Thường Niên Tuần 17-2023 Thứ Hai 31.7.2023 Th. Quý & Phụng, Trọng ở LX - Suy Niệm Lời Chúa hằng Ngày

Thứ hai - 31/07/2023 05:53
Thường Niên Tuần 17-2023 Thứ Hai 31.7.2023 Th. Quý & Phụng, Trọng ở LX - Suy Niệm Lời Chúa hằng Ngày
Thường Niên Tuần 17-2023 Thứ Hai 31.7.2023 Th. Quý & Phụng, Trọng ở LX - Suy Niệm Lời Chúa hằng Ngày
Thường Niên Tuần 17-2023 Thứ Hai 31.7.2023 Th. Quý & Phụng, Kính ở LX
Suy Niệm Lời Chúa hằng Ngày
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/
----------------------------------
Mục Lục:

Lời Chúa: Lc 9, 23-26. 1
Suy Niệm 1: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng: 4
Suy Niệm 2: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng & thánh Phêrô Đoàn Công Quý: 7
Suy Niệm 3: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng. 8
Suy Niệm 4: Thánh Phêrô Đoàn Công Quý. 10

----------------------------------------

Hai Thánh Tử đạo tại Long Xuyên 31/07 – Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng

Bổn mạng HĐMVGX Giáo Phận Long Xuyên.
Bổn mạng Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo Phận Long Xuyên.

"Ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".
 

Lời Chúa: Lc 9, 23-26


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất nó; còn ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian mà phải thua thiệt và mất mạng sống mình, thì được ích gì? Bởi lẽ kẻ nào hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn khi họ đến trước tôn nhan Ngài, tôn nhan Chúa Cha và các Thiên Thần".

---------------------------------------

* Thánh Phêrô Đoàn Công Quí

Ngài là con của ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Trường, sinh năm 1826, tại họ đạo Búng, Thủ Dầu Một ( Bình Dương).
Ngay từ nhỏ, cậu Phêrô đã có lòng ước ao dâng mình cho Chúa. Sau khi đã nhập vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse (Thị Nghè), Thầy Phêrô được gởi đi tu học tại đại chủng viện Thừa Sai Paris ở Pénang (Malaysia), năm 1848; hoàn tất chương trình đào tạo, trở về quê hương vào ngày 11/04/1855. Lúc bấy giờ các vua triều Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, đang cấm đạo rất gắt gao. Vào tháng 9 năm 1858, Thầy được chịu chức một cách âm thầm tại Thủ Dầu Một; sau đó, được cử đi phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, làm Cha Phó họ đạo Cái Mơn (Vĩnh Long), và là Cha Sở họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng, An Giang), từ ngày 27/12/1858, trú ngụ tại nhà ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Cùng với lòng nhiệt thành tông đồ, hăng hái phục vụ bổn đạo, Cha còn có lòng yêu mến Đức Mẹ một cách đặc biệt. Nhờ có tài hát xướng, Cha đã sáng tác những bài thánh ca để phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ. Ngoài ra, Cha luôn khao khát tử đạo để làm chứng cho Chúa. Bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu, khi có dịp là cha sẵn sàng dâng hiến mạng sống, để làm chứng cho Chúa. Và Cha đã thực hiện được ý nguyện khi được Bề Trên cử về Cù Lao Giêng làm Cha Sở.
Về nhiệm sở mới được 10 ngày, Cha bị bắt cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng, và 32 giáo dân khác, vào ngày 07/01/1859 và bị giam giữ tại nhà tù Châu Đốc cho đến ngày 31/07/1859.

