tượng trưng cho Giáo Hội, nhưng luôn được liên kết với Đức Maria. Là Mẹ của Đấng Mêsia, Mẹ là trung tâm của cuộc chiến giữa Thiên Chúa và quyền lực của sự dữ. Bởi thế, thật hoàn toàn thích hợp khi Mẹ thông phần trong chiến thắng của Con Mẹ (qua biến cố Mẹ lên trời).
Hình ảnh chứa đựng trong sách Khải Huyền không phải là một hình ảnh xinh đẹp. Thật sự, ý tưởng con mãng xà mười sừng bảy đầu đang chực sẵn trước người phụ nữ, để khi bà sinh con xong, nó sẽ nuốt lấy đứa trẻ, cũng thật khủng khiếp. Chúng ta phải nhớ rằng cảnh tượng mô tả ở đây mang tính biểu tượng cao. Nó diễn tả điềm báo trước đầy kịch tính trong sách Sáng Thế, mối thù được đặt giữa con rắn và người phụ nữ. Người phụ nữ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến với những quyền lực sự dữ, biểu tượng là con mãng xà. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, người phụ nữ đã chiến thắng.
Hầu hết các bức tượng chân dung về Đức Maria đều diễn tả hình ảnh Mẹ Maria như một nữ sinh xinh xắn dịu dàng, Đấng dường như không hề động đến thế lực của sự dữ trần gian; tiếng kêu la từ xa thẳm phát ra nơi người phụ nữ đang đối đầu với con mãng xà và đã chiến thắng. Dù sao hình ảnh thứ hai mới miêu tả được sự thật quan trọng nơi Đức Maria. Đức Maria phải đối đầu với con mãng xà. Mẹ đã phải trải qua cơn đau đớn của người phụ nữ sinh con. Chẳng bao lâu sau khi sinh con, Mẹ phải lẩn trốn sang Ai cập bởi vì bạo chúa Hêrôđê muốn tìm giết Con Mẹ. Tâm hồn Mẹ như bị lưỡi đòng đâm thâu với những đau khổ trên đồi Canvê khi chứng kiến sự sống Con Mẹ đang bị lấy đi. Đây là câu chuyện về Đức Maria được thuật lại trong Tin Mừng.
Như Đức Kitô là Adam thứ hai, thì Đức Mẹ cũng được xem là Eva thứ hai. Nhưng không như Eva thứ nhất, Mẹ đã hằng vâng phục Thiên Chúa. Bởi thế, Mẹ là ngọn hải đăng hy vọng cho chúng ta, bởi vì Mẹ thoát khỏi nanh vuốt của mãng xà và đã được đưa về trời. Vai trò trung gian của Mẹ cho chúng ta niềm tin tưởng. Gương mẫu của Mẹ mang đến cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục chiến đấu.
Có rất nhiều nỗi đau, thống khổ và bạo lực trên thế giới. Tất cả chúng ta đều bị tổn thương bởi chúng. Và chúng ta cũng phải chiến đấu chống lại tội lỗi. Và rồi sự dữ lớn nhất cuối cùng mà chúng ta phải đánh bại đó là sự chết.
Như Chúa Giêsu, Đức Maria thu phục những bạo lực, biến đổi nó, để chuyển đổi thành tình yêu và tha thứ. Đây là chiến thắng của tình yêu vượt trên mọi quyền lực huỷ diệt. Không có gì ngoài tình yêu nơi Mẹ Maria. Hãy sống tràn đầy tình yêu khi chúng ta đang trải qua những giai đoạn khó khăn.
Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì “từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình (Ga 19,27). Sách Công vụ nói đến việc “Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất trí cầu nguyện” (Cv 1,11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào âm thầm cầu nguyện và những kỷ niệm đã ghi trong lòng” (Lc 2,51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước mặt thế gian như Chúa đã truyền: “Các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy” (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là “nữ tỳ Thiên Chúa”.
Mẹ về sống ở Ephesô với thánh Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vuợt qua để về với Chúa. “Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn” (GH 59).
Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này như sau:
Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, Tòa Thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác lên trời. Ngay trong Công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín. Sau thế chiến thứ II, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gửi tới Đức Thánh Cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học Công giáo. Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gửi các thỉnh nguyện tập thể. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Đức Piô XV đã gửi cho mọi giám mục một lá thư, xin các ngài trả lời cho câu hỏi sau đây:
“Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay không? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không?”
Đã có 1191 thư trả lời, trong đó 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo Hội Đông phương hợp nhất với Tòa Thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế là đã có một sư đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với tín điều Công giáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng ta chung một niềm tin với Giáo Hội vì:
- Đã có một liên hệ mật thiết giữa hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.
- Việc lên trời hồn xác của Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thề hư hoại.
- Sau nữa, Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8,29-30; 2Cr 5,2-5).
“Lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ này làm cho Giáo Hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô, một anh em Người thông phần máu thịt với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang” (Dt 2,14) (Marialis Cultus).
Vào năm 1917 Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ ở Fatima nước Bồ Đào Nha. Lucia 10 tuổi, Jacinta 7 tuổi và Phaxico 9 tuổi. Khi các em đang chăn cừu, một luồng sáng chói chiếu trên nền trời; bỗng nhiên Đức Mẹ hiện ra và nói với các em: “Ta từ trời đến”. Từ tháng năm đến tháng mười, Đức Mẹ hiện ra với các em 6 lần, lần hiện ra cuối cùng có phép lạ mặt trời nhảy múa và thánh gia thất hiện ra, trong nhân tính của Chúa ban phép lành cho đám đông. Đức Mẹ mặc áo choàng núi Camelô, hàng ngàn người đã chứng kiến phép lạ và chứng thực sự kiện xảy ra.
Dù bạn tin hay không tin sư kiện Fatima. Bạn hãy chú ý đến những gì em Jacinta làm trong những năm sau đó. Em lên núi và đọc kinh “Kính Mừng”, em ngừng lại từng chữ. Em đọc “Kính Mừng” rồi đợi một tiếng dội lại từ vách núi, chậm rãi và kính cẩn em đọc Kính Mừng Maria một cách say sưa.
Em bé đó được nhận ra, cũng vậy bạn và tôi phải ý thức rằng: những lời Kính Mừng Maria được đem từ trời xuống, phần đầu, “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” do sứ thần nói với Maria: Người sẽ làm Mẹ Thiên Chúa, phần nhì “Bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ và con lòng bà gồm phúc lạ” là lời của Bà Elisabeth được linh ứng từ trời trong bài Tin Mừng hôm nay, phần cuối cùng do Giáo hội của Chúa thêm vào cũng với nghĩa được đem xuống từ trời, như khi Đức Mẹ hiện ra ngày 19.8.1917, Mẹ nói với ba em ở Fatima: “Hãy cầu nguyện cho kẻ có tội”.
“Khi nay và trong giờ lâm tử” rất phù hợp với ngày lễ Đức Mẹ lên trời, nghĩa là vào cuối cuộc đời, Đức Mẹ được rước về trời cả hồn lẫn xác. Chúa Giêsu không muốn để Mẹ thanh sạch của Người phải chịu cảnh hư nát trong mồ. Đó là chân lý vinh quang sáng ngời chúng ta mừng lễ hôm nay.
Cùng với Đức Mẹ, chúng ta vui mừng, chúng ta muốn nói với Người rằng: chúng ta vui mừng, chúng ta muốn nói với Người bằng ngôn ngữ của Người, nhưng tốt hơn vẫn là những lời trong kinh Kính Mừng, những lời từ trời đem xuống. Như Sacinta, chúng ta muốn đọc từng lời với tình mến yêu và kính cẩn. Chúng ta mong được nghe từng tiếng dội từ trời.
Đức Maria lên trời là mầu nhiệm thứ tư mùa mừng của chuỗi Môi khôi. Đức Maria thăm viếng trong câu chuyện bài Tin Mừng hôm nay là mầu nhiệm thứ hai năm sự vui. Sau thánh lễ hôm nay, chúng ta đọc to kinh kính mừng trong chuỗi Môi khôi để kính nhớ hai biến cố vui mừng và vinh hiển trong cuộc đời Chúa Giêsu và mẹ Người.
Lời kinh chúng ta sẽ dội lại từ bàn thờ, nơi đây có Chúa ở cùng chúng ta, nơi dây quả phúc của lòng Đức Mẹ lại càng tái sinh. Nơi đây chúng ta xin được ở trên thiên đàng với mẹ Thiên Chúa. Nơi đây chúng ta cử hành nghi lễ cầu nguyện giải cứu chúng ta là những kẻ tội lỗi. Nơi đây chúng ta nghĩ đến sự chết của chúng ta khi chúng ta cử hành sự chết của con Đức Maria, Chúa chúng ta, Đấng cứu độ chúng ta. Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta cử hành hy lễ của con Mẹ với tất cả những gì chúng ta có.
William Lyon Phelps là một nhà phê bình văn học nổi tiếng, một giáo sư Anh văn tại đại học Yale từ năm 1901 đến 1933. Những tác phẩm của ông đã hình thành khuynh hướng văn chương Mỹ lúc bấy giờ. Dưới đây là điều ông viết về lễ Đức Mẹ lên trời. Lễ chúng ta mừng hôm nay.
Dù tôi không phải là một người công giáo, tôi luôn luôn dự lễ tại một nhà thờ công giáo trong ngày lễ Đức Mẹ lên trời. Từ năm 1928 nhà thờ công giáo gần nhất ở cảng Custin tiển bang Michigan cách chỗ tôi ở chừng 12 km. Tôi nhớ nhà thờ này mỗi năm trong ngày ấy để tôn kính Đức Mẹ. Nên nhớ rằng: người công giáo không thờ Đức Trinh Nữ. Họ thờ một mình Thiên Chúa, nhưng tôn kính Đức Maria và cầu khẩn với Người.
Đây là một người không Công giáo, một giáo sư học vấn cao tại một đại học quan trọng, một nhà văn đáng kính, một nhà phê bình văn học đã bầy tỏ lòng trìu mến Đức Trinh nữ trong ngày lễ lên trời vinh hiển này. Ông viết trên một cột báo được nhiều người đọc, người có tín ngưõng cũng như không tín ngưỡng. Ong Phelps thích ý tưởng Đức Mẹ cất nhắc lên trời. Tôi thích ý tưởng đó, bạn cũng vậy, nhiều người không công giáo cũng vậy, họ yêu mến, ngưỡng mộ Mẹ Thiên Chúa.
Rất nhiều người công giáo, vâng, và không công giáo họ có thể biết rất ít hay không biết gì về thần học liên can đến đức Maria, nhưng họ khâm phục và yêu mến Người.
Hơn nữa, ngoài mọi giáo huấn chính thức của Giáo hội Chúa Kitô, đối với Đức Maria là lòng mến yêu thâm sâu của chúng ta đối với người phụ nữ được lựa chọn trong các người phụ nữ để cho con của Thiên Chúa, Đấng cứu thế Giêsu bản tính của nhân loại.
Tôi có quyền yêu mến Người mặc dù tôi chưa hiểu người đầy đủ. Chúng ta có thể thích một người nào đó dù chúng ta không biết chắc và đầy đủ tại sao chúng ta thích họ. Tỷ dụ chúng ta thích một người phụ nữ, những phụ nữ khác chúng ta không thích. Dĩ nhiên chúng ta thích, thích người này hơn người khác. Một ít người chúng ta thích nhất, trong vài trường hợp, chúng ta thích hay yêu một người phụ nữ nào đó nhất. Tôi có quyền yêu Đức Mẹ Maria hơn tất cả.
Người là một nhân vật lịch sử. Người thực sự hiện hữu, Người được Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần yêu thương, Người được Chúa Giêsu, Con của Người cũng là Con của Thiên Chúa yêu thương.
Tôi yêu Người vì Chúa Giêsu yêu Người.
Những nhà thi sĩ nổi tiếng, các họa sĩ, nghệ sĩ yêu mến Người. Những người như William Phelps yêu mến Người. Họ ý thức rằng: đây là một phụ nữ trọn hảo, được chính Thiên Chúa làm cho trọn hảo.
Hôm nay, ngày lễ Mẹ lên trời, chúng ta nói với Mẹ: “Chúng con yêu Mẹ, không phải vì Mẹ được lên trời cả hồn và xác; nhưng vì chính Mẹ, Mẹ đáng yêu hơn mọi phụ nữ”
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta kính nhớ việc Đức Maria hồn xác lên trời, nơi đó, Mẹ được thông phần trọn vẹn vào vinh quang của Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha. Tất cả hồng ân nơi Mẹ đều đến từ mối tương quan của Mẹ với Chúa Giêsu. Chúng ta không thể hiểu được về Mẹ hoặc nhận định đúng về vai trò của Mẹ trong Giáo Hội, nếu không đặt nền tảng này trong tâm trí ta.
Có một câu chuyện kể về một người phụ nữ rất thích tranh vẽ, tên bà là Adrienne. Ngày nọ, trong một cửa hàng đồ cổ nhỏ bé nơi thôn dã, bà tiến đến một bức tranh nhỏ mà bà tin rằng đó là bức chân dung tự hoạ của một bậc thầy hoạ sĩ vĩ đại. Tự nhiên, bà cảm thấy vui sướng vì phát hiện này của mình. Ngay tức khắc, bà biết rằng rồi sẽ có nhiều rắc rối đến với bà.
Mang bức tranh về đến nhà, bà quét sạch những lớp bụi bám vào. Trong khi làm việc này, bà càng tin chắc rằng đó đích thật là bức tranh nguyên bản, mặc dù tự nhiên bà cũng có thoáng chút hoài nghi.
Nghĩ rằng bảo tàng viện quốc gia sẽ rất chú ý đến phát hiện này của bà, bà gửi những tấm ảnh chụp bức tranh đến các tác giả kiệt xuất về nghệ thuật trong nước. Thật quá đỗi ngạc nhiên đối với bà vì họ chẳng hề quan tâm, hầu hết các nhà chuyên môn chẳng chút bận tâm để đến xem bức tranh khi nó được triển lãm tại một phòng trưng bày công cộng. Giám đốc phòng triển lãm quốc gia tuyên bố chắc nịch rằng bức tranh đó không phải là nguyên bản.
Nhưng Adrienne không đầu hàng. Bà hết sức cố gắng có thể. Bà đem bức tranh đi kiểm chứng bằng tia X quang tại phòng thí nghiệm của cảnh sát, và dưới sự phân tích của tia X quang, tên viết tắt của bậc thầy hội hoạ hiện dần lên trên những lớp màu. Bà lập tức gửi ngay kết quả kiểm định cho một trong những nhà chuyên môn. Ông lịch sự bày tỏ sự quan tâm nhưng vẫn trung thành với nhận định trước đây: bức tranh này không phải là nguyên bản.
Bà tiếp tục nghiên cứu và đào sâu lịch sử, và đã phát hiện được những chứng cớ giúp xoá đi tất cả những nghi ngờ để khẳng định được là bà đúng. Cuối cùng, một buổi lễ long trọng đã diễn ra tại Viện hàn lâm nghệ thuật để ca ngợi bà. Nếu không có những nỗ lực, bền chí và lòng kiên định của bà, bức tranh sẽ không bao giờ được đưa ra ánh sáng.
Chúa Giêsu là chân dung tự hoạ của Thiên Chúa. Nhưng nhờ Đức Maria mà Người đã được hạ sinh giữa loài người chúng ta. Đức Maria đã chăm sóc nuôi nấng Người trong suốt những năm Người sống ẩn dật, không ai biết đến, và chẳng ai nhận ra được Người. Và cuối cùng, khi Người bước ra từ trong bóng mờ, để bắt đầu cuộc sống hoạt động công khai, Người cũng chẳng được toàn thể mọi người hoan hô đón nhận. Thực vậy, giới lãnh đạo tôn giáo từ chối tin vào Người. Nhưng Mẹ Maria vẫn hằng tin tưởng vào Người, giữ vững quan điểm về Người cho đến cùng.
Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, phục hồi vinh quang cho Người, "Thiên Chúa siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu" (Pl 2,9). Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thế nên, Đức Maria chẳng lẽ lại không thông phần với chiến thắng vinh quang của Con Mẹ sao. Thật chính đáng, điều mà chúng ta cử hành hôm nay, tán dương Mẹ Maria, cô thôn nữ khiêm nhường làng Nazareth.
Mỗi người chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như trong tiệc cưới Cana, Đức Maria vẫn tiếp tục cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Mẹ vẫn giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu giữa bản năng con người với phẩm giá thần linh, và để sống một cuộc đời phù hợp với phẩm giá cao cả ấy. Với sự trợ giúp của Mẹ, và với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta hy vọng được cùng thông phần vinh quang với Mẹ và với Con Mẹ trên Nước Trời.
Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Rôma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính - Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu - Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ - Chúa chúng ta dẫn mẹ Ngài lên ngai trên trời.
Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Trở lại năm 457, Đức Giám mục của Giêrusalem đã bày tỏ niềm tin được truyền tụng từ các tông đồ: “Đức Maria qua đời có các tông đồ vây quanh, nhưng về sau khi mộ Ngài được mở ra thì hoàn tòan trống rỗng, và các tông đồ kết luận rằng xác Ngài đã được đưa lên trời”.
Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Ngài đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài ban cho Mẹ đặc ân lên trời cả hồn và xác.
Chúa Giêsu vui mừng biết bao khi đón Mẹ Ngài vào nhà Ngài trên trời. Còn Đức Mẹ vui mừng biết bao, khi gặp lại Con trong thể xác; các thiên thần và các thánh trên trời vui mừng biết bao khi đón chào Nữ Vương, Mẹ mình. Chúa Cha trên trời vui mừng biết bao khi đón nhận người con sủng ái. Chúa Thánh Thần vui mừng biết bao khi gặp lại người Phụ nữ được tuyển chọn cộng tác vào việc đem con Thiên Chúa xuống trần gian. Thánh Giuse vui mừng biế bao khi có người bạn đời ở trần gian cùng ở trên trời.
Niềm hạnh phúc này của những người thân yêu gặp lại nhau là điều tất cả chúng ta có thể trông đợi. Trong ngày lễ Mông Triệu này, chúng ta có thể nhìn vào ngày chúng ta sẽ được lên trời, nơi chúng ta sẽ gặp những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta không thể suy tư về điều này cho đủ được.
Chúng ta có nhiều điều để suy nghĩ về sự chết. Vậy hãy suy nghĩ về chân lý vui mừng và hy vọng là một ngày kia chúng ta sẽ gặp lại. Chúng ta cần nắm giữ tư tưởng này trong ngày lễ vui mừng hôm nay.
Bạn hãy cầu nguyện hôm nay với nghĩa đặc biệt theo những lời của Kinh nguyện Thánh Thể II, “Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa... và toàn thể các Thánh”. Bạn hãy đọc kinh Kính Mừng và chú ý đặc biệt lời: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Tất cả chúng ta hãy chia sẻ niềm vui của Đức Mẹ được đón nhận vào Nhà Thiên Chúa với các bạn hữu của Thiên Chúa.
Theo hai cha Pohle và Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời. Nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV hiện ở nền nhà thờ Santa Engracia thành Saragossa (Tây Ban Nha) có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Và chứng tích của Thánh Epiphanô cho biết niềm tin Mẹ Maria bất tử và thân xác Mẹ vinh quang đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như Antiokia. Do xác tín và ngợi khen "Chức phẩm Thiên Mẫu" và "Đức Đồng trinh" của Mẹ là hai căn nguyên bước vinh quang của Người, Thánh Epiphanô mở đường cho lòng tin và sự xác quyết của các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục, các nhà thần học và toàn thể Giáo hội.
A. Các Thánh Giáo phụ
Các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu như các Thánh Môđestô, Basiliô, Giêrônimô, Augustinô, Germanô, Đamascenô, và Thêôđôrê Studium đồng thanh tung hô bước vinh quang của Mẹ Maria do chức phẩm Thiên Mẫu và đức Đồng trinh của Mẹ. Riêng Thánh Đamascênô nói: "Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra đã gìn giữ vẹn tuyền đức Trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh".
B. Các Đức Giáo hoàng
- Đức Adrianô I và Đức Pascalê I có những đồ thờ trang trí bằng hình ảnh Mẹ lên trời.
- Đức Alexanđrô III nói: "Mẹ Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn".
- Đức Thánh Piô V sửa đổi lại kinh Phụng vụ với bài đọc lễ Mẹ lên trời.
- Đức Bênêđictô XIV: Về ngày lễ Đức Mẹ lên trời, Giáo hội đọc các bài giảng của thánh Đamascenô và thánh Bênađô thấy rõ ràng Rất thánh Trinh Nữ lên trời cả hồn và xác: Đó là một dấu chỉ và một bằng chứng niềm tin của Giáo hội.
- Đức Piô XII nối tiếp các Đức tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong Thông điệp "Corporis Mystici" ngày 29-6-1943, ngài viết: "Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ".
C. Các Đức Giám mục và toàn thể Giáo hội
Ngày 23-2-1870, 200 Giám mục của Công đồng Vatican I làm đơn thỉnh nguyện Đức Thánh Cha định tín Đức Mẹ hồn xác lên trời. Năm 1920, 260 Giám mục từ nhiều nước cũng hợp ý tâu xin, đầu tiên là các Giám mục nước Ý, nước Pháp, trong khi các Hội đồng Giám mục nước Đức, Áo, Anh, và Thụy Sĩ còn im lặng. Năm 1934, sau năm năm chiến dịch "Forge Italiane" ráo riết vận động, 600 Tổng Giám mục và Giám mục đã chấp thuận cuộc trưng cầu dân ý khắp thế giới tâu xin Toà thánh định tín.
Tại Pháp và Ý năm 1929, một hội cầu nguyện được thành lập để xin Chúa cho việc định tín được thành tựu. Đại hội Thánh Mẫu tại Nantes năm 1924 cũng bày tỏ nguyện vọng đó.
D. Các nhà thần học
Nối tiếp các Thánh Giáo phụ và Thẩm quyền của Giáo hội, các nhà thần học qua các thế kỷ cũng tích cực đồng tâm nhất trí về tín lý Mẹ Maria hồn xác lên trời:
Thế kỷ XII và XIII, có các Thánh Albertô, Bônaventura, Tôma, Fullertô và các nhà thần học Hugh St. Victor, Sicard Cremona, Durand Mende. Thế kỷ XV có Thánh Antôniô và nhà thần học Gabriel Biel. Thế kỷ XVI có các Thánh Canisiô, Bellarminô, các nhà thần học Suarez, Soto, Đức Hồng y De Berulle và cả trường phái Pháp. Thế kỷ XVII có các nhà thần học Billuart, Theophile Raynaud. Thế kỷ XVIII có Thánh Anphong, Đức Hồng y Lambertini (sau này là Đức Giáo hoàng Beneđictô XIV), các nhà thần học Sedlmayr, Trombelli. Thế kỷ XIX và XX có các nhà thần học Scheeben, Lannerz, Janssens, Lagrange, Jugie, Roschini, Balic, Bittremieux và Đức Hồng y Lépicier. Theo cha Deneffe, từ cha Scheeben có ít là 18 nhà thần học xác quyết rằng tín lý Mẹ hồn xác lên trời có thể định tín. Nhà thần học Sertillanges viết một câu rất dí dỏm về sự phục sinh của Mẹ: "Chúng tôi tin rằng đường lối mọi xác phàm phải ngoắt quay đi khi nói về Đức Trinh Nữ. Anh hùng ca của sâu bọ phải im bặt để chúng ta ca lên trên ngôi mộ này Hoan khúc Magnificat thay vì Ai khúc De profundis".
Như vậy, toàn thể Giáo hội cùng với các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo hoàng và các nhà thần học đều cùng một niềm tin Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác. Do đó, cùng với nhà thần học Bainvel, dân Chúa tin tưởng tín lý Mẹ hồn xác lên trời mau chóng được định tín.
E. Chuẩn bị định tín
Ngày 1-5-1946, với Thông điệp "Deiparae Vir-ginis" gửi các Giám mục khắp Giáo hội, Đức Piô XII cho biết từ năm 1840 đến năm 1940 những đơn thỉnh nguyện tâu xin Toà thánh định tín Mẹ Maria hồn xác lên trời đã đóng thành hai cuốn sách. Những đơn thỉnh nguyện này do các Đức Hồng y, các Thượng phụ Giáo chủ, các Giám mục, đặc biệt 200 Nghị phụ Công đồng Vatican I, các linh mục, tu sĩ nam nữ, các trường Đại học, các đoàn thể và đông đảo giáo dân. Đức Thánh Cha xin các Đức Giám mục cho ngài biết lòng sùng kính Đức Mẹ lên trời của hàng giáo sĩ, giáo dân của giáo phận các ngài và xin các ngài theo sự khôn ngoan xét đoán thế nào về việc tuyên tín.