---------------------------------------

Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng

Ngài sinh năm 1796, tại họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng), làng Tấn Đức, tổng An Bình, tỉnh An Giang, thuộc Trấn Châu Đốc.
Là một gia đình gương mẫu, cùng với vợ là bà Anna Của, ông đã nuôi dạy 9 người con và 2 người con nuôi nên những người đạo đức, tốt lành. Với lòng bác ái cao quý, ông thường chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, túng thiếu,… nhất là trong thời dịch bệnh và ngay cả khi bị giam tù ở Châu Đốc.
Với tinh thần tông đồ cao, ông hăng say hy sinh, phụng sự Chúa và phục vụ anh em. Trong thời gian cấm đạo rất gắt gao, ông vẫn âm thầm dâng đất cất nhà thờ, chủng viện và nhà các dì phước. Trong nhà ông, thường xuyên có các linh mục trú ngụ. Có thời gian, có 5 linh mục cùng một lúc; trong đó có các vị thừa sai nước ngoài (Tây dương đạo trưởng).
Ngoài ra, ông còn có tài ngoại giao rất đặc biệt. Ông có mối quan hệ rất tốt với chính quyền địa phương, cụ thể là Quan Huyện. Nhờ đó, mà giáo dân Cù Lao Giêng vẫn được an bình trong thời điểm cấm đạo rất khó khăn.
 Vì có người tố cáo, ngày 07 tháng 01 năm 1859, Ông bị bắt cùng với cha Phêrô Đoàn Công Quí và 32 giáo dân khác. Các ngài bị điệu về Châu Đốc giam giữ.

Gương sáng tử đạo

Trong suốt 7 tháng trời, Tổng trấn và quan quân Triều đình ra sức dụ dỗ Cha Phêrô và ông Emmanuel bỏ đạo, để được thăng quan, tiến chức và tưởng thưởng. Nhưng các ngài vẫn một mực yêu mến Đức Kitô, nhiệt tình với Tin Mừng Phúc âm và trung thành với Giáo Hội.
Không thuyết phục được, Tổng Trấn gởi sớ về triều đình xin án lệnh. Vua Tự Đức châu phê và gởi về Châu Đốc ngày 30/07/1859. Ngày hôm sau, 31/07/1859, tại Bến Chà Và (Bến Cây Mét), các ngài đã hiến dâng mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng Phúc âm.
Để tuyên dương công trạng, nhân đức và tinh thần tông đồ đầy nhiệt huyết, vào ngày 02/05/1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong các ngài lên bậc Chân phước (Á thánh).
Sau đó, vào ngày 19/06/1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng các ngài lên bậc Hiển Thánh cùng với 115 vị tử đạo khác tại Việt Nam.
Các ngài đã nêu gương sáng về Đức Tin kiên vững, Đức Mến nồng nàn, Đức Cậy vững vàng, nhất là lòng nhiệt thành loan báo cho mọi người Tin Mừng tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây còn là mẫu gương sống động về tinh thần đồng trách nhiệm giữa linh mục và giáo dân, giữa Cha sở và Hội Đồng mục vụ giáo xứ mọi thời và mọi nơi.
Cũng còn đúng với đường hướng xây dựng giáo phận theo mô hình của một Hội Thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.

---------------------------------------
 

Suy Niệm 1: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng:


 chứng nhân đời thường của Đức Kitô

Lúc sinh thời, thánh Emmanuel Lê Văn Phụng giữ chức Lý trưởng, là chức thứ nhì trong làng. Vì thế, ngài được gọi là ông Lý Phụng. Đồng thời, ngài coi sóc việc đạo cho cả phủ nội tỉnh An Giang (Châu Đốc), gọi là Câu Phủ; cho nên, người đương thời cũng quen gọi ngài là Ông Câu Phụng. Với những chức vụ đạo, đời khá quan trọng như thế, ngài đã làm việc hết mình để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Cuộc đời của thánh nhân có những nét đặc biệt sau đây.