Ngày 30-10-1950, Đức Thánh Cha gửi tông thư cho Cơ mật viện, loan báo vào ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, một biến cố sẽ là niềm vui lớn lao cho toàn thế giới Công giáo. Đó là nhờ ơn soi động và sự trợ lực của Thiên Chúa, ngài sẽ tuyên tín Đức Mẹ hồn xác lên trời. Một tia sáng mới sẽ bừng sáng trên vầng trán của Mẹ mà từ xa xưa qua các thời đại, Giáo hội cùng với các Giáo phụ, tiến sĩ và các nhà thần học vẫn tin tưởng mộ mến và sùng kính Mẹ lên trời cả hồn xác. Đức Thánh Cha cũng hỏi ý kiến Cơ mật viện về việc ngài sẽ long trọng tuyên tín Mẹ hồn xác lên trời như một chân lý đã được Thiên Chúa mạc khải. Sau khi đã biết ý kiến tích cực đồng thuận, Đức Thánh Cha tỏ lòng hoan hỉ được các Hồng y, Giám mục đồng tâm nhất trí với ngài để chứng minh điều Giáo hội vẫn tin tưởng, mộ mến và giảng dạy.
G. Ban hành Thông điệp Munificentissimus Deus
Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII ban hành Thông điệp "Munificentissimus Deus" long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin. Đại lược thông điệp bất hủ này là: Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Mẹ hồn xác lên trời.
Sau đó, Đức Thánh Cha lược qua tiến trình tín lý này qua đức tin của Giáo hội, qua Phụng vụ, các Giáo phụ, các nhà thần học hằng tin tưởng Mẹ thụ thai, hạ sinh và nuôi dưỡng Chúa Kitô, thì sau cuộc đời này, Mẹ cũng được kết hợp với Chúa cả hồn và xác. Và Mẹ đã cùng với Chúa Kitô chiến thắng địch thù hoả ngục, thì Mẹ cũng được cùng với Chúa khải hoàn vinh quang.
Đức Thánh Cha cũng kể qua cuộc chuẩn bị của ngài. Và ngài hy vọng rằng việc ngài định tín sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế giới quay về với Thiên Chúa Ba Ngôi, cho giáo dân thêm lòng sùng mến Mẹ hơn, hiểu biết giá trị đời sống con người và mục đích cao siêu của linh hồn và xác. Sau hết, đức tin vào Mẹ hồn xác lên trời sẽ làm thêm vững mạnh đức tin của chúng ta vào vinh phúc mai sau.
H. Định Tín
Tín điều Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm do Đức Piô IX tuyên tín năm 1854 đã là một viên bích ngọc rực sáng trên triều thiên của Mẹ, và là một luồng sáng rọi chiếu vào tín lý Mẹ lên trời cả hồn xác đã loé sáng lên qua bao thế kỷ, để ngày nay bừng sáng lên thành tín điều thêm một viên hoàng ngọc trên triều thiên vinh quang của Mẹ. Do đó, Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền các quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700,000 dân chúng dưới bầu trời tươi sáng, Đức Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm ngân vang khắp quảng trường Thánh Phêrô, vọng vang vào đền thờ chật ních hơn 80,000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm những lời trịnh trọng tuyên tín: "Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự tình chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ hoàn toàn phản bội đức tin Công giáo của Thiên Chúa".
Đức Thánh Cha vừa dứt lời, thánh ca Te Deum do tất cả mọi người trong quảng trường Thánh Phêrô ca lên hùng tráng hoà nhịp với những tiếng chuông trầm hùng của đền Thánh Phêrô và của 400 đền thờ khắp thành Rôma như cùng với toàn thể thần thánh trên trời hân hoan reo mừng chúc tụng ngợi khen Mẹ vinh quang của Thiên Chúa, của Giáo hội và của toàn thể loài người.
II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Đầu tiên Giáo hội Đông phương thành lập lễ tôn vinh Mẹ Thiên Chúa tại Giêrusalem sau Công đồng Êphêsô năm 431, và gọi là "Ngày của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa". Năm 380, giáo đoàn Antiôkia, và đầu thế kỷ VI, Giáo hội Đông phương gọi là "Lễ Mẹ ly trần". Năm 600, hoàng đế Maurice ra sắc lệnh mừng lễ này khắp nước Byzantine. Khi quân Ba tư xâm chiếm Trung đông, các đan sĩ chạy sang Rôma năm 650 đem theo lễ này sang và đổi là "Lễ Mẹ lên trời" và mừng vào ngày 15 tháng 8. Rồi từ Rôma, lễ này được lan đến Milan và Tây Ban Nha. Đức thánh Sergiô I tổ chức một cuộc rước long trọng sùng kính Mẹ lên trời. Thế kỷ VIII lễ này lan sang Anh và Đức như Hội đồng Giám mục Áo tại Salzburg xác nhận, và sang Pháp do Hội đồng Giám mục Pháp tại Mayenne. Dần dần lễ này được lan tới tất cả các nước khắp thế giới.
Đức Lêô IV qui định lễ Mẹ lên trời có tuần tám ngày, và Đức Nicolas I cho biết từ lâu lễ Mẹ lên trời có lễ Vọng ngày áp.
Thế kỷ thứ XIII lễ Mẹ lên trời còn có ngày chay trước lễ và là lễ long trọng nhất các lễ Đức Mẹ. Thế kỷ XVI theo nhà thần học Suarez, lễ này đặc biệt hơn mọi lễ Đức Mẹ, vì bày tỏ cho chúng ta thấy vinh quang, phần thưởng và sự khải hoàn của Rất Thánh Trinh Nữ.
Thời Trung cổ, lễ Mẹ lên trời là ngày làm phép mùa màng và các hoa trái đầu mùa. Năm 1950, lễ Mẹ lên trời có tầm quan trọng trong khắp Giáo hội do Đức Piô XII định tín "Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác" và qui định thành Lễ Trọng đặc biệt trong khắp Giáo hội với luật buộc mọi người tham dự Thánh lễ. Năm 1970, Phụng vụ qui định lễ Mẹ lên trời là một lễ Đức Mẹ duy nhất có lễ Vọng vào chiều ngày 14 trước chính ngày lễ 15 tháng 8.
III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
1. Mẹ Maria hồn xác lên trời là biến cố sau cùng trong mầu nhiệm đời sống Đồng công Cứu chuộc của Mẹ đặc biệt liên đới với mầu nhiệm Nhập Thể Cứu thế của Chúa Giêsu, Con Mẹ.
2. Vì Mẹ đã chịu thai và hạ sinh Chúa Giêsu, thì sau khi về trời vinh quang, Chúa Giêsu cũng đưa Mẹ vào phúc vinh quang cùng với Người.
3. Mẹ đã cho thân xác Chúa sự sống nhân loại, thì đáp lại, Chúa cũng cho thân xác Mẹ sự sống trường sinh vinh quang.
4. Do đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội, thân xác trinh trong của Mẹ được thoát án lệ của tội Nguyên tổ mà được sống lại và lên trời cùng với linh hồn trong sáng của Mẹ.
5. Biến cố Mẹ lên trời hồn xác hoàn thành sự thánh thiện và huân nghiệp của Mẹ, là niềm ủi an và hy vọng tràn trề của chúng ta, là khởi đầu và là hình ảnh Hội thánh sẽ được thành toàn trên Nước Trời.
6. Hồn xác Mẹ lên trời vinh quang được Chúa Ba Ngôi tôn phong làm Nữ Vương trời đất và làm Đấng Trung gian ban phát mọi ơn lành cho chúng ta.
7. Đặc ân Mẹ lên trời vinh quang chung qui mọi đặc ân của Mẹ và là cùng đích trót cuộc sống, sứ mạng và huân công của Mẹ. Lễ Mẹ lên trời vinh quang chung kết mọi lễ tôn vinh Mẹ, nên là một lễ trọng thể và là lễ luật buộc. Đặc ân Mẹ lên trời gồm nhiều điều kỳ diệu:
- Mẹ chết êm ái không chút đớn đau,
- Mẹ phục sinh không bị hư thối,
- Mẹ lên trời hiển vinh.
IV. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Khải huyền 11:19; 12:1-6, 10
Tác giả sách Khải huyền mô tả cuộc tranh hùng giữa thiện và ác, giữa dòng dõi con Rồng hoả ngục và dòng dõi người nữ là Mẹ Maria. Mẹ được hình dung là một mỹ nữ mặc áo mặt trời như kiểu Thiên Chúa thường cho người phụ nữ ăn mặc (xem Kn 3:21; Mt 6:30) nghĩa là Thiên Chúa cho Mẹ mặc áo vinh quang tức là ánh sáng rực rỡ nhất là mặt trời. Mẹ chân đạp mặt trăng. Mặt trăng khi tròn khi khuyết tượng trưng sự đổi thay mà Mẹ không bị biến đổi theo thời gian, theo tứ thời bát tiết vì Mẹ làm chủ như đạp trên tất cả. Đầu Mẹ đội một triều thiên mười hai ngôi sao. Các ngôi sao ở trên trời cao (xem G 22:12) tức là Mẹ làm Nữ Vương số đông dân chúng đầy đủ như mười hai chi tộc Israel. Triều thiên tượng trưng sự vinh thắng của Mẹ. Tất cả điều lạ là hình ảnh Khám giao ước mà Thiên Chúa dùng để ở cùng dân Người, và Người ở trong đó như ở trong Đức Trinh Nữ Maria. Mỹ nữ đang mang thai và đã sinh một con trai. Con trai đây là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai mà Thánh vương Đavid đã tiên báo trong Thánh vịnh 2 và 110. Con Rồng lớn màu đỏ là sức mạnh của thần dữ không thể tiêu diệt Con Trai đó. Giáo hội đã trải qua biết bao thời kỳ đẫm máu, nhưng quỉ hỏa ngục cũng không phá nổi (Mt 16:18). Thiên Chúa sắp sẵn cho mỹ nữ một nơi trong sa mạc, nghĩa là Chúa đưa Giáo hội vào nơi gian nan thử thách (xem Đnl 8:2). Giáo hội gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn đứng vững. Con trẻ được cất bổng lên ngai Thiên Chúa nghĩa là Chúa Kitô sẽ được phục sinh. Sau hết là bài ca chiến thắng: ơn Cứu độ, quyền năng và vương tước của Thiên Chúa đã toàn thắng và mọi uy quyền đều thuộc về Chúa Kitô.
Bài đọc II: 1 Côrintô 15:20-26
Cuộc chiến thắng thần dữ trong bài đọc này trở thành một chiến thắng thần chết. Sự sống lại của Chúa Kitô là mầm mống sự sống lại của chúng ta và là chân lý căn bản. Thiếu chân lý này, đức tin của chúng ta sẽ trở nên hão huyền (16-19). Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa của mọi người đều phải chết. Hoa trái đầu mùa hiến dâng Thiên Chúa tượng trưng sự hiến thánh mùa màng cho Người (xem Đnl 26:1-11). Hoa trái đầu mùa còn là dấu hiệu bảo đảm mùa màng đầy đủ tức là sự phục sinh của chúng ta trong vinh quang. Sức mạnh thần dữ trong thế giới sẽ bị bại hoại và địch thù cuối cùng bị hủy diệt là thần chết. Cuộc chiến thắng thần chết chính là sự chiến thắng của Chúa Kitô phục sinh mà chúng ta sẽ được sống lại để cùng với Mẹ chia sẻ sự phục sinh của Người.
Phúc âm: Luca 1:39-56
Thánh truyện Mẹ Maria thăm viếng bà Elizabeth có nhiều điểm rất ý nghĩa cho lễ Đức Mẹ lên trời. Bà Elizabeth ca ngợi Mẹ Maria là diễm phúc hơn hết mọi phụ nữ, là vì bà nhận biết Mẹ là kẻ đã tin mọi điều Chúa truyền phán cho Mẹ sẽ thành hiện. Lời ca ngợi của bà Elizabeth cũng giống như lời ca khen của một phụ nữ: "Phúc cho lòng dạ cưu mang Ngài và vú Ngài đã bú" (Lc 11:27-28) mà Giáo hội trích đọc trong lễ vọng Mẹ lên trời.
Đáp lại lời ngợi khen, chúc phúc của bà Elizabeth, Mẹ Maria tuyên tụng Chúa Toàn Năng đã làm cho Mẹ những điều cao cả, là vì Chúa đoái nhìn đến phận hèn của nữ tỳ của Người. Do đó, Mẹ nhận biết từ đây mọi thế hệ sẽ khen Mẹ có phúc. Những điều cao cả nhất Chúa đã làm cho Mẹ là một điều chứng tỏ sự quan phòng của Người:
- Hiền ái đối với những kẻ kính sợ Người,
- Cho no phỉ những người nghèo đói,
- Làm tang tóc bè lũ trí lòng kiêu căng,
- Trung thành lời hứa với các tổ phụ.
Trong dịp thăm viếng bà Elizabeth, Đấng toàn năng đã làm nhiều điều trọng đại cho Mẹ.
Chị giáo dân ấy tên là Huyền Tâm (Helga Schmidt). Hôm ấy chị đến hàng bách hóa mua quà Giáng Sinh cho một số người, mà lòng chị không được phấn khởi. Chị đã ghi một loạt tên những người chị cần mua quà tặng; đó là những người đã nói họ không cần ai tặng quà, nhưng chị biết rõ họ sẽ bị tổn thương nếu chị không mua gì cho họ.
Chị Huyền Tâm không mất nhiều giờ để chọn đồ, nhưng mất đến 20 phút chờ đến lượt trả tiền, để ra khỏi cửa tiệm! Chính ở khâu chót này, chị Huyền Tâm được dành cơ hội tặng một gói quà nhỏ mà giá trị của nó chắc không bao giờ chị quên được.
Số là có hai khách hàng nổi bật ở phía trưóc chị Huyền Tâm. Cậu con trai chừng năm tuổi, cô em gái nhỏ hơn ít là một tuổi, theo sau. Cậu bé mặc chiếc áo khoác rách rưới, đi đôi giày tennis rộng thùng thình thò ra ngoài hai ống quần gin (Jean) quá ngắn. Cậu bé ấy nắm chặt mấy đồng tiến nhàu nát trong lòng bàn tay cáu ghét. Còn cô bé với đầu bù xù một mớ tóc quăn bết lại, có gương mặt rõ ràng phản ánh sự thèm thuồng một bữa cơm tối.
Bé gái cầm trong tay một đôi dép mang trong nhà màu vàng sạch bóng. Khi khúc nhạc Giáng Sinh vang lên qua hệ thống âm thanh của cửa tiệm bách hoá, bé gái này cũng ấp úng hát theo, vẻ đầy hạnh phúc, mặc dầu lạc giọng.
Khi đến chỗ tính tiền, bé gái ấy cẩn thận đặt đôi dép lên quầy, làm như đó là một kho tàng quý báu rất đặc biệt.
Cô thư ký của tiệm xem hoá đơn và nói:
- Hết 6 đôla 9 xu.
Cậu bé liền đặt mấy tờ đô la nhàu nát lên chỗ để hàng, rồi lục lọi để kiếm thêm tiền nơi túi áo và quần. Sau cùng cậu bé chỉ có trong tay 3 đôla 12 xu, nên phải cáo lỗi cô thư ký:
- Chúng cháu xin để lại món hàng này tới khi khác, có lẽ ngày mai chúng cháu sẽ trở lại.
Nghe lời cáo lỗi đó, cô bé thất vọng khóc nức nở và nói:
- Nhưng Hài Nhi Giêsu thích những chiếc giày này.
Cậu bé liền dỗ em một mình với lời hứa:
- Em đừng khóc nữa, chúng ta sẽ trở lại mà!
Đó là lúc chị Huyền Tâm nhập cuộc một cách tự nhiên. Chị kể lại: "Tôi vội đưa cho cô thư ký ba đôla. Bỗng có hai cánh tay ôm chầm lấy tôi giọng nói yếu ớt:
- Cháu cám ơn bà.
Tôi hỏi cô bé:
- Cháu nói Chúa Giêsu thích những chiếc giày này, điều đó có nghĩa gì vậy?
Cậu bé liền trả lời thay em cậu, vẻ mặt đậm nét ưu tư:
- Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về trời. Bố nói mẹ có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi.
Cô bé liền tiếp lời trong sự phấn khởi:
- Cô giáo dậy lớp giáo lý sáng Chúa Nhật nói rằng: những con đường lên trời lấp lánh vàng như chiếc giày này. Mẹ cháu sẽ chẳng rất xinh đẹp khi bước đi trên những con đường đó bằng những chiếc giày này sao?
Mắt tôi ngập lệ khi nhìn khuôn mặt cô bé có những vệt nước mắt. Tôi gật đầu vui vẻ đồng ý:
- Đã hẳn mẹ cháu rất đẹp rồi!
Tôi hết lòng tạ ơn Chúa vì đã dùng những đứa trẻ này dạy tôi nhiều điều liên quan tới con đường về trời của người mẹ trìu mến."
Câu chuyện vừa kể giúp đặt ta vào bối cảnh của lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Mỗi năm lễ này được cử hành là nhằm giúp các Kitô hữu thấy rõ mục đích đời mình, đồng thời nhờ ơn lành và lời cầu bầu của Mẹ Maria để đạt tới đích đó như sự thành tựu cuối cùng của đời ta. Riêng với chị giáo dân Huyền Tâm, câu chuyện đã dạy chị nhiều điều liên quan tới con đường về trời của người mẹ trìu mến.
Nhưng người mẹ trìu mến nào? Trong câu chuyện, đó là mẹ của hai đứa trẻ. Người mẹ đó đang trong tình trạng gần đất xa trời. Nhưng người bố đã cắt nghĩa cho hai con ông biết mẹ chúng có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi. Mọi sự đều ra khác nhờ ánh sáng của việc lên trời để ở với Chúa Giêsu.
Trong Kinh Thánh và trong truyền thống giáo lý của Giáo Hội, sự sống đời đời trong hiệp thông với Thiên Chúa, được mô tả bằng những hình ảnh, như tiệc cưới nơi thiên quốc, sự sống, ánh sáng và bình an. "Lên trời" là một hình ảnh gợi ý về sự thành tựu của con người và về tình trạng hạnh phúc trọn đầy nhờ hiệp thông cách vĩnh viễn với Thiên Chúa. Đó chính là thiên đàng mà mọi Kitô hữu đều nhắm tới như mục đích đời mình.
Lên Trời để ở với Chúa Giêsu
Thiên Đàng cũng được hiểu theo giáo lý, đó là cuộc hiệp thông tròn đầy giữa chư thánh mà Đức Giêsu đã kết hợp lại và đưa về trời. Tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện mà tạo thành và trong lịch sử đều trở nên suối nguồn của niềm vui bất tận do sự hy sinh lớn lao mà Chúa Giêsu dành cho mỗi người.
Giáo lý cũng dạy ta rằng: Đức Maria kết hợp với Chúa Kitô, đó là nền tảng của vai trò của Mẹ đối với Hội Thánh (964). "Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu độ được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết. Cho đến khi Chúa Kitô chết, đặc biệt trong cuộc khổ nạn.
Đức Trinh Nữ tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thập Giá, là nơi theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở đó. Đức Maria chịu đau khổ kinh khủng với Người Con duy nhất của mình, dự phần vào hy lễ của Con, với tâm tình của người mẹ ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng mình sinh ra, để cuối cùng khi hấp hối trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trối Mẹ làm mẹ các môn đệ: "Thưa Bà, này là con Bà" (Ga 19,26-27) (LG 58)
Sau khi Chúa Giêsu lên trời, Mẹ Maria đã trợ giúp Hội Thánh sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình. Cùng với các tông đồ và vài phụ nữ, "Đức Maria tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần là Đấng đã bao phủ lấy ngài trong ngày truyền tin." (LG 59)
Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ vương vũ trụ, để nên giống Con Mẹ trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết." Được lên trời cả hồn lẫn xác, Đức Maria tham dự cách độc đáo vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và thể hiện trước sự Phục Sinh của các Kitô hữu khác (GLGHCG, 966).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay về cuộc viếng thăm bà Isave rất thích hợp với lễ kính Đức Maria hồn xác lên trời. Đức Maria lên trời để tiếp tục công cuộc thăm viếng đối với mỗi một con người cần được cứu chuộc.
Người bố của ông Gioan Tẩy Giả đã được cho biết là con ông sẽ được đầy tràn Thánh Thần (Lc 1,15). Quả thật, Thánh Thần đã đến bao phủ Đức Maria khiến bà thụ thai Đức Giêsu, từ đó như theo ảnh hưởng giây chuyền, Thánh Thần sẽ tràn lan sang nhiều người, khởi sự với Gioan Tẩy Giả còn trong dạ mẹ, rồi đến bà Isave, sau đến ông Dacaria và ông già Simeon. Rồi đây người ta sẽ thấy Thiên Chúa Cha ra tay uy quyền nâng Đức Giêsu lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống (Cv 2,33) trên dân mới của Thiên Chúa.
Những chuyến viếng thăm không chấm dứt
Đức Maria lên trời là để tiếp tục công trình Thiên Chúa thực hiện nơi Người kể từ biến cố truyền tin đầu tiên. Nói theo cha Vương Văn Uông (René Voillaume) "Thăm viếng mãi mãi sẽ là cuộc lễ của sự hy sinh trọn vẹn đã điều khiển tấm lòng Đức Maria từ lúc mẹ biết mình là mẹ Chúa Giêsu; từ nay, Mẹ bắt đầu một chuỗi vô số các cuộc viếng thăm; những chuyến viếng thăm này sẽ không chấm dứt bao lâu còn có một người sống dưới đất."
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy món quà nhỏ mà chị Huyền Tâm tặng hai đứa nhỏ có giá trị như thế nào so sánh với một lô những quà tặng mà chị dành cho những người đã nói với chị rằng họ không cần ai tặng quà? Bạn nghĩ gì về câu nói của cậu bé "Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về trời"? Chính bạn ước ao gì về cuối đời bạn?
2. Bạn nghĩ gì về câu nói "Mẹ bắt đầu một chuỗi vô số các cuộc thăm viếng... bao lâu còn có một người sống dưới đất."?
3. Sách GLGHCG nói gì về Đức Maria Hồn Xác Lên Trời (số 966)?
Lễ Mẹ hồn xác lên trời không phải chỉ đem đến cho chúng ta niềm an ủi, mà còn thắp lên trong chúng ta niềm hy vọng tuyệt vời. Đó chính là điều Đức thánh cha Piô XII đã nhắn nhủ khi công bố tín điều này.
Anh em Tin lành có một bài hát với những lời lẽ như sau:
- Tôi chỉ muốn xây dựng sự lên trời của tôi dựa vào Đức Kitô mà thôi.
Là người Công giáo, chúng ta hoàn toàn đồng ý với những anh em Tin lành:
- Niềm hy vọng về trời của chúng ta phải được đặt nền tảng nơi Đức Kitô.
Thế nhưng, trước mặt chúng ta sự lên trời của Mẹ Maria hôm nay đã thắp lên một ánh lửa dạt dào hy vọng. Với biến cố này, một tia sáng đã chiếu tỏa trên vùng đất tăm tối của sự chết.
Mục đích cuộc hành trình dương thế của chúng ta đã được bảo đảm nơi Mẹ Maria, bởi vì Mẹ là tạo vật đầu tiên đã được bước vào chốn vinh quang.
Án phạt của tội lỗi là sự chết. Thế nhưng với sự phục sinh của Đức Kitô và sự lên trời của Mẹ Maria, chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
- Hỡi thần chết, sự chiến thắng của ngươi ở đâu và nọc độc của ngươi ở đâu?
Kể từ nay, cái chết không còn quyền hành gì nữa đối với chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta lo lắng nhưng không sợ hãi trước cái chết. Thánh Benoit đã chết trong khi còn đang tay cầu nguyện. Thánh Phanxicô thành Assie đã gọi cái chết là người chị yêu dấu. Còn thánh Louis de Gonzague đã nói:
- Chúng ta vui mừng cất bước ra đi…
Người ta kể lại rằng: có một ông bố, đặt khẩu súng đã lên đạn của mình ở đầu giường trong lúc hấp hối và nói với các con của mình rằng:
- Các con hãy yên tâm ra đồng gặt lúa. Bao giờ các con nghe thấy một tiếng súng nổ thì các con biết rằng ba các con đã chết.
Hay như một cụ già khác đã gọi con cháu đến bên giường bệnh và giảng giải cho con cháu biết về sự quan trọng của cái chết.
Cái chết và sự lên trời của Mẹ Maria đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì dù chúng ta sẽ chết cách nào, điều đó không quan trọng, chúng ta sẽ hấp hối làm sao, điều đó cũng không quan trọng. Điều quan trọng đích thực, đó là chúng ta phải chiến thắng trong giờ sau hết.
Với ngày lễ hôm nay, chúng ta không phải chỉ nhìn về dĩ vãng bằng cách cảm tạ những hồng ân Chúa đã ban cho Mẹ, mà còn hướng tới tương lại bằng cách xác định con đường chúng ta sẽ phải đi qua.