Trước hết, là một tín hữu ngoan đạo, ngài luôn luôn tỏ ra là một gia trưởng gương mẫu. Dù rất bận chuyện làng-xã và họ đạo, thế nhưng, cùng với người vợ rất đảm đang là bà Anna Của, ngài đã nỗ lực sinh dưỡng, dạy dỗ một cách tốt đẹp tất cả 9 người con, năm trai, bốn gái, ngoài ra còn có hai người con nuôi cũng được ngài đùm bọc, cưu mang, giáo dục đầy đủ. Ngài quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo lý, đạo đức, học hành của con cái. Ngài lưu ý chỉ dạy cách ăn nết ở theo luân thường, đạo lý từ ngàn xưa. Thật là gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Điều đó đã được các linh mục lưu trú trong nhà khẳng định và ca ngợi.

Thứ đến, ngài có một tinh thần tông đồ rất nhiệt thành, hăng hái. Với tư cách là người đứng đầu trong họ đạo, ngài luôn luôn sống hết mình với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với bà con bổn đạo, ngài rất hăng say trong việc mở mang Nước Chúa, cho dù phải gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách.

Trong thời gian cấm đạo gắt gao nhất, ngài vẫn âm thầm dâng hiến đất đai, xây dựng nhà thờ, nhà xứ và nhà các nữ tu. Mái ấm của ngài là nơi lưu trú  thường xuyên của các linh mục, kể cả các vị thừa sai nước ngoài.. sinh hoạt đạo đức của họ đạo, với các lễ nghi phụng vụ, với các bí tích được trao ban đều đặn, hầu như luôn luôn được diễn biến bình thường, là nhờ ở sự khôn khéo và tài đức của ngài.

Đồng thời, nhờ lòng đạo đức sâu sắc và sự am hiểu giáo lý một cách vững vàng, ngài đã được Bề trên chọn làm giảng viên giáo lý của họ đạo Cù Lao Giêng, và sau đó, của cả tỉnh An Giang. Với vai trò đặc biệt này, ngài ra sức dạy giáo lý cho các thiếu nhi, thanh niên và cả những người lớn tuổi. Ngài thường xuyên thăm hỏi, khuyên nhủ, giải thích và giúp đỡ những người khô khan, nguội lạnh trở về với Chúa. Ngài nhiệt tình lo lắng cho những người hấp hối, nguy tử được lãnh nhận các bí tích sau cùng, chuẩn bị chu đáo trước khi ra trình diện với Chúa.

Ngoài ra, lòng bác ái của ngài cũng là một nhân đức nổi trội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngài vẫn tỏ ra tâm hồn nhân ái đặc biệt. Gặp thời  dịch bệnh hoành hành, ngài đã sắm ghe, mua thuốc, phân phát, cứu giúp những người bệnh, cách riêng là những người nghèo khổ… trong thời gian tù đày, ngài cũng sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho các bạn tù, cho lính canh và cai tù… Ngay cả với kẻ thù, ngài cũng tỏ ra tấm lòng quảng đại, bao dung. Sở dĩ ngài bị bắt và bị  giam giữ, cùng với cha sở Phêrô Quí là do hai tên bất lương tố cáo, hãm hại. thế nhưng, khi hai tên này đến xin bà vợ của ngài giúp đỡ tiền bạc, từ trong tù, ngài đã khuyến khích và yêu cầu bà thực hiện… Nhìn vào cung cách sống đó, tất cả mọi người đều thán phục người tông đồ của Chúa.

Sau cùng, với sự khôn khéo, tế nhị đặc biệt, với tinh thần trách nhiệm cao độ của người đứng đầu với những phương tiện vật chất mà Chúa trao ban, ngài đã xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người chung quanh, kể cả quan quyền lúc bấy giờ. Ngài sẵn sàng hy sinh, dâng hiến những gì mình có để làm sáng danh Chúa, để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Nhờ đó, mà ngài đã giúp cho họ đạo được bình yên, ngay cả trong thời buổi khó khăn nhất.

Và như thế, với tình yêu son sắt với Chúa và anh em, với sự trung tín kiên vững của người môn đệ, với niềm xác tín vào ơn cứu độ của thiên chúa, ngài đã hiến dâng mạng sống, để xứng đáng là sứ giả của Chúa Kitô tại quê hương thân yêu của ngài. Ngài đã trở nên một mẫu gương chứng nhân tiêu biểu của Đấng Cứu Thế cho đồng bào của ngài.

Noi gương của Thánh nhân, chúng ta hãy nỗ lực sống tin Mừng mỗi ngày trong cuộc sống đời thường, một cách cụ thể, thiết thực và hiệu quả.

Hãy sống trọn vẹn ơn gọi mà Chúa trao ban trong gia đình. Hãy là những người cha có trách nhiệm, người mẹ đảm đang, người con hiếu thảo để tạo bầu khí yêu thương, hạnh phúc trong mái ấm. những lời nói, cử chỉ, việc làm thắm đượm tình bác ái sẽ giúp đem lại bình an, niềm vui và hy vọng. Sự quan tâm, chăm sóc cho nhau sẽ đan dệt nên những tâm tình yêu thương, liên đới, chia sẻ, hy sinh và phục vụ…

Nên nhớ rằng, qua bí tích rửa tội, mỗi người đã lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Ki-tô cho những anh em chung quanh. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng đó bằng đời sống gương mẫu của chúng ta qua nhữn việc làm cụ thể. Chính nhờ đời sống đầy tình yêu thương bác ái của chúng ta mà người ta có thể nhận ra Chúa, yêu mến Chúa, tin Chúa và đến với Chúa.

Ngoài ra, tinh thần tông đồ cũng mời gọi chúng ta nhiệt tình cộng tác với Đức Giám Mục giáo phận, với các linh mục phụ trách giáo xứ, với các thành phần dân Chúa, để giúp mọi người thăng tiến về mọi mặt, nhất là trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy dùng tất cả những phương tiện mà Chúa trao ban, hãy biết chia sẻ những gì mình có, như: tài năng, thời giờ, sức khỏe, công ăn việc làm, tiền của vật chất… để làm vơi nhẹ những khổ đau, đem lại niềm an ủi, nâng đỡ tinh thần, tạo nên sự phấn khởi, lạc quan… cho những người đang gặp khó khăn, thử thách. Không ai nghèo túng đến nỗi không có gì để chia sẻ cho người khác. Một nụ cười tươi tắn, một sự đón tiếp niềm nở, một lời nói động viên hay một lời khen ngợi chân thành, một cái bắt tay thân tình, một sự giúp đỡ nho nhỏ… tất cả đều có một giá trị vô cùng lớn lao và cao quí. Tất cả đều là dấu chỉ chắc chắn loan báo hạnh phúc đích thực, sung mãn và vĩnh viễn của Nước trời. Sống được như thế, chúng ta sẽ là những chứng nhân đời thường của Đức Kitô, theo gương của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với ngài, trong vinh quang Thiên Chúa.

---------------------------------------
 

Suy Niệm 2: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng & thánh Phêrô Đoàn Công Quý:


 Tinh thần đồng trách nhiệm trong sứ mạng của Hội Thánh

(Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu 31-07-2010)

Thật tự hào cho giáo phận Long Xuyên, khi mô hình Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm đã được thực hiện trước công đồng Vaticanô II cả trên 100 năm tại họ Đầu Nước, nay là Cù Lao Giêng, một trong những họ đạo cổ kính và điển hình của giáo phận, do cha sở họ đạo là linh mục Phêrô Đoàn Công Quí, và đại diện giáo dân là ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.