Khi lần hạt và suy gẫm về sự ân thưởng và vinh thăng của Mẹ, một chân trời mới đầy hy vọng đã mở ra trước mắt chúng ta, bởi vì cái chết không còn làm cho chúng ta sợ hãi, trái lại nhờ nó mà chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước trời, nhờ nó mà chúng ta được trở về nhà Cha, nhờ nó mà chúng ta được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu.
Vì thế, từ chốn khổ đau này chúng ta luôn cầu khẩn Mẹ giúp chúng ta trong cuộc chiến cam go ấy.
Bên Thụy sĩ, cứ năm năm người ta lại trình diễn vở kịch “Sân khấu thế giới” ngay trước mặt nhà thờ Đức Bà. Đời sống mỗi người là một cảnh tượng diễn ra trước mặt Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tất cả. Mỗi người phải thủ một vai trò nào đó, nhưng sau cùng đều phải xuất hiện trước ngai tòa Thiên Chúa để được xét xử về vai trò mình đã đóng có được trọn vẹn hay không. Giữa lúc mọi người lo lắng thì Đức Maria xuất hiện. Mẹ tiến đến trước mặt Thiên Chúa, bầu cử cho họ và mời họ vào dự tiệc vĩnh cửu. Và rồi tất cả cùng hát vang:
- Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Mẹ mà chẳng được nhận lời.
Với tình thương của người mẹ, Đức Maria sẵn sàng trợ giúp chúng ta với uy quyền của một bậc Nữ Vương ngài có thể thực hiện những gì chúng ta muốn.
Bởi đó, trong ngày hôm nay chúng ta hãy thân thưa với Mẹ:
- Lạy Nữ Vương trời đất, xin bầu cử chúng con trước ngai tòa Chúa.
Ngày lễ Thăng thiên, chúng ta cử hành sự kiện Chúa Giêsu được tôn vinh, còn hôm nay ngày lễ Mông triệu, chúng ta cử hành sự kện Mẹ Maria được tôn vinh. Chúng ta được lãnh nhận ơn Cứu độ từ Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được lãnh nhận Chúa Giêsu từ Mẹ Maria.
Có một câu chuyện kể về cách thức người Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa “Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức giận. Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống một lần nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi”. Họ cứ cầu nguyện như thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người già bắt đầu chết.
Thế rồi những người lớn tuổi trên bộ lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng nói của Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng “Cảnh hạn hán gây ra là do tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua, chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất, mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm cuả lễ toàn thiêu, để dâng lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta phải rải tro trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu”.
Dân chúng cảm ơn Thần Linh về thông điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của mình, họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những tài sản giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ, một cô bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết mọi thứ khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình cũng phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con búp bê và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con búp bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé dùng bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải đám tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi.
Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé nhìn khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một vùng xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng khi nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải làm. Họ cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỉ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất. Một lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận lời họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện đó, họ ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu cầu của Thần Linh.
Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta hiểu được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ, bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh đó.
Mẹ đã sẵn lòng đem Đức Giêsu đi vào trong thế giới này. Mẹ hết lòng yêu thương Người, và quý trọng Người vượt lên trên tất cả mọi thứ sở hữu khác. Nhưng khi công trình Cứu Độ toàn dân đòi hỏi rằng chính Đức Giêsu phải hy sinh, thì Mẹ vẫn đứng về phía Người, ngay cả mặc dù nỗi đau khổ giống như một lưỡi gươm sắc nhọn, đã đâm thâu qua trái tim Mẹ.
Hôm nay, chúng ta mừng kính ngày Mẹ được tôn vinh trên trời, có nghĩa là Mẹ được chia sẻ trọn vẹn vinh quang của Đức Kitô. Đây là một ngày dành cho niềm vui và ca ngợi. Mẹ sẽ thúc giục chúng ta phải quảng đại hơn trong việc đi theo Con của Mẹ, và trong việc hy sinh những gì chúng ta quý giá, để mang lại sự sống cho những người khác.
Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ là mẹ của Đức Giêsu. Nhưng Mẹ còn được chúc phúc hơn vì, giống như cố bé Miriam, Mẹ đã lắng nghe và vâng phục lời của Thiên Chúa. Mẹ sẽ giúp đỡ chúng ta cũng biết vâng phục Lời Chúa, và từ đó, chúng ta được đi theo Đức Giêsu trên đường dẫn tới vinh quang.
Phụng vụ của ngày đại lễ Mẹ Lên Trời giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh nổi bật và đối lập nhau, được Sách Khải Huyền mô tả, đó là hình ảnh “con rồng đỏ” và “người phụ nữ”. Hai hình ảnh này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta cần khám phá ý nghĩa của chúng trong thánh lễ này.
1. Hình ảnh con rồng đỏ
Trước hết là hình ảnh con rồng đỏ. Đối với văn hóa Việt Nam, con rồng là một linh vật bậc nhất trong bốn con vật quan trọng: long, ly, quy, phượng. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, của sự cao trọng và phú quý, đến từ thần linh. Người Việt tự coi mình là “con rồng, cháu tiên”.
Nhưng đối với Kinh Thánh, rồng là một quái vật, là sức mạnh của Ma quỷ. Sách Khải Huyền mô tả sự xuất hiện của nó như một sức mạnh khủng khiếp, ích kỷ vô cùng và bạo lực man rợ (cf. Kh 11,12.1-6a). Ở đây, thánh Gioan muốn ám chỉ tới những quyền lực thuộc hoàng đế La mã, từ Nêron (37-68) đến Đômitianô (81-96) trong những thế kỷ đầu. Đó là những thế lực chống Kitô giáo và bách hại Giáo Hội với một sức mạnh vô tận. Đối diện với thế lực đó, Đức Tin và Giáo Hội được ví như một người phụ nữ “chân yếu tay mền”, không vũ khí, và xem ra không có khả năng để sống sót, lại càng không có khả năng để chiến thắng.
Thế nhưng, tác giả sách Khải Huyền cho biết số phận cuối cùng của con rồng đỏ là thất bại và bị tiêu vong. “Người phụ nữ yếu ớt” đó đã chiến thắng, không bằng sức mạnh của quyền lực, của quân sự, của súng đạn, của ích kỷ và thù hận, nhưng bằng tình yêu, sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, đế quốc La Mã “trở lại” và đón nhận Đức Tin Kitô giáo. Nói như nhà văn Henryk Sienkiewicz trong cuốn tiểu thuyết lừng danh Quo vadis: Các hoàng đế Rôma lần lượt ngã xuống và bị quên lãng, còn Phêrô và Giáo hội đứng lên và tồn tại mãi với thế giới.
Theo một giải thích khác, “con rồng đỏ” cũng là hình ảnh của các thể chế độc độc tài duy vật chất, phi nhân bản và duy quyền lực trong các thế hệ loài người. Chẳng hạn như chế độc tài Đức quốc xã và chế độ độc tài cộng sản Stalin ở Nga, Trung Quốc và Việt nam. Một thời, các thể chế này có trong tay tất cả mọi quyền lực, khí giới và sức mạnh. Chúng xâm nhập khắp mọi nơi, đến tận hang cùng ngõ hẻm. Sống dưới sự thống trị của các thể chế đó, thật là khó khăn để nghĩ tới Thiên Chúa và giữ các giới răn của Người. Nhưng lịch sử Châu Âu chứng kiến chủ nghĩa cộng sản tan rã, bức tường Bá linh sụp đổ, “nước Nga trở lại và Trái Tim Mẹ toàn thắng”. Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Tình yêu và sự thật mạnh hơn hận thù, bạo lực và ích kỷ của con người!
2. Hình ảnh người phụ nữ
Hình ảnh thứ hai lôi kéo sự chú ý của chúng ta đó là hình ảnh của “người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 11,19a). Hình ảnh này có nhiều ý nghĩa khác nhau.
Theo các nhà chú giải kinh thánh, trước hết đó là hình ảnh về Đức Maria, Mẹ mặc áo mặt trời, có nghĩa là Mẹ mặc áo của Thiên Chúa, hoàn toàn của Thiên Chúa. Mẹ sống trong Thiên Chúa, hoàn toàn được bao phủ và thấm nhuần bởi ánh sáng Thiên Chúa. “Đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” có nghĩa là Mẹ được bao quanh bởi mười hai chi tộc Israel, bởi tất cả Dân Thiên Chúa, bởi tất cả sự hiệp thông của các thánh. Và “chân đạp mặt trăng”, “trăng” thuộc về đêm tối, hình ảnh của sự chết và sự diệt vong, diễn tả Mẹ đã chiến thắng sự chết và sự diệt vong. Như thế, Mẹ hoàn toàn được mặc áo sự sống, được lên trời cả hồn cả xác trong vinh quang của Thiên Chúa. Đây là một tín điều được định tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1950.
Ý nghĩa thứ hai của hình ảnh “người phụ nữ” đó là biểu tượng Giáo Hội, một Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế, một Giáo Hội có sứ mạng như người phụ nữ, một lần nữa, cưu mang và sinh hạ Chúa Kitô cho thế giới trong sự chuyển dạ và đau đớn, một Giáo Hội đau khổ và luôn luôn bị bách hại bởi con rồng đỏ. Nhưng Giáo Hội đó được nuôi dưỡng và sống nhờ Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Thể, nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện và hiệp thông với nhau. Sự hiện diện của Thiên Chúa và lời cầu bầu của Đức Maria là bảo chứng để chống lại mọi thứ độc tài, hận thù và ích kỷ của con người.
Như thế, lễ Mẹ Lên Trời đưa chúng ta tới chân trời hy vọng và mời gọi chúng ta can đảm, đừng sợ và tin tưởng vào tương lai vì cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng con rồng đỏ. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện. Đức tin là sức mạnh của thế giới! Chúng ta hãy xác tín như Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho tha nhân, bằng sự từ bỏ và quyên mình phục vụ anh em. Đó là con đường đưa chúng ta tới hưởng hạnh phúc đích thực với Mẹ trên trời. Và cùng với Bà Êlisabet, chúng ta hãy dâng lời tung hô: Mẹ được chúc phúc giữa những người phụ nữ. Lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen!
Bà Elisabét nói với Đức Maria “Em được chúc phúc nhất trên tất cả mọi phụ nữ”. Quả thật đó là một lời khen ngợi vĩ đại. Lời khen ngợi này nói lên vị trí đứng đầu của Đức Maria. Nhưng điều gì đã xảy ra Mẹ có khước từ lời khen ngợi này một cách nhẹ nhàng, nhưng quy tất cả mọi sự về Thiên Chúa, và về lòng từ ái củ Người đối với Mẹ “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao nhiêu cao cả”.
Có thể chúng ta đã được dạy dỗ rằng sự khiêm tốn bao hàm sự tự đánh giá thấp bản thân mình. Nhưng đức khiêm nhường trái ngược với điều đó. Đây là sự nhận ra điều tốt đẹp nơi bản thân mình với lòng biết ơn, nhưng thừa nhận rằng điều tốt đẹp đó là một ân sủng của Thiên Chúa.
Ngày nay, về mặt tâm lý trị liệu, người ta nhấn mạnh rất nhiều vào lòng tự trọng. Sự tự ti mặc cảm đưa đến tình trạng bất hạnh cho tất cả mọi người, còn lòng tự trọng cao độ đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Chúng ta được hướng dẫn rằng điều quan trọng là cảm thấy bản thân mình tốt đẹp, yêu mến mình, có khả năng để nói rằng “Tôi là người tốt”.
Về một mặt nào đó, đây là một phương pháp tốt. Tự trọng là điều tốt đẹp. Thật quan trọng khi có được một hình ảnh tốt đẹp về bản thân, nhưng sự tự ý thức này phải được xây dựng trên sự thật, nếu không, đó chỉ là một việc xây dựng trên cát.
Chúng ta có lý do để nên có lòng tự trọng cao độ. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nói rằng “Tôi có giá trị lớn lao, một nhân cách vĩ đại. Thiên Chúa đã tạo dựng tôi theo hình ảnh Người, Người gìn giữ và yêu thương tôi, vì tôi có tư cách là con cái của Người”. Do đó, chúng ta có quyền cảm thấy hài lòng về bản thân mình được đón nhận mọi sự từ nơi Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta không nên chần chừ trong việc đọc lời kinh thật tươi đẹp và vui mừng của chính Đức Maria “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”.
Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng sự thật đối với chúng ta. Chúng ta cũng có mặt tối tăm, khiến cho chúng ta bị sự dữ chế ngự, và vì thế, chúng ta cần được cứu độ. Tâm lý học sẽ không cứu nỗi chúng ta. Tâm lý học lại còn không thừa nhận rằng chúng ta cần được cứu độ. Chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta. Chúng ta không được e sợ khi nhìn vào khía cạnh tối tăm của bản thân mình.
Sự tự trọng không đúng cách làm cho chúng ta bối rối ngay với chính mình, và do đó khiến chúng ta chỉ tập trung vào bản thân. Mặt khác, lòng tự trọng đích thực lại giúp chúng ta biết quên mình, và làm cho chúng ta biết yêu thương hơn, có nhiều khả năng tiếp cận với người khác hơn. Chúng ta nhận thấy điều này nơi Đức Maria.
Sau khi nghe được những lời khen ngợi tuyệt vời của bà Elisabét, Mẹ có thể trở về nhà ngay tức khắc, và sự phô bày mình ra dưới anh nắng của sự tự khen ngợi mình, mong đợi người khác phục dịch mình. Nhưng thay vào đó, Mẹ ở lại với người chị họ lớn tuổi trong vòng ba tháng, để giúp đỡ bà trong thời kỳ mang thai.
Hôm nay, chúng ta ca ngợi vinh quang của Đức Maria. Bởi vì Mẹ đã chia sẻ cuộc đời, sự thương khó, và sự chết của Đức Giêsu khi còn tại thế, điều này phù hợp với việc Mẹ được chia sẻ vinh quang của Người trên Nước Trời. Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng mọi sự đều dễ dàng đối với Mẹ. Sự thật gần như trái ngược lại. Mẹ cũng phải sống cuộc đời của mình trong bóng tối đức tin. Đối với Mẹ, không hề có con đường tắt nào cả. Mẹ đã không chỉ lắng nghe lời Thiên Chúa, mà còn thực hành nữa.
Chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ vinh quang của Chúa Giêsu. Đức Maria người mẹ thiêng liêng của chúng ta, sẽ giúp đỡ chúng ta trong những giây phút chán nản và thất bại. Mẹ ở trên trời không có nghĩa là Mẹ không thể giúp đỡ chúng ta trên trái đất này. Nói một cách chính xác, chính vì hiện nay Mẹ đang được ở cùng Thiên Chúa, mà Mẹ càng có thể giúp đỡ chúng ta hơn nữa.
Trong một bài giảng về lễ Mẹ hồn xác lên trời, Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã nói: khi đặt mình vào trường học của Mẹ.
“khi đặt mình vào trường học của Mẹ một cách đặc biệt, trong đó các tín hữu được mời gọi thực hiện cuộc ăn năn trở lại cách sâu xa hơn, củng cố đức tin của họ, sống chăm chú hơn, lắng nghe lời Chúa và trở nên sẵn sàng hơn để phục vụ những anh chị em của mình. Đối với tất cả những đồ đệ của Chúa Kitô, Mẹ là mẫu gưỡng tốt nhất cho đời sống Kitô, Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận và trao Chúa Kitô cho chúng ta, giống như xưa kia Mẹ đã trao cho những người giúp việc tại tiệc vưới Cana một mệnh lệnh: “Hãy làm tất cả những gì Chúa truyền dạy”. Mẹ mời gọi chúng ta hãy ra đi đến với những ai đang cần nâng đỡ và trợ giúp của chúng ta như chính Mẹ đã lm cho người chị họ Elizabeth, như thế chúng ta lãnh nhận từ Mẹ rất thân yêu này sự thích thú của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và của sứ mạng xống đức ái phục vụ tha nhân”.
Đó là tâm tình của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong muốn cho mọi thành phần trong Giáo hội, cho tất cả những ai đang tôn kính Mẹ Maria, trong tâm tình này, mọi người hãy kết hiệp với nhau, và Đức Thánh Cha nói là mời Mẹ đến ở nhà chúng ta. Mời Mẹ đến với chúng ta để xin Mẹ giúp thực thi lời Chúa truyền dạy: “Hãy làm những gì Chúa truyền dạy”.
Trẻ em Tây Phương thường được người lớn kể cho câu chuyện thần tiên như sau:
Ngày xửa ngày xưa, có một gia đình nghèo sống bên cạnh rừng, người chồng lo việc tiều phu, người vợ lo việc nội trợ. Họ chỉ có ba người con gái, sáng sớm người chồng đi vào rừng kiếm củi, người vợ đi vào làng để mua thức ăn và cô gái nhỏ trông chừng nhà cửa.
Một buổi sáng nọ, đang nô đùa trước cửa nhà, ba cô bé nhỏ thấy một bà lão đang tiến lại gần, người đàn bà mặc áo đen, từ xa ba cô bé nhỏ cũng có thể nhận ra gương mặt xấu xí của bà. Vừa thấy bà lão đến gần, người chị hét lên:
Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Nghe tiếng báo động của người chị, hai cô bé nhỏ chạy vội vào nhà đóng cửa lại, còn cô lớn chạy ra phía sau nhà để thả chó ra. Lão bà dừng lại trước những tiếng gầm gừ của con chó. Bên trong hai đứa nhỏ vẫn còn run cầm cập. Một lát sau người đàn bà xấu xí đành bỏ đi về phía rừng.
Hôm sau, sinh hoạt của gia đình tiều phu vẫn diễn ra bình thường, người cha vẫn đưa con chó vào rừng, người mẹ đem đứa con gái lớn và cả đứa kế đi ra chợ, chỉ còn lại đứa bé nhỏ nhất mới lên năm tuổi trông nhà. Vào giữa buổi trưa, khi đứa nhỏ đang chơi trước sân thì bà lão xấu xí lại xuất hiện một lần nữa. Vừa trông thấy, nó thét lên như hai đứa chị:
Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Và chạy nhanh vào nhà cài then cửa lại, đứng nhìn người đàn bà. Qua lỗ nhỏ của khe của, bỗng nó nhìn thấy và nhận ra một điều mà nó chưa hề thấy trước đó, người đàn bà không có vẻ gì là một mụ phù thủy cả, nó chỉ thấy một người đàn bà vẻ đau yếu và mệt lả. Đứa bé năm tuổi tự nhiên cảm thấy thương mến bà vô cùng, nó liền mở cửa và tiến đến bên bà thưa:
Thưa bà, cháu có thể giúp bà cái gì được không ạ?
Quả thật, gương mặt bà lão xấu xí kinh khủng. Khi trông thấy đứa bé kháu khỉnh bà nói:
Lão còn phải đi đường xa, lão mệt lắm, cháu có thể cho bà ly nước được không?
Nó liền chạy ra sau nhà, lấy gáo múc nước đem ra cho bà cụ uống. Bà cụ cầm lấy chiếc gáo, cảm ơn đứa bé rồi uống cạn. Bà rùng mình đứng thẳng, đứng thẳng rồi biến thành một cô công chúa xinh đẹp.
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
- “Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài”.
- “Con đã nói phản lại sự thật rồi! - Vị bề trên trả lời - Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
“Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biet. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh”.
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khốt mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v… Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái nay hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ “cao cả” đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc - cho dù là vĩnh cửu - của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giê-su nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Viec Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giê-su là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
Một bé gái mới năm tuổi được cha mẹ dẫn đến tiệm chụp hình, nhưng em nhất định từ chối, không chịu đứng trước máy ảnh. Để khích lệ em, mẹ cho em xem tấm hình đẹp của ông nội chết ba năm trước. Nhưng em vẫn không muốn chụp hình. Em dứt khoát từ chối. Đe dọa cũng không làm em đổi ý. Hứa hẹn cũng không làm em an lòng, không giải quyết được sự gì.Thấy vậy người cha nói với em: Này con gái cưng của ba! con hãy làm ba vui lòng một chút đi. Người mẹ nói tiếp: Mẹ bảo với con, chụp hình chẳng có gì xấu đâu. Em vẫn khăng khăng không chịu. Bấy giờ người mẹ mới bảo em: Thôi được, ba má không bắt con chụp hình nữa. Nhưng con hãy nói cho ba má hay, tại sao con không để cho người ta chụp hình? Co bé bật khóc nứa nở và nghẹn ngào nói: Con không muốn làm như ông nội. Con không muốn chết trong tấm hình. Thật tội nghiệp Phương An, bé mới mấy tuổi mà đã thiết tha với cuộc sống. Người mẹ nhanh trí vội vàng rút trong bóp một tấm hình gia đình. Phương An nhìn thấy ba má và anh trai của em trong tấm hình, nhưng đâu có chết. Lúc đó em mới chịu chụp hình. Em lại còn mỉm cười vui vẻ hơn. Ai trong chúng ta cũng giống cô bé cả. Sợ chết là một bản năng hoạt động rất mạnh trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta muốn sống, thực ra đó cũng là bản tính tự nhiên và cũng là ơn gọi của con người trước mặt Thiên Chúa: Ơn gọi làm con Thiên Chúa, ơn gọi sống đời sống trường sinh. Sự sống của chúng ta chính là một ân sủng, một món quà quí báu mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Không ai đã sống mầm sống đó trước chúng ta và cũng không ai sẽ sống sau chúng ta, mỗi một mầm sống được trao ban đều " duy nhất vô nhị ". Sự sống đó có những điều huyền bí chúng ta không thể nào hiểu hết được, nếu không có đức tin soi sáng... Nhất là sống trong thế giới ngày nay: tội lỗi và đau khổ luôn đe doa con người, làm tê liệt và ảnh hưởng đến đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng nản lòng và nghi ngờ sự tồn tại cũng như hiện diện của Thiên Chúa nơi vũ trụ này. Ngày lễ Mẹ hồn xác lên trời hôm nay có thể trả lời cho chúng ta một phần nào thắc mắc trên. Vì Mẹ Maria cho chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa thắng sự chết và đau khổ. Ngài sẽ biến sự chết và đau khổ đó bằng sự sống trường sinh. Chính Thiên Chúa sẽ nâng người hèn mọn lên hàng quyền quí cao sang. Hãy nhìn lên gương Mẹ, sợ hãi và nghi ngờ sẽ giúp chúng ta can đảm và tin yêu hơn.
1. Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như thế không? Mẹ có mong muốn trở nên một nhân vật vĩ đại như Mẹ đang là hiện nay không? Chúng ta có thể rút ra bài học gì cho chính chúng ta?
2. Tại sao nhiều người Ki-tô hữu lại từ bỏ những điều mà người đời phấn đấu cho bằng được để có? Ai khôn ngoan hơn ai? Chiếu theo quan điểm đức tin, sự từ bỏ ấy có thật sự đáng gọi là hy sinh không?
Chia sẻ
1. Đời của Đức Ma-ri-a có nhiều đặc biệt
Cuộc đời của Đức Ma-ri-a có nhiều nét đặc biệt và nghịch lý. Đặc biệt chẳng hạn như là người nữ duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, sinh con không phải do kết hợp với người nam mà bởi quyền năng Thánh Thần, sinh con mà vẫn còn đồng trinh, làm con trẻ Gio-an, con bà Ê-li-sa-bét, nhẩy mừng khi Mẹ đến thăm, v.v… Nghịch lý là vì Mẹ sống rất đơn sơ, khiêm nhường, không mong muốn gì cao sang hay đặc biệt hơn người, mà lại trở nên cao sang và đặc biệt hơn bất cứ người nào trên trần gian này.
Nghịch lý ấy là nghịch lý đối với người đời, vì họ quan niệm rằng muốn đạt được những địa vị cao sang thì phải có lý tưởng thật cao vời, nghĩa là phải nhắm những địa vị cao, những mục tiêu lớn, phải quyết tâm trở nên những nhân vật vĩ đại, rồi còn phải bon chen phấn đấu với mọi người, nhất là với những đối thủ cạnh tranh với mình. Nhưng nghịch lý ấy lại là thuận lý theo cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa suy nghĩ và hành động khác hẳn với người đời. Trong bài “Ngợi Khen”, Đức Ma-ri-a đã nêu lên cách hành động của Ngài: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”, “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng”.
2. Hai cách suy nghĩ
Thực ra đó là hai cách nghĩ và hành động khác nhau, cả hai cách đều có lý, đều đúng, nhưng có lý và đúng trong hai lãnh vực khác nhau, trong hai không gian khác nhau, và trong hai loại thời gian khác nhau. Cách của người đời – không dựa vào đức tin – thì đúng trong phạm vi nhỏ hẹp của xã hội, trong đời sống vật chất, tầm thường của đời người, và trong một khoảng ngắn thời gian, chẳng hạn vài chục năm của đời người. Còn cách những người sống theo đức tin thì đúng trong phạm vi rộng lớn hơn, trong đời sống tâm linh, siêu việt, và trong thời gian rất dài, trong vĩnh cửu, có thể xuyên qua đời sống của con người, vượt qua cái chết. Cách nào cũng đúng, cũng có lý, nên cách nào cũng có những người thông minh và khôn ngoan vào bậc nhất thế giới ủng hộ, cổ võ.