Thật vậy, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm trong sự cộng tác với nhau để điều hành sinh họat của họ Đầu Nước - Cù Lao Giêng. Đặc biệt là ông câu Phụng đã dâng hiến tài sản của gia đình mình cho Giáo Hội, để xây cất cơ sở vật chất như chủng viện, nhà dòng. Hơn nữa, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự đoàn kết với nhau trong chức linh mục của Chúa Kitô, để mỗi người theo sứ mạng của mình, phục vụ nhiệm thể Chúa Kitô. Riêng ông câu Phụng đã biến gia đình mình trở thành một Hội thánh tại gia, nơi mà trong thời bách hại, hàng giáo sĩ thường lui tới để trú ngụ, để ẩn náu và thi hành tác vụ linh mục, cụ thể là cử hành các bí tích cho giáo dân trong vùng. Nhất là cha sở Phêrô cùng với ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trong cuộc tử đạo của mình. Máu của hai thánh đã hòa trộn với Máu Thánh của Chúa Kitô, cùng thấm đẫm tại phần đất của vùng Châu Đốc, An Giang. Như vậy, sự cộng tác, sự đoàn kết và hiệp thông là những bài học cho giáo phận Long Xuyên, cho hàng giáo sĩ cũng như giáo dân, về tinh thần đồng trách nhiệm được biểu hiện từ cuộc đời và cuộc khổ nạn của hai thánh Quí - Phụng.

Thực ra, không phải là do hai thánh Quí - Phụng, cũng không phải là do công đồng Vaticanô II đưa ra những bài học về tinh thần đồng trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu. Chính Chúa Kitô đã sống và đã dạy bài học này cho những người theo Chúa trong bầu khí của cộng đoàn các Tông đồ. Chúa đã muốn các ông cộng tác với nhau và với mọi người nên sai các ông đi từng hai người một. Chúa muốn các ông đoàn kết với nhau và với mọi người nên đề ra chương trình hành động chung là làm chứng và loan báo Tin mừng bình an. Và Chúa muốn các ông hiệp thông với nhau và với mọi người trong lý tưởng của Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.

Chúa Kitô đã dạy bài học tinh thần đồng trách nhiệm. Công đồng Vaticanô II và Liên Hội đồng Giám mục Á Châu trở về nguồn với tinh thần tham gia và hiệp thông. Như vậy, giáo phận Long Xuyên không có con đường nào khác ngoài con đường trở về xây dựng giáo phận thành một Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.

Sẽ rất hài lòng cho hai thánh tử đạo nếu giữa anh chị em và cha sở đã có những hợp tác chặt chẽ trong mục vụ, và đã có những nỗ lực giải quyết những chia rẽ, những bất hòa, để tránh tình trạng kình chống nhau trong họ đạo. Và ước mơ rằng họ đạo Cù Lao Giêng sẽ là nơi hành hương cấp giáo phận để tinh thần đồng trách nhiệm của hai đấng Thánh được suy tư, chiêm ngưỡng và được tiếp tục học hỏi như bài học cho các cộng đoàn Kitô hữu trong và ngoài giáo phận.

Xin hai thánh tử đạo là cha sở Phêrô và ông câu Phụng chúc lành cho chúng con, và tiếp tục giúp chúng con biết học bài học xây dựng Nước Thiên Chúa bằng tinh thần đồng trách nhiệm. Amen.

---------------------------------------
 

Suy Niệm 3: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng


Câu họ (1796 - 1859)

Ngày tử đạo: 31 tháng 7

Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố giác cha.

Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm 1796 tại họ Đầu Nước (Cù Lao Giêng), tỉnh An Giang, thị xã Châu Đốc. Vì tính tình cương trực, nhiệt thành chăm lo cho việc chung nên ông Phụng được giáo hữu tín nhiệm bầu làm ông câu họ Đầu Nước.

Nhờ có nhiều tài đức, ông câu Phụng vận động giáo dân toàn họ đạo góp công góp của, tái thiết nhà thờ họ khang trang, thoáng mát và xây dựng nhà các dì dòng Chúa Quan Phòng. Ông đã biến họ Đầu Nước thành nơi dung thân an toàn cho các thừa sai và hàng giáo sĩ bản quốc.