Vấn đề của chúng ta là chọn cách suy nghĩ nào, cho cách nào là khôn ngoan nhất. Nếu nhắm cái lợi trước mắt và ngắn ngủi thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu thế gian, không dựa trên đức tin. Còn nếu nhắm cái lợi lâu dài và hết sức to lớn – chỉ có điều bất lợi là khó thấy và không đến ngay – thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu đức tin. Khi chúng ta đã suy nghĩ và chọn lựa dứt khoát thì chúng ta phải chấp nhận bỏ cái này để được cái kia: hoặc là bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, hoặc là ngược lại, bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn. Cách suy nghĩ nào cũng đều đòi hỏi phải từ bỏ. Suy nghĩ như thế, ta cảm thấy thoải mái hơn.
Giả sử ta lựa chọn bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, thì ta sẽ không cảm thấy việc từ bỏ ấy là một sự hy sinh. Cho rằng sự từ bỏ khôn ngoan ấy là một hy sinh thì có thể làm tâm lý chúng ta bị dồn nén, đau khổ, gây trạng thái mất quân bình về tâm lý. Xét cho cùng, sự dồn nén này quả là một dồn nén phi lý, thiếu suy nghĩ. Nếu có dùng chữ hy sinh thì đúng ra chữ đó phải dành cho những ai lựa chọn bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn, như thế thì hợp lý hơn. Chẳng hạn có ai đó cho hai người nọ hai món đồ: một món quí giá và một món rẻ tiền. Thật là phi lý khi bảo người chọn món quí giá và để lại món rẻ tiền cho người kia là đã hy sinh cái nhỏ để lấy cái lớn. Nếu nói đó là một hy sinh thì người chọn cái nhỏ và bỏ lại cái lớn không phải là đã hy sinh nhiều hơn sao?
3. Ai hy sinh hơn ai?
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
- “Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài”.
- “Con đã nói phản lại sự thật rồi! - Vị bề trên trả lời - Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
“Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh”.
4. Vấn đề là tin hay không tin, và ai khôn ngoan hơn ai
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v… Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
5. Chọn lựa của Mẹ Ma-ri-a
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ “cao cả” đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc – cho dù là vĩnh cửu – của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giê-su nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Việc Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giê-su là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin cho con bắt chước Mẹ trong việc chọn lựa căn bản nhất của đời con. Xin cho con biết chọn Chúa hơn chọn bản thân con, biết chọn ý Chúa hơn ý riêng, chọn vinh quang của Chúa hơn cả hạnh phúc của con, và biết quan tâm phục vụ tha nhân vì Chúa hơn quan tâm đến chính bản thân con. Xin giúp con trở nên giống Mẹ trong sự lựa chọn ấy. Amen.
• Đức Trinh Nữ Maria đã lên trời cả hồn lẫn xác. Thời đại chúng ta có vinh dự và niềm vui được nghe công bố chân lý này, qua miệng Đức Giáo Hoàng Piô XII ngày 1-11-1950, với tông hiến “Thiên Chúa vô cùng đại lượng” (Munificentissimus Deus). Nụ hoa tin kính trong dân Chúa từ thế kỷ VI, bày tỏ qua lễ “Đức Mẹ an nghỉ”, đã trở nên đóa hoa tín điều “Đức Mẹ hồn xác lên trời” vào giữa thế kỷ thứ XX.
Vậy là sau khi có một nam nhân thuộc dòng dõi nhân loại, một người anh em đã lên trời với thân xác phục sinh vinh hiển trong tư cách Thiên Chúa, nay chúng ta lại có một phụ nữ từ giữa nhân loại, một người chị em cũng lên trời với xác hồn được gìn giữ nguyên vẹn trong tư cách Mẹ Thiên Chúa.
Vậy là muôn hồng ân quý trọng Trời Cao đã đổ xuống trên một người phàm, cô thiếu nữ Maria làng Nadarét, này đây sinh hoa kết quả cách tuyệt diệu. Hồng ân vạn thuở là chức làm Mẹ Thiên Chúa, hồng ân đầu đời là tình trạng vô nhiễm nguyên tội, hồng ân trọn kiếp là nếp sống đồng trinh, hết thảy đã được Đức Maria đón nhận, phát huy với tất cả tự do và cộng tác của ý chí mình. Những hồng ân đó giờ đây kết nên ân huệ siêu tuyệt, vĩnh viễn là Mẹ được đưa lên thiên cung hồn xác ngay khi xác lìa hồn. “Hỡi con người đầy ân sủng, được biệt đãi, Đức Chúa đã ở cùng bà! Mừng vui lên đi, vì nay bà ở mãi cùng Đức Chúa, được muôn thế hệ mãi ngợi khen là diễm phúc, bởi lẽ Đấng Toàn Năng đã làm cho bà biết bao điều cao cả”.
• Quả thế, Đức Maria là công trình sáng tạo lớn lao nhất của Thiên Chúa, là tác phẩm tuyệt mỹ nhất của Người, của bàn tay và trái tim Người. Người đã từng thiếu một bà mẹ, và đã tạo dựng bà mẹ đó, sau khi đã tạo dựng biết bao bà mẹ cho biết bao đứa con trong gia đình nhân loại. Thiên Chúa đã làm nên Mẹ của Người trước khi Mẹ của Người làm nên Người, bởi lẽ Người đã muốn thực sự làm một con người như bất cứ ai trên trần gian trong kế hoạch nhập thể. Thiên Chúa đã dựng nên Mẹ của Người với một linh hồn tuyệt đối trong sạch và đầy ân sủng, với một ý chí kiên trì và trọn vẹn “xin vâng” cho tới giây phút cuối cùng, với một thân xác đồng trinh và tỏa chiếu ánh sáng rực rỡ đến độ trên trần gian, Người đã không hề biết chán khi nhìn ngắm và ca ngợi thân mẫu. Mẹ của Thiên Chúa đẹp đến nỗi, dù bỏ lại những huy hoàng của thiên quốc, Người đã không cảm thấy chán nản và thất vọng khi ở bên thân mẫu. Người đã biết thế nào là được các thiên sứ tay đỡ tay nâng, nhưng Người đã cảm thấy thua xa đôi tay êm ái dịu hiền của thân mẫu. Người đã hiểu rõ sự thần phục của thần thánh trên trời, nhưng Người thấy thái độ lắng nghe, suy nghĩ, tuân hành lời Người vẫn là tuyệt diệu ở nơi thân mẫu. Như Thiên Chúa đã là “Cha” với tất cả ý nghĩa của từ “Cha”, như Ngôi Lời đã là “Con” với tất cả ý nghĩa của từ “Con”, thì Đức Maria đã là “Mẹ” với tất cả ý nghĩa của từ “Mẹ”.
Nhưng từ khi trở về trời, vị Thiên Chúa nhập thể đã thiếu mẹ, và Đức Maria cũng đã thiếu Con. Mẹ Con đã ngóng trông nhau vò võ. Nay thì Con đã gặp lại Mẹ với hồn, với xác, trực tiếp, trọn vẹn. Thiên Chúa không thể làm khác. Có như thế mới hợp lý hợp tình. Đôi tay đã chạm đến Thiên Chúa không thể cứng đờ. Đôi mắt đã chiêm ngưỡng Thiên Chúa không thể khép kín. Đôi môi đã hôn hít Thiên Chúa không thể bất động. Xác thân tinh tuyền đã cho Thiên Chúa một thân xác tốt đẹp không thể hư thối, trộn lẫn vào đất. Người không thể để Mẹ mình chịu số phận cuối đời như bất cứ phàm nhân nào khác. Điều đó chỉ gây khổ tâm cho Người, khó chấp nhận nổi. Vả lại, có gì ngăn cản Người kết hợp với Mẹ trọn vẹn chứ, một bà mẹ suốt đời đã không một giây phút lụy phục ma quỷ cả trên thể xác lẫn trong tâm hồn. Đúng như lời thánh Gioan Đa-mát đã nói: “Đấng đã bảo toàn được nguyên vẹn đức đồng trinh của mình khi sinh con hẳn cũng giữ gìn được cho thân xác mình khỏi mọi hư hoại khi lìa đời. Đấng đã bồng ẵm Tạo Hóa trong tay mình như bồng ẵm một bé thơ phải được cư ngụ trong nhà Thiên Chúa. Đấng được Chúa Cha nhận làm hiền thê hẳn phải được ở trong loan phòng thiên quốc. Đấng đã ngắm nhìn Con mình trên thập giá và chịu lưỡi gươm đau đớn đâm thâu tâm hồn, lưỡi gươm đã tránh được lúc sinh Con, hẳn phải được ngắm nhìn người Con ấy đang ngự bên hữu Chúa Cha. Đấng làm Mẹ Thiên Chúa phải được những gì thuộc về Con mình và phải được mọi thụ tạo tôn kính như Thân Mẫu Thiên Chúa và như Nữ tỳ của Người”. Nếu thân xác của Đức Trinh Nữ Maria không bị hư hoại và được đưa về trời, thì điều đó chẳng những xứng hợp với chức vị Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Ngài nữa. Thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thực là nơi Thiên Chúa ngự. Do đó, thân xác ấy không thể tan thành bụi đất. Nhưng vì là thân xác con người, nên phải được biến đổi mới có thể đạt tới cuộc sống tuyệt vời bất hoại. Tuy nhiên, vẫn chính thân xác ấy nay sống động, vinh hiển rạng ngời, toàn vẹn và được thông chia sự sống hoàn hảo.
• Vả lại, vị Thiên Chúa nhập thể phục sinh, Con Đức Trinh Nữ, Chủ tể vạn vật, đã làm thế cũng vì anh em nhân loại của Người. Để họ có một bà mẹ trên trời, một bà mẹ thật, một bà mẹ từ nơi họ, đủ cả xác hồn, một bà mẹ mạnh thế, vì cũng là Mẹ của Chúa tể vũ trụ.
Xong rồi, Đức Maria đã ở cùng Thiên Chúa ngay từ giây phút nhắm mắt. Mẹ đã gặp lại Con và Con đã gặp lại Mẹ, xác lẫn hồn. Cả hai bên nhau, muôn đời vĩnh cửu. Đây làm một mầu nhiệm chói ngời vẻ đẹp. Và rốt cục loài người đã biết được điều ấy, đã chính thức công nhận điều ấy. Kể từ thời dân Kitô giáo linh cảm mầu nhiệm tình hiếu tử và nghĩa huynh đệ của Đức Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa, thì việc đánh giá cao, đánh giá đủ các hồng ân của Mẹ Người trong thời đại này làm chính Người vui thỏa.
Giờ đây, nhân loại hãy biết khai thác điều ấy. Trên trời họ có một người mẹ hằng chú mục theo dõi họ, với đôi mắt thịt của bà. Trên trời họ có một người mẹ hằng toàn tâm yêu thương họ, với trái tim thịt của bà. Và người mẹ ấy cũng là Mẹ Thiên Chúa, hằng nhìn Thiên Chúa với cùng đôi mắt, hằng yêu Thiên Chúa với cùng trái tim. Nếu láu cá, nhân loại sẽ lợi dụng điều ấy, vì họ biết rằng Thiên Chúa sẽ không thể từ chối Đức Maria điều gì cả. Sao có thể từ chối được, đấy là Thân Mẫu của Người mà! Người đã muốn có Mẹ và Người đã chẳng bao giờ phàn nàn hối tiếc chuyện đó. Nhân loại hãy vững lòng cầu xin với Đức Maria vì “Ngài là Mẹ Thiên Chúa để có tất cả, và là mẹ nhân loại để cho tất cả”, như thánh Bênađô đã dạy.
• Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha thật đáng chúc tụng trong các thánh của Cha. Cha đặc biệt đáng chúc tụng trong kẻ đã được Giáo Hội mọi thời xưng là Đấng Toàn Thánh, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ đã được Cha cất nhắc lên trời hôm nay. Cha đã cho Mẹ trở thành khởi đầu và hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, trở thành niềm an ủi và nỗi hy vọng tràn trề cho dân thánh chúng con trong cuộc lữ hành trần thế. Cha đã không muốn Mẹ chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quý, Đấng ban sự sống cho mọi loài sinh linh. Cha đã đặt Mẹ làm Nữ vương sáng ngời rực rỡ bên hữu Con của Cha và Con của Mẹ là Đức Vua bất tử muôn đời. Lạy Cha, chúng con xin cảm tạ Cha muôn vàn, vì thành quả của đời Mẹ cũng sẽ là thành quả của đời chúng con, phần thưởng Cha ban cho Mẹ cũng là phần thưởng Cha hứa dành cho chúng con, hiện tại Mẹ vui hưởng cũng là tương lai chúng con mong chờ. Xin cho chúng con sống thanh luyện dần mỗi ngày, hầu khi đến trước tòa Cha, chẳng còn cản trở nào khiến chúng con không thể kết hợp với Cha vĩnh viễn. • Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin giúp chúng con trở thành thần dân xứng đáng của Chúa Kitô Vua vũ trụ, của Mẹ là Nữ vương trời đất, thần dân của một Vương quốc tình yêu đã được dựng xây ngay tại thế này. Nay được tôn vinh vượt các thần thánh trên trời, xin Mẹ cầu bầu cùng Thiên Chúa cho chúng con, cho toàn thể nhân loại, cho tới khi mọi gia đình các dân tộc đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hòa thuận, hợp thành một dân duy nhất của Thiên Chúa, hầu tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi đến muôn đời. Amen.
Gọi là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nhưng sau khi nghe ba bài Kinh Thánh, bạn có để ý nhận ra Giáo Hội muốn nhấn mạnh một điều gì không? Ta cùng điểm qua các bài đọc để hiểu Giáo Hội muốn nói gì.
Bài đọc I (trích sách Khải huyền) kết thúc: “Nay sự cứu độ, quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa, và của Đức Kitô đã được thực hiện”. Còn bài đọc II, thánh Phaolô gọi Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, sau đó mới đến những người thuộc về Chúa Kitô. Bài Tin Mừng lại càng rõ nét hơn. Chính Đức Maria ca ngợi Chúa rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
Điểm qua ba bài đọc, bạn đã thấy gì chưa. Riêng tôi nhận ra rằng. Dù là lễ Đức Mẹ về trời, nhưng Giáo Hội lại mời gọi ta hướng về Thiên Chúa, hướng về Chúa Kitô. Vì lẽ gì vậy? Sao lại hướng về Chúa trong lễ Đức Mẹ? Vì chỉ nhờ ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện, Mẹ mới được hồn xác lên trời. Chính lời nguyện đều lễ xác nhận: “Chúa đã đưa lên trời cả hồn xác Đức Maria”. Còn kinh tiền tụng trong lễ này cũng không đi ngoài nội dung ấy: “Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời”. Những kiểu nói: “Chúa đã đưa”, “được đưa” nghĩa là gì, nếu không phải là chính ơn Thiên Chúa ban, là chính nhờ cuộc khổ nạn, phục sinh, lên trời của Chúa Kitô, Mẹ mới được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Cũng là người như chúng ta, Mẹ không thể tự mình về trời hồn xác. bởi đó trong thánh lễ này, Giáo Hội hướng về Thiên Chúa mà tuyên xưng những hành động kỳ diệu Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Chính Mẹ chứ không phải Giáo Hội hay chúng ta - chính Mẹ chứ không phải ai khác, là người trước tiên tuyên xưng hành động cứu độ ấy của Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”. Những chữ: “Đấng Cứu độ tôi”, quả thật là lời quy hướng về Thiên Chúa và ngợi khen Thiên Chúa, ngợi khen Đấng Cứu độ mình. Chỉ có Đấng Cứu độ, chỉ nhờ Đấng Cứu độ, chỉ trong Đấng Cứu độ, Mẹ mới được đưa lên trời hồn xác, vì Đấng ấy đã cứu độ Mẹ.
Lời ca ngợi quy hướng về Thiên Chúa của Đức Mẹ, còn được hỗ trợ bởi rất nhiều lời Kinh Thánh khác. Chẳng hạn lời của thánh Phaolô trong bài đọc II: “Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, rồi mới đến những người thuộc về Đức Kitô”. Chắc bạn đồng ý với tôi, có ai thuộc về Chúa Kitô cho bằng Đức Maria. Bởi vậy, nếu Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, đã về trời cả hồn và xác, thì Mẹ Maria, người thuộc về hoa quả đầu mùa ấy một cách trọn vẹn, cũng được đưa về trời hồn xác, không phải là điều gì khó hiểu.
Vậy bạn và tôi hãy khẳng định lại một lần nữa rằng, Đức Mẹ không thể tự mình về trời nếu không có Chúa. Khẳng định như vậy không hạ thấp Mẹ chúng ta. Trái lại, ta tuyên xưng đúng vị trí mà Mẹ được Chúa thưởng ban. Trong chính ngày lễ Đức Mẹ hồn xác về trời, bằng các bài Kinh Thánh, bằng các lời nguyện, bằng kinh tiền tụng, Giáo Hội hướng chúng ta về Thiên Chúa, để cùng với Mẹ mà ca ngợi Chúa rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
Nếu Mẹ đã ca ngợi Chúa bằng cả cuộc đời của Mẹ thế nào, thì suốt cả cuộc đời của mỗi người, của bạn và của tôi, cũng là một lời ca ngợi Thiên Chúa liên lỷ như Mẹ vậy. Dù trong hoàn cảnh nào, dù cuộc đời có thương đau như một người mang thai “kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con”, hay nỗi bất hạnh, lao đao, hoặc ngay cả tai họa ập đến dữ dội như một con rồng khổng lồ đang đe dọa hãi hùng mà sách Khải huyền diễn tả, chúng ta vẫn một lòng tin tưởng tín thác đời mình cho Chúa như Mẹ. Để có được ơn vinh quang về trời, Mẹ đã sống đức tin trọn vẹn. Ngay cả khi đứng bên thập giá, nhìn con chết tức tưởi, nhục nhã, Mẹ vẫn tin, vẫn ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ của Mẹ. Còn ta, sống giữa biển đời, biết bao nhiêu lần gặp thử thách, biết bao nhiêu bi thương ập đến, có khi như muốn vùi lấp cuộc đời mình, những lúc như vậy, ta có còn tin Chúa không? Có đủ trông cậy để cất lên lời ca ngợi: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi” như Mẹ của mình? Câu hỏi này xin gởi đến bạn và cũng là nói với chính bản thân tôi, để tất cả tự tra vấn đức tin của mình đối với Thiên Chúa.
Thánh Phaolô nói, Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, rồi mới đến những người thuộc về Chúa Kitô. Mẹ đã thuộc về Chúa Kitô, và chúng ta cũng thuộc về Chúa Kitô. Nếu biết sống đức tin mạnh mẽ như Mẹ, chúng ta cũng được hồn xác về trời giống như Mẹ. Những gì Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, Người cũng sẽ thực hiện nơi mỗi người, từng người, từng người một. Mãi mãi bạn hãy cùng tôi xác tín rằng, Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, rồi sẽ đến lược chúng ta, là những kẻ thuộc về Chúa Kitô. Tôi chắc chắn, nếu niềm xác tín của ta đạt đến mức độ cao như Mẹ, thì cũng chắc chắn rằng cả cuộc đời ta cũng sẽ là một cuộc đời ca khen Thiên Chúa cùng Mẹ, như Mẹ và hiệp thông với Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
Ta không biết gì về việc Chúa rước Đức Mẹ hay Đức Mẹ rời cuộc sống trần gian bằng cách thức nào. Chỉ có một văn bản ngụy thư “Đức Mẹ đi vào giấc ngủ” (Mary’s Dormition), thế kỷ thứ V, cho biết, những giây phút cuối đời của Đức Mẹ, khi các tông đồ vây quanh để cầu nguyện thì Chúa Kitô đến đưa Đức Mẹ về Thiên Đàng. Dù sao truyền thống của Hội Thánh và một vài hình ảnh mà nhiều bản văn Kinh Thánh gợi lên, củng cố cho cho đức tin của chúng ta trong việc nhìn nhận Người Mẹ Thật của chúng ta đã tiên phong hưởng hạnh phúc cả hồn lẫn xác.
I. Truyền thống đức tin của Hội Thánh.
Niềm tin Đức Mẹ được triệu hồi cả hồn lẫn xác về trời bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của Hội Thánh. Đến thế kỷ VI, Hội Thánh phương đông Đã sớm cử hành lễ Đức Mẹ Đi Vào Giấc Ngủ vào khoảng giữa tháng giêng. Sau này, hoàng đế Maurice (582-602) xác định dứt khoát lễ nay cử hàng ngày 15 tháng 8. Với lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, Đức Giáo hoàng Theodore (642-649) đã muốn thiết lập lễ này cho nghi lễ Rôma ngay thế kỷ sau đó, thế kỷ thứ VII. Năm 813, Công Đồng Mayence truyền cho toàn Châu Âu cử hành lễ này với tên gọi là Lễ Mông Triệu (Thiên Chúa triệu hồi Đức Mẹ về trời), chính thức nhìn nhận cách mặc nhiên Đức Mẹ được triệu hồi về trời.
Đến năm 1854, sau khi đức Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, thì phong trào sùng kính Đức Mẹ vốn đã mạnh mẽ từ lâu trong Hội Thánh, nay như được dịp khuấy động dữ dội hơn. Chỉ trong vòng chưa đầy một trăm năm sau, tính đến năm 1945, khắp thế giới có khoảng tám triệu thỉnh nguyện thư của các tín hữu và khoảng gần 100. 000 thỉnh nguyện thư khác đến từ các giám mục, linh mục, các tu sĩ, các nhà thần học xin Tòa Thánh chính thức xác định tín điều về Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên hay Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trước những lời thỉnh cầu tha thiết ấy, để có thể quyết định một cách thận trọng nhất trước vấn đề đức tin quan trọng này, Đức Piô XII công bố Thông Điệp Deiparae Virginis để xin ý kiến Giám mục đoàn trên khắp thế giới. Thật lạ lùng, sau năm năm hỏi ý kiến, chỉ có sáu giám mục nghi ngờ về tính chất ‘mặc khải’ của việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Dù niềm tin Đức Mẹ hồn xác về trời đã có từ rất lâu trong truyền thống Hội Thánh, nhưng mãi đến ngày 1.11.1950, tức vào ngày lễ các thánh Nam Nữ, bằng một phán quyết long trọng: “Chúng tôi khẳng định, chúng tôi tuyên bố và chúng tôi minh định như một tín điều được Thiên Chúa mặc khải rằng Đức Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian, đã được cất nhắc về vinh quang trên trời cả xác lẫn hồn” (tông hiến Munificentissimus Deus).
Đức Giáo hoàng đã không chọn ngày nào, lại chọn ngày lễ các thánh Nam Nữ để công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời. Tôi thấy có một ý nghĩa lớn: Giữa hàng ngũ các thánh của Chúa, Đức Maria trổi vượt trên tất cả về sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa. Sự thánh thiện tuyệt vời của Đức Mẹ đã mở đường cho Đức Mẹ đi tiên phong trước mọi thụ tạo, tiến về cùng Chúa, hưởng vinh quang nơi Chúa bằng toàn bộ con người, gồm cả xác lẫn hồn của Đức Mẹ.
II. Vài hình ảnh gợi ý trong các bản văn Thánh Kinh của ngày lễ.
Ta chú ý lời của Đức Maria trong Tin Mừng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong TYhiên CHúa, Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 46-47). Chính Đức Mẹ̣ – Đức Mẹ chứ không phải bất cứ tập thể hay cá nhân nào, dù là Hội Thánh hay chúng ta – đã ca ngợi Chúa, ca ngợi lòng thương xót của Chúa. Đức Mẹ đã tuyên xưng hành động cứu độ của Chúa, và gọi Chúa là “Đấng Cứu độ tôi”. Những chữ “Đấng Cứu độ tôi”, quả thật là lời quy hướng về Chúa. Đức Mẹ đã nhìn nhận, đã tin tưởng thực sự rằng: Chỉ có Chúa, chỉ trong Chúa, Đức Mẹ mới được vinh quang và hạnh phúc vô cùng như thế.
Để chuẩn bị đón mừng ngày lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác, chúng ta cùng nhau ôn lại vị trí của Mẹ chúng ta trong Thánh Kinh. Từ đó, ta biết giục lòng yêu mến Mẹ nhiều hơn và bắt chước Mẹ luôn sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa.