Ông câu Phụng ước ao có linh mục ở lại họ đạo Đầu Nước để dâng Thánh lễ cho giáo dân. Trong những dịp lễ lớn, bằng mọi cách, ông tìm rước cho bằng được một linh mục về dâng Thánh lễ hay cho các bệnh nhân hấp hối được xức dầu. Trong thời gian có bệnh dịch, ông câu mua chiếc thuyền con và chính tay ông cầm lái, rước cha đi khắp mọi nơi ban bí tích cho con chiên trong giờ phút cận tử.

Quan huyện địa phương xét thấy sinh hoạt đạo Chúa không gây mất trật tự hay nguy hiểm cho làng nước. Hơn nữa, nhà quan vẫn thường nhận tài trợ của ông câu Phụng. Vì thế, khi nào có lệnh khám xét hay truy lùng linh mục, quan huyện âm thầm cho người báo tin trước để ông câu Phụng có đủ thời gian thông tin cho giáo hữu cất giấu ảnh tượng và đồ thờ phượng.

Chẳng may, trong vùng có hai tên chuyên cờ bạc là Nên và Miêu. Hai tên này muốn lợi dụng cơ hội làm tiền nên chia phiên nhau trèo lên cây xoài gần vườn nhà ông câu Phụng để theo dõi, quan sát diễn biến trong nhà. Mùa Đông năm 1858, hai tên này phát hiện bóng dáng linh mục thừa sai Pernot - Định tạm trú trong nhà ông câu Phụng.

Đêm đó, khi mọi người đã an giấc, thừa sai Jean Pernot - Định mở cửa đi dạo trong sân sau, hít thở không khí trong lành và lần chuỗi Mân Côi. Hai tên do thám nhìn thấy, vội vã chạy đi báo tin cho quan trấn thủ Châu Đốc. Chúng tố cáo gia đình ông câu Phụng chứa chấp linh mục Tây dương và xin phái ngay quan lãnh binh điều động bính lính đi bắt chứ đừng dùng quân lính của quan huyện vì theo họ, quan huyện đã ăn tiền, thông đồng với người Công giáo và giúp họ che đậy.

Sáng ngày 07/01/1859, ông câu Phụng vẫn chưa hay biết có quan quân đến nhà. Khi cha Pernot - Định và cha Đoàn Công Quý, cha sở mới họ Đầu Nước, vừa dâng lễ xong thì có người chạy đến đưa tin quan trấn thủ Châu Đốc đi thuyền và theo đường bộ đang tiến đến bao vây nhà ông câu Phụng. Ông điềm tĩnh nhờ ông biện Vi đưa hai cha đi trốn, nhưng cha Quý quyết định ở lại vì nghĩ rằng cha có thể hoà mình vào đám đông mà trốn thoát.

Quan quân tràn vào nhà bắt trói và hăm dọa đánh ông câu Phụng. Thấy thế, cha Quý động lòng thương nên tự nhận mình là linh mục. Quan lãnh binh hạ lệnh bắt trói cha Quý, ông câu Phụng và 32 giáo hữu giải về Châu Đốc. Tại công đường, ông câu hiên ngang xác nhận gia đình ông đã đón tiếp, làm nơi ẩn náu cho các linh mục Tây dương.

Sáu tháng trong cảnh tù tội, dù bị tra tấn, khuyên nhủ, dụ dỗ, ông câu vẫn cương quyết im lặng, không khai báo về các thừa sai và không bỏ đạo. Chẳng hy vọng các tù nhân đức tin đổi ý, quan trấn Châu Đốc gửi án về kinh xin vua Tự Đức xử giảo ông câu vì tội chứa chấp linh mục.