- Từ thủơ đời đời Mẹ đã có chỗ đứng quan trọng trong Tin-Mừng Nguyên-Thủy, ngay khi Evà bị con rắn quyến-rũ phạm tội, đem cái chết đến cho nhân-loại thì Giavê Thiên-Chúa đã phán bảo con rắn: "Bởi ngươi đã làm thế thì ngươi hãy là đồ chúc dữ giữa mọi thú-vật cùng dã-thú hết thảy! Ngươi hãy lê bụng và ăn đất-bụi mọi ngày đời ngươi. Ta sẽ đặt hận-thù giữa ngươi và NGƯỜI ĐÀN-BÀ, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó, dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi còn ngươi sẽ táp lại gót chân!" (Khởi Nguyên 3,14-15).
-Trong suốt bốn ngàn năm mong-đợi Đấng Cứu-Thế, Mẹ đã được các Tiên-Tri trong Cựu-Ước loan-báo sẽ thụ-thai và sinh-hạ một con trai đặt tên là Ê-ma-nu-el, có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta: "Chính Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu-lạ: Này một TRINH NỮ sẽ thụ-thai và sinh-hạ một con trai, và Bà sẽ đặt tên con là Ê-ma-nu-e!" (Isaiia 7, 14).
-Tiên-Tri Mica cũng nói về Mẹ và Con của Mẹ: "Người sẽ phó-nộp chúng cho tới thời-kỳ TRINH-NỮ sinh Con và số-sót anh em Ngài về với Israel. Ngài sẽ bền-vững, Ngài sẽ chăn-dắt dựa vào quyền-năng Giavê, nhờ Uy-Danh Giavê Thiên-Chúa của Ngài. Và chúng sẽ được an-cư, vì bấy giờ Ngài sẽ nên lớn-lao cho đến mút cùng trái-đất!" (Mi-ca 5,2-3).
- Tiên-Tri Zacarya cũng tiên-báo về Mẹ: "Giavê phán: Hãy reo lên! Hãy vui-mừng, hỡi NỮ-TỬ SION! Này Ta đến lưu-trú ở giưã ngươi!" (Za-ca-ry-a 2,14).
- Trong ngày Truyền-Tin, Thiên-Sứ Ga-bri-el đã kính-cẩn chào Mẹ: "KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN-PHÚC, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc hơn mọi người nữ!" (Luca 1,28).
- Bà Isave nghe Mẹ chào, được tràn đầy Thánh-Linh, đã hân-hoan lớn tiếng thốt lên: "Trong nữ-giới có EM LÀ NGƯỜI DIỄM-PHÚC, và đáng chúc-tụng thay hoa-quả lòng Em! Và bởi đâu tôi được thế này, là Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi? Vì tai tôi vừa nghe tiếng Em chào, thì hài-nhi trong dạ tôi nhảy mừng! Phúc cho Em là người đã tin Lời Thiên Chúa phán sẽ thành-sự!" (Luca 1, 42-45).
- Đang khi Chúa Giêsu giảng-dạy, thì giữa dân-chúng có một bà cất tiếng nói với Ngài: "Phúc cho LÒNG DẠ CƯU-MANG THÀY, và vú đã cho Thày bú!" (Luca 11,27).
- Đứng bên khổ-giá Đức Giêsu có Mẹ Ngài và người chị họ của Mẹ Ngài là Maria vợ ông Clôpát, và Maria người Magđala. Vậy Đức Giêsu thấy Mẹ Ngài và môn-đồ Ngài yêu-mến đứng bên cạnh thì nói với Mẹ: "Thưa Bà, đây là con Bà!". Đoạn lại nói với môn-đồ: "Đấy là Mẹ con!". Và từ giờ đó môn-đồ đã lãnh lấy Bà về nhà mình." (Gioan 19,25-27).
Chúng ta chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ an-ủi, hộ-vực, dìu-dắt, chia-sẻ kinh-nghiệm và bí-quyết nên thánh. Chúng ta chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ cầu thay nguyện giúp với Thiên-Chúa cho chúng ta, tiến-cử chúng ta với Thiên-Chúa, để chắc-chắn một ngày kia chúng ta cũng sẽ gia-nhập hàng-ngũ các Thánh, cùng với Mẹ là Nữ-Vương các Thiên-Thần và các Thánh Nam Nữ chúc-tụng tôn-vinh Thiên-Chúa, Cha chúng ta!
Hôm nay chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Mừng lễ hôm nay tự nhiên tôi lại nhớ đến câu truyện đã xẩy ra trong cuộc đời của tôi cách đây hơn gần 20 năm. Cũng vào dịp như thế này vào chiều 15-8-1981. Sau khi tôi vừa dâng lễ xong thì có một người đàn ông trạc độ 50-60 tuổi. Ông tìm đến với tôi và nói với tôi những lời rất chân thành như sau trước mặt mọi người: "Thưa Cha, hôm nay con nghe bài giảng của cha con cảm động quá. Cha còn mặc áo màu vàng... màu vui, màu chiến thắng... Nhưng cha có biết không... hôm nay là ngày giỗ của mẹ con... Mẹ con mất... ở đời con chỉ có mẹ... Con nhớ mẹ con quá... Xin cha cho con địa chỉ của Vatican... Con gửi thư con nói với Chúa... con đòi mẹ con lại. Ở đời con chỉ có mẹ. Đời con chỉ có mẹ. Mẹ là lẽ sống, mẹ là niềm vui của con. Con muốn đòi mẹ con lại.
Vâng kính thưa anh chị em. Mẹ là lẽ sống, là niềm vui. Có Mẹ thật không có gì hạnh phúc hơn.
Không thể có niềm vui nếu không có mẹ. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời: Mẹ Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta.
Hôm nay chúng ta mừng mẹ được về trời. Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Vâng ngay từ thuở đời đời Thiên Chúa đã muốn cho người mẹ đó luôn ở với chúng ta.
1. Ngay từ những ngày tháng đầu tiên khi mới có con người trên trái đất này, Mẹ đã có mặt ở đó:
"Ta sẽ đặt giữa ngươi và người phụ nữ
Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ
một mối cừu địch
Người phụ nữ đó sẽ đạp dập đầu mi"
2. Rồi khi đến thời đến buổi, lúc Thiên Chúa muốn thực hiện lời hứa của Người. Mẹ Maria đã có mặt ở đó. Bằng Lời Xin vâng với tất cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn làm trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta
+ Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
+ Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình
+ Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. Thánh Gioan"Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu...như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.
+ Rồi ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
+ Chưa hết: Sau khi Chúa về trời
Mẹ cũng tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao
+ Mẹ đã hiện ra với nữ tu Catharina Labouré tại khu phố Dubac ở Thủ đô nước Pháp năm 1830
+ Năm 1846 tại La Salette Mẹ hiện ra với hai trẻ mục đồng: Mélaine (10 tuổi) và Maximin (15 tuổi)
+ Tại Lộ Đức năm 1858 với cô bé chăn cừu Bernadette
+ Tại Pontmain 1871 với Cha Barbedette và cậu Eugène
+ Tại Pellevoisin 1876 với Estelle Faguette (12 tuổi)
+ Tại Fatima 1917 với ba trẻ: Giaxinta (7 tuổi)- Phanxicô (9 tuổi) - Và Lucia 10 tuổi)
+ Tại Beauring Bỉ với Albert (11 tuổi) - Fernande Versin (15 tuổi) Gilberte Degeimbre (9 tuổi) và André Degeimbre (14 tuổi)
+ Và sau đó tại Banneux cũng ở tại nước Bỉ với Mariette (12 tuổi)
+ Tại Hang Ba suối ở Roma với 1 người đàn ông và ba em nhỏ: Ông Bruno Cornachiola và ba em là: Isala (10 tuổi) - Carlô (7 tuổi) và Gioanfraco (4 tuổi)
Và gần đây ngày 24/6/1981 tại Medjugorji thuộc trung tâm nước Nam tư cũ với hai thiếu nữ Mirjana Dragicevic và Ivanda Ivankovic
Cuối cùng chúng ta cũng không quên Mẹ đã hiện ra nhiều lần cách đây hơn 200 năm tại Lavang.....
Tất cả những lần hiện ra như thế dường như chỉ để chứng minh có một điều: Mẹ vẫn có mặt, có mặt thường xuyên và gần gũi với con cái loài người chúng ta, giúp cho con cái loài người hãy biết sống để chiếm hữu được trời cao như Mẹ.
Vâng chúng ta hãy biết nghe lời Mẹ.
Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử… đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianey đi qua… Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:
- Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
- Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria Đã một lần Mẹ nhận nhân loại chúng con làm con của mẹ Và từ dạo ấy Mẹ đã yêu nhân loại với tất cả tấm lòng từ mẫu Chúng con là những người trong khối nhân loại ấy Và như thế chúng con đã đương nhiên là con của Mẹ Và đương nhiên là Mẹ thương chúng con Xin dạy chúng con biết chiêm ngắm Chúa Kitô và suy đi nghĩ lại những Lời của Người trong tâm tình yêu mến như Mẹ Xin dẫn lối cho chúng con trên bước đuờng theo Chúa cũng như đem Chúa đến cho mọi người Xin dạy chúng con biết luôn bước đi trên con đường tình yêu Với tâm tình phó thác Xin dẫn chúng con đến sự sống muôn đời bằng cách đặt bàn tay chúng con vào bàn tay của Chúa Kitô Đấng đã có lần nói với mọi người Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Amen.
Ngày lễ này đã được các Giáo Hội Phương Đông và Phương Tây mừng kính trọng thể từ thế kỷ thứ V. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã xác định Đức Mẹ lên trời như một tín điều của Đức tin ngày 1 tháng mười một 1950. “Đức Mẹ lên trời là đặc ân qua đó Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội của Thiên Chúa được vinh thăng cả hồn lẫn xác khi đời sống trần gian của Mẹ chấm dứt, mà không chờ đến ngày sống lại sau cùng”. Điều này là đức tin của Giáo Hội từ lâu đời, và một chứng cứ, giữa nhiều chứng cứ khác, là cửa kính màu. Đức Maria Ly Trần của nhà thờ chính tòa Angers, vào thế kỷ thứ XII.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn..."
Đức Maria là người nữ đầu tiên "được cứu”. Bài ca ngợi khen, Maglnficat, của Mẹ đã dâng mọi vinh quang lên "Cứu Chúa", Đấng "Toàn Năng". Trường hợp đặc biệt của Đức Maria được Thiên Chúa cho cả hồn lẫn xác đi vào vinh quang của Người, không do bởi công nghiệp của Mẹ nhưng do ân sủng của Con Mẹ là Đức -Giêsu. Mẹ nhận mình là “nữ tỳ bèn mọn" của Đức Chúa. Bài ca ngợi khen của Mẹ không có điều gì như một bài ca của lòng kiêu hãnh. Đó là một thú nhận của lòng khiêm hạ ! Tất cả những gì của Mẹ đều do Thiên Chúa ban cho bội ân sủng và được dâng lại cho Thiên Chúa bằng lời ngợi khen. Chính vì thế lòng sùng kính chân thật Đức Maria luôn hướng chúng ta về mầu nhiệm Đức Kitô. Để hiểu sự vinh thăng của Đức Trinh Nữ, trước tiên chúng ta phải chiêm niệm vinh quang của Đức Giêsu phục sinh.
Đức Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết mở đường cho những ai yên giấc ngàn thu... mọi người nhờ liên đới với Đức Giêsu, cũng được Đức Giêsu cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm, thì đến lượt những kẻ thuộc về Người... (Cô-rin-tô 15,20-23).
Trong Đức Giêsu Kitô, "thới kỳ sau hết" đã bắt đầu.
Đó là thời cánh chung, theo cách gọi của các nhà thần học, do chữ "eschaton" = sau hết. Khi chúng ta nói đến thời kỳ sau hết, chúng ta luôn luôn có khuynh hướng nghĩ đến giới hạn cuối cùng, đến giây phút cuối cùng của thời gian mà chúng ta không có phương tiện nào để tưởng tượng và chúng
ta quy chiếu vào một tương lai xa vời nào đó. Hỡi ôi, cám dỗ để chúng ta không quan tâm đến ngày "tận thế" là chúng ta cho rằng tận thế ấy không đến lượt chúng ta.
Nhưng từ "tận thế" hay "thế mạt" theo nghĩa cánh chung đích thật, chỉ ra một thực tại hiện nay "đã bắt đầu”, mặc dù "chưa hoàn tất". Cánh chung theo nghĩa này chính là “mục tiêu” hướng dẫn một hành động ngay khi nó mới bắt đầu. "Đức Kitô đã sống lại... (đứng đầu mọi kẻ sống...tất cả sẽ sống lại... mỗi người theo thứ tự của mình). Trong Đức Giêsu Kitô, chính thực tại tối hậu của Thiên Chúa và thực tại tối hậu của con người đã xuất hiện sự sống lại không chỉ là "tận cùng của các sự vật", nhưng là nền tảng của các sự vật". Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta bí mật sâu xa của công trình sáng thế của Người. Chính vì để dẫn chúng ta đến thực tại kỳ diệu của sự sống mà Người đã lên chướng trình cho chúng ta ngay từ khởi điểm. Trong Đức Giêsu sống lại thời sau hết, mục tiêu của lịch sử đã chạm đến chúng ta" (1 Côrintô 10,11).
Bởi ơn đặc biệt, Đức Maria đã đi đến vinh quang ấy và sự phát triển hoàn toàn chính là dự án của Thiên Chúa. Đức Maria có thể nói là "nguyên mẫu” của những gì mà Thiên Chúa đang làm với toàn thể tạo vật. Trong Đức Giêsu Kitô, điều đã đến cho Đức Maria, phải xảy đến với toàn thể Giáo Hội, và với mỗi người chúng ta. Sự biến hóa từ con người phải chết đến con người hằng sống đã hoàn toàn thành tựu trong Đức Giêsu Phục sinh, đã được Đức Maria, mẹ Người tham dự trước. Đối với phần còn lại của nhân loại sự biến hóa ấy đang được tiến hành. Khi mà lịch sử còn diễn tiến thì khuôn mặt chung cuộc, một cách tạm thời, mỗi người chúng ta bị bóng tối sự chết đánh dấu, và chúng ta "Xin mang lấy vào thân cho đủ mức những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh". (Cô-lô-xê 1,24)
Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con (Khải Huyền 12, 1-2)
Kêu la... đau đớn và... quằn quại. Khi mà Lịch sử còn tiếp diễn thì đối với chúng ta, nhân loại còn phải chịu khổ như thế. Những bản tin thế giới qua báo chí và truyền hình đem đến cho chúng ta cảnh tượng bi thảm ấy mỗi ngày. Trong ngày mà chúng ta kỷ niệm sự vinh quang và hạnh phúc của Đức Maria, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta tình mẫu tử của Đức Maria đau đớn biết chừng nào, khi Mẹ sinh ra chúng ta, dưới chân thập giá.
Như thế mỗi một thử thách của chúng ta là một lần sinh đẻ. Đau khổ của chúng ta hiện nay là sự sinh nở một thế giới mới, cùng với Đức Kitô trên thập giá.
Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quân thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa Cha. Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết. (1 Cô-rin-tô 15, 22-26)
Một số đầu óc bằng lòng với "tính bất tử của linh hồn". Tại sao, họ nói, còn nói đến "xác loài người ngày sau sống lại"?
Vả lại chúng ta tin rằng Ngôi Lời đã trở nên người phàm và trong mỗi Thánh Thể, Đức Giêsu làm cho chúng ta thành Mình Người... và Đức Maria đã được Thiên Chúa cưu mang cả hồn lẫn xác. Đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc. "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Gioan 6,39-54). Trong ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời này, chúng ta phải tìm lại ý nghĩa của “thân xác".
Thân xác chúng ta không phải là một yếu tố bên ngoài, mà là một yếu tố cấu tạo nên chính chúng ta, bởi ý muốn của Đấng Sáng Thế. Triết học hiện đại, về điểm này, trở lại với trực giác của Kinh Thánh và bác bỏ chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes. Thay vì nói rằng chúng ta gồm có một linh hồn và một thân xác, đúng hơn nên nói rằng "chúng ta là một thể xác có tâm linh" hoặc "một tinh thần nhập thể". Thánh Tôma Akinô đã nói: "Thiên Chúa đã cho con người tinh thần và bàn tay". Chỉ là một vật, vật chất, mà nó hoàn toàn thấm nhuần trí tuệ và chỉ làm điều mà trí óc tôi sai khiến nó. Ngược lại, tinh thần tôi không thể làm được gì nếu không có bàn tay tôi không có sự phân ly nào giữa hai khía cạnh ấy của nhân tính tôi: không có gì hoàn toàn là thân xác, và cũng không có gì hoàn toàn là tâm linh.
Khi chúng ta nói về "linh hồn", chúng ta không nói về một thứ "sự vật" phân ly và đối lập với thân xác. Chúng ta sử dụng cách nói này để nói rằng "nhân vị -con người" trường tồn qua mọi biến đổi thể chất mà nó chịu nhận qua tiến trình lịch sử của một con người: ông cụ già 80 tuổi này với thân xác mỏi mòn và đau đớn cũng là một người với người trưởng thành 40 tuổi ấy khi xưa đã làm việc nhiều với em bé 10 ngày tuổi đã cựa quậy nhẹ nhàng trong nôi của bé. Thân xác ấy đã biến đổi nhiều. Tuy nhiên, đó cũng là một con người (một nhân vị). Yếu tố thường hằng đó, người ta gọi nó là "linh hồn". Vậy, nói như thế không sai. Nhưng vẫn còn chân lý về người nam và người nữ, theo dó Đấng Tạo Hóa đã làm cho chúng ta có nam và có nữ; chính vì thân xác chúng ta là một phần trong toàn thể căn tính của chúng ta. Đức Giêsu có một thân xác. Và sự sống lại của thân xác không phải là một điều tùy phụ, nhưng là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng việc Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác nằm trong đường hướng mà Thiên Chúa muốn thực hiện cho tất cả chúng ta. Thiên Chúa muốn tiêu diệt hết mọi quyền lực của sự ác cho đến kẻ thù địch cuối cùng là sự chết.
Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần... (Luca 1, 39-41)
Tin mừng về sự Nhập thể không ngừng đưa chúng ta về những thục tại của thân xác. Ở đây, Chúa Thánh Thần sử' dụng cái bụng của hai người phụ nữ để ban tràn đầy Thần Khí cho nhân loại. Thân xác không phải là một vật xấu xa, nặng nề và đáng khinh. Ai khinh khi thân xác là khinh khi Thiên -Chúa. Ai làm hại thân xác, là làm hại một "hình ảnh của Thiên Chúa". Sự Mông Triệu của Đức Maria đã nẩy mầm từ hạt giống chính là cảnh tượng đáng khâm phục này.
Đức Giêsu, con lòng bà gồm phúc lạ... và phần bà, bà được chúc phúc giữa tất cả những người phụ nữ..."
Thật vậy, chúng ta phải kính trọng sự im lặng cũng như sự kín đáo của Kinh Thánh về lúc cuối đời của Đức Maria. Chúng ta không có bất kỳ chi tiết nào về cái chết của Thánh Nữ Đồng Trinh - Đức Maria đã sống những ngày cuối cùng của cuộc đời Mẹ trong sự vô danh và im lặng.. Như thế nào? Không ai biết được. Không ai kể lại với sự chính xác. Người ta chỉ biết rằng Đức Maria chết "sau Con Mẹ" bởi vì Mẹ đã đứng dưới chân thánh giá nhìn con Mẹ từ trần.
Như Tin Mừng, chúng ta hãy chấm dứt sự của chúng ta hôm nay bằng cách chiêm ngắm Đức Maria trên dưới tuổi đôi mươi lên đường vội vã, đi bộ đến miền núi xứ Giu-đê, với đứa con Mẹ cưu mang trong bụng... Mẹ đến nhà người chị họ, để giúp đỡ bà: Mẹ sẽ ở lại đó ba tháng !
Sống với Mẹ Maria thật tốt đẹp biết bao ! Mẹ của Thiên Chúa đã sống trọn đời Mẹ trong tình yêu thương tuyệt đối của Đức Chúa và của những người khác: Ngọn lửa thầm khi nhưng nong nàn không để lại "tro tàn". Giờ mà thân xác Mẹ chết, chính là giờ dâng tiến của lễ tình yêu sau cùng của Mẹ, không để sót cái gì. Trong thân xác hoàn toàn được linh hồn ấy tác động, không còn gì chịu hư nát: Tất cả đã được thêu hoá.
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai khung cảnh Kinh thánh ta thấy ở trên. Êlisabét biểu hiệu Israel: già cả, gia đình tư tế, bị son sẻ tự nhiên, và nhờ phép lạ của Thiên Chúa trở thành người mẹ có con cái sinh ra vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Maria tượng trưng cho Giáo Hội: trẻ trung, trinh tiết, thành người Mẹ nhờ phép lạ của Thiên Chúa, sắp sinh hạ là Đấng Messia, Đấng Cứu độ. Hai người mẹ mà việc làm Mẹ mang một tầm vóc lịch sử, đã tìm gặp nhau và cùng liên kết với nhau đe cùng tụng ca vinh quang Thiên Chúa.
Maria lên đường đến thăm viếng phần vì –một cách rất tự nhiên- muốn thông dự vào biến cố vĩ đại và rồi bày tỏ tâm tình của mình, nhưng cũng vì muốn giúp đỡ và cuối cùng là đón nhận một dấu hiệu Thiên Chúa đã chỉ: như vậy, Mẹ đã đi sâu vào chương trình vĩ đại của Thiên Chúa.
Đằng sau tất cả những cái đó, người ta khám phá ra được sáng kiến, quyết định cá nhân của Mẹ. Một lời nói của Thiên Thần và sự thúc đẩy của ơn thánh đã đủ. Mẹ hiểu và Mẹ hành động. Tin mừng nói thêm là Mẹ vội vã. Ưng thuận thánh Ý Chúa, vâng lời tiếng mời gọi của Ngài thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lanh lẹ. Người nào đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa và được Thần Khí thúc đẩy, phải bước đi với tâm hồn hài lòng và tinh thần cởi mở, dầu trên con đường đầy khó khăn.
Việc Maria cất bước đâu phải việc tự nhiên. Một thiếu nữ trẻ tuổi tự ý làm một cuộc hành trình dài ba ngày đường, rồi ở lại cả mấy tháng trời xa nhà xa cửa, hẳn phải là cái gì gây kinh ngạc cho người Do thái thời đó- và có thể được coi là quá đáng. Nhưng Maria đã để kệ tất cả nhưng cái nhìn phàm trần đó một khi muốn thực thi Thánh Ý Chúa.
2. Lời nói
Đức Maria đến chào thăm Êlisabét trong căn nhà của Giacaria. Chúng ta không biết đó là lời chào bình thường hay cùng lúc đó truyền đạt sứ điệp thien thần đã cho biết liên quan đến biến cố kỳ diệu kia. Trong mọi trường hợp, lời nói của Đức Maria làm cho Êlisabét và con bà đang mang trong lòng một sự cảm động và nhiệt tình cả về tự nhiên lẫn thần hứng của Thánh Than. Chính vì đó mà khi đáp lại lời chào, bà Êlisabét đã thốt lên với vẻ cảm động sâu xa: Em có phúc hơn mọi người nữ, và hoa quả bởi lòng em thật đáng chúc phúc. Phần đầu của Kinh Kính mừng được Thiên thần Chúa phát biểu, phần sau đã được Êlisabét xướng lên, và do đó bởi lòng thán phục của loài người. Sau này Giáo Hội đã thêm vào phần thứ ba trong ý nghĩa và theo tinh thần của con người tội lỗi.
Kinh Kính mừng như vậy hoàn toàn có nguồn gốc Kinh Thánh và Giáo Hội, đã là một trong những lời kinh đẹp nhất, sâu xa nhất, nhờ nó mà Êlisabét và Cựu ước nôí kết với Đức Maria và Tân ước, tất cả kết thúc bằng lời Giáo Hội, trong đó hết thảy đều quy tụ về.
Hoa quả của lòng Đức Nữ Trinh đã làm nên đối tượng cho việc vinh chúc, chính vì thế ta hiểu được tại sao Đức Mẹ đáng được ca tụng giữa hàng phụ nữ. ….Việc làm Mẹ của Đức Maria là một bí nhiệm của vẻ lớn lao của Mẹ, đồng thời cũng nói lên sự bí mật trong việc sùng kính Đức Mẹ của tất cả những ai suy nghĩ và tin tưởng theo Kinh Thánh.
Và bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến với tôi?. Bà Êlisabét, dù đã cao niên, cũng nhận thức được và tuyên xưng sự nhỏ bé của mình, ngạc nhiên và sung sướng, ca tụng người em họ này Mẹ của Chúa tôi: bà biết trẻ nhỏ nằm trong lòng trinh nữ là ai, và trẻ này sẽ làm Chúa theo hai nghĩa của danh từ. Vì Ngài là Chúa của mọi người, nên cũng là Chúa của Bà và là Chúa là Vua của vị loan tin, của vị tiền hô mà Bà sắp sinh hạ.
Phúc cho em là kẻ đã tin: vì tất cả những gì Chúa đã phán với em, sẽ nên trọn. Đức Maria thật đã cao cả trong sự kiện, và nhiệm vụ làm Mẹ của Chúa; Mẹ còn cao cả xét về cá nhân Mẹ, vì lòng tin vào sức mạnh và quyền năng của Lời Thiên Chúa. Đức tin này hoàn toàn nghịch laị với sự cứng tin của loài người.
Ngay từ khởi đầu lịch sử ơn cứu độ, đức tin đã được biểu hiện như một sự chấp nhận tiêng nói đòi hỏi, ưng chịu, mời gọi, ban ơn sủng, sinh hạ và tạo thành. Ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, là công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên,con người phải đón nhận bằng sự sẵn sàng vì Thiên Chúa không thể bỏ qua sự cộng tác này. Hoạt động của Thiên Chúa đòi hỏi sự tham gia của con người. Sự tham gia, cộng tác này, chính là lòng tin biểu lộ ra bằng việc làm: đức tin song động, câu trả lời quả quyết của cả con người đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa.
Êlisabét ca tụng Đức Mẹ, đó là Israel ca tụng Giáo Hội. Đó là việc Cựu ước thừa nhận Tân ước và đó cũng là sự kính trọng của dân cũ của Thiên Chúa đối với dân mới của Ngài.
Toàn cảnh trên đây đã tạo nên nền tảng cho việc sùng kính Đức Mẹ, vì sự sùng kính này rút từ nguồn gốc của lời nói và trình thuật Kinh thánh, diễn tả hai vẻ lớn lao của Đức Mẹ: lớn lao nơi con người và nơi nhiệm vụ của Mẹ, đồng thời lớn lao về tư cách làm Mẹ của Mẹ và sự sẵn sàng nơi đức tin của Mẹ.
Lời ca tụng của bà Êlisabét nối tiếp lời ca ngợi của thiên thần. Cả hai đã được tiep tục qua môi miệng Giáo Hội và môi miệng của tất cả những người thấm thía lời văn cũng như tinh thần của Kinh Thánh và của Giáo Hội, đã không bao giờ để cạn khô lời tán tụng Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu.
KINH NGỢI KHEN (1, 46-56)
Việc loan báo cho Giacaria đã bị mất hút trong im lặng. Giacaria đã thành câm. Êlisabét sống trong âm thầm hoàn toàn, Vị Tẩy giả lớn sẽ vào sống nơi Sa mạc. Trái lại, việc truyền tin cho Đức Maria đã hoàn thành trong vui mừng khôn tả, niềm tươi dịu như màn sương, lan đi như tiếng chim sơn ca tràn ra từ tâm hồn đầy dư. Nguồn nước tinh thần đã vọt ra… Từ một tạo vật lặng lẽ, chỉ biết suy niệm, ít được Tin mừng nhắc tới, đã toả ra cách dồi dào một bài Thánh thi, một bài Thánh ca, một bài Thánh vịnh đầy hoan lạc:
Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.
Các nhà chú giải không đồng ý với nhau về các phần khác nhau của kinh Ngợi Khen. Tuy nhiên dựa vào nội dung của bài kinh, người ta có thể phân ra làm ba chu kỳ ý tưởng và ba phần tương hợp.
PHẦN THỨ NHẤT
Áp dụng vào chính Đức Mẹ. Thực ra thì cái nhìn đầu tiên của Đức Maria, không hướng về Ngài ngay đâu, mà là hướng lên Thiên Chúa và chính nơi một mình Thiên Chúa, Đấng vĩ đại nhất, mà Mẹ thấy được nguồn suối dạt dào, mà Mẹ được hân hạnh dự phần.
Linh hồn tôi chúc tụng Chúa. Tất cả mọi lời ca ngợi đều trao về Thiên Chúa. Người nữ tỳ của Chúa ca tụng Chúa mình và hình như Mẹ không thể tìm ra được những tiếng thích hợp. Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ đại, đáng được tôn vinh, ngợi khen Đấng Hùng Vĩ, là nhiệm vụ đầu tiên… Đối với người đạo đức, ngước mắt hướng lên Chua biểu hiện một cử chỉ thật hết sức tự nhiên, nó không đè nén mà là nâng cao. Đó là hơi thở của linh hồn. Nó vượt qua những thung lũng tối tăm, những căn lều ngột ngạt để tới những đám mây vĩnh cửu của Thiên Chúa bất biến.
Phụng vụ ưa dùng đại danh từ chúng tôi hơn là tôi. Nhưng Đức Maria giữ cái chỗ của mình trong khiêm hạ. Thiên thần vừa đến nói với Mẹ bằng những lời đầy mỹ miều. Vì thế chính trong thâm tâm Mẹ đã luôn không ngớt ca tụng hồng ân đặc biệt Chúa dành cho Mẹ. Tuyển sinh duy nhất trên đời này có lý do đặc biệt để khoe ân huệ của Đấng đã chọn mình.
Thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Linh hồn và tâm trí hợp nhất với nhau để tụng ca Thiên Chúa. Sự hân hoan của con tim là do bởi tiếng vang vọng của một tin vui. Thiên Chúa là Đấng Cứu độ. Tên của Hài nhi mà Mẹ thụ thai là Giêsu: vậy ra là Giavê là Đấng cứu độ.
Mệnh lệnh về ơn cứu độ đã được thông báo cho Đức Maria: Mẹ là người đầu tiên hân hoan đáp lại tiếng của Thiên Chúa xét như Đấng cứu độ. Mẹ mang Chúa Cứu Thế mà lại không nhảy mừng trước biến cố vĩ đại nhất của lịch sử ơn cưu độ này sao?
Phận nữ tỳ, Người đoái thương nhìn tới. Đức Maria không dám coi mình xứng đáng lôi kéo cái nhìn của Thiên Chúa. Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn ghé mắt tới Ngài, không phải với cặp mắt của vị thẩm phán, nhưng vơi cái nhìn đầy xót thương, ưu tuyển và âu yếm.
Dưới ánh sáng thần linh Thiên Chúa, con người nhận ra rõ ràng sự thấp kém và khổ sở của mình. Với con mắt của Chúa, tạo vật thực sự nhận thức về thân phận tôi tớ của mình. Đức Maria tuyên nhận tình trạng nữ tỳ của Mẹ. Trước nhan Chúa, thái độ đó lại mang một ý nghĩa lớn lao: nên đã biến đổi tình cảnh đó để từ nữ tỳ trở thành bà chủ.
Từ nay muôn đời sẽ gọi tôi là người diễm phúc. Tiếng từ nay là một khúc ngoặc trong đời sống của Đức Maria, mà từ trước tới bây giờ không được ai biết đến, ít ý nghĩa đến như ẩn dật: giờ đây dưới ánh sáng rạng ngời của Thiên Chúa bao phủ, Mẹ trở thành đối tượng cho mọi người thán phục và ca ngợi.
Tiếng từ nay cũng là một bước rẽ của lịch sử ơn cứu độ: sự dữ và nỗi thất vọng đã kết thúc vì Đấng Thánh Hoá, Đấng Cứu Độ đã đến, đến bởi Mẹ, Bà Mẹ Đồng Trinh. Vì thế tất cả những ai được nghe về Mẹ, đều đồng thanh tung hô Mẹ diễm phúc. Cái nhìn tiên tri về tương lai này là một sự nhận thức trước về sự tôn sùng Đức Mẹ và sự công chính hoá của Mẹ dựa vào lời chính Chúa linh ứng cho Mẹ. Lơi ca tụng của bà Êlisabét em có phúc vì đã tin chỉ như một câu mào đầu. Còn chính kinh ngợi khen mới thực sự là Thánh vịnh. Được Mẹ cất lên, bài ca này sẽ không bao giờ ngừng, nhưng còn vang vọng từ đời nọ tới đời kia, khi thời gian kết thúc, để rồi sang tới thế giới mà thời gian không có điểm dừng.
Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Đức Maria không biết tự hạ giả dối, Ngài cũng không cố chấp chối từ ơn Chúa. Mẹ cũng chẳng tự khoe như cánh hoa nhỏ với hàng dậu dài, cũng chẳng như một cô bé lọ lem nấp nơi xó bếp trong truyện cổ, Mẹ không rút vào bóng tối, thẹn thùng. Mẹ biết rằng tất cả những gì lớn lao nơi Mẹ chỉ do bởi ơn Chua. Sẽ vô ơn nếu không ý thức được điểm đó.
Bởi sức mạnh của ơn thánh, Đấng toàn năng đã thực hiện một phép lạ nơi lòng Mẹ, sự quyền năng này đã vượt thắng vẻ yếu hèn của nhân tính mà với sức riêng không thể thực hiện được ơn cứu sống cho mình. Và cũng chính sức mạnh đó đã thắng nổi Maria, cái nôi của ơn cứu độ.
Danh Ngài là Thánh. Cạnh sự quyền năng của Thiên Chúa, là sự Thánh Thiện đã trở thành hữu hình nơi Ngôi Con nhập thể. Đấng Thánh đã đi vào thế giới vô đạo, danh xưng bị tục hoá của Thiên Chúa, sẽ được đón nghe và trở thành hữu hình. Đấng không-thể-đến-gần đã gần đến.
Ngài đã đập phá rồi sẽ mở cái cửa vốn dĩ không vượt qua được của sự thánh thiện Ngài để con người tội lỗi được lôi kéo đến bằng lời mời gọi và bằng ơn sủng. Thế giới sẽ biến thành đền thánh; cái gì là phàm tục đã mất quyền hiện hữu. Như vậy trong phần thứ nhất, một phản đe Thiên Chúa và cái tôi, đòi sự tôn vinh Thiên Chúa, trong đó cái tôi đã tự mất đi.
PHẦN THỨ HAI
Đức Maria đi từ con người mình tới cả nhân loại. Mẹ biết Mẹ không thụ thai hài nhi cho mình, nhưng là cho tha nhân: tình thương Chúa trải qua bao thế hệ, dành cho ai biết kính sợ Ngài. Đó là đầu đề của phần thứ hai và dạy cho ta biết rằng từ nay ân sủng ban cho tất cả mọi người với điều kiện tiên quyết là có thái độ của người nữ tỳ Thiên Chúa như Đức Maria. Đó là kính sợ Thiên Chúa và sống trước nhan Ngài, Đấng đáng ngợi ca, với một thái độ thán phục.
Luật về ơn sủng biểu thị hiệu quả của nó. Cái gì thấy được nơi Đức Maria cũng có giá trị cho mọi nơi va mọi người. Luật đó được phát biểu như sau: Thiên Chúa ban ơn sủng Ngài cho những nơi nào người ta thấy rằng cần ơn của Ngài. Từ nay, nước Thiên Chúa sẽ là nguồn hân hoan cho ai ý thức sự khốn khó của mình. Điều đó được thể hiện trong ba lãnh vực: ân sủng đến với người khiêm hạ, chứ không phải kiêu ngạo; đến với người yếu thế chứ không phải đầy quyền thế; với người chẳng có gì, chứ không phải quá đầy đủ.
Cánh tay Chúa biểu dương uy lực, dẹp tan phường lòng trí tự kiêu. Kiêu ngạo đích thị là kẻ thù của Thiên Chúa. Nâng mình lên quá cái mình có là đưa mình tới chỗ thấp hèn của mình. Siêu nhân sẽ trở thành hèn nhân. Sức mạnh của Thiên Chúa hẳn đa vượt thắng được những chương trình vô đạo, phát sinh từ lòng trí tự kiêu của những con người nuôi ảo vọng có thể tự cứu rỗi bằng sức riêng của mình. Thiên Chúa sẽ làm tán loạn những ghép nối này và làm cho họ chống lại nhau.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao những kẻ khiêm nhu. Hài nhi của người đầy tớ Thiên Chúa đây sẽ lên ngôi Đavít, và những người đang ngồi trên ngai này sẽ lật nhào. Những người chỉ vì danh lợi bạc tiền mà ngồi trên ngai cao, coi mình là quyền năng, hẳn sẽ phải rơi xuống cái thân phận nhỏ bé và dòn mỏng của mình. Những người tự coi mình là vĩ đại đâu thoát được những giờ phút đen tối khi mà cái chết đến đón họ.
Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giầu có lại đuổi về tay trắng. Sự đói khát Thiên Chúa sẽ thiêu đốt những tâm hồn nhận biết mình chỉ là hư vô, và cảm thấy chẳng có vật thụ tạo nào có thể thoả mãn khoảng không gian trống vắng của con tim cả. Khi đó Thiên Chúa sẽ đổ đầy và đổ cho tràn trề. Nhưng với người đã no say, đầy dẫy chính mình hay đầy dẫy những sự đời này thì làm sao có chỗ cho ơn chúa đến nữa. Để ơn Chúa hiện diện và tràn đầy, thì con người phải biết cởi mở tâm hồn hướng tới những gì cao thượng. Người đầy ảo vọng, đầy vui khoái, đầy của cải, thực sự họ trống vắng Thiên Chúa. Trái lại, kẻ nào đau đớn vì nỗi trống vắng Thiên Chua của hồn mình là đã sẵn sàng để Chúa đổ tràn: sự sắp sẵn của tâm hồn là điều kiện tiên quyết đối với tác động của Thiên Chúa.
PHẦN THỨ BA
Sau khi ngước lên Thiên Chúa và nhìn sang nhân loại, Đức Maria đưa mắt về dan tộc mình, dân Israel. Vì những gì xẩy ra nơi Mẹ thì trong một nghĩa rộng rãi cũng áp dụng được cho tất cả. Và một cách đặc biệt cho dân Israel, từ nay được nâng lên khỏi chính mình để trở thành Israel tinh thần của một dan mới của Thiên Chúa, của Giáo Hội.
Chúa độ trì Israel tôi tớ: Israel là tôi tớ Giavê; nhưng giờ đây, nhờ Hài nhi Đức Maria cưu mang, mối liên hệ chủ tớ đã được thay thế bằng tình nghĩa ruột thịt. Gia nhân, nhờ Người Con, đã trở thành chính người con. Dân được chọn từ nay mang một ý nghĩa mới. Bây giờ Israel nhất định được lựa chọn, được lựa chọn cách đặc biệt vào trong gia đình của chính Thiên Chúa.
Người nhớ lại tình thương của Người. Thiên Chúa nghĩ đến Israel. Ngài không quên dân Ngài. Vì bản tính của Ngài là trung tín và yêu thương. Sự chọn lựa tuỳ thuộc vào lượng từ bi của Thiên Chúa, chứ không vì công nghiệp của tạo vật. Người ta không được chọn lựa. Ân huệ của Thiên Chúa chiếm ưu thế nơi tác vi của con người.
“Như hứa cùng cha ông từ bao thuở, cho tổ phụ Abraham và con cháu tới muôn đời” Thiên Chúa đã phán thì Ngài giữ lời hứa cả khi Israel đã đơn phương phá vỡ Giao ước. Lời hứa đã phán với cha ông và đã làm trọn nơi con cái. Abraham là cha của tất cả những người tin. Giờ đây tất cả những tín hữu đều thuộc về một dòng dõi có Chúa là Cha đích thực. Abraham, đã son sẻ lâu, rồi mới có được đoàn hậu duệ đông như cát bãi biển và như sao trên trời. Nhưng ở đây nói tới một miêu duệ đặc biệt, một người con nào đó của Abraham và người con đó tồn tại mãi mãi. Như vậy, khi kết thúc, bài Kinh Ngợi-Khen đã ám chỉ tới Đấng Messia như là điểm cuối của Israel: Ngài là sự hoàn tất của Cựu ước và của tất cả các lời hứa, là sự cao cả của Đức Maria, của nhân loại và của dân Israel thực sự. Sự cao cả đó đáng được ca tụng với cả tâm tình: Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa.
Cả đoạn Kinh Thánh này là một điệu nhạc êm đềm về hạnh phúc của Maria. Không ở đâu chúng ta có thể thấy rõ sự mâu thuẫn của hạnh phúc cho bằng trong cuộc đời của Maria. Maria đã được diễm phúc làm mẹ phần xác Con Chúa. Nhận một đặc ân vĩ đại dường ấy, hẳn lòng mẹ chứa chan niềm vui sâu xa và đầy ngạc nhiên kỳ thú. Nhưng cũng chính hạnh phúc đó sẽ là lưỡi gươm sắc thâu qua lòng mẹ. Điều này có nghĩa là một ngày kia mẹ sẽ nhìn thấy con mẹ treo thân trên cây thập giá.
Việc được Chúa lựa chọn thường có nghĩa là cùng một lúc có cả mau nhiệm vinh hiển lẫn thập giá khổ đau. Thực ra Thiên Chúa không chọn lựa một người đó hưởng an nhàn, sung sướng và vui chơi ích kỷ, nhưng để con người đó hoàn thành một nhiệm vụ lớn lao với tất cả con tim, khối óc và tay chân của mình.
Thiên Chúa lựa chọn con người để sử dụng người đó cho công việc của Ngài. Khi Jeanne dAre biết thì giờ của mình chẳng còn bao lâu, bà cầu nguyện rằng: “Con chỉ còn sống một năm nữa thôi, xin Chúa hãy dùng con tận lực”. Khi nhận ra điều này thì những buồn rầu, đau khổ bởi phục vụ Chúa không còn là cớ để than khóc, nhưng đó là vinh hiển của chúng ta, vì chúng ta đã làm mọi sự và chịu mọi sự vì Chúa.
Khi Richard Cameron sa vao tay quân giặc, chúng liền giết chàng, chàng có hai bàn tay rất đẹp, chúng cắt đôi bàn tay gửi cho cha chàng và hỏi ông có nhận ra hai tay đó chăng. Ông trả lời: “Đó là tay của con tôi, con yêu quí của tôi, ý Chúa là tốt lành, Ngài không bao giờ lừa dối tôi”. Những nước mắt của cuộc đời được chiếu long lanh bởi cảm biết chính sự đó cũng nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Một thánh nhân Tây Ban Nha đã cầu nguyện cho dân tộc mình: “Cầu xin Chúa chối từ bình an để ban cho anh em vinh hiển”. Một nhà truyền giáo đã nói: “Chúa Giêsu đến không phải để tạo an nhàn cho cuộc sống, nhưng để làm cho con người trở thành vĩ đại”.
Đó chính là mâu thuẫn của phúc lộc, vì nó đem đến đồng thời cả hai điều: sự vui mừng lớn nhất thế gian cùng với trách nhiệm lớn nhất trên đời.
Bài Ca Kỳ Diệu: 1,46-56
Ở đây chúng ta có một đoạn Kinh Thánh đã trở thành một trong những bài ca lớn nhất của Hội Thánh, Bài Ca Ngợi Khen (The Magnificat). Ý tưởng của đoạn Kinh Thánh này tràn ngập trong Cựu Ước, nó rất giống bài ca ngợi của bà Anna trong Samuen 2, 1-10. Có người bảo tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng, những Stanley Jones đã nói: “bài ca ngợi khen này là cuộc cách mạng lớn nhất trong thế giới”.Nó đề cập đến ba phương diện trong cuộc cách mạng của Thiên Chúa;
1. “Dẹp tan phường trí kiêu căng”. Đây là cuộc cách mạng luân lý. Kitô giáo phá tan tính kiêu ngạo. Tại sao? Vì nếu ai sống theo gương Chúa Giêsu thì trút bỏ được những vết tích sau cùng của tính kiêu ngạo. Đôi khi có một sự gì xảy ra, ánh sáng phơi bày, khiến chúng ta phải hổ thẹn. O.Henry đã viết một truyện ngắn như sau: có một chàng trai đã lớn lên trong làng quê. Ở trường làng, chàng ngồi cạnh một cô gái và cả hai đều mến nhau. Về sau chàng ra tỉnh, rồi sa vào đường tội lỗi. Chàng trở thành một tay trộm cắp có tài. Một hôm chôm được cái ví tay của một bà lão, chàng tỏ ra khoái trá về tài nghệ của mình. Nhưng khi chàng trông thấy cô gái quen biết ngày xưa đang từ đầu phố đi đến, vóc dáng dịu dàng, rạng rỡ và ngây thơ, tức khắc chàng thấy rõ mình là một kẻ tội phạm hèn hạ xấu xa. Vì quá xấu hổ chàng chúi đầu vào một cây cột đèn lạnh giá và kêu lên: “Lạy Chúa, xin cho con chết”. Anh ta đã thấy chính mình. Chúa Giêsu có quyền năng khiến con người nhìn thấy chính mình. Đó là một đòn chí tử cho tính kiêu ngạo. Cuộc cách mạng luân lý bắt đầu.
2. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Đó là cuộc cách mạng xã hội, kitô giáo hạ những tước vị oai quyền hống hách xuống. Ông Muretus là một học giả lang thang của thời trung cổ. Ông sống cuộc đời nghèo khó tại một thành phố của nước Ý. Ông bị bệnh và được đưa đến một bệnh viện dành cho ke bụi đời. Các bác sĩ bàn luận với nhau bằng tiếng Latinh về bệnh trạng của ông, yên trí rằng ông không thể hiểu được. Họ bàn với nhau vì tên này là một đứa lang thang vô giá trị, nên có thể dùng làm vật thí nghiệm. Muretus nhình thẳng vào họ và trả lời bằng tiếng Latinh rằng: “Đừng coi là vô giá trị một người mà Chúa Cứu Thế đã chết thay cho”. Khi chúng ta nhận thức được Chúa Cứu Thế đã chết cho mọi người thì không thể coi ai là tầm thường được nữa. Các giai cấp trong xã hội không còn nữa.
3. “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”. Đây là cuộc cách mạng kinh tế. Một xã hội ngoài Kitô giáo là xã hội chiếm đoạt, ở đó mỗi người gắng sức thu góp cho mình càng nhiều trong khi kẻ khác quá ít, ở đây tất cả mọi người đều nhận với mục đích để ban phát.
Trong Bài Ca Ngợi Khen này có sự dịu dàng đáng yêu nhưng trong đó cũng có năng lực mạnh mẽ. Kitô giáo khiến nảy sinh cuộc cách mạng trong lòng người và cách mạng trong thế giới.
Đây là phương diện thứ tư và quan trọng nhất trong cuộc cách mạng của Thiên Chúa: cuộc cách mạng tâm linh. Ngài đã ban ân sủng đặc biệt cho trinh nữ Maria. Cô thiếu nữ trẻ trung, đơn sơ, khiêm nhường của Nazaret hai ngàn năm trước đã nhận được sự thăm viếng kỳ diệu của Chúa. Hồng ân tuyệt diệu đó đã tác động, biến đổi, khiến nàng có thể dâng bài ca chúc tụng Chúa Hằng Hữu. “Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (c.47) cho thấy nhận thức quan trọng của Maria: cô là một tội nhân như bao nhiêu người khác, đã làm cuộc cách mạng tâm linh, là nguồn động lực lớn lao giúp cô sáng tác Bài Ngợi Khen tuyệt tác và bất hủ này.
Vừa tường thuật xong biến “cố truyền tin”, trong đó Luca đã giới thiệu Đức Maria như người tín hữu đầu tiên, người đáp lại lời Thiên Chúa cách tích cực, thì Luca lúc này trình bày Đức Maria chỗi dậy lên đường, hình ảnh Hội Thánh đem Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô đến cho muôn dân.
"Này đây, sứ thần của Thiên Chúa kết thúc câu truyện, bà Elisabét, người chị bà con với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai, bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiến hoi. Để đáp lại dấu hiệu mà thiên sứ đã cho, Maria lên đường mau mắn tiến lên một thành miền núi. Cũng như sau này những người chăn chiên Betlem đáp lại dấu hiệu mà các thiên sử cho, củng vội vã đi xem sự gì đã xảy ra. Theo cách nói rất gợi hình của L.Legrand, chúng ta tiến từ người "tín hữu” đón nhận lời Chúa đến người "tôi tớ" hành động, hay đúng hơn lời Chúa hành động qua người ("L'annonce à Maire", Cerf 1981, Lectio divina số 106, trang 222).
Trong Đức Maria, Lời Chúa đã khởi sự lên đường và cuộc hành trình sẽ đưa Người đến cùng trái đất. Tại sao Maria đến nhà chị họ của bà? Phải chăng là vì bác ái: để giúp đỡ bà Elisabet chăng" Luca không làm thoả mãn tính tò mò của chúng ta; điều mà ông quan tâm không phải là cất truyện hay bài dạy luân lý, nhưng đạo lý mạc khải được chuyển tải nhân dịp cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ tương lai này. Về điểm này L.Legrand nói rất chí lý: "Nếu đọc đoạn văn theo mặt chữ, ta hầu như có cảm tưởng rằng Đức Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của bà Ehsabet và để hát bài ca Magnificat" (sđd trang 219).
2. Một khung cảnh mạc khải mới
Bước vào nhà ông Giacari, Đức Maria chuyển đến bà chị họ lời chào mà bà đã nhận từ thiên sứ. Và lời chào của Maria khởi động quá trình hoạt động. Khi lời chào vang đến lỗ tai bà Ehsabet, trước cả khi bà này mở miệng, thì con trẻ bà mang trong bụng nhảy mừng, một cuộc nhảy mừng mà bản dịch ra (ngôn ngữ của ta đã làm giảm bớt sắc nét, bởi vì bản Hy Lạp nguyên ngữ có nghĩ "nhảy dựng lên" "múa nhảy" "nhảy cao").
Được đầy Thánh Thần trước khi smh ra. Như thiên sứ đã báo tin cho ông Giacari (1,15), Gioan thấy bừng lên thời đại mới, đã hành động trước thời gian sứ mạng của ông, ông nói tiên tri, nói không phải bằng lời, mà bằng việt nhảy mừng, tiên báo Đấng mà người ta vào thời kỳ cuối trông đợi giờ đây đã xuất hiện. Đầy Chúa Thánh Thần, bà Elisabet hiểu ra ý nghĩa của cú nhảy mừng của con bà trong bụng bà và cuộc gặp gỡ mà bà đang diễm phúc được sống. Bà đã kinh ngạc kêu lên, trong khi nhìn nhận rằng Maria và "quả của lòng bà" là đối tượng của phúc lành Thiên Chúa. Sau đó bằng lời tuyên xưng đức tin, bà tuyên bố rằng con của người em họ mình, chính là Đấng mà thánh vịnh 109 loan báo: là Kitô Đức Chúa; và chào Đức Maria với danh hiệu "Mẹ của Chúa tôi". Sau cùng, sau khi chào mừng "người mẹ", bà tung hô "người tin" bằng công thức chúc phúc: "Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em".
Đây là mối phúc đầu tiên của Phúc âm mà Luca nối kết với một danh hiệu mà ông coi như một tên khác của Maria: "Kẻ đã tin" (Cahier Evangile, số 77, trang 45).
3. Tạ ơn về những việc kỳ diệu
Bài ca "Magnificat" bài suy gẫm đầy hưng phấn của Đức Maria về tất cả những gì đã thực hiện trong Mẹ, thực ra đánh đấu một sự gián đoạn hành động trong chốc lát, giống như khi một ca khúc trữ tình trong một vở kịch opéra, hoặc như khi ca đoàn xen vào trong một vở bi kịch cổ điển, để làm nổi bật ý nghĩa của điều mới xảy ra. Đã từ lâu người ta đã nhận xét rằng: phải chi nhảy từ câu 45 sang 56 thì tư tưởng có sự liên tục hơn. Có lẽ ca khúc này có nguồn gốc độc lập với trình thuật, và chỉ được chêm xen vào sau này. Đặt ca khúc này vào miệng Đức Maria, Luca muốn tỏ bày hình ảnh Đức Maria mà ông mang trong trí óc ông ("Cahiers Evangile" số 77, trang 45).
Câu 46 và 47 chỉ huy toàn bộ bài thơ: đó là một ca khúc tạ ơn.
Nối liền sau là lý do của việc tạ ơn.
a. Trước hết là những sự kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm trong Mẹ: Thiên Chúa can thiệp để làm cho Người trở nên "Mẹ Thiên Chúa". Ở đây bản văn nêu lên sự đối nghịch giữa sự bé mọn của người tôi tớ và sự cao cả của Đấng Quyền năng, làm nên những việc kỳ diệu.
b. Rồi đến những sự kỳ diệu mà Thiên Chúa làm để tỏ lòng từ ái với những người nghèo khó. Ở đây, ca khúc chuyển cách êm nhẹ từ cá nhân (Đức Maria) sang tập thể (dân Israel sự nghèo khó của Maria (1,48) sang nhóm người nghèo khó (1,52), từ người tôi tớ (1,48) sang Israel tôi tớ (1,54) ("Cahiers vangile số 77, trang 47). Những việc kỳ diệu này là những việc nào? Đó là việc tạo dựng, đó là phép lạ xuất thành, đó là ban Lề luật mà nhất là tột đỉnh của các việc kỳ diệu, đó là việc kỳ diệu hoàn thành nơi Đức Maria, việc Con Thiên Chúa sinh ra, nơi Người mọi lời hứa đã được thực hiện. Đấng Messia, Con vua Đavit và Con Thiên Chúa đến, được chấp nhận bằng đức tin, không chỉ là một giáo thuyết; đó còn là một sức mạnh, có sức lay chuyển và đổi thay cả thế giới. Đức Maria xuất hiện ở đây như "phát ngôn viên" của cuộc đảo lộn tình thế, Mẹ giữ vai trò chính yếu của Tin Mừng (Cahiers Evangile số 77, trang 48).
***
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức Maria người tin đầu tiên, gương mẫu của Giáo Hội, mẹ các người tin (Hội đồng Giám mục Pháp trong cuốn "Catechisme pour adultes, 1991, trang 215-216).
Giữa kinh nguyện Thánh Thể I, "Trong sự hiệp thông của toàn thể Giáo Hội, chúng ta kính nhớ Đức Maria trọn đời đồng trinh. Thật vậy, Đức Maria là chi thể của Giáo Hội, tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái (LG 53). Vào cuối Công đồng vạt. II, Đức Phaolô VI đã tuyên bố Đức Maria là "Mẹ Giáo Hội", nghĩa là mẹ của các chủ chăn và mẹ các tín hữu. Giống như một người mẹ, Đức Maria có vai trò đặc biệt trong gia đình mà Mẹ là thành phần, vai trò đã được phác hoạ trong Tân ước. Ngay từ hồi sinh Đức Giêsu, Đức Maria đã được trình bày như người tin đầu tiên, tượng trưng Giáo Hội đang cầu nguyện, "để ghi nhớ mọi sự việc đó là suy gẫm trong lòng" (Lc 2,19). Khi Giáo Hội sinh ra vào buổi sáng lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem, Đức Maria cùng với các môn đệ, đã dùng lời cầu nguyện kẻo ơn Chúa Thánh Thần xuống trên dân Chúa (LG. 59). Bởi vậy, Đấng đã hiện diện trong mầu nhiệm Đức Kitô như người mẹ, thì theo ý muốn của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, cũng có mặt trong mầu nhiệm Giáo Hội. Và trong Giáo Hội, Mẹ vẫn tiếp tục hiện diện như người mẹ (Rm. 24). Bởi vậy, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ, Hội Thánh cũng được làm mẹ nhờ lời Thiên Chúa mà Hội Thánh trung thành lãnh nhận: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban phép Thánh tẩy, Hội Thánh sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt (l Ga. 64). Sau cùng, vào ngày lên trời, Đức Maria đã được cất nhắc lên toà vinh hiển trên trời: hình ảnh hoàn hảo của Hội thánh trong tương lai, bình minh của Hội Thánh khải hoàn, Người hướng dẫn và nâng đỡ niềm hy vọng của đoàn dân trên đường lữ thứ (xem kinh Tiền Tụng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời). "Ngay từ bây giờ, mẹ đã chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông và niềm an ủi cho Dân Chúa đang lữ hành" (LG. 68). Tôn kính Đức Maria: đó là gia nhập vào việc tôn sùng của dân Chúa (LG 66) đối với Đức Trinh nữ, đó là gia nhập phong trào lâu đời qua các thế hệ tung hô Mẹ là diễm phúc; đó là sùng bái tôn kính, ngợi khen Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Tất nhiên không phải là việc thờ phượng, vì thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa. Noi gương Đức Maria: là mở tâm hồn đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, là sống đức tin như Mẹ đã sống; là phục vụ như Mẹ đã phục vụ. Đức Maria là gương mẫu, là mẫu mực tuyệt hảo sống đời Kitô hữu. Về điều đó mọi Kitô hữu đều nhất trí. Cầu xin Đức Maria: là phó thác vào tình mẫu tử của Mẹ, kêu xin sự trợ giúp và nâng đỡ, là kêu cầu Mẹ bầu cử cho ta trước mặt Con Mẹ.
2. “Đức Maria, một phụ nữ tuyệt vời” (G. Boucher, trong cuốn "en tre ciel ét terre" bán tại nhà tác giả "Residence de Kérampir, 29820 BOHARS).
Trong quá trình cuộc phiêu lưu lạ đời của Mẹ, Đức Maria được gọi để đương đầu với mầu nhiệm. Một mầu nhiệm với tính cách vượt trội nhất của nó: đó là nhân tính của Thiên Chúa. Bị hoang mang vì ngôn ngừ trong biến cố truyền tin, Mẹ đã đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, vào ý định cứu rối của Người. Ngạc nhiên vì cách cư xử của Đức Giêsu lúc 12 tuổi, Mẹ đã suy gẫm sự việc này trong lòng để vâng theo kế hoạch của Thiên 'Chúa về Người. Mẹ lo âu muốn giữ con lại nhà lúc con vào tuổi trưởng thành đừng tiến tới để gặp gỡ lịch sử đời mình. Đau khổ trong lòng vì lời Con phán, nhìn nhận cả nhân loại là gia đình, Mẹ đã tin trong đau đớn. Dầm đề nước mắt Mẹ đã theo Con trên đường nhục nhằn, đánh đập, nhạo báng, khi Con bị án tử và bị dẫn đi đóng đinh. Con tim dập nát, và cả thân xác bầm dập, Mẹ đã chứng kiến, bất lực và đầy yêu mến, cái chết của kẻ tử tù, khi Con bị treo trên cây gỗ thập tự. Trung thành cho đến cùng, Mẹ đã ghi khắc lời trối trăn của Con bị đóng đinh. Mẹ đã lấy tình mẫu tử phục vụ các môn đệ và các tín hữu tiên khởi của Giáo Hội mới được khai sinh. Đức Thiên Chúa ngự tin đến ngay cả trong thân xác, Mẹ đã hoàn tất sứ mạng của mình một cách hoàn hảo.
Tràn ngập Thiên Chúa Mẹ được thông phần vinh quang của Người, cả xác lẫn hồn, trong lời ca tụng Magniflcat muôn thuở. "Mẹ Maria một người phụ nữ tuyệt vời".
Trong câu chuyện Truyền tin, Luca vừa trình bày Đức Maria như một Kitô hữu tiên khởi khi nhiệt thành đáp trả Lời Thiên Chúa, giờ đây, ông lại cho chúng ta thấy Mariạ chỗi dậy lên đường, hình ảnh của Giáo hội ra đi đem Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Sứ thần Chúa kết luận: "Kìa Êlisabét, chị họ của bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm muộn..." Biết được tin này, Maria “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”, cũng như chẳng bao lâu sau, các mục đồng vội vã đi xem chuyện gì đã xảy ra theo lời sử thần đã báo. Theo cách diễn tả rất gợi hình của L. Legrand, chúng ta đi từ "người tín hữu nhận lãnh Lời (TC) đến người "nữ tỳ” hành động hay đúng hơn qua người nữ tỳ đó, Lời (TC) hành động." (‘Truyền tin cho Maria', Cerf, 1 981, Lectio divina số 106, tr.222). Trong Maria, Lời (TC) đã bắt đầu lên đường, và cuộc hành trình này sẽ dẫn Ngài tới tận cùng bờ cõi trái đất.
Tại sao Maria đến nhà chị họ của mình? Có lẽ là vì bác ái: giúp E-li-sa-bét? Thánh Luca không thỏa mãn tính tò mò của chúng ta vì khi kể câu chuyện này, điều ngài quan tâm không phải là một giai thoại, nhưng là sự mạc khải nhân dịp hai người mẹ tương lai này gặp nhau. Về điều này, L. Legrand đã nhận xét đúng: Khi đọc chính bản văn, hầu như chúng ta có thể tin rằng Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của ê-li-sa-bét và hát bài ca ngợi khen. " (sách đã dẫn, tr.21 9)
2. và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa con họ đang cưu mang
Khi vào nhà Gia-ca-ri-a, Maria chuyển đến chị họ mình lời chào bà đã nhận từ sứ thần. Lời chào của Maria là dấu nối cho tiến trình. Khi lời chào này vang lên bên tai ê-li-sa-bét, con trẻ trong lòng bà đã nhảy mừng ngay trước khi bà mở miệng; theo tiếng Hy lạp, từ "nhảy mừng " có nghĩa: “Nhảy bật lên”, "nhảy lên”, “nhảy múa”.
Như thiên thần đã báo tin cho Gia-ca-ri-a, Gioan được đầy Thánh Thần ngay trước khi sinh" (1,15) nên Gio-an nhận ra thời buổi mới đã ló dạng và thấy trước sứ mạng của mình. Bởi đó, ông đã nói tiên tri về sự xuất hiện của Đấng muôn người trông đợi, không phải bằng lời nói mà bằng cách nhảy mừng.
Được “đầy Thánh Thần" nên E-li-sa-bét hiểu ý nghĩa của việc con bà nhảy mừng trong lòng và cả ý nghĩa của cuộc gặp gỡ là bà đang trải qua.
- Khi cất tiếng thán phục, E-li-sa-bét nhìn nhận Maria và “đứa con trong lòng"được Thiên Chúa chúc phúc.
Rồi, Ê-li-sa-bét tuyên xưng đức tin khi công bố đứa con của cô em họ chính là Đấng Thánh vịnh 109,1 đã loan báo: là Đức Kitô, và bà chào Maria bằng tước hiệu "Mẹ Chúa tôi”.
Cuối cùng, sau khi đã biểu dương chức vị là Mẹ, bà ca tụng lòng tin của Maria bằng công thức chúc phúc: "Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em."; "Đây là mối phúc đầu tiên của Tin Mừng. Mối phúc thánh Luca dành cho một tên khác của Maria: “Người đã tin"' (Cahiers- Evangile, số 77, tr.45).
3. Cuộc gặp gỡ là dịp để Maria ca tụng Thiên Chúa thực hiện những lời đã hứa.
Bài ca "Ngợi khen" là một chứa chan tình cảm của Maria về tất cả những gì Thiên Chúa vừa thực hiện nơi Mẹ. Nó thực sự đánh dấu: "theo lối văn kể chuyện... một câu hỏi khiến ai đang hành động cũng phí dừng lại trong giây lát, nó giống như đoạn hát sô-lô trong một vở nhạc kịch opéra, hoặc đoạn ca đoàn hát xen vào trong một vở bi kịch cổ điển. Từ thời xưa, người ta đã lưu ý rằng câu chuyện sẽ gắn bó hợp lý hơn nếu đọc thẳng từ câu 45 qua câu 56. Rất có thể bài ca này có nguồn gốc riêng không có trong câu chuyện nguyên thủy, nhưng đã được thêm vào sau này. Khi đặt bài ca trên miệng của Maria, Luca cho chúng ta thấy hình ảnh đẹp ông có về Mẹ. " ("Cahiers-evangile', số 77, tr. 45)
Các câu 46 và 47 chi phối tất cả phần còn lại của bài ca: đó là một bài ca tạ ơn.
Liền sau đó là lý do tạ ơn:
a/ Trước hết, vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Thiên Chúa đã can thiệp làm cho Mẹ trở nên "Mẹ Chúa". Ở đây Luca diễn tả bản văn đầy cảm hứng này qua sự đối lập giữa lòng khiêm tốn của người "nữ tỳ” và sự cao cả của Đấng "quyền uy”, đã thực hiện những điều kỳ diệu.
b/ Nhưng cũng vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi dân nghèo. Và ở đây, bài ca "nhẹ nhàng tự nhiên chuyển từ nhân (Maria) tới tập thể (Israel); từ sự nghèo khó của Maria (1, 48) tới dân nghèo (1, 52); từ người nữ tỳ ( 1,48) tới Israel tôi tớ (1, 54)" ("Cahiers-evangilel số 77, tr.47).
Những kỳ công này là gì? Đó là sự sáng tạo, là phép lạ của cuộc Xuất hành, là Lề Luật, nhưng trên hết, đó là kỳ công đã
hoàn tất nơi Maria: sự giáng sinh của Con Thiên Chúa, nơi Người con này, Thiên Chúa hoàn tất mọi lời đã hứa.
Đón nhận Đấng Cứu Thế đến với lòng tin tưởng không phải một giáo thuyết, nhưng là một sức mạnh chuyển lay nhằm đổi thay và cứu độ thế giới. Ở đây, Maria xuất hiện như: "người phát ngôn về sự đảo ngược tình thế. Sự đảo ngược này là một phần trọng yếu của Tin Mừng." ("Cahiers-evangile", số 77, tr. 48)
***
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Thăm viếng: cảnh tượng nói lên niềm vui và ân huệ Chúa Thánh Thần lan toả”.
(nhóm Dombes, "Maria trong chương trình của Thiên Chúa và trong sự các thánh cùng thông công", Bayardlcenturion, 1997, tr. 81-82)
158. Thăm viếng là cảnh tượng nói lên niềm vui và ân huệ Chúa Thánh Thần lan tỏa. Vừa được sứ thần báo tin, Đức Maria vội vã đi thăm người chị họ để chia sẻ với chị mình ơn Chúa Thánh Thần Mẹ vừa lãnh nhận, một ơn huệ đánh dấu sự khai mở một kỷ nguyên mới. Sự thăm viếng của Đức Maria là một hành động đáp trả ân sủng Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong đức tin.
159. Khi Ê-li-sa-bét nhận lời chào của Maria, con trẻ trong lòng bà và Gioan Tẩy Giả đã nhảy lên vui mừng, một cử chỉ diễn tả sự rung động vì được chúc phúc (xem Lc 6,23); trong khi ấy, người mẹ được tràn đầy Thánh Thần đã nói tiên tri. Tiếng nói tiên tri đầu tiên trong Tân ước là tiếng nói của một phụ nữ, cũng như sau này chính phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo Tin Mừng Chúa sống lại.
160. Lời tiên tri của Ê-li-sa-bét trước tiên là một lời chúc phúc. Trong tất cả các phụ nữ, Đức Maria là đối tượng được chúc phúc đặc biệt, vì Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đấng được chúc phúc cách tuyệt hảo. Chính Ê-li-sa-bét đã thực hiện một hành vi đức tin khi nhận ra mẹ của Gtêsu cũng là Mẹ Chúa mình. Bà cũng thốt ra mối phúc đầu tiên, mối phúc về đức tin: Maria có phúc vì đã tin mình sẽ trở nên mẹ Đấng Cứu Thế.
161. Lúc ấy, Đức Maria hát bài ca Ngợi khen. Bài ca này lập lại bài ca của Anna (1 Samuel 2,1-10), lời các tiên tri và các thánh vịnh; trước hết tuy Mẹ nói đến việc của riêng mình nhưng lại bằng lời ca tụng và tạ ơn vượt ra khỏi chính mình, bởi vì điều xảy đến cho Mẹ chính là vì lợi ích cho cả nhân loại từ thế hệ này tới thế hệ kia. Do đó, Mẹ mới công bố mọi thế hệ sẽ khen Mẹ là người có phúc. Giáo hội đã dựa vào những lời này mà ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria.
162. Rồi Đức Maria ca ngợi Thiên Chúa vì đã ban sự công chính của Ngài cho nhân loại tội lỗi và vì sự trung tín của Ngài với dân Israel. Mẹ đọc lại lịch sử cứu độ và gắn kết nó với những điều đã xảy ra với mình. Mẹ chiêm ngưỡng chương trình có vẻ nghịch lý của Thiên Chúa, Đấng vữa đến viếng thăm những người khiêm tốn, nghèo khổ và đói khát, để làm trọn lời đã hứa với Abraham nơi họ và qua họ".
2. “Cuộc hội ngộ kín đáo giữa Thiên Chúa và nhân loại”.
(G. Bessière, "Thiên Chúa râr gần. Năm B', DDB, tr. 187-188.)
"Không nên coi Maria là người đặc biệt, ở trên chín tầng trời rồi quên rằng hằng ngày bà vẫn làm bếp, giặt giũ, may vá, hái nho và vả, chuyện trò, cười vui với hàng xóm dưới ánh nắng mặt trời Tin Mừng dù rất ít nói đến bà, cũng kể cho chúng ta biết bà đến thăm người chị bà con có thai đã sáu tháng. Người ta thấy bà “vào trong nhà".
Đứa con Ê-li-sa-bét đang cưu mang "nhảy mừng trong lòng khi Đấng cưu mang Đức Giêsu tất. Hai người phụ nữ, hai đứa trẻ hiện diện: cuộc hội ngộ kín đáo giữa Thiên Chúa và nhân loại cùng thân xác mảnh mai, mỏng dòn. Không có gì lạ lùng: tất cả đều xảy ra ngay trong giây phút trao đổi lời chào và những câu nói đầu tiên.
Và còn cuộc sống rất thực, rất nặng nề mà những lời nhức nhối của bài ca "Ngợi khen" gợi lên. Maria nói bà vui mừng vì Thiên Chúa đã chọn những người hèn mọn, dẹp tan bọn kiêu căng, hạ bệ những ai quyền thế, nâng cao những kẻ khiêm nhu, ban dư đầy cho người đói nghèo, đuổi người giàu trở về tay không... Thiên Chúa đến không phải để duy trì hiện trạng đời sống con người, nhưng khi Ngài đến, mọi tường vách của xã hội sụp đổ và một đời sống khác bắt đầu.
Maria thuộc về những kẻ hèn mọn Thiên Chúa đã chọn. Nơi bà, sự phong phú của Thiên Chúa được thể hiện. Bà là hoa trái của những con người đi lên, là đóa hoa tượt thắm của nhân loại mới.
Ngày mai, bà cũng làm những cử chỉ như vậy. Đi lấy nước, chảy cối xay, nhóm lửa, thăm người bệnh. Và Thần Linh Thiên Chúa yêu mến những cử chỉ này.
Một ngày kia, Thiên Chúa "sẽ đưa bà vào trong vinh quang của Ngài ": Ngài sẽ hoàn tất khát vọng của người công chính khấn nài Ngài đừng để mình lâm cảnh hư nát trong mồ. Nhưng trong cái nhìn và con tim của Maria, Thiên Chúa đang ra đời, khi bà làm trọn bổn phận hằng ngày, khi bà run lên vì giận dữ trước những kẻ kiêu căng và quyền thế, khi bà đòi lại phẩm giá cho những người bé nhỏ và cơm bánh cho người nghèo khổ".
3. "Thiên Chúa của bài ca Ngợi khen”.
( J. Dupont, trong " Ca hiers - Evangile, số 77, " Maria của Tin Mừng; tr. 48 )
"Ơn cứu độ Thiên Chúa hứa ban cho mọi người không loại bỏ những hoàn cảnh cụ thể trong đời sống của họ: Điều thiết yếu đối với Ngài là phải đảo ngược những hoàn cảnh bất công xã hội đã tạo ra cho những người yếu kém và trơ trọi. Thiên Chúa của bài ca Ngợi khen không bay lượn tít thiên cao, xa hẳn thực tại xã hội chính trị: Ngài đứng cùng hàng ngũ với những người nghèo và không có quyền lực. Chính danh dự của tên cực thánh Ngài được hay mất ở điểm này, đó và lòng xót thương của Ngài phải được tỏ lộ qua sức mạnh chống lại cường quyền và người giầu có."
4. "Sự sùng kính Maria cách đích thực”.
(F. Deleclos, trong "Cầm và ăn Lời Chúa”, Duculot-centurion, tr.70.)
Sự sùng kính đích thực dành cho Đức Maria không hệ tại gia tăng và phát triển những lời ngợi khen và thán phục về những ân huệ Mẹ đã nhận lãnh, nhưng là học nơi Mẹ cách trở nên người; có niềm tin và cách là người có niềm tin hơn nữa cần phải nói thêm rằng người ta chỉ có thể đề cập đến đức trinh nữ trong đức tin, nghĩa là qua Mẹ chúng ta tìm chính Thiên Chúa hoặc rõ hơn Đức Giêsu con Chúa". Chính Grignon de Monfort, người nổi tiếng về việc tôn sùng đức Maria, đã viết: “Nêú chúng ta kêu đến Maria, một tiếng vọng trả lời chúng ta: “Đức Giêsu”.
Maria đã theo con đường đầy cam go của con Mẹ và nhiều trang Tin Mừng cho ta thấy để theo con mình với lòng tin, Mẹ đã phải chấp nhận những đau thương xé lòng. Mẹ đã sống bằng đức tin và Ê-li-sa-bét, người chị họ, đã thán phục nhấn mạnh đến điều này khi bà chúc mừng Maria: "Phúc cho em vì đã tin”. Giáo Hội Công đồng Vaticanô II, phụng vụ, đều đi ngược lại với chiều hướng tự nhiên thúc đẩy chúng ta muốn "đề cao Đức Maria một cách quá đáng khi gán cho Mẹ những vầng hào quang quá lạ thườg làm như thế, phải chăng chúng ta đã chẳng đi cùng một chặn đường của Mẹ ! " Đức cha Garrone tự hỏi.
Lộ trình thiêng liêng của Maria có thể là lộ trình của chúng ta. Theo Mẹ, chúng ta tiến gần Đức Giêsu hơn. Có được cái nhìn đức tin của Mẹ, chúng ta sẽ học nhìn Đức Giêsu như chính Mẹ đã chiêm ngắm và từ từ khám phá về Ngài. Như Mẹ, chúng ta có thể tiến triển trong đức tin qua khổ nhọc và niềm vui, qua những khám phá và những việc lạ lùng kỹ diệu, và thường là phải chấp nhận khổ đau cùng những điều không hiểu thấu như Mẹ và Giuse đền thờ (Lc 2,50). Đức cha Garrqne giải thích, cái nhìn của Maria về con mình thực sự tương hợp với những giai đoạn "lớn lên” dần của Đức Giêsu mà Luca đã nói rõ ràng: Maria đã thấy Giêsu: "cùng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và mọi người..." (Lc 2,52). Do đó, chúng ta sẽ đi đúng đường và suy nghĩ đúng như Maria khi cùng với Mẹ làm lại cuộc hành trình chính Mẹ đã trải qua".
Thăm Viếng: Một bài ca được cất lên bằng giọng hát
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một cảnh tượng liên hệ chặt chẽ với biến cố truyền tin.
Sứ thần truyền tin rời khỏi Đức Maria sau khi cho Mẹ một dấu chỉ: "Kìa Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng…" Ngay lập tức Maria tội vã lên đường ", hình ảnh Hội Thánh đem Tin Mừng của Đức Giêsu-Kitô đến cho muôn dân, "đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda" Hugues Cousin ghi nhận: "Chủ đề lên đường xuất hiện lần đầu trong câu chuyện mà các nhân vật di chuyển rất nhiều; Lời Chúa bắt đầu cuộc hành trình của mình là cuối cùng, chẳng bao lâu đã được loan báo tới tận Rôma, tượng trưng nơi tận cùng của trái đất" (Cvtđ 18; 28,30-31) ("LEvangile de Luc", Ccnturion, trg 30).
Theo cha Lagrange, chúng ta không biết gì về cuộc hành trình kéo dài khoảng bốn ngày của Đức Maria. Mối quan tâm hàng đầu của thánh sử là quang cảnh khi Maria đến. Một quang cảnh trong đó Luca phối hợp hai chu kỳ mà từ đầu ngài đã khai triển cách biệt nhau: chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Đức Giêsu.
2. Nơi định mệnh bí ẩn của hai trẻ sắp sinh ra được mạc khải
Maria vừa nhận lời chào của sứ thần trong biến cố Truyền tin, giờ đây lại chuyển lời chào ấy cho chị họ của mình: "Bà vào nhà ông Giacaria bà chào bà Êlisabét ". Francois Bovon nhận xét: " Có rất nhiều lời chào hỏi trong những chương Tin Mừng này, vì có rất nhiều cuộc gặp gỡ và vì Thiên Chúa can thiệp và khai mở ơn cứu độ qua những tương quan nhân loại." ("L' Evangile selon Saint Luc 1-9 ", Labor et Fỉdcs, trg 86). Lời chào của Maria nối tiếp câu chuyện. Khi đôi tai bà nghe lời chào của Êlisabét, hài nhi trong lòng bà liền nhảy lên vui sướng; dịch như vậy vẫn chưa diễn đạt đúng ý của từ Hylạp có nghĩa: "nhảy lên ", "nhảy lên ", "nhảy múa".
Được đầy tràn Thánh Thần, ngay cả trước khi sinh ra, Gioan đã thấy rạng đông của thời kỳ mới ló dạng và, vì cảm thấy trước sứ vụ của mình, ông đã nói tiên tri, không phải bằng ngôn từ nhưng bằng sự nhảy mừng, rằng Đấng mọi người trông đợi sẽ đến vào thời thế mạt, nay đã hiện diện. Cũng theo F. Bovon: "Thiên Chúa không chỉ dùng lời nói mà còn cả ngôn ngữ của thân thể. "
Được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét hiểu được ý nghĩa sự nhảy mừng của đứa con còn trong bụng mẹ và ý nghĩa cuộc gặp gỡ bà đang sống.
+ Bằng tiếng kêu thán phục, bà nhìn nhận Maria và "hoa trái của lòng dạ mang " được Thiên Chúa chúc phúc.
+ Rồi, với danh nghĩa "Mẹ Thiên Chúa ", bà loan báo đứa con của em mình là Đấng Thánh vịnh 109,1 đã báo trước, chính là Kitô, Đức Chúa.
+ Sau cùng, dưởi hình thức mối phúc, bà ca tụng đức tin của Maria: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em. " Thánh Augustinô chú giải: “Maria đã mang thai trong tinh phần trước khi mang thai trong thân xác.”
2. Và nơi Bài ca của Đức Maria, ý nghiã của biến cố được sáng tỏ:
Như bức tranh ghép bằng những bản văn Cựu ước, Bài ca Đức Maria cất lên đóng vai trò gần giống vai trò của một điệu nhạc trong vở ôpêra; nhờ tạm ngừng vở diễn, nó làm sáng tỏ ý nghĩa của biến cố.
Bài ca này được khai triển thành ba đoạn thơ:
- Mở đầu, Bài ca diễn tả lý do Đức Maria ca tụng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều kỳ diệu: Danh Người thật chí Thánh".
- Kế đó là minh họa về sự đảo ngược tình thế và giá trị, đánh dấu sự biến chuyển từ thế giới hiện tại sang thế giới mới "Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. v.v. ".
Để kết luận, Đức Maria công bố rằng sự can thiệp ban ơn cứu độ này là khởi đầu việc hoàn tất lời đã hứa cùng các tổ phụ, dành cho con cháu của Abraham.
Nhưng qua Bài ca của Đức Trinh nữ Maria, chính cộng đoàn Kitô hữu là Hội Thánh cử hành mầu nhiệm của riêng mình; Hội Thánh thấu hiểu, chiêm niệm và ca tụng kinh nghiệm về về ơn cứu độ của Chính mình. L. Monloubou giải thích: "Đức Maria xuất hiện như ca viên lý tưởng của một thánh vịnh mà cộng đoàn Kitô hữu thấu hiểu cách sâu hơn và qua đó, nhận thức rõ ràng hơn ý nghĩa cuộc sống của chính cộng đoàn, khi vừa hát lên thánh vịnh nó vừa nhớ đến Mẹ của Đức Giêsu. Khi ấy, được soi sáng với những lời Đức Maria, Hội Thánh nhìn ngắm đời sống của chính mình; Hội Thánh thấu hiểu hơn nghĩa của cuộc sống ấy. Hội Thánh học để nhận biết rõ ràng hơn chính trong Hội Thánh Thiên Chúa "làm những việc diệu kỳ"; Được Đức Maria dẫn dắt, Hội Thánh dấn thân trên con đường ca ngợi, để chính Hội Thánh nói lên. "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ..Danh người là thánh!" (L'Evangilc đe Luc ", Salvator, trg 70)
***
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức khiêm nhường của Đức Maria.
(G. Bouchcr, trong "Leciel sur terrc", trg. 54)
"Hôm đó đã diễn ra một cuộc gặp gỡ đơn giản, bình thường giữa hai con người. Lịch sử không có một ghi nhận nào. Hai người phụ rlữ, hai người mẹ tương lai. Hai người đàn bà hạnh phúc được cưu mang đứa con trong lòng mình. Những đứa con họ không hy vọng có được...”
Đức Maria là trung tâm của câu chuyện. Người chị họ Êlisabét vui mừng đón tiếp em mình. Bà chào Maria, chúc phúc cho Mẹ theo truyền thống dân tộc. Bà công bố Mẹ và đứa con trong lòng được Thiên Chúa chúc phúc.
Chẳng mấy chốc, câu chuyện trao đổi hưởng tới cầu nguyện. Thiên Chúa là trung tâm của lời cầu nguyện ấy. Cuộc nói chuyện của cả hai biến thành lời ca ngợi Thiên Chúa cứu độ.
2. Lời Maria thốt lên là những lời tạ ơn.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng kỳ diệu vượt xa hẳn những điều kỳ diệu trên thế giới này. Chúa đã thực hiện điều lạ lùng nơi tôi, một thiếu nữ yếu đuối. Lạy Chúa, toàn năng và là Đức Chúa, Ngài đã kêu gọi nữ tỳ của Ngài dù tôi chỉ là một thiếu nữ, chỉ là một phụ nữ.
Cuộc trao đổi lời chào giữa Maria và Êlisabét diễn tả một cuộc trao đổi khác giữa Thiên Chúa và một phụ nữ, thay mặt cho nhân loại. Maria nhìn thấy vinh quang và thánh thiện của Thiên Chúa tỏ lộ trong giao ước lạ thường này.
Cũng trong chiều hướng ấy, lời cầu nguyện của Maria là lời ca ngợi những ai nhận biết và sẽ nhận biết sự can thiệp quá đỗi lạ lùng, rất khó tin của Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện của Mẹ vừa dựa trên những nhận định đầy khôn ngoan về Thiên Chúa, vừa dựa trên những Iý luận về bản tính hay hành động của người. Nhờ đó, tâm hồn Mẹ luôn sẵn sàng vâng theo ý Chúa . Lời cầu nguyện của Mẹ nối kết với Thiên Chúa trên những con đường đầy bất ngờ, trong sự khiêm tốn nhận biết rằng chúng ta hành động là do Thiên Chúa thúc đẩy.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ khiêm tốn loan báo những việc kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ bởi vì những việc ấy không những là các dấu chỉ về hoạt động của Người mà còn nói lên vẻ huy hoàng và sự thánh thiện của Người nữa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã không hủy diệt gì khi loan báo sự hiện hữu của Thiên Chúa làm người và Đấng vĩnh cửu đi vào lịch sử nhân loại.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ chính là nét đơn sơ trong tâm hồn khi Mẹ đón nhận chương trình của Thiên Chúa về Mẹ và về nhân loại một lần cho mãi mãi, dù về phương diện nhân loại, chương trình ấy khó có thể tưởng tượng nổi.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã giúp Mẹ có mặt ngay trung tâm ơn cứu độ nhân loại do Thiên Chúa thực hiện và giúp Mẹ nhất tin với lời hứa của Thiên Chúa từ ngàn xưa khi đồng ý trao ban một thân hình cho con Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ mở cửa cho sự thần hóa lạ lùng chưa từng có: Mẹ lên trời ngự bên Thiên Chúa.
3. Hình ảnh cuộc biến đổi của chúng ta.
(F. Deleclos, prends ét mang la Parole", Centurion-ducolot, trg 269-270)
Sự sùng kính Đức Maria đích thực không hệ tại việc gia tăng và triển khai những lời ca ngợi và ngưỡng mộ đối với những đặc ân Mẹ đã lãnh nhận, nhưng là học ở Mẹ để trở nên và để là một người tin. Có thể nói thêm được rằng chúng ta chỉ có thể đề cập đến Đức Maria trong đức tin, "nghĩa là qua Me, chúng ta tìm kiếm chính Thiên Chúa, hoặc nói rõ hơn chính Đức Giêsu con Mẹ ". Chính Grignon de Monfort, một người rất nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Maria viết rằng: "Nếu chúng ta gọi tên Maria, tiếng vọng trả lời sẽ là Giêsu".
Maria đã học trong cùng một ngôi trường khắc nghiệt như con mình. Nhiều trang Tin Mừng cho chúng ta thấy những đổ vỡ Mẹ gánh chịu để theo bước con mình trong đức tin. Maria đã sống đức tin cách sâu xa. Chính Êlisabét đã đề cao điều ấy một cách tuyệt diệu khi chúc mừng Mẹ: "Phúc cho em vì đã tin ..."
Đức cha Garron tự hỏi, Hội Thánh, Công đồng Vaticanô II và Phụng vụ đều đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thúc đẩy chúng ta tô vẽ thái quá cho Đức Maria khi gán cho Mẹ những vinh quang kỳ diệu. Với thái độ như vậy chúng ta sẽ tiên tri tận đâu đây".
Lộ trình thiêng liêng của Đức Marià có thể là lộ trình của chúng ta. Tiến bước theo Mẹ, chúng ta đến gần Đức Giêsu. Mặc lấy cái nhìn đức tin của Mẹ , chúng la học theo Mẹ để nhìn ngắm Đức Giêsu như chính Mẹ đã chiêm niệm và từ từ khám phá. Như Mẹ, chúng ta có thể tiến triển qua niềm vui và nỗi khổ, phát hiện và ngạc nhiên, và thường ngay cả nỗi đau khổ và sự không hiểu, như trường hợp Đức Maria và thánh Giuse ở đền thờ (Lc 2,50). Đức cha Garron giải thích, cái nhìn của Maria về con mình rất tương hợp với những giai đoạn kế tiếp nhau của sự "lớn lên" mà thánh Luca đã nói rõ: Maria đã thấy Đức Giêsu "ngày càng lớn lên, thêm những mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ơn nghĩa cùng Chúa ... " (Lc 2,52). Do đó, chúng ta sẽ tôn trọng chân lý của mọi sự và tư tưởng của chính Đức Maria khi cùng với Mẹ làm lại cuộc hành trình mà trưởc kia Mẹ đã không ngừng rảo bước. Chính trong viễn ảnh này, chúng ta có thể đặt biến cố Mông Triệu như một kết luận. Biến cố ấy nói cho chúng ta biết cuộc phiêu lưu của đức tin sẽ kết thúc thế nào. Đức Maria, Hòm Bia của giao ước mới, bước vào vinh quang của Chúa Cha. Đức Trinh Nữ được Thiên Chúa cho hưởng phúc vinh quang, chính là hình ảnh cho tương lai của chúng ta. Bài đọc thứ nhất so sánh Maria với Hòm Bia đích thực, nghĩa là nơi Thiên Chúa ngự, là lều tạm nơi để Lời Chúa và Bánh Thánh. Biến cố Mông Triệu giống như sự đảo ngược tình thế.
Giờ đây, chính Đức Maria được đón tiếp trong Thiên Chúa. Từ nay Mẹ ở trong Người. Chúng ta không còn ở phạm vi ưu đãi, nhưng bước sang phạm vi ơn gọi chung, vì đạt đến Đất Hứa sau cuộc phiêu lưu trên sa mạc là lời Thiên Chúa hứa cho mỗi người trong chúng ta.
Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao liên giữa chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Chúa Giêsu. Việc gặp gỡ của hai phụ nữ mang thai cho phép liên kết hai em bé sắp sinh ra. Trong bố cục của Luca, thực ra vị tiên hô bị tống giam trước khi Chúa Giêsu Kitô đến nhận phép rửa (3,20-21).
Đề tài của cuộc hành trình xuất hiện lần đầu tiên trong một tác phẩm mà các nhân vật di chuyển nhiều: Lời bắt đầu lên đường và cuộc hành trình (mau lẹ) sẽ dẫn Lời đến tận La Mã, tượng trưng cho ranh giới cuối cùng của miền đất có người ở (Cv 1,8; 28,30-31). Việc ngự đến của thần khí tiên tri trên bà Elizabeth chắc chắn muốn nói rằng Thiên Chúa đang hành động; nhưng sự can thiệp thần linh này cần sự thông hiệp và suy tư của những con người; ở đây cũng như ở Cv 10 với cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Conêliô, Lời chính là sự gặp gỡ của các nhân vật.
Thực vậy, vai trò của các nhân vật không hoàn toàn thụ động. Khi đa nhận lời thiên sứ chào, Đức Maria liền chuyển giao lời ấy; và điều đó mở đầu cho tiến trình. Khi lời chào vang đến tai bà Elizabeth, con trẻ sắp sinh nhảy mừng trong dạ mẹ. Em được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng. Được đầy thần khí tiên tri, lúc ấy Elizabeth hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc vừa xảy ra trong lòng dạ bà; bà không chỉ bằng lòng nhận ra rằng Đức Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Elizabeth nói bằng chính môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36).
Như vậy tiếng kêu lớn của bà Elizabeth như vậy trước hết có ý nghĩa Kitô học: điều được nói về mẹ lại đến trước sự cao cả của Người Con. Nếu Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế thì thật sự Ngài được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. Tự nó, việc thụ thai đồng trinh đề cao Người Con chứ không phải người mẹ – như “Tin Mừng thời thơ ấu” của Mt 1-2 đã cho thấy. Tuy nhiên, Luca cũng lưu ý đến nhân vật Maria, và qua việc đó ông cho thấy một điều mới mẻ. Lời chúc phúc liên quan tới lòng tin của Đức Maria tự căn bản khác với cô thiếu nữ trong sách tiên tri Giacaria (c. 45) và những câu 42-45 cho phép Luca quy tụ trong Đức Maria hai cái phúc, phúc vì được làm mẹ và phúc vì có lòng tin mà ông tách rời ra trong đoạn 11,27-28. Khi tin rằng các lời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện, Đức Maria trở thành mẹ; rõ ràng đức tin của người là thiết yếu để cho những lời ấy được thực hiện. Người là mẫu mực cho những ai nghe lời, là gương mẫu cho tín hữu, là Kitô hữu đầu tiên. Người ta cũng không coi thường việc Luca căn cứ vào lời cầu nguyện và suy tư sau này của Giáo Hội về người trinh nữ thành Nagiaret. Diễn ngữ Mẹ của Chúa chắc chắn cũng là dùng để tôn vinh Đức Maria: théotokos, mẹ của Thiên Chúa, cũng như lời nguyện cầu sẽ làm thành phần thứ hai của kinh “kính mừng”.
Lúc ấy, Đức Maria xướng lên bai thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Lc 1-2. Đó là một bức tranh ghép toàn bằng những trích dẫn Cựu ước, theo bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi. Như thánh ca của Anna (Sm 2,1-10) được Luca đường như khuôn mẫu, thánh ca ngợi khen này có một điểm nối kết với mạch văn, chỉ có câu 48 nối liền với trình thuật trước đó khi gợi lại một cách kín đáo việc truyền tin. Tuy nhiên, kinh Ngợi khen này có ý nghĩa của nó chính nhờ việc Luca đặt nó vào chỗ này. Vai trò của bản thánh ca này làm ta nghĩ đến vai trò của các giai điệu trong một bản nhạc kịch: cử điệu tạm thời bị ngưng lại và tiếng hát lời ca biểu lộ tâm lý của nhân vật trong cảnh hoặc ý nghĩa của biến cố.
Như bà Anna, người đã thụ thai một cách lạ lùng, Đức Maria bắt đầu bằng việc diễn tả điều Ngài cảm thấy (c. 46-47). Sau đó, tới lý do lời ngợi khen: bởi vì, lúc truyền tin, Người đã nhìn đến sự thấp hèn của nữ tỳ nữ Người và bởi vì, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu; lý do này bị gián đoạn giữa chừng bởi cái phúc của người tì nữ (c. 48b). So sánh bới St 30,13 thấy rằng: mọi thế hệ sẽ khen Đức Maria có phúc vì người con mà Ngài đang mang trong dạ chứ không phải do một công nghiệp cá nhân nào. Nhưng đồng thời, dường như Luca đã muốn bày tỏ qua điều diễm phúc này một thái độ tự nhiên của Kitô hữu đối với người mẹ đầy niềm tin của Chúa. Dù thế nao đi nữa, đối với nền tảng này của các suy tư sau đó về Đức Maria, điều đáng chú ý là từ câu này trở đi Thiên Chúa là chủ từ mọi động từ, trừ hai câu trong ngoặc này: Người chỉ được diễn tả là Đấng quyền năng, thánh thiện và nhân từ (c. 48-50).
Những câu 51-53 làm thành phần thứ hai cho thấy cảnh đổi lộn các tình huống và giá trị làm nổi bật bước chuyển từ thế giới này sang thế giới mới. Sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, được bắt đầu với việc thụ thai con người, là Đấng Mêsia, sẽ ưu tiên xét xử công bình cho người thấp hèn, kẻ bị chà đạp. Đó là một suy tư mà Luca ưa thích và ông sẽ khai triển dài hơn khi trình bày các mối phúc và những nỗi bat hạnh (Lc 6,20-26) để giải thích luận đề này. Chúng ta hãy chỉ ghi nhận rằng bố cục của Luca đã đặt trên môi miệng Đức Maria một ngôn ngữ sẽ làm nổi bật tính cách hiển thị của Vương Quốc trong lời rao giảng của Đức Giêsu.
Trong phần kết, sự can thiệp có tính cách cứu độ bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, cho con cháu của Abraham (cc. 54-55). Luca cẩn thận không nói trước đến đề tài lương dân vào đạo, cũng như tô điểm cho bài thánh ca màu sắc Kitô học hậu-Phục Sinh.
Đức Maria ở lại nhà bà Elizabeth độ ba tháng. Đối với Luca, khoảng thời gian trong khi Đức Maria xa cách Giuse là một dấu chỉ, dưới mắt độc giả, xác minh cho việc thụ thai đồng trinh. Đồng thời, không có vấn đề Đấng Mêsia hiện diện – dù là trong dạ mẹ – vào ngày vị tiền hô sinh ra! Đức Maria trở về nhà mình.
Nói về Maria, viết về Mẹ, muôn đời sẽ không có ngôn từ nào hay chữ nào có thể diễn tả cho hết được những đặc ân và những nhân đức cao quí, tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Chỉ với đức tin, sống trong lòng tin nhân loại mới nghiệm ra quả thực Mẹ Maria đã có một vai trò đặc biệt và hết sức quan trọng trong lịch sử cứu rỗi nhân loại ! Mẹ đã được tuyển chọn giữa muôn người nữ để đón nhận trong cung lòng trinh khiết Con Thiên Chúa làm người. Mừng lễ Đức Mẹ lên trời hôm nay, nhân loại sẽ được chiêm ngắm hình ảnh đẹp nhất của Mẹ Maria, vẹn tuyền, trinh trong đang hưởng phúc bên ngai tòa Thiên Chúa trên nước trời.
LỜI XIN VÂNG CỦA MẸ ĐÃ BIẾN ĐỔI HOÀN TOÀN CON NGƯỜI MẸ:
Mẹ Maria trong giây phút thinh lặng nhưng hoàn toàn bỡ ngỡ, kinh ngạc trước lời truyền tin của sứ thần Gabrien. Đây là giờ của lời hứa mà các tổ phụ và ngôn sứ trông chờ. Mẹ ngạc nhiên, bối rối, lo âu trước một sứ điệp hết sức quan trọng, một tin vui to lớn mà bất cứ người thiếu nữ nào lúc đó cũng muốn có được: ”Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng tối cao” (Lc 1, 31-32). Lời của sứ thần Thiên Chúa như một tiếng sét làm cho Maria, người nữ tử Sion hết sức run sợ, nhưng sứ thần Gabrien liền trấn an: ”Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1, 30). Lời loan báo Tin Mừng này ứng nghiệm lời các ngôn sứ nói trước còn hơn những điều họ dám nghĩ và Thiên Thần cắt nghĩa, lý giải việc đó sẽ được thực hiện, xẩy ra như thế nào: ”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Maria trong biến cố này đã hoàn toàn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa. Maria với tâm hồn rất đơn sơ, thành thực và tế nhị đã thưa với sứ thần Thiên Chúa: ”Việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1, 34). Thiên Thần liền giải thích cho Maria như trên, nên dù mới được cắt nghĩa, mới được Thiên Thần lý giải cùng với trường hợp của bà Isave, người chị họ của Maria đã mang thai 6 tháng, người được coi là son sẻ và dù chưa hiểu các tường tận, nhưng với lòng tin tuyệt vời, Maria đã nhanh nhảu thưa với Thiên Thần: ”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi theo lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Lời thưa xin vâng của Maria đã làm đảo lộn tất cả và ta có thể nói không sai nếu không có lời xin vâng của mẹ Maria với đức tin sắt đá nhân loại mãi mãi vẫn chìm ngập trong tội lỗi, trong đớn đau và trong bóng tối. Chính lời thưa xin vâng trọn vẹn của Mẹ Maria trong lòng tin và tín thác của Mẹ đã làm cho Ngôi Lời thành xác phàm và cư ngụ giữa nhân loại để cứu thoát mọi người khỏi sự dữ: ”Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1, 14). Mẹ Maria quả thực đã được Thiên Chúa tuyển chọn giữa con cái loài người để Maria đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi thân xác của Người, mà còn đón nhận ơn cứu độ nơi chính tâm hồn của Người. Mẹ Maria đã là người nữ đầu tiên trong hàng ngũ loài người đón nhận trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa.
TUYÊN XƯNG ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI:
Vì được chọn giữa muôn người trong con cái loài người ở thế gian này, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ Maria những đặc ân cao quí nhất mà không người nào trong con cái loài người được đón nhận. Đặc ân vô nhiễm nguyên tội, làm Mẹ Thiên Chúa và hồn xác lên trời là những hồng ân quí giá nhất Thiên Chúa dành cho Mẹ. Tuyên xưng Mẹ Maria hồn xác lên trời là nhìn nhận Mẹ đã hưởng trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa khi Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất trong vi