Ngày 31/07/1859, hai vị được dẫn ra khỏi thành bằng cửa tả đến Cây Mẹt, xóm Chà Và. Ông câu Phụng trăng trối với các con hãy tha thứ cho những người đã tố cáo và xin chôn ông bên cạnh cha sở. Hai vị thầm lặng quỳ xuống và cha Quý ban Bí tích Giải tội cho ông câu Phụng. Sau ba tiếng chiêng lệnh, cha Quý bị chém đầu; ông câu Phụng bị xiết cổ bằng dây thừng. Ban chiều, quan trấn cho phép gia đình thân nhân rước thi hài ông câu Phụng về an táng trong nền nhà thờ họ Đầu Nước.

Ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng được nâng lên hàng chân phước ngày 02/05/1909 và được tôn phong hiển thánh ngày 19/06/1988.

---------------------------------------
 

Suy Niệm 4: Thánh Phêrô Đoàn Công Quý


Linh mục (1826 - 1859)

Ngày tử đạo: 31 tháng 7

Dầu trăng trói gông cùm tù rạc
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử.

Thánh Phêrô Đoàn Công Quý chào đời năm 1826 tại họ Búng, tổng Bình Thạnh, Thủ Dầu Một, nay là Bình Dương. Ngài là con út của ông Antôn Miêng và bà Anê Thường. Năm 21 tuổi, cậu được cha Tám giới thiệu với thừa sai Gioan Mịch để học Latinh rồi vào chủng viện thánh Giuse Sài Gòn trước khi học thần học tại Penang.

Năm 1855, thầy Quý hồi hương. Tháng 09/1858, sau ba năm chăm sóc tín hữu tại các họ đạo, cha Quý được lãnh chức linh mục tại Thủ Dầu Một. Cha được bổ nhiệm phục vụ tại các xứ Lái Thiêu, Gia Định và Kiến Hòa, rồi phó xứ Cái Mơn, Vĩnh Long. Với nhiệt tình tuổi trẻ, cha Quý vượt qua mọi gian khổ, đe dọa, hiểm nguy. Nếu bề trên không cản, cha đã nộp mạng để cứu các dì Mến Thánh Giá.

Sau cùng cha Quý được cử về giáo họ Đầu Nước, Cù Lao Giêng, An Giang. Khi quân tổng đốc An Giang bao vây nhà ông Lê Văn Phụng, cha Quý đã ẩn náu an toàn nhưng ra trình diện để cứu gia chủ. Cha nói “Tôi là đạo trưởng. Ai muốn theo đạo, tôi sẵn sàng chỉ dạy”.

Thế là cha Quý, ông Phụng và 32 tín hữu bị xiềng xích giải về Châu Đốc. Quan tổng đốc khuyên cha bỏ đạo: “Thầy là người thanh liêm, nhân từ, đức hạnh, tại sao lại mê theo tà đạo”. Cha Quý trả lời: “Dạ, thưa quan tôi là người giảng dạy đạo này, sao lại có thể bỏ đạo cho được? Vả nữa, đây là chính đạo, vì chỉ dạy điều tốt lành, chứ không phải là tà đạo như quan hiểu lầm đâu”.

Bảy tháng trong ngục, cha Quý an ủi các bạn tù, cử hành bí tích, và cùng họ đọc kinh Mân Côi. Tại đây, cha viết một bài thơ dài gửi mẫu thân, trong đó có những câu:

“... Dầu trăng trói gông cùm tù rạc
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử”.

Ngày 30/07/1859, bản án trảm quyết từ kinh đô về đến Châu Đốc. Hôm sau cha Đoàn Công Quý và ông Phụng hớn hở đi ra pháp trường ở xóm Chà Và. Sau ba tiếng trống vang, quân lính thi hành lệnh xử tử và cha Quý đi về quê hương vĩnh cửu ở tuổi 33.

Thi hài vị tử đạo được an táng tại nhà thờ Năng Gù, năm 1959 được cải táng về Cù Lao Giêng.

Linh mục Phêrô Đoàn Công Quý được suy tôn chân phước ngày 02/05/1909 và được tôn phong hiển thánh ngày 19/06/1988.

---------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây