Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 51-100 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa

Thứ tư - 04/04/2018 22:30
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 51-100 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 51-100 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 51-100 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa
-----------------------------------
Phúc Âm: Ga 20, 19-31: "Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. - Ðó là lời Chúa.
-----------------
PS2-51. CSTM/125 - Cộng đoàn. 2
PS2-52. SNLC/251 – Tin. 3
PS2-53. CSTM/105 - Đức tin. 4
PS2-54. Lỡ hẹn. 6
PS2-55. Bình an. 8
PS2-56. Bình an. 9
PS2-57. Tôma. 11
PS2-58. Tin. 12
PS2-59. Tin tưởng. 13
PS2-60. Nếu không. 15
PS2-61. Đời sống. 16
PS2-62. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống. 18
PS2-63. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ - JKN.. 20
PS2-64. Liên hệ chiều ngang của đức tin - Lm Trần bình Trọng. 24
PS2-65. CHÚA  NHẬT CHÚA THƯƠNG XÓT ư3. 25
PS2-66. MẤT CẢ CHỈ LẪN CHÀI 27
PS2-67. Chúa Giêsu lập bí tích Giải Tội 30
PS2-68. ĐÓNG BÈ ĐỂ GIỮ VỮNG ĐỨC TIN.. 32
PS2-69: Bình an trong tin yêu – ViKiNi 34
PS2-70. SỐNG VỚI THƯƠNG TÍCH ĐẤNG PHỤC SINH.. 37
PS2-71. Chúa Cha Giàu Lòng Thương Xót -. + GM JB Bùi Tuần. 40
PS2-72. TÔN VINH THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THƯƠNG XÓT! 42
PS2-73. Từ sợ hãi đến niềm tin. 48
PS2-74. Tin. 50
PS2-75. Củng cố đức tin. 51
PS2-76. Phúc thay những kẻ thân thiết trở nên thân thiết hơn. 53
PS2-77. Thời đại của chúng ta rất cần đến Lòng Nhân Từ Của Thiên Chúa. 54
PS2-78. Hãy vững tin. 62
PS2-79. Hiện ra cùng Tôma. 63
PS2-80. Sứ điệp Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ. 69
PS2-81. SỐNG SỨ ĐIỆP LÒNG THƯƠNG XÓT.. 71
PS2-82. LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA.. 75
PS2-83. Niềm tin vào việc Chúa sống lại 77
PS2-84. SỐNG SỨ ĐIỆP LÒNG THƯƠNG XÓT.. 82
PS2-85. THẦN KHÍ LÀ QUÀ TẶNG CỦA CHÚA KI-TÔ PHỤC SINH.. 85
PS2-86. TẦN SỐ TÌNH YÊU.. 90
PS2-87. CHÚA NHẬT II PHỤC SINH.. 92
PS2-88. Khoa học và đức tin. 95
PS2-89. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN.. 96
PS2-90. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN.. 97
PS2-91. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 98
PS2-92. Dấu chứng Phục Sinh. 106
PS2-93. Đức tin là một sự tăng trưởng. 109
PS2-94. Chú giải của William Barclay. 111
PS2-95. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour 115
PS2-96. Chú giải của Noel Quesson. 118
PS2-97. Chú giải của Fiches Dominicales. 122
PS2-98. ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ.. 126
PS2-99. CHÚA NHẬT II PHỤC SINH.. 131
PS2-100. LÝ TRÍ VÀ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH.. 138

---------------------------------------------------

 

PS2-51. CSTM/125 - Cộng đoàn

 

Các bài đọc hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai: PS2-51


Các bài đọc hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn cứ vào các sách Tin Mừng và nhất là sách Công vụ Tông đồ, ta thấy cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:

Đó là cộng đoàn cầu nguyện. Hoàn cảnh ban đầu với những cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Đức Kitô, người Thầy thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ khai tha thiết họp nhau cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại kỷ niệm của Thầy Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của Thầy. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thầy để ghi tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thầy đã làm cho lời cầu nguyện của các ngài trở nên sống động. Và Đức Kitô Phục sinh vẫn thường đến an ủi các ngài trong các buổi cầu nguyện ấy.

Đó là cộng đoàn đức tin. Các ngài quây quần sống bên nhau vì cùng chung một niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh. Niềm tin ấy rất mãnh liệt vì các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là lý trí mà còn ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ấy không chỉ biểu lộ trong những giờ cầu nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa, trong những sinh hoạt đời thường. Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và phục hồi đức tin. Như trường hợp của tông đồ Tôma. Ông tìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại đức tin cho ông khi ông ở giữa cộng đoàn.

Đó là cộng đoàn đức ái. Đức tin chân thật sẽ dẫn đến đức ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu lộ trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là cả trong việc chia sẻ của cải vật chất. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung… Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các tông đồ. Tiến ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu”. Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đời sống của một cộng đoàn như thế.

Đó là cộng đoàn chứng nhân. Các ngài làm chứng cho nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh quá mãnh liệt làm cho các ngài sung sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc chia sẻ với bạn bè. Câu nói “Chúng tôi đã thấy Ngài” là câu nói cửa miệng của các tông đồ. Ta được nghe các chứng từ dồn dập của Maria Mađalêna, của Phêrô và Gioan, của các môn đệ đi làng Emmau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng kêu của Tôma. Hữu xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan tỏa ra cả những người chung quanh. Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống đức tin mạnh mẻ. Đời sống cầu nguyện sống động. Đời sống bác ái chan hòa. Tất cả trở thành một lời chứng hùng hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa, các ngài còn hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất chấp mất danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống. Cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, đã đón nhận được ơn phục sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những con người mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng đoàn phục sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn phục sinh tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.

---------------------------------------------------

 

PS2-52. SNLC/251 – Tin

 

Các tông đồ đã đưa ra cho ông Tôma một thách đố. Họ đã nhìn thấy Chúa. Ông Tôma có tin họ: PS2-52


Các tông đồ đã đưa ra cho ông Tôma một thách đố. Họ đã nhìn thấy Chúa. Ông Tôma có tin họ không ? Như chúng ta đã biết, lúc đầu câu trả lời của ông Tôma là không tin. Tuy nhiên, sau khi Tôma cũng được gặp Chúa Giêsu thì ông sẵn sàng tin. Tôi nghĩ là trong hoàn cảnh phải chịu một thách đố như vậy thì phản ứng của ông Tôma cũng là một điều bình thường.

Chúa Giêsu Phục sinh có thể hiện ra với dân chúng, nhưng Người đã không làm như vậy. Người để cho mỗi người chúng ta, với tư cách là những người môn đệ của Chúa, có một trách nhiệm là làm cho thế giới nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh qua chính cách mà chúng ta sống cuộc đời của mình. Có lẽ bạn sẽ thốt lên: “Ồ, không thể được”. Nhưng điều đó thật sự có thể thực hiện được. Nhiệm vụ này là một niềm vui cho chúng ta, nếu chúng ta tin đây là việc của Chúa Thánh Thần và không chỉ lệ thuộc vào bản thân chúng ta mà thôi đâu. Đó là một trách nhiệm đáng sợ nhưng đồng thời cũng là một niềm vui lớn lao cho chúng ta. Giúp người khác tin vào Chúa Giêsu Kitô là một niềm vui mà chúng ta có thể cảm nghiệm được trong cuộc đời. Không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui giúp cho một người có số phận phải chết được tiến đến với Thiên Chúa và lãnh nhận hồng ân sự sống đời đời.

Chúng ta đã đồng hành với Chúa Giêsu ngang qua các đau khổ và cái chết của Người. Giờ đây, chúng ta cảm nghiệm được niềm vui Chúa đã Phục sinh. Chúng ta hãy nắm vững sự thật này, và từ đó rút ra một niềm vui mừng và hạnh phúc để tăng cường sức lực hầu hăng hái thi hành sứ vụ đang chờ chúng ta. Cuộc đời của chúng ta sẽ luôn luôn là một tổng hợp của niềm vui và nỗi buồn, may mắn và rủi ro. Nhưng tâm hồn sẽ luôn giữ được sự bình an và cảm nghiệm được một niềm vui tràn đầy khi biết rằng chúng ta đang cùng đi với Chúa Giêsu, nếu chúng ta đặt trọn niềm tín thác vào Người và vững tin rằng Chúa đã sống lại từ cõi chết. Không có gì có thể làm hại chúng ta được, nếu chúng ta xây dựng cuộc đời mình trên lòng tin tưởng và tín thác vào Chúa Giêsu Phục sinh.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp con có một niềm xác tín mạnh mẽ vào sự sống lại của Chúa Giêsu để niềm tin đó cũng biến đổi con trở thành một con người mới, con người phục sinh.

---------------------------------------------------

 

PS2-53. CSTM/105 - Đức tin

 

Bài Tin Mừng kể lại hai lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các tông đồ: lần thứ nhất vào chính: PS2-53


Bài Tin Mừng kể lại hai lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các tông đồ: lần thứ nhất vào chính ngày Phục sinh, lúc đó vắng mặt ông Tôma, lần thứ hai, sau đó tám ngày, lần này có mặt ông Tôma. Mục đích Chúa hiện ra là để minh chứng cho các môn đệ thấy chắc chắn Ngài đã sống lại thực sự. Bài Tin Mừng này có hai câu nói của Chúa Giêsu rất đáng chú ý và suy nghĩ: Câu thứ nhất Chúa nói với ông Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin”, đây cũng là điều Chúa muốn nói với chúng ta, những người đang sống xa biến cố Phục sinh cả hai ngàn năm, chúng ta không thấy Chúa Kitô Phục sinh, nhưng chúng ta vẫn tin, tin mạnh mẽ, tin vững chắc. Câu thứ hai là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”, đây cũng là điều Chúa muốn ban cho chúng ta và chúng ta cũng luôn cầu xin Chúa.

Chúng ta thấy lúc đầu ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin, ông nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chúa rất nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lệnh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng, đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt, cho nên, đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài để đi tới thực tại tiềm ẩn: mắt ông chỉ nhìn nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.

Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi, phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Phán câu ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta ở thế kỷ XXI này và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài, nhưng chúng ta tin Ngài dựa vào bằng chứng của các tông đồ, thế giá của Kinh thánh và lời Giáo Hội giảng dạy, ai tin qua đó là có phúc. Chúng ta có thể nói như thánh Ghêgôriô: “ Ngón tay đa nghi của thánh Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới, bàn tay đa nghi của thánh Tôma đã dạy cho con người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Phục sinh của Chúa Kitô”. Chúng ta tin chắc như thế, chúng ta sẽ là người có phúc: phúc cho chúng ta, dù không thấy, chúng ta vẫn tin.

Đàng khác, ngay khi hiện đến với các tông đồ, cả hai lần, lời nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em”, lời cầu chúc đó được Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Quả thực, các ông đã bỏ mọi sự đi theo Chúa, nhưng ngờ đâu, “công chưa thành, danh chưa toại”, mới được 33 tuổi, vị thầy của các ông đã bị giết chết như một nhà cách mạng thất bại, và bây giờ đang nằm yên trong mộ đá. Chúa chết, các môn đệ “tay trắng vẫn hoàn tay trắng”. Hơn nữa, giờ đây các ông còn phải sống chui lủi trong cảnh “sảy đàn tan nghé”, như rắn mất đầu: thấp thỏm, hoang mang, lo sợ, các ông sợ tất cả mọi người, nên đã im hơi lặng tiếng, tụ tập nhau trong căn phòng cửa đóng then cài. Giữa lúc đó, Chúa hiện đến và chúc bình an, còn gì quý bằng, đang hoang mang, chán nản, sợ hãi, các ông được gặp Chúa và được Chúa ban cho điều các ông đang cần, đó là bình an. Ơn lộc đó Chúa cũng đang muốn dành cho chúng ta hôm nay.

Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình, hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao, cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an, nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.

Sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu: về tương lai, gia đình, con cái, tiền bạc, công ăn việc làm, sức khỏe… những lo ấu ấy như một chất thuốc độc tác hại vào tâm hồn và cướp đi những niềm vui trong lành, những giấc ngủ bình yên, khiến chúng ta luôn băn khoăn, khắc khoải, cố gắng tìm mọi cách để giải thoát mình khỏi những lo âu, và như thế có phải là chúng ta rất cần sự bình an không ? Sự bình an đó do Chúa ban và cũng là cố gắng của mỗi người.

Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời cho Chúa để bản thân chúng ta tìm thấy sự bình an, đồng thời hãy cố gắng sống tốt đẹp, chúng ta sẽ cảm thấy bình an. Đàng khác, nếu chúng ta chưa đem lại bình an cho ai, thì chúng ta đừng cố tình làm mất bình an của họ bằng lời nói hay việc làm lỗi bác ái của chúng ta. Xin Chúa ban bình an cho chúng ta và xin Chúa cho chúng ta là “khí cụ bình an của Chúa” cho mọi người.

---------------------------------------------------

 

PS2-54. Lỡ hẹn

 

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Tôma đã không được thấy Chúa vì ông đã lỡ hẹn: PS2-54


Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Tôma đã không được thấy Chúa vì ông đã lỡ hẹn.

Thực vậy, buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần đối với các môn đệ là một sự kiện có tầm mức quan trọng đặc biệt, vì nhờ buổi chiều này, mà niềm xác tín của các ông vào việc Chúa Phục sinh được củng cố.

Thế nhưng, đối với Tôma, buổi chiều này lại là một buổi chiều lỡ hẹn, một buổi chiều đã bị lỡ chuyến tàu.

Có thể vì sợ người Do thái, nên Tôma đã không dám tụ họp chung với các môn đệ, để được cùng đón nhận ơn sủng và sự bình an của Chúa Phục sinh.

Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những cái lỡ hẹn hay trễ hẹn, đem lại những hậu quả khác nhau.

Thực vậy, những cái lỡ hẹn hay trễ hẹn không gây nên một hậu quả nào vì nó có thể được đền bù bằng một lần gặp gỡ khác.

Chẳng hạn người bạn hẹn tôi đi chơi, hay đi ăn nhậu, nhưng vì kẹt công việc, tôi đành phải khất đến một dịp khác.

Có những cái lỡ hẹn hay trễ hẹn chỉ gây thiệt thòi đôi chút và sự mất mát được ghi nhận là không đáng kể.

Chẳng hạn tôi ký hợp đồng buôn bán với người ta và đã giam tiền cọc, thế nhưng tới ngày giao hàng, tôi không thể thực hiện được như hợp đồng đã ký kết. Và như vậy tôi mất đi số tiền đã đặt cọc.

Thế nhưng có những cái trễ hẹn hay lỡ hẹn đem lại những hậu quả thật nghiêm trọng, mất mát thì thật nhiều, thậm chí có thể mất mát cả một đời, vì không bao giờ được hẹn lần thứ hai.

Chẳng hạn đến ngày thi, tôi bị đau nên không thể tham dự và thế là sau đó cuộc đời tôi xoay chuyển qua một hướng khác, thay vì tiếp tục đại học, thì tôi phải lên đường thực thi nghĩa vụ quân sự, làm người lính trong quân đội.

Chẳng hạn chị hẹn gặp anh, nhưng anh vi ham vui với bè bạn nên không tới. Và thế là chị nổi giận, cắt đứt mọi liên hệ khiến cho cuộc tình của họ bị tan vỡ.

Rất may cho Tôma và cũng để khích lệ con người ở mọi nơi và trong mọi lúc, Tôma đã được gặp lại Chúa ở một lần hẹn khác. Chính trong cuộc gặp gỡ này, không chỉ là niềm vui, niềm xác tín của Tôma, mà còn là niềm vui, niềm xác tín của mọi người chúng ta hôm nay.

Có thể nói được rằng: chính nhờ cuộc lỡ hẹn của Tôma mà đức tin của chúng ta được củng cố, đồng thời cũng nhờ đó mà niềm xác tín của chúng ta vào màu nhiệm Chúa Phục Sinh càng thêm mạnh mẽ hơn nữa.

Và nhất là chúng ta được vui mừng và phấn khởi đón nhận “mối phúc thật thứ chín” của Chúa, đó là:

- Phúc cho những ai không thấy mà tin.

Tuy nhiên trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại xem: Chúng ta đã thực sự gặp Chúa hay chưa ?

Thực vậy, Chúa hẹn gặp chúng ta ở nhiều nơi và trong nhiều lúc. Những địa chỉ Ngài thường dùng để gặp gỡ chúng ta đó là lời Ngài trong Kinh Thánh, đó là Bí tích Thánh Thể nơi nhà thờ, đó là những người chung quanh chúng ta, nhất là những kẻ đau khổ, nghèo túng và bất hạnh, đó là những biến cố xảy đến trong đời sống, là như những dấu chỉ của thời đại qua đó Chúa tỏ lộ cho chúng ta biết thánh ý của Ngài.

Điều quan trọng đó là chúng ta đừng để lỡ hẹn hay trễ hẹn, trái lại phải lắng nghe và nhận ra tiếng gọi cũng như thánh ý của Chúa và nhất là phải mau mắn tìm gặp Ngài tại những địa chỉ ấy.


 

PS2-55. Bình an

 

Ông Tôma là một người có óc thực tế, có vẻ chậm hiểu và chậm tin hơn các môn đệ khác. Điều: PS2-55


Ông Tôma là một người có óc thực tế, có vẻ chậm hiểu và chậm tin hơn các môn đệ khác. Điều đó cũng đúng và dễ hiểu thôi. Ông có đủ lý do để nghi ngờ, vì ông chưa được thấy Chúa sống lại rõ ràng như các môn đệ khác. Và sự kiện ông đòi chính mình phải kiểm chứng mới tin lại có lợi cho chúng ta, và là dịp khiến Chúa Giêsu liên tưởng tới đông đảo những Kitô hữu, từ đó cho đến ngày cánh chung, sẽ tin vào Ngài. Chúa chúc phúc cho họ, vì họ là những người, dù không thấy tận mắt sự kiện phục sinh nhưng vẫn tin vào Ngài: “Phúc cho những kẻ đã không thấy mà tin”. Lời Chúa Giêsu trên đây được coi là mối phúc thứ chín trong đời mỗi Kitô hữu. Chúng ta phải cám ơn ông Tôma, chính vì thái độ thực tế của ông mà chúng ta được thêm một lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra để minh chứng Ngài đã sống lại, và ban cho chúng ta, qua ông Tôma, một mối phúc thật khác là “phúc thật đức tin”. Một điều lý thú nữa trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”.

Lời cầu chúc này được Chúa nói đến ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Còn gì vui mừng và sung sướng hơn cho họ nữa không? Họ được gặp lại một người thân yêu nhất vừa mới chết. Họ được thấy tận mắt Thầy của họ, được nghe tận tai tiếng nói của Thầy. Thầy của họ đã sống lại thật rồi và còn được thầy ban cho một món quà mà họ đang khao khát nhất, đang cần nhất, đó là “bình an”. Món quà ấy Chúa cũng dành cho mỗi người chúng ta hôm nay. Bởi vì Chúa quá hiểu tâm lý con người nhân loại. Chúa quá hiểu cục diện thế giới này, ít khi có bình an, lúc nào cũng đầy những bất hòa, bất thuận, chia rẽ, xô xát, đố kỵ, ích kỷ, nghi ngờ, giả dối… nên ai cũng muốn xin được hai chữ “bình an”. Có hiểu như thế chúng ta mới thấy lời chúc bình an của Chúa thật ý nghĩa và là món quà quý giá Chúa dành cho các môn đệ xưa kia và mỗi người chúng ta hôm nay.

Anh chị em hãy hồi tưởng lại cuộc đời mình xem: có phải anh chị em rất cần sự bình an không? Có lần người ta hỏi ông Đan-tê, một đại thi hào của nước Ý rằng: “ Điều ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc đời là gì?”. Bậc vĩ nhân đã trả lời rằng: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm, đó là sự bình an”. Chúng ta cần và chúng ta tìm kiếm sự bình an, là bởi vì cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng đầy những lo âu và phức tạp về bản thân mình, về gia đình mình và xã hội chung quanh… luôn gây cho chúng ta những bất an. Có khi chúng ta muốn an ổn mà không được, vì cây muốn lặng mà gió chẳng dừng. Không cần nói đâu xa, ngay trong gia đình chúng ta cũng đầy những ngột ngạt, lườm nguýt, hành tỏi, xích mích, tranh giành, lừa dối nhau, nghi ngờ nhau… khi thì chiến tranh lạnh khi thì chiến tranh nóng, mạnh ai nấy sống. Thậm chí có những người chỉ muốn sống ở những nơi khác mà không muốn về nhà mình. Chính vì thế mỗi người chúng ta, mỗi người trong gia đình, cần suy nghĩ xem: tại sao mình không có bình an, lý do là bởi ai, bởi đâu? Và chính mình có là nguyên nhân gây bất an cho gia đình, cho những người chung quanh không? Người ta nói:

“Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”, “hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, nghĩa là chúng ta là những người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, oán thù nhau, thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho chính những con cái trong nhà, cho anh hàng xóm chung quanh và xã hội. Xin mọi người hãy suy nghĩ hai chữ “bình an” hôm nay để chính mình sống bình an và giúp người khác cùng sống bình an. Tất cả chúng ta, ai ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Vì thế, Chúa luôn luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa cũng như Giáo hội cầu chúc chúng ta: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục bảo chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”.

Vâng, đúng vậy, có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau. Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, nghĩa là góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội. Xin nhớ rằng: nếu chúng ta không chia sẻ bình an thì thôi nhưng đừng bao giờ làm mất bình an của người khác.

---------------------------------------------------

 

PS2-56. Bình an

 

Bài Phúc Am hôm nay là bài đọc chung cho cả ba chu kỳ A, B, C, vì trong đó thánh Gioan đặt: PS2-56


Bài Phúc Am hôm nay là bài đọc chung cho cả ba chu kỳ A, B, C, vì trong đó thánh Gioan đặt thời điểm rõ ràng là tám ngày sau lễ Phục sinh. Chiều ngày lễ Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ, nhưng thánh Tôma lại vắng mặt. Khi ông về, các tông đồ kể lại cho ông nghe biết việc Chúa Kitô đã Phục sinh, nhưng ông không tin và còn thách thức: “Nếu tôi không nhìn dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không thọc ngón tay tôi vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin”. Chiều ý thánh Tôma, một tuần lễ sau vào chiều Chúa nhật, Chúa Giêsu hiện ra một lần nữa với các tông đồ và có Tôma ở đó. Tôma đã thấy Chúa và ông đã tin Chúa Kitô Phục sinh.

Dựa vào câu chuyện trong Phúc Am, người ta chỉ thấy sự cứng lòng tin của thánh Tôma. Như thế, hai chữ Tôma từ đó đã trở thành đồng nghĩa với sự cứng lòng tin và dường như đã trở thành một danh từ chung để chỉ những người không chịu tin một cách dễ dàng vào những chân lý hiển nhiên nào đó. Trường hợp đó người ta hay gọi ông là Tôma, và công khai hơn trong một kinh nổi tiếng mà Giáo hội hay đọc hoặc hay hát khi chầu Thánh Thể trong đó có câu: “Nay dầu không thấy Chúa, tôi như thánh Tôma thuở trước, nhưng tôi cũng xưng ra thật, Chúa thật là Chúa Trời tôi”.

Khi đọc hoặc hát lên câu kinh đó, dù muốn dù không. Giáo hội đã nhắc công khai sự cứng tin của thánh Tôma. Tội nghiệp cho thánh Tôma, ngài đã đi vào lịch sử với sự cứng lòng tin nối tiếp của ngài. Hôm nay, để công bằng, chúng ta hãy có một cái nhìn về phía những người khác, về phía các tông đồ khác để biện hộ cho Tôma một chút kẻo tội nghiệp, Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế đã bị đóng đinh vào thập giá, đã bị giết chết thực sự nhưng biến cố quan trọng nhất là Ngài đã sống lại và hiện ra với các tông đồ. Chúa sống lại là một sự kiện vô tiền khoáng hậu, một biến cố có một không hai, biến cố đó chắc chắn phải mang cho các tông đồ một niềm vui khôn tả, vì đó là một biến cố không thể tưởng tượng được.

Với kinh nghiệm của niềm vui to lớn đó, tâm hồn các ông và cả sự sống các ông phải thay đổi hẳn. Niềm vui được đối diện với Chúa Kitô Phục sinh, niềm vui có một không hai quanh các tông đồ để người khác cũng được vui mừng và tin tưởng như các ông. Trong trường hợp cụ thể này, niềm vui được thấy Chúa sống lại của các tông đồ phải thay đổi Tôma, người đã chẳng may mắn gặp mặt Chúa lúc Chúa hiện ra chiều ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng tại sao Tôma vẫn ở trong tình trạng không tin khi được nghe kể lại, cho đến một tuần sau đó khi được diện đối diện với Chúa Giêsu thì ông mới tin.

Các tông đồ kia đã làm chứng về Chúa Kitô Phục sinh như thế nào? Có lẽ vì sợ sệt, trốn tránh mà các ông đã làm cho Tôma vẫn còn nghi ngờ. Các ông có phần trách nhiệm của mình đối với sự cứng lòng tin của Tôma. Vậy, chúng ta là Kitô hữu, là người Công giáo, chúng ta có bổn phận làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh đối với thế giới xung quanh chúng ta.

Ít nhất mỗi ngày Chúa nhật khi dâng Thánh Lễ, chúng ta cùng nhau tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Vậy chúng ta đã tuyên xưng việc Chúa Kitô Phục sinh như thế nào trong đời sống của mình, trong cách cư xử với tất cả mọi người, trong cách đương đầu với mọi hoàn cảnh để mọi người nhìn vào chúng ta mà tin tưởng, ngợi khen Thiên Chúa Cha ở trên trời, “Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta là Đức Giêsu Kitô” để mang ơn cứu độ cho chúng ta. Mỗi người trong chúng ta có trách nhiệm đem niềm tin, niềm vui và hy vọng đến cho anh chị em của mình bằng cách sống đức tin của mình hằng ngày. Đó là cách chúng ta làm chứng nhân cho Chúa Kitô Phục sinh.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, mỗi người chúng ta hãy cố gắng không than trách vì nghịch cảnh mà chúng ta đang gặp phải trong đời sống của mình. Để làm chứng cho việc tin vào Chúa Kitô Phục sinh, Ngài sẽ biến đổi tất cả thành ân phúc cho cuộc sống trường cửu của tôi. Nếu có dịp, tôi sẽ chia sẻ với gia đình, với bạn bè tôi niềm vui sự đổi mới mà Chúa Kitô Phục sinh đã gây ra trong tâm hồn tôi.

---------------------------------------------------

 

PS2-57. Tôma

 

Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn: vắng mặt – hồ nghi – và tuyên xưng đức tin. Đó cũng: PS2-57


Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn: vắng mặt – hồ nghi – và tuyên xưng đức tin. Đó cũng là hành trình đức tin của Kitô hữu chúng ta.

Khi Đức Giêsu hiện ra lần thứ nhất, Tôma không có mặt, cho nên ông không tin. Ông đòi thấy bằng chứng rồi mới tin. Thế nhưng nếu có bằng chứng rồi thì đã là chuyện hiển nhiên, đâu còn phải là đức tin nữa. Đức tin không thuộc phạm vi khoa học hay lý luận, nên không dựa trên bằng chứng.Nhưng đức tin không phải là mù quáng. Tuy không đòi bằng chứng nhưng phải có lý do. Lý do để tin là lời làm chứng của những người có uy tín. Tôma chưa tin khi nghe lời thuật của các bạn, nhưng khi nghe lời của Đức Giêsu thì ông tin ngay. Sau này ông còn trở thành nhân chứng để cho nhiều người khác cùng tin nữa. Tin theo lời làm chứng của ai đó bao hàm một tình cảm với người đó: vì mình có tình cảm với người đó nên khi người ấy nói thì mình tin. Điều này làm nên giá trị của sự tin vào lời chứng, cho nên Đức Giêsu nói “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”. Lý do để tin còn là những dấu chỉ. Dấu chỉ Đức Giêsu cho Tôma là những thương tích của Ngài. Chỉ cần thấy những dấu chỉ ấy, ông không đòi đụng chạm và sờ mó nữa, ông tin ngay. Ngày nay chúng ta không thấy Chúa, nhưng chúng ta có những dấu chỉ Ngài ban, đó là các bí tích, các biến cố và gương sống quảng đại của các tín hữu nhiệt thành. Chính chúng ta cũng phải là những dấu chỉ cho người khác nhận biết Chúa.

---------------------------------------------------

 

PS2-58. Tin

 

Ngày nọ, nhà của một vị tu sĩ bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội leo lên mái nhà. Các bạn hữu: PS2-58


Ngày nọ, nhà của một vị tu sĩ bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội leo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng vì mạng sống thầy chỉ còn “ngàn cân treo sợi tóc”. Họ liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn:

- Nhảy đi, thầy nhảy xuống đi !

Thầy Nasruddin nói:

- Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề !

- Ôi, thầy ơi ! Không phải trò đùa đâu, thầy nhảy mau đi !

Thầy Nasruddin vẫn ngoan cố:

- Không ! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.

Bài Tin Mừng này khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều.

Điều thứ nhất khiến tôi suy nghĩ là điều kiện mà Tôma đặt ra: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin”. Mặc dù xem ra Đức Giêsu không tán thành thái độ của Tôma, nhưng trong thâm tâm tôi, tôi vẫn tán thành, bởi vì đó là thái độ của người chín chắn, cẩn thận, không nhẹ dạ. Trong những giao tế xã hội, tôi vẫn giữ thái độ cẩn thận ấy. Chẳng hạn khi tôi đi mua hàng, tôi không thể chỉ dựa vào những lời quảng cáo của người bán hàng để rồi mau chóng tin theo mà bỏ tiền ra mua ngay một món hàng mà tôi chưa thử. Huống chi câu chuyện mà Tôma nghe các bạn thuật lại là một chuyện:động trời” chưa bao giờ xảy ra: một người chết sống lại ! Đòi hỏi phải kiểm nghiệm xong rồi mới tin là một đòi hỏi hợp lý.

Nhưng khi tôi tán thành với Tôma, phải chăng là tôi không tán thành với Đức Giêsu? Ngài đòi tôi “không thấy mà tin”. Phải chăng Ngài đòi hỏi một điều không hợp lý?

Suy nghĩ thêm, tôi mới hiểu rằng Đức Giêsu không tương quan giữa những người yêu thương nhau, không nên cái gì cũng đối xử với nhau bằng lý, mà phải đối xử với nhau bằng tình. Thí dụ cha mẹ nói với đứa con rằng “Con đừng thọc tay vào ổ điện nhé, điện giật chết đấy !” Nếu đứa con không tin, đòi thử nghiệm xong rồi mới tin thì nó sẽ ra sao? Nó phải tin cha mẹ chứ, vì nó biết cha mẹ yêu thương nó. Vì Đức Giêsu yêu tôi nên Ngài có quyền đòi hỏi cao hơn sự hợp lý, Ngài có quyền đòi hỏi sự hợp tình.

Tôi cũng suy nghĩ về chữ “phúc” trong câu Đức Giêsu nói với Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Đọc Tin Mừng theo thánh Matthêu, tôi đã biết có tám mối phúc. Bây giờ tôi biết thêm mối phúc thứ chín nữa. Tại sao không thấy mà tin thì có phúc? Tôi nghĩ rằng hạnh phúc thường đi đôi với tình yêu. Khi yêu ai thì người ta dễ tin vào người ấy. Tin thể hiện yêu, và chính vì yêu nên hạnh phúc. Đến đây tôi khám phá một dây liên hệ giữa ba điều: Yêu – Tin – và Hạnh phúc.

Và kết luận tôi rút ra được từ bài Tin Mừng này là:

- Trong tương quan với những người không thân thiết lắm, tôi có thể cẩn thận đòi hỏi sự hợp lý.

- Nhưng trong tương quan với những người thân yêu, tôi phải cư xử sao cho hợp tình.

- Nhất là trong tương quan với Chúa, tôi phải tin Ngài để chứng tỏ là tôi yêu Ngài. Và nếu tôi tin yêu Ngài như thế thì tôi là người hạnh phúc.

---------------------------------------------------

 

PS2-59. Tin tưởng

 

Khi cảm thấy dễ chịu, chúng ta khá vui vẻ để mặc cho người khác đến gần mình. Nhưng khi đang: PS2-59


Khi cảm thấy dễ chịu, chúng ta khá vui vẻ để mặc cho người khác đến gần mình. Nhưng khi đang khó chịu, chúng ta có khuynh hướng tự cắt đứt quan hệ với người khác. Không ai muốn người khác đụng chạm vào chỗ đau của mình. Chúng ta muốn được ở một mình. Mặc dù có thể hiểu được điều này, nhưng đó vẫn là một khuyết điểm. Làm sao có thể chữa lành những vết thương được, khi chúng ta không để cho ai nhìn thấy và đụng chạm vào những vết thương của mình?

Một vị linh mục đang đi từ Hoa kỳ đến Châu Mỹ Latinh. Ở trên máy bay, ông nhận thấy mình đang ngồi bên cạnh một phụ nữ người Pêru. Người phụ nữ này kể cho ông nghe rằng bà trở về nhà với mẹ của mình, người vừa mới trải qua ba lần phẫu thuật tại Mỹ. Ông hỏi “Thế hiện nay, mẹ của bà cảm thấy khỏe hơn chứ?”. Người phụ nữ đáp “Dạ vâng. Mẹ tôi hoàn toàn bình phục rồi. Tất cả gia đình đều sẽ tụ tập ở sân bay để đón bà trở về”.

Thế rồi người phụ nữ đó hỏi ông lý do tại sao ông đi xuống phía nam. Ông nói với bà ta rằng ông là một linh mục, và ông đi đến đó để làm công việc truyền giáo. Khi nghe biết rằng ông là một linh mục, nét mặt của bà thay đổi một cách đột ngột. Bà ngả người, nắm lấy cánh tay ông, và thì thầm bằng một giọng đầy đau khổ “Ồ thưa cha, mẹ con bị mắc bệnh ung thư, và bà không có chút hy vọng nào”.

Tại sao người phụ nữ đó lại cứ phải giả vờ rằng tất cả mọi việc đều tốt đẹp cả? Tại sao bà ta phải che giấu, không chỉ những thương tổn chết người về mặt thể lý nơi mẹ của bà, mà bà còn che giấu cả những vết thương về mặt tình cảm của riêng bản thân bà nữa? Chắc chắn đó không phải là những điều đáng xấu hổ. Những vết thương về mặt tình cảm của riêng bà là do chuyện tình yêu gây ra. Chỉ đến khi phát hiện ra rằng người đàn ông ngồi bên cạnh là một linh mục, nghĩa là một người mà bà có thể mong đợi được an ủi, cảm thông, thì bà ta mới bày tỏ sự thật ra, tự cho phép mình đụng chạm vào người khác và được người khác đụng chạm vào tâm hồn mình.

Bây giờ, chúng ta hãy xem xét đến trường hợp của một nhân vật trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay – ông Tôma. Sau cái chết của Đức Giêsu, ông lẩn tránh đi cùng với các tông đồ khác. Vì thế, ông đã không được chứng kiến cảnh Chúa sống lại hiện ra lần đầu tiên. Tuy nhiên, trong lần kế tiếp, ông đã có mặt ở đó. thật thú vị khi nhận thấy cách thế Đức Giêsu đối xử với ông.

Trước hết, Đức Giêsu vạch ra cho ông xem thấy những vết thương của Người. Đức Giêsu cảm thấy không cần phải che đậy những vết thương của Người, bởi vì chúng là những bằng chứng về tình yêu của Người. Đó là những vết thương chết người, mà Đấng Chăn Chiên lành đã phải chịu, trong việc bảo vệ đàn chiên của Người khỏi chó sói. Đức Giêsu mời gọi ông Tôma sờ tay vào những vết thương đó.

Nhưng trên thực tế, ông Tôma là một kẻ đang mang thương tích. Ông bị thương vì nỗi đau khổ, cô đơn, hoài nghi và thất vọng. Trong nỗi đau của mình, ông muốn được ở một mình. Ngay cả không thể nhìn thấy những vết thương của ông, thì chúng vẫn có thật. Nhưng Đức Giêsu có khả năng nhìn thấy chúng. Chính Người đã đụng chạm vào những vết thương của Tôma, và nhờ đó, Người đã làm cho chúng được lành lặn trở lại. Chính bằng cách đụng chạm và được đụng chạm vào, mà Tôma đã được chữa lành khỏi mất niềm tin, cũng như khỏi những vết thương khác của ông.

Khi bày tỏ, những vết thương của ta ra, khi đụng chạm và được đụng chạm vào, thì chúng ta mới được chữa lành. Trái tim nhân loại của chúng ta chỉ được chữa lành, nhờ sự hiện diện của một người khác, biết thấu hiểu nỗi đau nhân loại.

Thế giới ngày nay, đầy rẫy những Tôma đa nghi. Họ sẽ không tin, trừ phi họ có thể đụng chạm vào những vết thương của Đức Giêsu, và được nhìn thấy tia sáng trên gương mặt của Người. Điều này chỉ có thể xảy ra, nếu người ta nhìn thấy Người sống động nơi những kẻ đi theo Người.

---------------------------------------------------

 

PS2-60. Nếu không

 

Tôma nói “Nếu tôi không được nhìn thấy, nếu tôi không được sờ ..... Câu nói này nghe rất hợp lý và: PS2-60


Tôma nói “Nếu tôi không được nhìn thấy, nếu tôi không được sờ tay vào, thì tôi sẽ không tin”. Câu nói này nghe rất hợp lý và rất lôgic. Điều này cho thấy rằng ngày nay, phương pháp lý luận rất thịnh hành. Ngày nay, người ta phổ biến ý tưởng rằng có thể giải nghĩa một cách hợp lý mọi sự. Nếu có một điều gì đó còn ẩn khuất, thì tất cả việc mà chúng ta phải làm là chiếu một tia sáng khoa học vào đó, nó sẽ trở nên sáng tỏ.

Tất nhiên chúng ta phải được hướng dẫn bằng lý lẽ, nhưng chúng ta cũng phải biết lắng nghe trí tưởng tượng và trái tim nữa. Tuy nhiên có một số yếu tố quan trọng nhất trong cuộc đời lại không thể nhìn thấy hoặc đụng chạm vào được. Có một lớp chân lý vượt quá giác quan, nhưng chúng lại tuyệt đối có thật. Thế giới hữu hình này chỉ là một phần của thế giới vĩ đại hơn, bao gồm những thực tại vô hình, mà thế giới hữu hình rút ra được ý nghĩa chủ yếu của nó. Giống như vị hoàng tử nhỏ đã nói “Điều gì thiết yếu thì lại vô hình”.

Nhìn thấy và nghe thấy có thể là những vật chống đỡ, ngăn cản không cho chúng ta suy nghĩ, cảm nhận và tưởng tượng. Thông thường, người tật nguyền lại có nhiều cảm giác và nhận thức hơn, so với những người được gọi là bình thường. Nhiều người ưa thích những sự kiện hơn là viễn ảnh. “Đôi khi, để được nhìn thấy một điều gì đó, cần thiết phải có đôi chút tin tưởng vào điều đó” (Van Gogh). Khi người ta biết về một điều gì đó, thực sự biết rõ, tự trong thẳm sâu tâm hồn mình, thì người đó không cần phải tranh luận hoặc chứng tỏ về điều này. Họ chỉ cần biết điều này, và thế là đủ rồi. Chúng ta không nhận thức đủ được về tầm quan trọng của điều gì mà cá nhân chúng ta không thể nhận biết được, và chúng ta phải nhận biết theo cách khác.

Tuy nhiên, chúng ta có thể thông cảm với Tôma. Ông chỉ phản ánh lại tiếng kêu nài của nhân loại về tính chắc chắn. Tuy nhiên, ở đây, trên trái đất này, không có gì là tuyệt đối chắc chắn về Thiên Chúa và về những thực tại thiêng liêng. Chúng ta phải hài lòng với “việc nhìn thấy một sự phản ánh mờ nhạt trong một tấm gương”. Chúng ta không được nhìn vào một cánh cửa mở rộng, nhưng chỉ được nhìn xuyên qua một khe hở mà thôi. Khe hở này đủ lớn để ánh sáng chiếu qua, nhưng không quá lớn để loại bỏ được thắc mắc và mầu nhiệm. “Khi quá nhiều hoặc quá ít ánh sáng, thì chúng ta trở nên mù lòa. Có đủ ánh sáng cho những người muốn nhìn thấy, và có đủ bóng tối cho những kẻ có khuynh hướng trái ngược lại” (Pascal). Khi tiếp cận với Thiên Chúa và tôn giáo, thì những người duy lý cho là không thể hiểu biết và giải nghĩa được; còn những nhà thần bí lại cho rằng Thiên Chúa thật mầu nhiệm, không thể hiểu biết và giải nghĩa được, mà chỉ có thể cảm nghiệm mà thôi. Đức tin dẫn dắt chúng ta tới nơi nào mà giác quan của chúng ta không thể đến được. Nhưng đức tin mà không hề nghi ngờ, hoặc đức tin tranh luận với nghi ngờ, thì đức tin nào mạnh mẽ hơn?

---------------------------------------------------

 

PS2-61. Đời sống

 

Đối với những kẻ đi theo Đức Giêsu, tác động ngay tức khắc và dễ nhìn thấy nhất qua lời giảng: PS2-61


Đối với những kẻ đi theo Đức Giêsu, tác động ngay tức khắc và dễ nhìn thấy nhất qua lời giảng dạy của Người là thái độ của họ với tài sản. Chúng ta nhận thấy điều này trong bài đọc trích từ sách Công Vụ Tông Đồ. Không ai cảm thấy cần phải giữ lại quyền sử dụng riêng những thứ mà họ không cần, trong khi người khác lại không có những thứ cần thiết đó. Họ chia sẻ tài sản với nhau. Những ai có nhiều thứ, thì không để lại cho mình cái gì, những ai có ít, thì lại không mong muốn gì.

Họ sống đời sống cộng đoàn. Trước hết, đó là một cộng đoàn của cầu nguyện và thờ phượng. Thứ hai, đó là một cộng đoàn của yêu thương và chăm sóc nhau. Việc cử hành lễ nghi Bẻ Bánh chiếm vị trí trung tâm trong cách thờ phượng của họ đối với Thiên Chúa và cách thức phục vụ của họ đối với nhau.

Nhóm các môn đệ thực hiện công việc rao giảng thông điệp. Mặc dù đôi khi họ cũng đi rao giảng từng cá nhân, nhưng vẫn luôn luôn có từng nhóm, từng cộng đoàn huynh đệ nhỏ đi cùng với nhau và nâng đỡ nhau.

Ngay cả ở mức độ nhân loại, chúng ta vẫn có một nhu cầu sâu xa về đời sống cộng đoàn. Tình trạng cô độc là một yếu tố đáng tiếc chủ yếu của thời đại ngày nay. Chúng ta cần có một cộng đoàn với tư cách là những Kitô hữu. Chúng ta cần có một hệ thống hỗ trợ, để nâng đỡ lòng tin, niềm hy vọng và lòng yêu mến của chúng ta. Chúng ta cần có một cộng đoàn, hoặc một nhóm nhỏ, để có khả năng tồn tại. Nhưng các xứ đạo của chúng ta đã trở nên quá rộng lớn và không ai quen biết ai.

Trong cuốn sách của mình, các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ, tác giả Jim O’Halloran kể lại câu chuyện dưới đây, nói về một thiếu nữ tên là Sylvia, xuất thân từ Nairobi. Cô nói:

“Khi rời khỏi trường học, tôi nói rằng mình có đức tin. Tôi sống ở khu ngoại ô của Nairobi, và mỗi Chúa nhật, tôi đều đi bằng xe buýt đến trung tâm thành phố, để tham dự thánh lễ tại nhà thờ Thánh Gia. Nhưng ngôi nhà thờ này quá rộng lớn, và hầu như tôi không quen biết ai cả. Tôi cảm thấy cô độc. Vào một ngày Chúa nhật, tôi trở về nhà và cảm thấy hơi bị trầm cảm, tôi tự nhủ “Mình không có một người bạn tinh thần nào trong cả cái thế giới này”.

“Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, tôi đến với cộng đoàn Kitô hữu nhỏ trong khu vực của tôi, và trở thành một thành viên trong đó. Nhờ vậy, mọi sự đều được thay đổi. Trong cộng đoàn, tôi không chỉ đơn giản được nghe nói về đức bác ái, giống như ở trong nhà thờ, mà tôi đã thực sự cảm nếm được hương vị ngọt ngào của sự sinh hoạt bên nhau nữa. Và dần dần, tôi được phát triển về đường thiêng liêng, kết thân với những người bạn tốt, và có thể tham gia vào công việc dành cho khu vực tôi ở. Tôi đã được triển nở với tư cách là một con người. Tôi không còn là một thiếu nữ đi một mình đến Nairobi, bị mất hút trong một ngôi nhà thờ rộng lớn, và trở về nhà trong tâm trạng buồn bã nữa”.

Ở đây, chúng ta nhận thấy những thành quả của đời sống cộng đoàn, của sự liên kết, chia sẻ, sinh hoạt bên nhau. Thiên Chúa không muốn chúng ta sinh hoạt một mình. Như vậy, chúng ta đừng e ngại trong việc hòa mình vào một cộng đoàn nâng đỡ nhau. Có lẽ chúng ta cần có một hệ thống các nhóm nhỏ cùng nhau chia sẻ lòng tin, trong đó, người ta có thể có được cảm giác về đời sống cộng đoàn và tình bạn đồng hành bên nhau. Những nhóm này sẽ được nối kết với các giáo xứ. Giáo xứ cần có những nhóm nhỏ, như là chất men, để giữ cho giáo xứ không bị tù hãm. Các nhóm nhỏ cần đến giáo xứ, để giữ cho các nhóm đó không bị trở nên hạn hẹp, và chỉ biết nhìn vào nội bộ của mình mà thôi. Một trong những khuyết điểm lớn nhất của Tôma là ông đã tự tách rời khỏi các tông đồ khác, nghĩa là khỏi đời sống cộng đoàn. Trong tâm trạng hoài nghi và đau khổ, ông tự cô lập chính mình. Chỉ đến khi tham gia trở lại với cộng đoàn, thì ông mới được gặp gỡ Đức Giêsu sống lại, và nhờ đó, ông đã tìm lại được lòng tin.

Trong thế giới ngày nay, để trở thành một kẻ tin, hoặc chỉ là một người có đời sống thiêng liêng mà thôi, có thể là một công việc cô độc. Với sự trợ giúp của cộng đoàn, chúng ta có khả năng giải quyết được những hoài nghi, và duy trì được lòng tin của mình. Cộng đoàn là một phần thiết yếu của việc làm chứng cho Kitô giáo.

---------------------------------------------------

 

PS2-62. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

 

Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư: PS2-62


Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.

Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.

1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI

Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.

Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.

2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN

Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả ? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín ! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai ?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng ! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin !”

3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN

Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc ? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

---------------------------------------------------

 

PS2-63. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ - JKN


Câu hỏi gợi ý:

 

Việc Tôma đòi hỏi những chứng cứ để tin như thế có gì quá đáng không? Có gì tích cực, đáng: PS2-63


1. Việc Tôma đòi hỏi những chứng cứ để tin như thế có gì quá đáng không? Có gì tích cực, đáng khen trong sự đòi hỏi đó không? Để tin cho vững chắc đến mức có thể dấn thân hết mình cho niềm tin ấy, việc đòi hỏi những chứng cứ chắc chắn có cần thiết không?

2. Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu để được cứu rỗi. Nhưng đức tin ấy có cần phải có chất lượng không? hay chỉ cần một đức tin xoàng xoàng là đủ? Đức tin có chất lượng là gì?

3. Một người tuyên xưng đức tin mạnh mẽ có chắc chắn là một người có đức tin mạnh mẽ không? Tuyên xưng thật mạnh mẽ nhưng lòng thì không tin được như vậy, đó có phải phần nào là giả dối không?

Suy tư gợi ý:

1. Thái độ của Tôma: đòi hỏi bằng chứng mới chịu tin

Bài Tin Mừng hôm nay nói đến thái độ của tông đồ Tôma. Ông đòi buộc phải thấy dấu đinh trong tay Đức Giêsu, xỏ ngón tay vào lỗ đinh ấy rồi đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, thì ông mới tin. Lý trí thiên về thực nghiệm và có chiều hướng khoa học của ông đòi buộc ông phải làm như thế, nếu không, ông không thể chấp nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại, vì việc sống lại quả hết sức khó tin. Nhưng rất có thể là sau khi được thỏa mãn những đòi hỏi ấy, Tôma xác tín việc Chúa sống lại hơn nhiều tông đồ khác. Người ta vẫn nói: «đại nghi thì đại ngộ» (nghi ngờ lớn thì giác ngộ lớn)! Các tông đồ khác - với bản tính đơn sơ, dễ tin hơn - không cảm thấy phải có những bằng chứng rõ ràng như Tôma mới tin được. Các ông chỉ dựa vào một số những biến cố thấy được nơi Thầy mình trước đây, như cuộc hiển dung trên núi Tabo, khả năng làm phép lạ như hóa bánh ra nhiều, làm sóng gió ngoài biển phải im lặng, thậm chí làm được cho kẻ chết sống lại nhiều lần, v.v... là các ông đã đủ để tin rồi.

Đòi hỏi hay không đòi hỏi bằng chứng để tin không phải là chuyện quan trọng. Điều này tùy thuộc vào bản tính Trời cho của mỗi người. Điều quan trọng là phải làm sao để tin cho chắc, tin cho vững, tin tới mức có thể dám dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Có những người rất dễ tin, vì thế niềm tin ấy không được xây dựng trên cơ sở vững chắc để có thể giúp họ dấn thân hết mình cho điều mình tin, nên khi gặp những giông tố thử thách, nghe những lý thuyết ngược lại, thì đức tin đâm ra bị chao đảo. Vì thông thường là: nếu dễ tin trong trường hợp này thì cũng sẽ dễ tin trong những trường hợp khác! Hay dễ được thì cũng dễ mất! Cũng có những người đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới chịu tin. Có thể họ không tin nếu chưa đủ chứng cớ. Nhưng một khi đã có chứng cớ làm cơ sở để tin, thì họ lại tin rất vững chắc tới mức độ có thể dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Hạng người sau sẽ ích lợi cho Thiên Chúa, Giáo Hội và nhân loại hơn. Cũng có thể có những người tuy dễ tin, nhưng vẫn tin vững chắc và không thay đổi được. Điều này theo lý luận thì khá nghịch lý, nhưng vẫn có thể xảy ra, vì trong thực tế vẫn có những điều rất nghịch lý!

Trong Kitô giáo, đức tin là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, tin hay không tin không quan trọng bằng chất lượng của đức tin. Người tin hời hợt cũng là tin, và người tin một cách xác tín cũng là tin. Nhưng giá trị của hai thứ đức tin ấy khác hẳn nhau.

2. Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu

Người Kitô hữu coi việc rỗi linh hồn, tức hạnh phúc vĩnh cửu, là điều quan trọng nhất. Họ có thể hy sinh tất cả mọi thứ khác trên đời cho hạnh phúc vĩnh cửu ấy, và đó chính là sự khôn ngoan căn bản của họ. Vì như Đức Giêsu nói: «Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì ích lợi gì?» (Lc 9,25). Nhưng muốn được sự sống đời, thì phải tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu-Kitô, hay vào Tin Mừng của Ngài như một điều kiện không thể không có: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc 16,16); «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9).

3.Nhưng điều quan trọng là chất lượng của đức tin

Nhưng thế nào là tin đúng với ý nghĩa của chữ «tin»? Nhiều người tưởng rằng mình tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, nhưng thật ra họ chẳng tin hay chỉ tin rất ít! Chỉ cần Chúa gửi đến cho họ một vài thử thách là họ sẽ thấy ngay họ có tin hay không, hoặc tin ở mức độ nào.

Thật vậy, trong những điều kiện bình thường không có gì đe dọa, có biết bao người tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, rao giảng đức tin hùng hồn không ai bằng. Thậm chí để bảo vệ đức tin, họ không ngần ngại lên tiếng kết án những kẻ xem ra yếu đức tin hoặc tin khác với mình. Nhưng khi có thử thách xảy tới, chẳng hạn khi tình thế đòi buộc phải lên tiếng bảo vệ đức tin, bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ công lý, và việc lên tiếng bảo vệ này đòi hỏi phải trả một cái giá nào đấy, thì họ lại sẵn sàng im lặng bất động, bỏ mặc đức tin, Giáo Hội và công lý ra sao thì ra. Hay khi đức tin đòi hỏi phải dấn thân hy sinh, chịu thiệt thòi một cách cụ thể mà trước mắt không được bù đắp lại, lúc đó họ mới nhận ra đức tin của họ - mà họ vẫn tưởng rất mạnh mẽ - hóa ra là thứ đức tin chỉ tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng mà thôi!

4. Tin thật trong lòng quan trọng hơn tuyên xưng ngoài miệng

Phải nói rằng chúng ta chú tâm vào việc tuyên xưng đức tin hơn là sống đức tin, chúng ta quan tâm chứng tỏ đức tin bằng miệng, bằng lời nói nhiều hơn bằng hành động. Chúng ta có khuynh hướng chọn cái dễ hơn, cái «rẻ tiền» hơn để thực hiện, chứ không chọn cái thật sự cần thiết dù là «đắt giá», vì thế, đời sống đức tin và việc truyền giáo của chúng ta không đi đến kết quả mong muốn. Theo thánh Phaolô thì «có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ» (Rm 10,10). Chúng ta có vẻ coi việc xưng ra ngoài miệng quan trọng hơn việc tin thật trong lòng. Có phải chúng ta coi việc «được ơn cứu độ» quan trọng hơn việc «được nên công chính»? Nhưng cần xét lại xem: có ai không trở nên công chính mà được ơn cứu độ nhờ «xưng ra ngoài miệng» không? Lời ấy của thánh Phaolô đòi hỏi chúng ta phải làm cả hai, và điều trước (tin thật trong lòng) thì quan trọng và cần thiết hơn điều sau (xưng ra ngoài miệng)! Điều sau chỉ là hiệu quả chứng tỏ điều trước mà thôi. Vì theo tự nhiên thì «lòng có đầy, miệng mới nói ra» (Mt 12,34; Lc 6,45). Lòng không đầy mà ngoài miệng lại nói ra thật hùng hồn mạnh mẽ thì rất có thể đã có phần nào giả dối trong đó!

Thật vậy, thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng chứ không được chứng tỏ bằng hành động chỉ là đức tin giả dối, hay «đức tin chết»: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Liệu người ta có thể được cứu rỗi với thứ «đức tin chết» ấy không?

5.«Phúc thay những người không thấy mà tin!»

Quả thật, nếu thấy rồi thì đâu còn là tin nữa, mà là thấy, biết! Như vậy, tin khác với thấy, biết. Tin chỉ có ý nghĩa khi đối tượng tin còn mù mờ, chưa sáng tỏ, nó vừa đòi hỏi lý trí nắm được một số chứng cứ để tin, vừa đòi hỏi ý chí chấp nhận một kết luận vượt khỏi giới hạn mà những chứng cứ ấy chứng tỏ. Chẳng hạn bố mẹ tôi nói với tôi rằng lúc nhỏ tôi bị một chứng bệnh rất nguy hiểm mà tôi đã thoát được. Tôi tin điều ấy, chứ không phải tôi biết hay thấy điều ấy. Để tin điều ấy, trong tôi có tác động của lý trí và ý chí. Lý trí tôi dựa trên những chứng cứ xác thực này:

- bố mẹ tôi sinh ra tôi và nuôi tôi nên biết rõ điều đó.
- bố mẹ tôi là một người chân thật, không hay nói dối
- tôi thấy bố mẹ tôi không có lợi gì khi dối gạt tôi điều này.

Những chứng cứ ấy chưa đủ để tôi có thể kết luận chắc chắn điều ấy. Nhưng dựa trên những chứng cứ xác đáng ấy, tôi xác định rằng điều bố mẹ nói về chứng bệnh lúc tôi còn nhỏ ấy là sự thật. Xác định điều ấy khi chưa hoàn toàn sáng tỏ là việc làm của ý chí tự do.

Lời của Đức Giêsu: «Phúc thay những người không thấy mà tin!» đặc biệt áp dụng cho chúng ta hơn là cho các tông đồ. Tất cả chúng ta chẳng ai thấy Đức Giêsu, chẳng ai thấy Ngài sống lại. Nhưng chúng ta tin điều ấy. Niềm tin ấy được xây dựng trên những lời chứng phải trả giá bằng máu, bằng mạng sống của các tông đồ, là những người đã sống với Đức Giêsu và đã chứng kiến Ngài sống lại: «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. 3,15; 4,33; 10,39.42; 13,31). Không ai lại sẵn sàng chết để làm chứng một điều gian dối chẳng đem lại lợi lộc gì cho mình.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin củng cố đức tin cho con, đồng thời giúp con luôn thành thật với niềm tin của mình. Đừng để cho con trở nên giả dối: tin thì không mạnh, nhưng tuyên xưng ngoài miệng thì rất là mạnh.

---------------------------------------------------

 

PS2-64. Liên hệ chiều ngang của đức tin - Lm Trần bình Trọng

 

Thường người ta tìm đến với nhau vì hai lý do. Một là cùng chung một đối tượng, một mục đích: PS2-64


Thường người ta tìm đến với nhau vì hai lý do. Một là cùng chung một đối tượng, một mục đích như cùng đi xuống đường để đòi hỏi một quyền lợi hay phản đối một điều gì. Hai là cùng chia sẻ một cảm tình như lo sợ, vui mừng... chẳng hạn đi dự đám cưới để chia vui, dự đám tang để chia buồn. Chính do cái tâm trạng sợ hãi mà các tông đồ cũng đã tụ họp lại với nhau. Vì sợ người Do Thái trầm nã như Phúc Âm hôm nay kể lại mà các tông đồ tụ họp lại trong phòng lầu tại Giêrusalem. Họ đóng cửa kín mít và chót then bên trong. Trong cái cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thày mình, các tông đồ tụ họp nhau lại cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau. Rồi Chúa hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức tin của các ông.

Cái khuyết điểm của Tô-ma là ông đã tách biệt ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20:25). May phúc cho ông là chính Chúa đã đích thân hiện ra để phục hồi đức tin của ông: Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28). Cộng đồng Ki-tô giáo hay chặt chẽ hơn là cộng đồng Công giáo được gọi là cộng đồng đức tin, gồm những người cùng chia sẻ một niềm tin và cùng chí hướng. Nếu muốn giữ vững đức tin, người ta cần ở trong cộng đồng, thờ phượng và sinh hoạt với cộng đồng đức tin. Khi người ta liên kết với cộng đồng đức tin, thờ phượng với cộng đồng đức tin, đức tin của người ta sẽ được củng cố. Trái lại nếu đức tin của ta vững mạnh, ta có thể giúp làm tăng triển đức tin của người yếu đức tin.

Nếu tách biệt ra khỏi cộng đồng đức tin, đức tin của người tín hữu có thể bị lung lạc, khi bị gièm pha và tấn công bởi những người không cùng một đức tin. Đức tin của người công giáo dựa trên hai chiều: chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc thì Thiên Chúa ở trên mời gọi ta đến đời sống đức tin và ta đáp trả. Còn đức tin dựa theo chiều ngang có nghĩa là ta cần dựa vào nhau, vào cha mẹ, họ hàng bạn hữu để giúp ta duy trì và phát triển đức tin. Ta cần tìm đến những người có đức tin mạnh, những người có tâm hồn đạo hạnh, hay người đỡ đầu để hun đúc lại đức tin của mình. Ngoài ra đức tin cần phải được thực hành. Nếu không thì như Thánh Gia-cô-bê quả quyết: Đức tin không có việc làm, là đức tin chết (Gc 2:26). Vì thế những người chủ trương giữ đại tại tâm là lừa dối mình.

Để áp dụng thực hành, người ta cần biểu lộ đưc tin bằng những việc cầu nguyện, dự le, hi sinh, bác ái. Người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi đầu.. để khơi dạy cái tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu tượng bên ngoài để nuôi dưỡng và củng cố đức tin. Nói như vậy có nghĩa là ta cần có tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.

Nhà thờ giáo xứ là biểu hiệu đức tin và là trung tâm điểm của đời sống đức tin. Sau khi sinh ra, ta được mang đến nhà thờ để chịu Phép Rửa tội. Ta Rước lễ lần đầu ở trong nhà thờ. Ta chịu Phép Thêm sức cũng ở trong nhà thờ xứ đạo Và ta lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối cũng trong nhà thờ. Khi nằm xuống vĩnh viễn, thân xác ta còn được mang đến nhà thờ để được cử hành lễ an táng. Đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ là cách biểu lộ đức tin một cách cụ thể nhất. Như vậy cái đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng việc bàu cử của Mẹ Maria và các thánh, bằng lời cầu nguyện và gương sáng của người tín hữu khác. Vậy không tìm đến sức hỗ trợ, tức là người ta tự cô lập hoá đức tin của mình.

---------------------------------------------------

 

PS2-65. CHÚA  NHẬT CHÚA THƯƠNG XÓT ư3


CHÚA  NHẬT CHÚA THƯƠNG XÓT

 

Ngày 23 tháng 5 năm 2000, Thánh Bộ Phượng Tự đã ra quyết định chọn Chúa Nhật 2 Phục Sinh: PS2-65 LÒNGTHƯƠNGXÓT


Ngày 23 tháng 5 năm 2000, Thánh Bộ Phượng Tự đã ra quyết định chọn Chúa Nhật 2 Phục Sinh là ngày Chúa Nhật “Chúa Thương Xót” ( giống như Chúa Nhật 4 Mùa Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành Good Shepherd Sunday ), để các tín hữu trên toàn thế giới dùng Chúa Nhật này suy ngắm về lòng thương xót của Chúa đối với mỗi người và toàn thể nhân loại. Tin tưởng ở lòng Chúa Thương Xót, chúng ta sẽ luôn vững lòng trông cậy, phó thác nơi Chúa khi gặp những thử thách, những biến cố khủng khiếp xảy ra cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta và thế giới.

Việc tôn sùng “Lòng Thương Xót Chúa” ( devotion to the Divine Mercy ) đã được bà Thánh Faustina Kowalska cổ động. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã suy tôn Bà lên bậc hiển Thánh ngày 30 tháng 4 năm 2000. Sau đây là một số đoạn Đức Thánh Cha đã viết về Chúa Nhật “Chúa Thương Xót.”

“Cũng như Thánh Faustina, chúng ta cũng tuyên xưng rằng ngoài Tình Chúa Thương Xót, không còn nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại. Chúng ta cùng hết lòng tin tưởng kêu lên Chúa: Lạy Chúa Giê-su, con tin tưởng nơi Chúa. Lời tuyên xưng hết lòng tin tưởng nơi tình thương toàn năng của Chúa, đặc biệt cần thiết cho thời đại chúng ta, một thời đại mà nhân loại đang phải trải qua những hoảng sợ trước bao nhiêu những xuất hiện của sự dữ. Kêu cầu đến lòng thương xót của Chúa rất cần thiết để tự đáy tâm hồn đầy khổ đau, lo lắng, và bất ổn của chúng ta, luôn nổi lên một nguồn cậy trông vững chắc... Với con mắt linh hồn, chúng ta ước ao được nhìn vào con mắt của Chúa Giê-su đầy lòng thương xót để nhận ra nơi sâu thẳm trong cái nhìn của Chúa phản ảnh đời sống sâu xa của Chúa, nơi đó chúng ta cũng nhận ra ân sủng mà chúng ta thường nhận được và Chúa vẫn tái ban hàng ngày cho chúng ta mãi mãi cho đến tận thế...

Chính Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và là Thánh Thần Chân Lý, dẫn chúng ta trên đường đến với lòng Thương Xót của Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho thế giới nhận ra tội lỗi, sự công chính, và sự phán xét ( Ga 16, 8 ). Chúa Thánh Thần cũng cho chúng ta hiểu được ơn cứu rỗi trọn vẹn nơi Chúa Ki-tô. Càng nhìn nhận ra tội, càng dể nhớ đến Thánh Giá Chúa Ki-tô. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta, qua thánh giá Chúa Ki-tô, nhìn nhận tội lỗi của mình, từngtội lỗi một với trọn vẹn sự dữ chứa chấp trong đó. Cũng qua thập giá Chúa Ki-tô, Chúa Thánh Thần cho chúng ta nhìn ra tội lỗi trong ánh sáng mầu nhiệm Tình Chúa Thương Xót: đó là tình yêu của Chúa chứa đầy lòng thương xót và tha thứ; nhờ đó, sự nhận ra tội lỗi của mình đem lại lòng vững tin rằng tội có thể được xóa bỏ và con người được phục hồi trở lại tình trạng người con yêu thương của Chúa. Thánh Giá là một sự hạ mình sâu thẳm nhất của Thiên Chúa xuống tới nhân loại. Thánh Giá là sự hoàn tất cuối cùng của Tình Yêu muôn thuở của Chúa đối với những vết thương đau đớn nhất của cuộc sống con người.

Lạy Cha là Đấng Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, Linh Hồn và bản tính Thiên Chúa của con yêu dấu của Cha, Chúa Giê-su Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và tội lỗi của toàn thế giới; nhờ những đau khổ trong cuộc khổ nạn của Người, xin thương xót chúng con và cả thế giới...”

Ngày nay, hơn lúc nào hết, thế giới cần đến lòng thương xót của Chúa. Ở mọi lục địa, từ sâu thẳm của những khổ đau của nhân loại, lời kêu xin lòng thương xót của Chúa hằng vọng lên khắp nơi. Nơi nào ghen ghét và lòng khát vọng trả thù ngự trị, nơi đó chiến tranh lại đem đến đau khổ và chết chóc cho những người vô tội; và nơi đó lòng Chúa xót thương lại cần thiết để đem lại sự ổn định cho tâm hồn và con tim nhân loại, và đem lại an bình. Nơi nào thiếu tôn trọng sự sống và phẩm giá con người, nơi đó lại càng cần lòng thương xót Chúa; vì trong ánh sáng của tình thương xót của Chúa, chúng ta nhận ra giá trị tuyệt vời của mỗi con người.

Tình thương xót của Chúa rất cần thiết để những bất công trên thế giới được chấm dứt và ánh sáng chân lý được ngời sáng...”

“Con xin cảm tạ Chúa, gần một năm trước đây đã ban ơn cho con để con tuyên bố cho toàn thể Giáo Hội Chúa Nhật thứ 2 Phục Sinh là ngày lễ Tình Thương Xót của Chúa.” ( Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, “Chúa Nhật  Tình Thương Xót Chúa” năm 2001 ).

“Trong ngày lễ tình thương xót, lòng thẳm sâu của Tình Ta nhân từ xót thương mở ra.  Ta tuôn đổ cả một đại dương ơn phúc cho những tâm hồn nào đến múc nguồn thương xót của Ta. Những ai ngày đó đi xưng tội, đi lễ và rước lễ; sẽ nhận được sự tha thứ hoàn toàn mọi tội lỗi và mọi hình phạt.” ( Trích nhật ký của Thánh Nữ Faustina ).

Năm nay, Chúa Nhật 2 Phục Sinh, Chúa Nhật Thương Xót vào ngày 23.4.2006. Chúng ta hãy cùng hợp nhau cầu nguyện: Xin Chúa thương đến nhân loại khổ đau trong thế giới chúng ta hôm nay còn nhiều hận thù và chia rẽ; xin cho nhân quyền, phẩm giá, sự sống, và tự do, nhất là tự do tôn giáo được tôn trọng ở khắp nơi; xin cho Hòa Bình và Hạnh Phúc thật sự trở lại Miền Trung Đông và mọi nơi trên thế giới.

Lm. TRẦN PHƯƠNG, 4.2006

---------------------------------------------------

 

PS2-66. MẤT CẢ CHỈ LẪN CHÀI

 

Thi thể hai ông bà Raymond và Monique Martinot, hai người Pháp tiên phong trong kỹ thuật: PS2-66 LÒNGTHƯƠNGXÓT


Thi thể hai ông bà Raymond và Monique Martinot, hai người Pháp tiên phong trong kỹ thuật “an táng đông lạnh”, sau 22 năm được trữ lạnh, cuối cùng đã bị... hoả táng, do hệ thống làm lạnh bị trục trặc. Người con trai Rémy Martinot phát hiện máy làm lạnh trục trặc kỹ thuật, làm cho nhiệt độ tăng lên trên mức ổn định là –65oC. Như vậy, hy vọng của cha mẹ anh về một tương lai tái sinh nhờ tiến bộ vượt bậc của khoa học, nay đã tan biến.

Ông Raymond đã mất nhiều thập niên để chuẩn bị nơi an nghỉ của hai vợ chồng, với hy vọng được giúp cho... sống lại vào năm 2050 ! Năm 1984, vợ ông qua đời trước và là người đầu tiên được đưa vào thiết bị làm lạnh ở lâu đài Loire-Vallée của họ. Năm 2002, đến lượt ông qua đời do đột qụy ở tuổi 84 và con trai ông đã thực hiện nguyện vọng của ông là yên nghỉ bên vợ. Hy vọng của cả cha mẹ và người con về một cuộc “hồi sinh” và trường sinh nhờ vào khoa học kỹ thuật, chỉ tồn tại được vỏn vẹn bốn năm ! Điều đáng nói là chắc chắn tin “dữ” này khiến cho biết bao người tiền nhiều bạc lắm, thở dài thất vọng” khi thấy những người tiên phong “mất cả chì lẫn chài” !

Hôm nay, Tin Mừng Chúa Nhật cuối tuần Bát Nhật Phục Sinh cho ta sống lại tâm trạng phức tạp của các Tông Đồ: sợ hãi, vui mừng, hồ nghi ! Chủ đề “Lòng Chúa xót thương” tưởng chừng như chẳng có mấy liên quan tới ý nghĩa Phụng Vụ của Chúa Nhật này, ấy vậy mà Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật thứ hai Mùa Phục Sinh lại được chọn làm Chúa Nhật của LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG.

Đọc vài đoạn trích dẫn trong Sử Ký Tư Mã Thiên: ”Bọn phương sĩ Từ Phúc ra ngoài biển tìm thuốc thần mấy năm không được, tốn kém rất nhiều. Chúng sợ bị trừng trị bèn lừa dối nói rằng thuốc của Bồng Lai có thể lấy được, nhưng bị con cá giao lớn làm khổ cho nên không đến được, xin nhà vua cấp cho người thiện xạ cùng đi, lấy cái nỏ bắn nhiều phát một lúc để bắn”... ”Thuỷ Hoàng ghét người ta nói đến việc chết, cho nên quần thần không ai dám nói với nhà vua về việc chết...”, nhưng rồi ông đã chết dọc đường. ”Xe đi từ Tỉnh Hình đến Cửu Nguyên, gặp lúc trời nắng, chiếc xe mới phát ra mùi thối, bèn sai các quan đi theo chở trên xe một thạch cá muối để đánh lẫn mùi thối”...

Chúng ta thấy rằng: giấc mơ trường thọ tuy vậy, không chỉ có nơi Tần Thuỷ Hoàng và được thi vị hoá qua Đường Minh Hoàng gần một ngàn năm sau, vào thế kỷ thứ 8 sau Công Nguyên, mà thực ra hiện diện trong sâu thẳm của vô số người, nếu không muốn nói là nơi tất cả mọi người sinh ra trên thế gian, phải chứng kiến cái chết của người lạ, của người thân, phải đối diện với cái chết của chính mình.

Sinh – bệnh – lão – tử không chỉ là một nhận định, mà trở thành nỗi ám ảnh, nỗi sợ hãi và muốn trốn tránh, khi không thể chống lại định mệnh nghiệt ngã của thân phận con người. Con người mơ ước trường sinh. Con người không biết rằng mình vốn trường sinh và sẽ được trường sinh, và vì vậy, đã không biết chuẩn bị cho mình “tư thế” để quay về với sự trường sinh: trường sinh vốn luôn được hiểu đi kèm hạnh phúc, lạc thú, an bình; còn nếu như trường sinh để chịu đắng cay, khổ ải, đau đớn, giam cầm, thì trăm ngàn lần không ai mong muốn !

LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG thể hiện nơi việc Chúa nhập thể, làm người và chịu khổ nạn để cứu chuộc loài người, dạy cho con người ý nghĩa thanh luyện và giá trị hiệp công của đau khổ với Thánh Giá Chúa và đã Phục Sinh hầu “chuộc lại” sự sống đời đời, mà tổ tông loài người đã đánh mất, khi nghe theo ma qủy để rồi phạm tội bất trung với Chúa.

LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG ban cho các môn đệ lòng tin mạnh mẽ, sự vui mừng hoan hỉ khi được thấy Chúa Phục Sinh tỏ tường. Đó còn là bình an, sự bình an đích thực mà chỉ có Chúa mới ban cho được, là dấu chỉ của Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến vững vàng.

LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG phá tan mọi nghi ngờ nơi kẻ tin, củng cố lòng tin đôi khi bị chuyển lay giữa những cám dỗ thử thách, miễn là con người vẫn còn muốn được Chúa đến giúp xóa đi những bóng tối nghi nan. Vì vậy, lời của Tông Đồ Tô-ma: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ chẳng có tin", không phải là lời thách thức, mà nói lên ước nguyện và hy vọng của ông. Chúa Giê-su đã lại xuất hiện một lần nữa, cho Tô-ma được thoả mãn ước mong và cho chúng ta được thêm bằng chứng để Cậy Tin.

LÒNG CHUÁ XÓT THƯƠNG, như vậy, chính là sự Phục Sinh của Chúa và việc Người ban cho chúng ta và củng cố nơi chúng ta niềm tin Phục Sinh: tin vào Chúa Phục Sinh và tin rằng chúng ta cũng sẽ được sống lại với Chúa. Niềm Tin Phục Sinh không phải chờ đến ngày tận thế mới được thể hiện, mà đòi buộc chúng ta phải sống và làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô Phục Sinh ở nơi này và ngay bây giờ ( hic et nunc ).

Nếu anh em chúng ta chưa tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh, thì chỉ vì chính Ki-tô hữu chúng ta đã chưa xác tín. Nếu anh em vẫn không tin, thì chính là vì cuộc sống của Ki-tô hữu chúng ta không đáng tin, chẳng những đã không nên chứng nhân cho Chúa Phục Sinh, không phản ảnh ánh sáng Phục Sinh, mà còn phản tuyên truyền, làm cho ngay cả những người thiện chí nhất cũng phải thất vọng.

“Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” ( Ga 20, 27 ): Chúa muốn chúng ta ra luôn bứt khỏi thế thụ động, để chạy đến bên Trái Tim Chúa, thật lòng thấm nhuần yêu mến và cậy tin, để rồi chỉ cần nhìn vào cuộc sống thể hiện niềm tin Phục Sinh của chúng ta, anh em sẽ được như Lời Chúa Giê-su đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” Điều đáng sợ nhất, ấy là xin chớ đểcho chúng ta bao năm theo Chúa, cuối cùng lại thành công cốc, mất cả chì lẫn chài !

CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 149

---------------------------------------------------

 

PS2-67. Chúa Giêsu lập bí tích Giải Tội


CHỦ NHẬT II PHỤC SINH

Tin Mừng: Ga 20, 19-31

Anh chị em thân mến,


 

Hôm nay Chủ Nhật II Phục Sinh, Tin Mừng hôm nay rất phong phú, có những sự kiện liên: PS2-67


Hôm nay Chủ Nhật II Phục Sinh, Tin Mừng hôm nay rất phong phú, có những sự kiện liên quan đến đức tin của chúng ta, đó là việc Chúa Giêsu lập bí tích Giải Tội trao quyền tha tội cho các Tông Đồ, và câu chuyện “cứng lòng tin” của thánh Tôma tông đồ. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng, trong chủ nhật này sẽ có rất nhiều bài chia sẻ rất hay và ý nghĩa của các linh mục về vấn đề của thánh Tôma và về bí tích Giải Tội cho giáo dân, do đó, tôi chỉ xin chia sẻ ngắn gọn về một vấn đề mà trong cuộc sống ai cũng tìm kiếm và mong gặp, đó là: sự Bình An của Thiên Chúa.

1. Bình an – Quà tặng của Chúa Giêsu Phục Sinh.

Những người đi xa về thường có quà tặng cho gia đình, cho người thân, bè bạn, quà tặng ấy chính là sự chia sẻ chân tình của người xa quê hương nay về lại trong tình thương của gia đình, của mọi người.

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, niềm vui này, dù không quà tặng, cũng vẫn là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức thánh thiện, niềm vui này được nhân lên gấp bội khi Chúa Giêsu hiện ra với các Tông Đồ và trao ban món quà chí tình của Ngài: Bình an cho các con. Vâng, sự bình an chính là quà tặng đẹp nhất, hạnh phúc nhất của Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài đã đi vào cõi chết và đã trở lại với vinh quang của Thiên Chúa, và món quà Bình An này xứng hợp với quà tặng của một vị Thiên Chúa.

“Bình an cho các con” – Khi mà tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất hợp thời và đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.

“Bình an cho các con” – sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng, sự bình an của người đời là giả tạo, là tạm bợ và sẽ không tồn tại, bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy những bất an. Người ta thường chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống, người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm; người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ; người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm.v.v... tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an. Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc, bởi vì không ai đem những thứ vô giá trị làm quà tặng, nhưng phải quý và có giá trị, quà tặng của Chúa Giêsu Phục Sinh -sự Bình An- là món quà vô giá mà Chúa ban tặng cho các tông đồ và cho chúng ta, những người tin.

“Bình an cho các con” – Thế giới như đang sống trên một lò lửa – lò lửa chiến tranh, nước này đánh nước nọ, quốc gia này hù doạ quốc gia kia, tổ chức này bắt cóc lật đổ ám sát tổ chức nọ: thế gian chưa có bình an, cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu ban tặng cho các Tông Đồ sau một tuần sống lại ấy, ngày hôm nay vẫn luôn còn giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an đích thực trong cuộc sống.

2. Hoa quả của Bình An.

Có nhân thì có quả, có làm việc thì mới có mà ăn, có cày cấy mới có cóm gạo; có tranh chấp thì có cải cọ và sinh ra hận thù, có ghét ghen thì sinh ra mưu mô hại người... đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết, việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.

Hoa quả của Bình An, nhưng phải là bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, đó chính là: yêu thương, là tha thứ, là bao dung, là quảng đại, là khiêm tốn, là nhẫn nại và nhịn nhục.v.v...

Khi trong tâm hồn chúng ta có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, thì chúng ta rất biết thông cảm với người làm chúng ta bực mình; khi tâm hồn của chúng ta có sự bình an của Chúa Giêsu, thì chúng ta rất dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến chúng ta, chúng ta sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói, trong cử chỉ thái độ của mình... Hoa quả của bình an là như thế, nó chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Hội Thánh và phục vụ cho đến “hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình...” .

Anh chị em thân mến,

Bình an này, chính Chúa Giêsu đã hứa với các Tông Đồ trong bữa tiệc li –chiều thứ năm- trước khi đi chịu chết, Ngài hứa: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” . Không như thế gian ban tặng có nghĩa là Ngài đem chính tinh thần của Ngài đặt vào trong tâm hồn, trong quả tim của các Tông Đồ, để khi các ngài sống và làm việc, thì chính sự bình an này sẽ làm cho mọi người nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh trong con người của các Tông Đồ.

Con người ta ai cũng thích có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an, đó là một việc làm tốt đẹp, nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn chúng ta không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tức là tinh thần tích cực đổi mới con người cũ của chúng ta.

Xin Mẹ Maria, Đấng đã vui mừng hoan hỉ vì con mình –Đức Kitô- đã phục sinh, luôn ban cho chúng ta được ơn bình an của Chúa trong cuộc sống đời thường.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.


---------------------------------------------------

 

PS2-68. ĐÓNG BÈ ĐỂ GIỮ VỮNG ĐỨC TIN


Cv 4:32-35; 1Ga 5:1-6; Ga 20:19-31

 

Có ai dám cả gan bơi ngược lại dòng nước chảy mạnh xuống dốc, cuốn theo những vật trên: PS2-68


Có ai dám cả gan bơi ngược lại dòng nước chảy mạnh xuống dốc, cuốn theo những vật trên mặt nước, hay chỉ có những người liều lĩnh mới làm như vậy? Những trào lưu tư tưởng phóng khoáng, những lối sống buông thả, sa đoạ trong xã hội hiện đại với nhiều phương tiện truyền thông cận đại và nhanh chóng, giống như những dòng nước chảy mạnh. Bên cạnh dòng nước chảy mạnh, còn có những dòng nước nhỏ, chảy chậm hai bên bờ. Ðể khỏi bị lôi cuốn vào dòng nước chảy mạnh, người ta phải dùng một trong hai giải pháp. Một là dùng thuyền nhỏ, đi mon men sát bờ, bám vào những gốc rể cây. Hai là đóng bè lớn cho vững chắc, rồi chung sức lèo lái: người thì dùng chèo hoặc gậy để chống cho thuyền khỏi trôi xuôi dòng nước, người khác dùng sào dài để đẩy cho thuyền đi ngược dòng nước từng nấc và cứ thế từng nấc một. Sống trong xã hội hiện nay, người ta chỉ cần nhấn con chuột là tin tức và hình ảnh có thể hiện ra trên màn ảnh máy điện toán ngay tại phòng ngủ, người ta ít có cơ hội chọn giải pháp đi mon men hai bên bờ. Vì thế người ta cần đóng bè để giúp nhau giữ vững đức tin.

Người ta cũng đóng bè với nhau vì hai lý do. Một là cùng chung một đối tượng, một mục đích như cùng xuống đường để đòi hỏi một quyền lợi hay phản đối điều gì. Hai là cùng chia sẻ một cảm tình như lo sợ, vui mừng.. chẳng hạn dự đám cưới để chia vui, dự đám tang để chia buồn.. Sau biến cố tự nạn của Thầy mình, các tông đồ tìm đến với nhau để đóng bè. Vì sợ người Do Thái trầm nã như Phúc âm hôm nay kể lại mà các tông đồ tụ họp trong phòng lầu tại Giêrusalem, đóng cửa và gài chốt bên trong. Trong cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thầy mình, các ông tụ họp nhau lại cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau. Bỗng nhiên Ðức Giêsu hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức tin gần như bị tàn lụi của các ông.

Riêng có ông Tôma đã tách rời ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào vết đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20:25). May phúc cho ông là chính Ðức Giêsu lại đích thân hiện ra để phục hồi đức tin của ông. LÚc này ông kêu lên: Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28).

Cộng đồng Kitô giáo hay chặt chẽ hơn là cộng đồng Công giáo được gọi là cộng đồng đức tin, gồm những người cùng chia sẻ một niềm tin và cùng theo đuổi một mục đích. Nếu muốn giữ vững đức tin, người ta cần ở lai trong cộng đồng, thờ phượng và sinh hoạt với cộng đồng đức tin. Khi người ta liên kết và thờ phượng với cộng đồng đức tin, đức tin của họ sẽ được củng cố. Nếu đức tin của người ta vững mạnh, họ có thể giúp làm tăng triển đức tin của người yếu đức tin. Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai, theo sách Công vụ Tông đồ, nhờ có đức tin tập thể của người nọ nâng đỡ người kia, mà họ có thể để mọi sự làm của chung (Cv 2:44). Còn thánh Gioan thì cho rằng nhờ đức tin mà người tín hữu thắng được thế gian (1Ga 5:4).

Ðức tin của người công giáo dựa trên hai chiều: chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc thì Thiên Chúa từ trên, mời gọi ta đến đời sống đức tin và ta đáp trả. Còn đức tin dựa theo chiều ngang có nghĩa là ta cần dựa vào cha mẹ, họ hàng, bạn hữu và những người cùng chung một niềm tin, để giúp nhau duy trì và phát triển đức tin. Ta cần tìm đến những người có đức tin mạnh, những người có tâm hồn đạo hạnh, để hun đúc lại đức tin của mình. Ngoài ra đức tin cần phải được thực hành. Nếu không thì như Thánh Giacôbê quả quyết: Ðức tin không có việc làm, là đức tin chết (Gc 2:26). Vì thế những người chủ trương giữ đạo tại tâm là tự lừa dối mình. Tách biệt ra khỏi cộng đồng đức tin, đức tin của người tín hữu có thể bị lung lạc, khi bị gièm pha và tấn công bởi những người chống đối đạo mà họ tin theo.

Ðể áp dụng thực hành, người ta cần biểu lộ đưc tin bằng việc làm như cầu nguyện, dự lễ, hi sinh, bác ái. Nếu là thiên thần, người ta không cần biểu hiệu. Là loài người có xác, người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi đầu.. để khơi dạy tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu hiệu như tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.

Nhà thờ giáo xứ là biểu hiệu đức tin và là trung tâm điểm của đời sống đức tin. Sau khi sinh ra, ta được mang đến nhà thờ để chịu Phép Rửa tội. Ta Rước lễ lần đầu ở trong nhà thờ. Ta chịu Phép Thêm sức cũng ở trong nhà thờ xứ đạo. Và ta lãnh nhận Bí tích Hôn phối cũng ở trong nhà thờ. Khi nằm xuống vĩnh viễn, thân xác ta còn được mang đến nhà thờ để được cử hành lễ an táng. Ðến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ là cách biểu lộ đức tin một cách cụ thể nhất. Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng việc bàu cử của Mẹ Maria và các thánh, bằng lời cầu nguyện và gương sáng của người tín hữu khác. Không tìm đến sức hỗ trợ thiêng liêng, là tự cô lập hoá đức tin của mình.

Hôm nay cũng là Chúa Nhật sùng kính lòng thương xót Chúa. Thứ Sáu Tuần thánh năm 1937, Chúa Giêsu hiện ra và yêu cầu nữ tu Faustina Kowalska cổ võ lòng thương xót Chúa. Chúa còn bảo làm Tuần Cửu nhật bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần thánh bằng cách đọc chuỗi thương xót: Vì cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới như khi lần hạt mà đọc kinh Kính mừng vậy.

Lời nguyện theo kinh đọc ngày thứ năm của Tuần Cửu nhật kính lòng thương xót Chúa:

Lậy Chúa Giêsu đầy lòng thương xót,
là chính sự lân ái.
Chúa không từ chối những ai tìm kiếm ánh sáng của Chúa.
Xin đón nhận vào trái tim vô cùng từ bi lân mẫn Chúa,
linh hồn những người đã li khai khỏi Giáo hội Chúa.
Xin lấy ánh sáng Chúa dẫn dắt họ về hiệp nhất với Giáo hội,
đừng để họ thoát khỏi Trái Tim từ bi lân ái Chúa,
nhưng xin dẫn họ về để họ cũng được tôn vinh
lòng quảng đại xót thương của Chúa. Amen.


LM. Trần Bình Trọng

---------------------------------------------------

 

PS2-69: Bình an trong tin yêu – ViKiNi


(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

Bài Tin Mừng kể lại hai lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần thứ nhất ngay trong buổi chiều PS2-69


Bài Tin Mừng kể lại hai lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần thứ nhất ngay trong buổi chiều Người sống lại, lần thứ hai: Tám ngày sau. Người hiện ra và nhấn mạnh đến “Hãy tin và Chúa chúc bình an”. Đoạn Tin Mừng có sáu lần nói đến tin và ba lần chúc bình an.

Phải tin vào Đức Giêsu sống lại mới dược bình an thật. Người ta chở hài cốt trung sĩ Mỹ tên Ridgeway về Houston bang Texas cho gia đình an táng. Anh đã chết trong tết Mậu Thân 1968 ở Việt Nam. Đến ngày 03/04/1973, trao trả tù binh Mỹ ở Bắc Việt, người ta thấy anh lù lù về gia đình. Ai cũng ngạc nhiên sửng sốt, tưởng chừng anh đã chết nay sống lại. Người hàng xóm kéo nhau đến xem, kẻ sờ đầu sờ cổ anh, kẻ sờ chân tay, kẻ bá vai, bắt tay.

Đức Giêsu đã chết thật, không như trung sĩ Ridgeway bị lầm tưởng đã chết. Đức Giêsu chết thật trước hàng chục ngàn người chứng kiến trong ngày đại lễ Vượt qua của dân Do Thái. Họ đã hô to kết án Người khi Philatô xét xử. Họ đã bắt Người vác Thánh giá lên núi Sọ và đóng đinh Người. Họ đã cho lính canh mồ khi hai ông Giuse và Nicođêmô táng xác Người trong mộ đá. Nhưng ba ngày sau, Đức Giêsu sống lại và hiện ra với các môn đệ. Lúc đầu, các ông không tin. Người phải làm đủ cách để các ông tin Người đã sống lại: Từ cách sống tự nhiên như đời thường, đến cách sống siêu nhiên của Thiên Chúa.

Về tự nhiên đời thường: Từ nghe tin, nhìn thấy, đụng chạm, sờ mó, đến nói chuyện, ăn uống, làm việc. Đức Giêsu đã nhờ các bà đi báo tin cho các môn đệ. Nghe tin, chẳng ai tin (Mc. 16, 11; Lc. 24,11) đích thân Người hiện đến, họ lại tưởng là ma. Người phải cho các ông rờ xem chân tay và cạnh sườn Người, các ông vẫn chưa tin, rồi Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc. 24, 40-43). Thánh Gioan còn kể thêm, Người hiện ra sinh hoạt, hợp tác với các ông đi đánh cá, cả đêm không được gì. Người bảo các ông: “Thả lưới xuống bên phải thuyền, sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống và không sao kéo lên nỗi vì lưới đầy cá. Người còn nướng cá và bánh cho các ông ăn (Ga. 21, 10-14)

Về cách sống siêu nhiên: Kèm theo những việc tự nhiên đời thường, Đức Giêsu đã đặc biệt ban những ơn siêu nhiên: Chúc bình an cho các ông được an tâm vững chí, giải thoát cho các ông khỏi mọi lo âu, hoảng sợ. Các ông không còn sợ mất Thầy nữa, không sợ quyền bính Do Thái và đế quốc Rôma. Hơn nữa, Thầy ban Thánh Thần tha tội cho các ông. Thầy đã đại lượng không chấp tội các ông đã bất trung, bỏ trốn, đã nghi ngờ và rất kém lòng tin. Đặc biệt Thầy còn mở trí cho các ông hiểu Kinh thánh: Tất cả những gì sách luật Môsê, các sách ngôn sứ và các Thánh kinh đã chép về Thầy đều được ứng nghiệm (Lc. 24, 44-45; Cv. 1, 2-4).

Sự cứng lòng tin của các môn đệ càng chứng tỏ Đức Giêsu đã sống lại thật. Nếu các ông không thấy tỏ tường Người đã sống lại, thì các ông đã chạy trốn biệt tăm hết cả rồi; và có lẽ Tôma đã chạy trốn xa nhất vì ông quá sợ, các ông sợ họ giết Thầy, họ sẽ không tha các ông: “Họ nhổ cỏ, nhổ tận gốc”.

Nhưng tại sao các ông cứng lòng tin đến nỗi Chúa phải làm đủ cách, các ông mới tin? Thưa: Thứ nhất, vì cả loài người có ai chết mà tự mình sống lại đâu! Các ông đã biết: Dầu là tổ phụ như Abraham, Giacóp, Giuse. Vĩ đại như Môsê, David, Salômôn và các ngôn sứ làm nhiều phép lại như Êlia, Êzêkiel vẫn phải chết.

Thứ đến, gần ba năm các ông theo Thầy hầu như chỉ mong được địa vị danh vọng quyền bính, chỉ mong Thầy lên Giêrusalem để cai trị Israel, nhưng Thầy lại chịu chết. Ngay cả khi Thầy sắp sống lại, sắp về trời các ông còn hỏi: “Phải chăng đã đến lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel?” (Cv. 1,6). Cho nên, dầu Thầy đã ba lần báo trước: “Con người phải chịu nhiều đau khổ,… bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt. 20,17-18; Mc.10, 33-34), các ông vẫn mơ ước có ngày được vinh quang trần thế. Những tham vọng phàm tục đó đã che mắt đức tin của các ông.

Sau hết, xét theo tâm lý: Có kẻ chỉ nghe báo cáo đã tin, có kẻ phải mắt thấy tai nghe mới tin như các thánh nữ. Có người đòi chứng nghiệm, thử nghiệm mới tin, như các nhà khoa học phải thí nghệm đúng mới công nhận. Phải chăng, các môn đệ thuộc hạng các nhà khoa học này. Thực vậy, các ông thấy Thầy hiện đến, các ông vẫn hoài nghi. Thầy phải bảo các ông sờ tay vào lỗ đinh, vào cạnh sườn, Thầy phải ăn uống, làm việc, dạy dỗ để chứng nghiệm rõ ràng cho các ông. Nhưng đó chỉ là những chứng cứ theo vật chất cụ thể để các ông xác tín, chưa phải là đức tin. Đức Giêsu phải ban bình an, ban Thánh thần, soi sáng bằng lời Kinh thánh, lời của Thiên Chúa. Lúc đó các ông mới được đức tin thực sự. Trường hợp của thánh Gioan chỉ thấy dấu chỉ: Mồ trống, khăn che đầu và băng vải liệm xác, “Ông thấy và đã tin” (Ga. 20,8) là trường hợp rất đặc biệt của người có lòng yêu mến Thầy chỉ thiết.

Người đã chúc: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” Phải chăng đó là những người yêu mến Chúa nồng nàn như thánh Gioan. Họ được dồi dào bình an trong tin yêu. Còn những người khác phải nghe, phải thấy, phải học hỏi, suy niệm lời Chúa để ơn Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng thì mới được đức tin.

Lạy Chúa, thân phận chúng con phức tạp, hỗn tạp như tiệm tạp hóa. Vật chất thì cụ thể, gần gũi, hào nhoáng hấp dẫn con mắt, lỗ tai, lòng trí chúng con. Còn mầu nhiệm lời Chúa thì sâu xa, siêu việt, huyền nhiệm,ẩn khuất. Xin cho ánh sáng Phục sinh của Chúa ban đức tin trung kiên cho chúng con để hết lòng yêu mến phụng sự Chúa.

---------------------------------------------------

 

PS2-70. SỐNG VỚI THƯƠNG TÍCH ĐẤNG PHỤC SINH


 (Ga 20,19-31)

Thưa quý vị.


 

Cả bốn Phúc âm đều ghi lại biến cố Chúa hiện ra hôm nay. Riêng thánh Gioan thêm câu: PS2-70


Cả bốn Phúc âm đều ghi lại biến cố Chúa hiện ra hôm nay. Riêng thánh Gioan thêm câu truyện ông Thomas để kết thúc phúc âm của ông. Chương 21 được viết sau, minh chứng quyền đứng đầu cộng đoàn Tông đồ của thánh Phêrô. Trình thuật sáng Chúa nhật Phục sinh vừa qua thánh Gioan hội tụ chú ý vào ba nhân vật: Maria Macdala, Phêrô và người môn đệ khác được Chúa yêu dấu (20,8). Người môn đệ ấy là kẻ đầu tiên tin Chúa phục sinh. Nhưng câu truyện hình như còn bỏ dở: Phêrô cũng xem thấy các giây băng và tấm khăn liệm. Nhưng ông chẳng biểu lộ lòng tin của mình, ông chưa có phản ứng. Bà Maria Macdala nhận ra Chúa nhưng kêu Ngài là thầy Raboni. Rõ ràng câu truyện cần hồi kết thúc. Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay là hồi kết thúc đó. Có hai lần Chúa hiện ra với các môn đệ ở căn phòng trên lầu vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, trong khi các cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Hai lần cách nhau tám ngày. Lần thứ nhất không có mặt Thomas. Hôm nay, lần thứ hai, ông Thomas cũng có mặt. Cả hai lần Chúa đều cho các môn đệ xem thấy những vết thương của Ngài như dấu chỉ Ngài đã sống lại. Điều này buộc chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều về biến cố phục sinh và những hàm ý của nó trong đời sống thiêng liêng của một người tín hữu chính danh. Không có vết thương thì cũng chẳng có phục sinh. Không có khổ chế thì cũng chẳng có sống lại hiển vinh. Người môn đệ viết Phúc âm đã thấy như vậy và ông đã làm chứng. Tin mừng của ông nguyên thủy kết thúc ở câu nói ấy.

Một điểm khác cũng cần lưu ý là trong các lần hiện ra của Chúa Giêsu, Ngài nhấn mạnh đến lòng tha thứ của Ngài. Bằng cách này hay cách khác nhân loại và mỗi cá nhân đều đã xúc phạm Chúa, khước từ, phản bội, lăng nhục, hành hình… cho nên Ngài đã làm hoà trước bằng lòng nhân từ thứ tha. Ngài trở lại thăm viếng và củng cố đức tin cho các Tông đồ, củng cố đức tin cho mỗi tín hữu. Còn những ai nghi ngờ như Thomas thì lần thăm viếng hôm nay là dứt điểm: “Phúc cho những ai không trông thấy mà tin”. Người ta thường đặt tên cho lời tuyên bố này của Đức Giêsu là Phúc thật thứ chín: Đức tin quả là một hạnh phúc! Tôi thắc mắc tại sao lần hiện ra trước không có mặt Thomas. Ông đang ở đâu? Phải chăng vì ông quá sợ hãi và thất vọng? Tính về quê hương để trở lại nghề cũ? Suy nghĩ kỹ hơn, tôi phải biết ơn Thomas rất nhiều. Nhờ sự nghi ngờ của ông mà lúc này tôi giết được hết nghi nan của lòng tôi. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã gởi ông Thomas cứng tin đến cho thế giới hiện đại. Chẳng phải hôm nay họ mới dám bộc lộ nghi ngờ về Chúa phục sinh. Chuyện đó xưa nắm rồi, từ thời các tín hữu tiên khởi lận. Đúng hơn, từ thời các thánh Tông Đồ, mà Thomas là tiêu biểu. Đời sống Giáo hội, công việc làm ăn uy tín, chính trị thế giới đầy ắp thắc mắc. Tôi có nên tin vào các định chế đó không? Tin như thế ngây thơ lắm không? Có điều chi bảo đảm hay lại bị lừa dối? Con cám ơn Chúa, sự vắng mặt của Thomas trong phòng tiệc ly lần Chúa hiện ra thứ nhất thật là hữu ích và ông không tin vào lời các môn đệ khác là có cơ sở. Ông không bằng lòng với bất cứ chứng cớ nào ngoài tận mắt trông thấy Chúa, đụng chạm tới Ngài và chuyện vãn với Thầy nếu thực sự Thầy đã từ cõi chết chỗi dậy. Những bằng chứng như thế người thời nay đang đòi hỏi và con cũng muốn có. Giáo hội đủ can đảm cung cấp những dấu chỉ khả tín như Chúa đã cho Thomas được biết không? Tất cả đều là sự thật không? Muôn đời câu hỏi này tồn tại, và muôn đời Giáo hội phải trả lời cho nghi nan đó! Chắc chắn nhóm môn đệ đang hội họp không mong chờ Chúa viếng thăm. Họ sợ hãi đóng kín cửa và Thomas nghi ngờ các lời họ kể. Điều này hữu lý và chân thật. Đúng như thực tế đời thường. Tôi mong ước hiện diện với họ, hoặc nữa, như Thomas, tôi đã vắng mặt lần trước để được chứng kiến sự thật bằng xương bằng thịt lần sau.

Về phần Chúa Giêsu, khi muốn nêu chứng cứ cho Thomas, Ngài đã chỉ ra các thương tích ! Giống như trong Phúc âm theo thánh Matthêo, khi muốn nói đến sự hiện của Ngài, Ngài chưng ra những kẻ đui mù, đói khát, tù đày, đau yếu,… (25,31). Nghĩa là Ngài ở giữa những kẻ bất hạnh của xã hội. Họ cũng đang mang thương tích của lòng con người hẹp hòi, ích kỷ. Ngài vào phòng tiệc ly một cách âm thầm, lặng lẽ, và chỉ các thương tích như bằng chứng cho Thomas cứng tin. Nếu như Hollywood dàn dựng thì người ta sẽ dùng vi tính hoạ nên những cảnh ngoạn mục, ánh sáng chan hoà, phim trường hoành tráng và Đức Ki-tô, nhân vật chính, phải thật huy hoàng rực rỡ… nhưng sự thật xẩy ra hơn hai ngàn năm trước khác hẳn, bình dị như các sinh hoạt thường ngày!

Trong cuộc sống chúng ta cũng có những thương tích, thế giới cũng có những vết thương, nói chung mọi người đều phải chịu đựng những dấu hằn của quá khứ và hiện tại. Hằng ngày các phóng viên tại chỗ gởi đi những đau thương của chiến tranh Iraq, đặc biệt các cảnh tàn phá phụ, ngoài ý muốn. Những người vô tội, các trẻ em bị giết hại do lửa đạn cả hai bên. Trong những tuần lễ phục sinh này, tôi luôn bị ám ảnh bởi một em bé Iraq (Ali Ismail Abbas 12 t) cụt cả hai chân tay. Toàn thể gia đình em, cha mẹ, ông bà, anh chị đều bị bom Mỹ giết hại. Các bệnh viện chật cứng, không còn chỗ cho những người mới tới. Thuốc men đã thiếu thốn lại bị những kẻ vô chính phủ cướp bóc. Thật là địa ngục trần gian giữa thanh thiên, bạch nhật. Cầu xin Chúa mau chấm dứt những đau thương mủi lòng này. Mỗi lần nhìn thấy em bé bị thương, phụ nữ bị ngược đãi, nội dung bài Tin mừng hôm nay làm tôi bồn chồn, nhức nhối. Chúa Giêsu đang giơ tay chỉ vào những đau khổ đó như vào các thương tích của mình. Thực sự, những nỗi thống khổ ấy cũng là của Ngài, Ngài như nói với tôi “Hãy sỏ tay con vào đây, chớ cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Nhưng làm thế nào để ngăn chặn những cái ác? Làm thế nào giúp đỡ Giáo hội đủ lòng thương và tiền bạc để chữa lành các vết thương? Tôi có dám công khai đả phá những bất công? Hay lại hèn nhát im hơi lặng tiếng để tránh liên luỵ? Sức nhỏ bé chẳng làm được gì thì ít ra đừng đứng vào phe với gian ác, bóc lột người khác.

Hội thánh tiên khởi đã làm chi khi tin vào Chúa Phục Sinh? Rõ ràng họ đã thay đổi nếp sống Do thái cũ, sống với não trạng hoàn toàn mới, thương yêu và một lòng một trí, thu hút được quần chúng noi gương. Bài đọc sách Công vụ Tông đồ hôm nay nói rõ điểm này: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, để mọi sự làm của chung, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ cầu nguyện, làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ, vui vẻ…” (Cv 2,44). Dĩ nhiên hình ảnh có thể đã được lý tưởng hoá, thực tế chẳng đồng nhất như vậy, tuy vậy, phải có điều chi đặc biệt trong nếp sống của các tín hữu. Bằng chứng là nhiều thị dân Giêrusalem trở lại. Họ là những tâm hồn bình dị, nhưng sống cuộc đời khá đặc biệt. Chúa sống lại đã thay đổi họ. Trước câu ngắn gọn: “Mọi người đều kính sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.” Chúng ta tự hỏi điềm thiêng dấu lạ nào? Đoạn văn tiếp theo trả lời cho vấn nạn: “Một trí, một lòng, để mọi sự làm của chung, và chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.” Đó là những dấu chỉ cho thiên hạ biết họ thuộc về Đấng Phục Sinh, hy vọng của họ không phải là tương lai vật chất nữa mà là cuộc sống mai hậu, tốt đẹp hơn đã gần kề. Đó cũng là những chỉ dẫn tại sao họ lôi cuốn được đám đông nhập vào cộng đoàn. Trước những chia rẽ, phân tán, gương mù hiện nay trong Giáo hội chúng ta cảm thấy xấu hổ khi đọc sách Tông đồ Công vụ về các tín hữu tiên khởi của Hội thánh. Tuy rằng thánh Luca không nói rõ tất cả các tín hữu có suy nghĩ như nhau, hay thi hành lòng tin kính cùng một kiểu cách, nhưng càng đọc xa hơn, chúng ta càng có ấn tượng như vậy: Một trí, một lòng. Có điều chi hấp dẫn gom họ lại với nhau, có điều chi làm nền tảng cho Giáo hội tiên khởi? Các Phúc âm gợi ý điều đó là Đức Ki-tô Phục Sinh. Ngài luôn hiện diện giữa họ, nói lời bình an và tha thứ cho cộng đoàn, ban sức mạnh và quyền bính cho họ, để họ công bố những thực tại đó cho đồng bào và thế giới bên ngoài.

Một dấu chỉ khác về quyền năng các Tông đồ là lòng nhân ái đối với những gia đình thiếu thốn trong cộng đoàn: “Họ bán đất đai, của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.” Trong thời kỳ khó khăn về kinh tế, tiền bạc như hiện nay thì cộng đồng tín hữu tiên khởi phải là tấm gương sáng cho các họ đạo noi theo. Mới đây tôi dự những cuộc họp với các thành phần hội đồng giáo xứ. Họ than phiền về giáo xứ của mình thu hẹp đóng góp cho các chương trình cứu tế xã hội. Nguồn thu nhập của giáo xứ không còn dồi dào như xưa. Đã có hiện tượng nợ nần. Nhu cầu cắt giảm là cần thiết. Nhưng người chịu thiệt thòi vẫn là kẻ nghèo khó, thất nghiệp, người nhập cư. Đối với chính phủ thì vấn đề còn là tranh cãi chính trị. Nhưng với tín hữu, tự xưng là hậu duệ của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi thì không thể chấp nhận. Nên tìm một giải pháp khác hợp lý hơn mà là không làm thiệt hại người nghèo. Thí dụ, hàng giáo sĩ sống đạm bạc, tiết kiệm hơn, bớt xây dựng không cần thiết v.v… Nên nhớ Chúa Phục Sinh đang sống giữa giáo xứ, giữa chúng ta, bàn tay chỉ vào các thương tích (người xấu số) như sự hiện diện đích thực của Ngài.

Các Giáo hội tiên khởi có nhiều chứng nhân tử đạo. Thay vì ở mãi trong phòng kín, đóng cửa lại, cầu nguyện và thờ phượng Chúa Phục Sinh, họ bung ra, rời chốn an toàn, đi khắp nơi, khắp hướng, rao giảng Tin mừng cho những kẻ chưa tin. Họ tử đạo vì đức tin của mình trong những nơi chốn ấy nhưng không ngừng rao giảng thực tại mà họ đã chứng kiến ở gian phòng tiệc ly trên lầu, tại Giêrusalem. Tuy nhiên sách Tông đồ Công vụ còn kể cho chúng ta những đường lối khác dấn thân phục vụ Đức Ki-tô Phục Sinh. Đó là sống những cộng đoàn tín hữu chân chính, không giả hiệu, không đánh lừa, nhưng thật dạ, một lòng một trí tin kính Đức Ki-tô và chăm lo các nhu cầu của những kẻ nghèo khó, trong giáo xứ tại đất nước và trên thế giới. Amen. Alleluia.
Lm. Jude Siciliano, OP.


---------------------------------------------------

 

PS2-71. Chúa Cha Giàu Lòng Thương Xót -. + GM JB Bùi Tuần

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Kitô đã nói về Chúa Cha và với Chúa Cha, Ngài gọi Chúa: PS2-71


Ga 17, 14-16

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Kitô đã nói về Chúa Cha và với Chúa Cha, Ngài gọi Chúa Cha là người cha gìn giữ con cái: “Lạy Cha, xin gìn giữ chúng khỏi mọi sự dữ”. Người gọi Đức Chúa Cha là người cha thánh hóa con cái: “Lạy Cha, xin thánh hóa chúng trong chân lý”.

Đọc Phúc Âm chúng ta thấy: Đức Giêsu nói về Đức Chúa Cha rất nhiều lần, và lần nào cũng nói bằng những lời thật âu yếm. Có lần Đức Kitô gọi Đức Chúa Cha, chỉ vì muốn gọi tên người mình thương mến. “Abba, Cha ơi”. Có lần Đức Kitô nói về Đức Chúa Cha, để tuyên xưng chính Đức Chúa Cha đã sai Người: “Như Cha đã sai Con vào thế gian thế nào, thì Con cũng sai chúng vào thế gian như vậy”. Có lần Đức Kitô nói với Đức Chúa Cha, để đề cao thánh ý Chúa Cha lên hàng đầu: “Lạy Cha, Con xin đến để làm theo ý Cha... Lạy Cha xin đừng làm theo ý Con, mà hãy làm theo ý của Cha”. Rồi có lần Chúa Kitô nói đến sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con: “Lạy Cha, cũng như Cha và Con là một, thì xin cho các môn đệ của Con cũng hợp nhất với chúng ta”. Rồi có lần Đức Kitô nói với Đức Chúa Cha để cảm tạ ơn Cha: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã giấu những điều này với những người khôn ngoan, hiền triết, mà chỉ tỏ ra cho những người hèn mọn”.

Ngoài những lời nói về Chúa Cha một cách thân thương, Chúa Kitô còn đưa ra những hình ảnh về Đức Chúa Cha. Thí dụ: Hình ảnh người cha nhân từ, đi đón người con phung phá trở về. Hoặc là người chăn chiên tận tình, đi tìm con chiên lạc, và khi tìm được nó thì vác nó trên vai. Hoặc là hình ảnh người cha trên trời quảng đại, làm mưa xuống, làm mặt trời mọc lên, để phục vụ kẻ tốt cũng như kẻ xấu.

Khi hiểu biết giáo lý về Đức Chúa Cha như vậy, Thánh Phaolô Tông Đồ đã gọi Đức Chúa Cha là người cha giàu lòng nhân ái, giàu lòng thương xót. Và thánh Gioan Tông Đồ đã cắt nghĩa tình yêu thương xót của Chúa Cha thế này: Thương xót ở chỗ Người đã thương chúng ta khi chúng ta chưa nhận biết Người. Thương xót ở chỗ Người đã thương chúng ta khi chúng ta còn chìm trong tội lỗi. Thương xót ở chỗ Người đã sai Con Một mình xuống thế gian, để gánh tội, đền tội, xóa tội cho ta.

Khi tôi hiểu biết như vậy, và nhất là, khi tôi cảm nghiệm được phần nào lòng thương xót của Chúa Cha, tôi bao giờ cũng cậy trông phó thác nơi tình yêu Thiên Chúa là “Cha giàu lòng thương xót”. Cậy trông, phó thác không phải vì mình có công phúc gì, mà chỉ vì Chúa là Cha nhân lành, mà mình là người con, cha thì thương con, con thì cậy vào Cha, và nhất là vì Chúa là Cha nhân từ, quyền năng, rất thương yêu những kẻ bé mọn, yếu đuối. Nên càng ý thức mình yếu đuối, hèn mọn bao nhiêu thì càng phó mình vào tay Thiên Chúa bấy nhiêu. Và tôi phải nói thật với anh chị em điều này, là khi tôi cậy trông, phó thác nơi Chúa như vậy, thì Chúa sẽ làm tất cả và ở trong tất cả đời tôi. Có những vấn đề tôi tưởng rằng không giải quyết được, nhưng rồi Chúa đã giải quyết cho tôi. Có những khó khăn tôi tưởng không bao giờ vượt qua được, nhưng rồi Chúa đã làm cho những khó khăn ấy tan đi một cách dễ dàng. Có những ước vọng tôi tưởng không bao giờ đạt được, nhưng rồi những ước vọng ấy đã đạt được quá sự tôi mong ước.

Đúng là như lời Thiên Thần đã nói với Đức Mẹ: Đối với Chúa, không có gì là không thể được. Và đúng như lời thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: Người ta chẳng bao giờ quá cậy trông vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng và rất nhân từ.

Anh chị em thân mến.

Càng lớn lên, càng nhiều tuổi, chúng ta càng thấy cuộc đời là chuyến đi dài. Trong đó có những chỗ tốt, có những chỗ xấu, có ánh sáng và có bóng tối, có thành công và có thất bại, có nhân đức và có tội lỗi. Nhưng, đối với một người hy vọng vào Chúa, phó thác nơi Chúa, thì sự cậy trông phó thác ấy sẽ là một hành trang quý giá, giúp cho chuyến đi về tới nơi, tới chốn.

Lúc nãy, khi tôi vừa tới bên nhà xứ, tôi nghe văng vẳng có tiếng hát ca tụng lòng thương xót Chúa và yêu cầu mọi người hãy cậy trông vào lòng thương xót Chúa. Đúng lúc ấy, tôi đang suy nghĩ về sự cậy trông Chúa, và tôi nói với Chúa rằng: Ước chi người ta không phải nghe lời cậy trông Chúa qua tiếng loa, hay qua lời con giảng trong nhà thờ, mà mỗi người hôm nay, tự đáy lòng mình, hãy chân thành nói với Chúa rằng: Hôm nay, ngày mai, suốt cả đời con, con tin vào lòng thương xót Chúa. Con hết lòng cậy trông ở lòng thương xót Chúa, con phó thác toàn thân con, trọn đời con ở lòng thương xót Chúa. Và suốt đời, con sẽ ca tụng lòng thương xót Chúa, không phải bằng tiếng ca, bằng đàn cầm, mà bằng tất cả tấm lòng, bằng tất cả trí khôn, bằng tất cả linh hồn con.

Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin Chúa Thánh Linh, ban cho mỗi người trong chúng ta, nhất là các em chịu phép Thêm Sức được ơn từ nay trở đi, biết tin vào lòng thương xót Chúa, biết phó thác mình vào tay nhân lành của Người Cha nhân từ, luôn luôn yêu mến chúng ta, luôn luôn gìn giữ chúng ta, và luôn luôn sẵn sàng cứu chúng ta khỏi tội, và đưa chúng ta tới chỗ bình an. Amen.
+ GM JB Bùi Tuần


---------------------------------------------------

 

PS2-72. TÔN VINH THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THƯƠNG XÓT! 


 [CHÚA NHẬT II PHỤC SINH NĂM C (15.04.2007)]

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Chính Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II là Vị Giáo Hoàng đã lập Ngày Lễ Kính Lòng Thương: PS2-72 LÒNGTHƯƠNGXÓT


          Chính Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II là Vị Giáo Hoàng đã lập Ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa và cổ võ lòng sùng kính ấy trong Hội Thánh theo mạc khải (gọi là mạc khải tư) mà Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ Maria Faustina (1) để chuyển lại cho Hội Thánh: 

             “Ta muốn ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót là một trợ giúp và nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, Lòng Thương Xót của Ta sẽ rộng mở; Ta sẽ tuôn đổ một đại dương hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch Lòng Thương Xót của Ta.” (Trích nhật ký, số 699).

              Việc Hội Thánh đặt Ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật II Phục Sinh thật thật vô cùng ý nghĩa! vì cái chết thập giá của Chúa Giê-su là biểu hiện cao nhất, mạnh mẽ nhất của Lòng Chúa Thương Xót nhân loại chúng ta.

               Vì thế các bài Thánh Kinh của hôm nay phải được đọc và suy niệm theo ý hướng của việc Sùng Kính Lòng Thương Xót Chúa.

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.

(1) Bài đọc 1: Cv 5, 12-16: Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa Giê-su, cả đàn ông đàn bà rất đông.

                  12 Hồi ấy nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ. 13 Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. 14 Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông. 15 Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. 16 Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.

(2) Bài đọc 2: Kh 1,9-11a.12-13.17-19: Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.

               9 Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giê-su. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su. 10 Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn 11 nói rằng: "Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh.

              12 Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. 13 Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.

               17 Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói:  "Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời;  Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ. 19 Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này.

(3) Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31: Tám ngày sau, Đức Giêsu dến.

              19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."

                24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!"  Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."

           26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." 27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." 28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " 29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "

               30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?

(1) Bài đọc 1 (Cv 5,12-16) là đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ miêu tả nét đặc thù của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi với nhiều dấu lạ điềm thiêng mà Thiên Chúa thực hiện trong/qua cộng đoàn ấy. Với những phép lạ chữa bệnh và trừ quỉ của các Tông đồ nói chung và của Tông đồ trưởng Phê-rô nói riêng cộng đoàn đã tạo nên một sức hút rất đáng kể và khiến mọi người phải nhắc đến với lòng ngưỡng mộ. Cũng vii thế mà càng ngày càng có nhiều người gia nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu mới này.

Trong đoạn sách Cv 5,12-16 trên chúng ta thấy rõ tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Bỏ hay đúng hơn là vượt qua truyền thống tôn giáo ngàn năm, những người Do Thái không dễ gì thực hiện được việc khó khăn này. Tin vào một con người (Đức Giê-su Na-da-rét) đã sống như bao người, đã bị nhà cầm quyền tôn giáo (đền thờ) và chính trị (đại diện đế quốc Rô-ma đô hộ) loại trừ bằng bản án “gây rối phá hoại an ninh quốc gia” (nói theo kiểu nói ngày nay) và bị giết chết trên thập giá mà nay được các môn đệ công khai rao giảng là đã sống lại và là Đấng Thiên Chúa thì lại càng là việc khó khăn hơn bội phần. Hơn ai hết Thiên Chúa của Chúa Giê-su hiểu những khó khăn mà các tín hữu đầu tiên gặp phải. Chính vì thấu hiểu và cảm thông với họ và với các môn đệ của Chúa Giê-su trong công trình khó khăn và trọng đại là chinh phục người ta tin theo Chúa, nên Thiên Chúa mới thực hiện nhiều “dấu lạ điềm thiêng” cho cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi. Những phép lạ nhãn tiền và kỳ diệu trở thành những “dấu chỉ” của sự hiện diện và hành động của một Đấng Thiên Chúa đầy lòng xót thương và từ bi.

(2) Bài đọc 2 (Kh 1,9-11a.12-13.17-19) là lời Thánh Gio-an Tông Đồ kể về một thị kiến tức một mạc khải mà Thiên Chúa đã ban cho ngài để ngài chuyển lại cho các người/cộng đoàn tin theo Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Nội dung thị kiến là về chân tướng của Chúa Giê-su Ki-tô: "Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời;  Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ.”

 Trong đoạn thư Kh 1,9-11a.12-13.17-19 trên, chúng ta cũng thấy tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Nhưng ở đây Thiên Chúa Cha đáp ứng một nhu cầu rất quan trọng và thực tế của người tín hữu: Chúng ta biết vào cuối đời của Thánh Gio-an (cuối thế kỷ thứ nhất theo Công Nguyên) thì Hội Thánh ở nhiều nơi đang phải đương đầu với những cuộc bách hại từ các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và vào giáo lý của Người cần được củng cố nơi nhiều cá nhân và cộng đoàn. Thị kiến của Thánh Gio-an có ý nghĩa trấn an và củng cố các tâm hồn. 

(3) Bài Tin Mừng (Ga 20,19-31) là tường thuật của Thánh Gio-an về hai cuộc hiện  ra của Chúa Giê-su Phục Sinh. Hai sự kiện ấy xẩy ra một vào chính ngày thứ nhất trong tuần (sáng Chúa Nhật Phục Sinh) một vào tám ngày sau.

                   Trong lần hiện ra lần đầu Chúa Ki-tô Phục Sinh xuất hiện một cách bất ngờ và lạ lùng (cửa đóng kín mà ngài vào nhà được). Người ban bình an cho các môn đệ là những người đang còn rất sợ sệt. Người cho các ông xem cạnh sườn và dấu tay dấu chân bị đóng đinh của cho các ông Người để họ nhận ra chính Người là Giê-su Na-da-rét trước đó mấy ngày. Người giao sứ mạng mà Chúa Cha đã giao cho Người là được sai đến với nhân loại. Người thổi hơi thở mới (sức sống và tình yêu) trên họ và mời họ mở lòng đón nhận Thánh Thần của Người.

                   Trong lần hiện ra lần sau Chúa Ki-tô Phục Sinh cũng xuất hiện một cách bất ngờ và lạ lùng (cửa đóng kín mà ngài vào nhà được). Người cũng ban bình an cho các môn đệ là những người đang còn rất sợ sệt. Người cho riêng ông Tô-ma (tông đồ này không có mặt ở lần hiện ra trước và quả quyết với anh em là chỉ có bằng chứng mắt thấy tai nghe tay sờ thì mới tin) đặt tay vào cạnh sườn và và dấu tay dấu chân bị đóng đinh của Người. Người nói với Tô-ma” “đừng cứng lòng nữa mà hãy tin!” Tô-ma  đã  tâm phục khẩu phục: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "

                   Qua Bài Phúc Âm Ga 20,1-9 chúng ta không thấy tấm lòng yêu thương của Chúa Giê-su đối với các môn đệ nói chung và với Tô-ma nói riêng. Chúa Giê-su hiểu thấu tâm trạng, nỗi khó khăn, ngờ vực và sợ sệt của các ông. Người thấy và biết các ông cần gì lúc này và Người đáp ứng hơn mức cần thiết.

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?    

                   Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Tin & Làm Chứng Cho Chúa Ki-tô Phục Sinh và cho Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh  là Đấng Giầu Lòng Thương Xót đối với các môn đệ và loài người.

                   Làm chứng hay thể hiện lòng tin vào Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót bằng tâm tình, thái độ, cử chỉ, lời nói và việc làm. Làm chứng hay thể hiện lòng tin ấy không chỉ bằng lời kinh, tiếng hát mà còn bằng cách truyền bá Lòng Thương Xót ấy trong gia đình và/nhất là ngoài xã hội.

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình dựa vào hai câu hỏi đơn sơ này:

(1) Tôi cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót như thế nào?

(2) Tôi truyền bá Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót bằng những cách nào? ở những nơi nào? cho những ai?

IV. CẦU NGUYỆN  (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)

4.1 Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã thực hiện nhiều điềm thiêng dấu lạ để xây dựng cộng đoàn tín hữu đầu tiên và quy tụ nhiều người tin theo Chúa Ki-tô Phục Sinh là Con Một Chúa. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con và người thời nay những dấu chỉ “hiển nhiên” của sự hiện diện và hành động yêu thương của Chúa trong chúng con và cộng đồng xã hội!

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.2 Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã củng cố lòng tin của các tín hữu và cộng đoàn đầu tiên bằng thị kiến mà Chúa đã ban cho Thánh Gio-an Tông Đồ. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Chúa củng cố lòng tin của chúng con và của những anh chị em đang gặp thử thách và bách hại vì Đạo Chúa!

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.3 Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã làm cho Con Chúa là Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết, Chúa đã để cho Người hiện ra với các tông đồ và nhiều tín hữu thời sơ khai đề củng cố đức tin non yếu của họ. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Chúa ban Chúa Giê-su cho chúng con và cho những người thiện chí để chúng con trở thành các môn đệ trung kiên của Con Một Chúa!

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

4.4 Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã dùng thánh nữ Maria Faustina để nhắc nhở loài người hôm nay nhớ và tin vào Lòng Thương Xót Bao La của Chúa. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Chúa ban Chúa Thánh Thần cho chúng con để chúng con mạnh dạn và hăng say truyền bá quyền năng và lòng từ bi thương xót của Chúa khắp mọi chốn mọi nơi!

          Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. 

Sàigòn ngày 04.04.2007.
----------------------------------
(1) Thánh Nữ Faustina Kowalska sinh ngày 25/8/1905 ở Glogowiec, nước Ba Lan và qua đời tại Cracovia năm 1938, lúc mới có 33 tuổi. Faustina là con thứ 3 trong đại gia đình gồm 10 anh chị em của một gia đình nông dân rất sùng đạo. Lúc 16 tuổi, Faustina làm việc trong những gia đình khá giả. Năm 20 tuổi, Faustina xin vào tu tại Dòng các Nữ tu Đức Trinh Nữ rất thánh, Mẹ của Lòng Thương Xót. Từ nhỏ Faustina đã nổi bật về đức tin, lòng mộ đạo và sự vâng lời. Faustina thường lập đi lập lại lời này: “Nơi Chúa Giêsu có tất cả sức mạnh của tôi.”

Trong 13 năm sống trong Dòng, Faustina đã được nhiều ơn mặc khải và thị kiến (visions). Ngày 22/2/1931, trong lúc ở tại tu viện ở Crakow, chị đã thị kiến Chúa Giêsu hiện ra với chị, và yêu cầu chị thực hành ngày Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa. Chị thấy Chúa Giêsu trong phẩm phục màu trắng với một tay chúc lành,còn tay kia chỉ vào tim của Chúa . Tấm hình đã được vẽ lại và loan truyền đi khắp thế giới . Sau những lần mạc khải, nữ thánh Faustina đã ghi chép lại rằng Chúa Giêsu yêu cầu lần chuỗi kính Lòng Thương Xót Chúa, để cầu cho người mắc tội trọng và cũng có thể khấn xin ơn riêng cho mình. Vào ba giờ chiều mỗi ngày, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội cùng tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, vì Chúa cũng đã sinh thì trong giờ này.

Trong cuốn nhật ký ‘’Lòng Thương Xót Chúa Trong Linh Hồn Tôi“ chị Faustina viết: “Buổi chiều khi đang ở trong phòng, tôi bổng thấy một thị kiến: Chúa hiện ra trong trang phục màu trắng, bàn tay mặt giơ lên như để chúc lành, bàn tay trái áp nơi con tim, từ nơi đó phát xuất hai luồng ánh sáng, một luồng đỏ và một luồng trắng. Tôi im lặng nhìn chằm chặp vào Chúa. Tâm hồn tôi dâng lên một nỗi sợ hãi, nhưng đồng thời với một niềm vui sướng khôn tả. Sau đó, Chúa Giêsu nói với tôi: “Con hãy họa một bức ảnh giống như con đã thấy, kèm theo chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Ngài". Ta hứa rằng linh hồn nào tôn sùng Ta qua hình ảnh này- sẽ không bị hư mất. Ta cũng hứa sẽ cho họ được chiến thắng những kẻ thù của họ trên trái đất này, đặc biệt là trong giờ chết. Ta sẽ bảo vệ họ như chính bảo vệ vinh quang của Ta. Ta sẽ hiến dâng nhân loại một nguồn mạch mà từ đó tuôn ra những ân sủng của Lòng Thương Xót. Nguồn mạch đó là bức ảnh này và dòng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Ngài“. Ta mong mỏi bức ảnh này phải được tôn sùng đầu tiên trong nhà nguyện của con, sau đó trên toàn thế giới “. (trích tài liệu trong thanhlinh.net/ lòng thương xót).

---------------------------------------------------

 

PS2-73. Từ sợ hãi đến niềm tin

 

Một cơn dịch xuất hiện, dân làng hoảng sợ dắt díu nhau chạy trốn vào rừng sâu, bỏ mặc những: PS2-73


Một cơn dịch xuất hiện, dân làng hoảng sợ dắt díu nhau chạy trốn vào rừng sâu, bỏ mặc những con bệnh đang nằm chờ chết. Trước thảm cảnh này, một vị linh mục thừa sai đã quyết định ở lại cùng với mấy người thiện chí, ra sức chạy chữa cho những người mắc bệnh. Nhờ sự hy sinh tận tụy này, cơn dịch bị đẩy lui, dân chúng trở về làng để tiếp tục cuộc sống.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta ghi nhận được sự sợ hãi của các môn đệ sau ba ngày đen tối.

Thực vậy, mười hai tông đồ là những người nòng cốt được Chúa Giêsu kêu gọi và huấn luyện. Cả nhóm đã từng hy vọng Ngài sẽ thiết lập vương quốc và mình thì sẽ làm lớn và chiếm một chức vụ quan trọng.

Nhưng rồi những biến cố đau thương dồn dập xảy đến, làm cho hiện tại của các ông trở nên đen tối và tương lai thì mù mịt. Một người trong nhóm đã phản bội, nộp Ngài cho người ta đem đi giết. Con người phản bội ấy đã thắt cổ vì tuyệt vọng. Còn Phêrô là trưởng nhóm, cũng đã chối Ngài ba lần. Một vài môn đệ khác đã lên đường trở về quê cũ, như hai môn đệ đi Emmaus.

Từ bối cảnh này, chúng ta thấy mười một người còn lại như bị co rúm trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Thế nhưng, chính trong cái bối cảnh không mấy sáng sủa ấy, Đức Kitô Phục sinh đã hiện ra, nhờ đó mà niềm tin của các ông d củng cố. Chỉ cần điểm qua những nhân vật của buổi sáng Chúa nhật Phục sinh, chúng ta sẽ nhận ra điều đó.

Trước hết là Madalêna. Cô tới mộ từ sáng sớm. Khi thấy cửa mộ mở tung, cô nghĩ rằng người ta đã ăn trộm xác và đem ra khỏi mộ. Và như vậy, cô vẫn chưa tin Chúa đã sống lại. Cô chỉ tin khi đã được nghe tiếng Chúa Giêsu gọi cô và chính cô được thấy Ngài.

Kế đến là Phêrô và Gioan. Khi tới mộ, hai ông thấy khăn liệm và dây băng đã được xếp lại cẩn thận. Phêrô thì bán tín bán nghi, nhưng Gioan thì đã tin.  Còn nhóm mười một đã tiến từ sợ hãi đến niềm tin, khi các ông được nhìn thấy Ngài. Cuối cùng là Tôma. Ông đã khởi đi từ tình trạng không tin, nếu mắt không thấy và tay không sờ. Thế nhưng, chính Chúa đã mời gọi ông đi vào niềm tin ấy.

Qua những nhân vật kể trên, chúng ta thấy tin không phải chỉ là chuyện chấp nhận một số những tín điều. Trái lại tin chính là gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh và nhận được ơn biến đổi của Ngài. Và ơn biến đổi đầu tiên chính là nhận ra Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá, nhưng đồng thời đã được sống lại. Đó là dấu chứng của tình yêu lớn lao nhất khiến các ông tràn ngập niềm vui.

Và hơn thế nữa, qua Đức Kitô Phục sinh, các ông nhận biết Ngài là Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa ấy được dấu ẩn trong suốt những năm tháng đã qua, bây giờ mới được tỏ hiện với tất cả vẻ huy hoàng, để rồi từ đó, với niềm xác tín sâu xa, các ông đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân.

Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta đã thực sự là những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời này hay chưa ?

---------------------------------------------------

 

PS2-74. Tin

 

Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng: PS2-74


Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.

Trước hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà thôi.

Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:

- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.

Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng cũng tuyên bố:

- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.

Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.

Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.

Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.

Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.

Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của cải, mạng sống.

Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất…

Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.

Sống đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.

Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.

---------------------------------------------------

 

PS2-75. Củng cố đức tin

 

Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Am: PS2-75


Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho Chúa Nhật thứ hai phục sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ hai phục sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi tiết này nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.

Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt Tôma, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an: "Bình an cho các con". Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong giai đoạn này - trong phần thứ nhất của đoạn Phúc Âm hôm nay - đã tin phần nào và đã chia sẻ cho Tôma: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Tôma không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Tôma đã gây chia rẽ hay làm yếu kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.

Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là một cộng đoàn của những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn Chúa Phục Sinh hiện diện ở giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm vui của cộng đoàn chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Đó là một cộng đoàn lý tưởng cho tất cả mọi cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ. Đó là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã thay thế cho sự u buồn thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình an này luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là những con người cụ thể, như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của mình và cộng đoàn của chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải trải qua những thử thách, những trở ngại.

Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của Tôma, thái độ của Tôma, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị em, thái độ đó cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao ban sứ mạng qua việc Chúa đap lại đòi hỏi của Tôma để biến đổi ông, và Tôma đã tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của Ngài từ đó không nên thách thức như Tôma nữa: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".

Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là bí tích Hòa Giải: "Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì trên trời cũng cầm lại".

Không có phương pháp nhân loại nào khác có sức phục hồi và củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng phương thế siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử dụng, và chúng ta biết rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là sự tha thứ bí tích, và đó cũng là bí tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha thứ của Chúa để chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi người chúng ta cần hành động như Tôma, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và loại bỏ đi những gì không phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con." Cần phải canh tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta được củng cố thêm mãi, để chúng ta có được sự bình an, niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh tân đức tin và củng cố đức tin.

---------------------------------------------------

 

PS2-76. Phúc thay những kẻ thân thiết trở nên thân thiết hơn

 

Bài Phúc Âm hôm nay đáng nên suy niệm rất lâu. Chúng ta đơn giản ghi lấy một số yếu tố: PS2-76


Bài Phúc Âm hôm nay đáng nên suy niệm rất lâu. Chúng ta đơn giản ghi lấy một số yếu tố để hiểu rõ nội dung hơn.

1) Ngày hôm đó, ngày đầu trong tuần, là ngày Chúa sống lại, là Chúa nhật của chúng ta ngày nay. Các môn đệ hội họp, có lẽ là do Phêrô (người đã nhìn thấy ngôi mộ trống) triệu tập. Các cửa đóng chặn kỹ, biết đâu được phản ứng của nhà chức trách Do thái ra sao. Chúa đột nhiên ở giữa các ông, cho các ông tức khắc trông thấy Người đang sống trong trạng thái phục sinh, Người không trở lại trạng thái trước đây nữa. Câu nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em!”. Đó là câu chào người ta thường dùng, nhưng ta có thể nghĩ rằng nghe thấy câu đó các môn đệ bớt được phần nào băn khoăn, vì cung cách cư xử của họ đối với Thầy hai hôm trước khiến họ không an tâm. Đàng khác, câu chúc bình an của Chúa luôn luôn là một ân huệ. Chúa ban cho các ông bình an của Người, bao gồm tha thứ, nhân từ và yêu mến, mà thành quả là niềm vui. Chúa nói thêm: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em … Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”

2) “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu sai các môn đệ. Chúng ta lưu ý về hai tính chất của sự sai phái này. Chúa sai các ông thi hành một sứ mạng giống sứ mạng của Người, cho các ông một quyền như Người. Đích phải đạt là cứu độ thế giới bằng cách loan báo Đấng là sự thật và có quyền tha tội. Quyền là do Thiên Chúa, do Cha. Cũng như Chúa Giêsu được Cha uỷ nhiệm làm Đấng cứu chuộc nhân loại, các môn đệ được Chúa Giêsu đặt làm sứ giả, làm tông đồ của ơn cứu độ. Cũng như quyền hành sứ mạng của Chúa Giêsu là do Cha, quyền hành sứ mạng của các môn đệ là do Chúa Giêsu. Đối với Phúc âm, tự ý trao cho bất cứ ai đã chịu phép thánh tẩy sứ mạng rao giảng Phúc âm cứu độ – là một sự lầm lẫn rất nặng nề. Các môn đệ là những người được Chúa Giêsu tuyển chọn, kêu gọi và trao quyền. Sự rao giảng chân truyền bắt buộc phải theo đúng ý muốn của Chúa. Điều này không giảm nhẹ nghĩa vụ mỗi tín hữu phải làm việc tông đồ theo phương pháp rất hiệu quả, rất hào hiệp, đồng thời rất được linh ứng và rất thực tiễn. Nhưng không phải bất cứ tín hữu nào cũng có sứ mạng đặc biệt được quyền rao giảng.

3) “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”. Truyền thống Kitô giáo luôn luôn thừa nhận trong câu này sự thiết lập bí tích Giải tội. Kitô hữu là kẻ từ khoảnh khắc gặp Chúa Giêsu Kitô, phát hiện bản thân mình tội lỗi, nghĩa là thấy mình khốn khổ và có tội. Người tín hữu biết rằng niềm tin của mình trong Chúa Giêsu Kitô làm cho mình hiệp thông với một vận dụng cứu độ, tha tội và tái sinh. Khi Chúa thiết lập một bí tích, nghĩa là khi lập ra một dấu chỉ rõ ràng về ơn tha thứ và tái sinh, Chúa muốn cho kẻ có tội dễ dàng gặp ơn cứu độ. Ở đây cũng vậy, không phải bất cứ ai cũng có trách nhiệm ban phép bí tích. Nói với các môn đệ (và những vị thừa kế các ông sau này), Chúa phán: “Anh em tha tội (dẫu cho người ta giải thích lời Chúa Giêsu theo một nghĩa rộng hơn, cũng không phải tất cả mọi người trong Giáo Hội đều có quyền giải tội). Các ông sẽ làm việc ấy với quyền hành sứ mạng. Tuy Giáo Hội quy định rõ thể thức về bí tích Giải tội, nhưng phải xác nhận bí tích này xuất phát từ chính lời Chúa Giêsu. Phúc thay những bạn hữu của Chúa Giêsu trở nên thân thiết với Chúa hơn vì đã được tha thứ và tái sinh.

---------------------------------------------------

 

PS2-77. Thời đại của chúng ta rất cần đến Lòng Nhân Từ Của Thiên Chúa

 (Nhân ngày lễ Chủ Nhật Lòng Chúa Xót Thương)

LTS: Đây là bài viết của Linh Mục Stanley Smolenski. Phiên bản tiếng Anh được đăng trong trang giữa (trang 8-9) trong tờ báo Công Giáo của Địa Phận Charleston, SC tờ The Catholic Miscellany số ra ngày 17 tháng 3 năm 2005, hay tại trang web  www.catholic-doc.org

 

Việc thành kính đối với lòng nhân từ của Thiên Chúa (Divine Mercy) dựa theo những trang: PS2-77 LÒNGTHƯƠNGXÓT


Việc thành kính đối với lòng nhân từ của Thiên Chúa (Divine Mercy) dựa theo những trang nhật ký của Thánh Nữ Faustina Kowalska đã lan rộng ra khắp nơi, trên bình diện quốc tế, vì lẽ, nhật ký của Thánh Nữ đã được dịch ra nhiều thứ tiếng chính, nhờ công sức của các Cha thuộc Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (Marian Fathers of the Immaculate Conception), là những người trông nom Đền Thờ Quốc Gia về Lòng Từ Bi của Thiên Chúa (National Shrine of Divine Mercy) ở thành phố Stockbridge, thuộc tiểu bang Massachusetts. Chính một thành viên của Dòng tu đó đã đem các đoạn văn viết tay của Thánh Nữ ra khỏi đất nước Ba Lan vào lúc khởi đầu của cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ II. Vị linh mục ấy đã hứa là sẽ lan truyền rộng ra để mọi người biết sùng kính đến lòng từ bi của Thiên Chúa nếu như ngài thoát khỏi đất nước Ba Lan thành công. Và cuối cùng, thì điều hứa đó trở thành hiện thực, khi ngài đặt chân đến nước Mỹ bình yên.

Phần viết giới thiệu của tôi đối với sự sùng kính này xảy ra khi tôi hãy còn là một cậu thanh thiếu niên, khoảng 60 năm trước, và đã được vinh dự đọc được những cuốn sách nhỏ chính gốc. Có hai điều thuyết phục tôi. Điều đầu tiên chính là, đất nước mà Thánh Nữ Faustina sống, không phải là nước Pháp, cũng chẳng phải là nước Ý hay Tây Ban Nha, những nơi mà ai cũng đều biết đến qua các bài báo, mà lại là từ một đất nước mà cả cha và mẹ tôi đã bỏ làng để di cư. Điều thứ hai chính là một lời báo tiên tri được mật bí cho Thánh Nữ Faustina bởi chính Chúa Giêsu, về những ảnh hưởng mà đất nước Ba Lan sẽ phải gánh chịu. Thế nhưng, nếu Ba Lan vẫn mãi trung tín với Ngài, thì Chúa Kitô với quyền năng phát tỏa, sẽ cứu đất nước này ra khỏi thảm họa chung của thế giới.

Ngay lúc đó tôi hơi bị bối rối, mù mờ, vì lẽ, Chiến Tranh Thế Giới II vừa mới chấm dứt và đất nước Ba Lan lại bị Quân Phát Xít Đức sang bằng, và rồi sau đó lại bị bóc lột (despoiled) và cai trị bởi quân Cộng Sản Nga Sô. Suy cho cùng thì đất nước này chẳng có một tầm quan trọng gì cả nếu xét về mặt kinh tế, chính trị hay quân sự. Thế đất nước này làm sao mà có thể tạo ra những ảnh hưởng quốc tế cho được? Khoảng 30 năm sau, vào năm 1978, lời tiên tri đó lập tức ánh lên trong tâm trí tôi khi Tòa Thánh công bố rằng Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Karol Wojtyla từ đất nước Ba Lan đã được bầu chọn Giáo Hoàng, và Ngài lấy tên là Đức Gioan Phaolô

Đệ Nhị.

Là vị Tổng Giám Mục của Krakow, thành phố mà Thánh Nữ Faustina đã từng sống, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đóng một vai trò thiết yếu trong việc cảm kích sâu sắc về sự thành kính này. Khi có một sai lầm trong đoạn văn trích trong nhật ký của Thánh Nữ Faustina được Rôma điều tra, thì bổng dưng việc phân phát ra các trang nhật ký đó bị ngừng hẵn trong thinh lặng. Sự cố ấy cũng đã được tiên báo cho Thánh Nữ. Đức Hồng Y Wojtyla lúc ấy đã giao phó cho nhà thần học nổi tiếng theo thuyết của Thánh Tôma Aquinas (Thomist) để điều tra lại sự cố ấy. Vị linh mục này vốn chẳng ưa thích gì đến những trang viết của Thánh Nữ vì lẽ rất nhiều người cho rằng chúng chỉ là những ảo giác (hallucinations) của một nữ tu thất học. Thế rồi, ngay khi vị linh mục ấy dở từng trang nhật ký viết tay, có rất nhiều đoạn đã thật sự gây ấn tượng cho ngài và ngài đã quyết định xem lại toàn bộ những gì mà Thánh Nữ đã ghi chép. Lòng thánh thiện sâu sắc của Thánh Nữ đã thuyết phục ngài đến cao độ, và rồi ngài đã phải bênh vực cho hồ sơ phong thánh của vị nữ tu này. Liền sau đó, những thận trọng, dè dặt được bãi bỏ vào mùa Xuân năm 1978, và vào mùa Thu, Giáo Hội đã tôn phong vị Hồng Y Tổng Giám Mục của Krakow lên chức Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng khi đó đã từng biết về hồ sơ phong Chân Phước cho nữ tu Faustina, mà Ngài chính là người phong với tư cách là Giáo Hoàng, và không lâu sau đó Chân Phước Faustina được phong lên hàng Hiển Thánh, và Thánh Nữ chính là vị Thánh đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba của Kitô Giáo. Một trong những hiến chế (encyclicals) đầu tiên của Ngài trong cương vị Giáo Hoàng, chính là hiến chế có tên “Dives in Misericordia” (hay Divine Mercy) nhằm tôn sùng Lòng Từ Bi của Thiên Chúa.

Thánh Nữ Faustina xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo. Nữ Thánh cần phải làm việc trên cánh đồng, và trình độ học vấn của Nữ Thánh rất là giới hạn, chỉ vài khóa học lên lớp vào những mùa Đông tại trường. Nữ Thánh sau đó trở thành một thiếu nữ và theo thánh ý tiền định của Thiên Chúa, Ngài đã gia nhập vào một dòng tu, và trở thành nữ tu dự bị. Công việc của vị nữ tu ấy chính là chăm sóc vườn rau và nhà bếp, và có lúc trở thành bà gác cổng (portress) của một học viện thuộc dòng, vốn dành cho những cô gái quậy phá, hư hỏng. Vào năm 1934, theo yêu cầu của vị linh mục lắng nghe giải tội cho nữ tu này, Nữ Thánh bắt đầu lưu và chép lại mọi hồ sơ có liên quan đến những cảm nhận và khát vọng phi thường của mình, và Nữ Thánh cứ tiếp tục làm việc đó cho đến khi băng hà vào năm 1938 khi đang ở tuổi 33. Tổng cộng, có tất cả là 1828 mục trong nhật ký của Nữ Thánh mô tả về ước vọng thánh thiện của Nữ Thánh trong việc hiệp kết cùng với Thiên Chúa.

Điểm nhấn mạnh chính của những bài viết này là thái độ hoàn toàn tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Cụ thể là việc Nữ Thánh được Thiên Chúa hướng dẫn về những sùng kính sau: 1) chuỗi tràng hạt (chaplet) về Lòng Từ Bi của Thiên Chúa ; 2) một buổi cầu nguyện đặc biệt (novena) đến Lòng Từ Bi của Thiên Chúa ; 3) một thánh lễ ghi nhớ Lòng Từ Bi của Thiên Chúa ; và 4) cuối cùng chính là một hình ảnh đặc biệt về Lòng Từ Bi của Thiên Chúa.

Chuổi tràng hạt chính là việc dùng chuổi tràng hạt thường. Nghĩa là, việc lần hạt được bắt đầu bằng một Kinh Lạy Cha, một Kinh Kính Mừng và theo sau đó là một Kinh Tin Kính. Hạt của Kinh Lạy Cha là nhằm nhấn mạnh đến việc chịu khổ nạn của Chúa Kitô, để dâng lên cho Thiên Chúa Cha, hòng đền bù tội lỗi của nhân loại: “Lạy Thiên Chúa Cha vĩnh cữu, con xin kính dâng lên mình, máu, tâm hồn và bản tính thánh thiêng của người Con Ngài yêu dấu, là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền bù tội lỗi cho chúng con và cho tất cả mọi người trên khắp thế giới này”.

Còn hạt của Kinh Kính Mừng là việc chúng ta khẩn cầu lòng từ bi của Thiên Chúa tuôn đổ xuống cho cả thế giới này: “Lạy Thiên Chúa, vì việc đau khổ chịu nạn của Ngài, hãy đem lòng nhân từ của Ngài xuống trên chúng con và cả thế giới này”. Việc lần hạt được kết thúc bằng câu: “Lạy Thiên Chúa Rất Thánh, Từ Bi và Bất Diệt, hãy đổ lượng nhân từ của Ngài đến trên chúng con và cho cả thế giới này”, vốn được lập lại ba lần.

Buổi cầu nguyện đặc biệt được bắt đầu vào Thứ Sáu Tuần Thánh và kết thúc vào Thứ Bảy trước khi cử hành thánh lễ. Vào một trong những ngày này, tinh thần cứu chuộc của Chúa Kitô được áp dụng vào một nhóm người cụ thể, đó là: toàn thể nhân loại, đặc biệt là những người tội lỗi ; các linh mục và các nam nữ tu sĩ dòng ; những người giáo dân thành kính, thánh thiện ; những người vô thần và không phải là Kitô Giáo ; những người không phải là Công Giáo, tức chỉ là Kitô Giáo mà thôi; các trẻ em ; những người sùng kính lòng nhân từ của Thiên Chúa ; các linh hồn nơi lửa luyện tội ; những người lãnh đạm, thờ ơ (lukewarm), và những người trung lập (indifferent).

Chủ Nhật đầu tiên sau Mùa Phục Sinh hay Chủ Nhật Thứ Hai của Mùa Phục Sinh, phụng vụ dành ra ngày này để cử hành về Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa. Việc được tha tội hoàn toàn cùng với những hình phạt và những ơn huệ đặc biệt khác sẽ được Thiên Chúa ban với điều kiện là phải xưng tội và rước lễ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã thiết lập ra ngày kính nhớ khắp hoàn vũ này khi Ngài phong hiển thánh cho Thánh Nữ Faustina.

Hình ảnh về Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa phát họa ra hình ảnh của Chúa Kitô trong áo phục trắng, tay phải của Ngài đang ban phép lành, trong khi đó tay trái của Ngài mở bộ áo phục ngay phần ngực, để từ đó các tia xám và đỏ được lan tỏa ra. Điều này tượng trưng cho việc bí tích hóa (sacramentalization) mình và máu xuất phát từ trái tim đã bị đâm thấu của Chúa Kitô trên cây thập giá. Nước tượng trưng cho Phép Rửa Tội, và máu tượng trưng cho Phép Thánh Thể. Để bằng cách này, chúng ta được thánh hóa qua việc chịu khổ nạn và chết đi của Chúa Kitô.

Qua đó, chúng ta thấy được việc Chúa Giêsu sống lại và lên trời, qua Mầu Nhiệm Vượt Qua (Paschal Mystery) của Thiên Chúa. Ở phía cuối của bức ảnh này, chính là dòng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Hay nói cách khác, mục đích của bức ảnh này là nhằm gợi lên cảm hứng của đức tin, của niềm hy vọng, của sự tin tưởng, cậy trông và tình yêu về lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Với sự trần tục hóa trong xã hội thời nay, vốn đã từng là xã hội của những người Kitô hữu, thì thông điệp này rất là quan trọng vì lẽ mọi người sẽ biết ý thức được tầm quan trọng của tội lỗi, khiến họ trở nên thất vọng và ngã lòng về lòng nhân từ và thiện hảo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho Thánh Nữ Faustina về việc Ngài cảm thấy khó chịu vì những người như vậy, và do đó, Ngài muốn cho toàn thể thế giới này, có thêm được một nguồn hy vọng dồi dào.

Lòng Từ Bi của Thiên Chúa và Mầu Nhiệm Vượt Qua (Divine Mercy and the Paschal Mystery)

Thần học thì cho hay rằng chúng ta không bị bắt buộc phải tuân theo những lời mạc khải riêng tư của một người nào đó, thế nhưng Thánh Tôma Aquinas cũng đã chỉ ra rằng sẽ là khinh suất (imprudent) khi coi thường những lời mạc khải đó. Mục đích của những lời mạc khải riêng tư chính là liều thuốc hướng chúng ta đến một hành động cần thiết nào đó vào một thời điểm cụ thể nào đó cho một nhu cầu hết sức đặc biệt.

Chúng ta nhận thấy được sự nhấn mạnh trọng tâm ở đây chính là vào lòng từ bi của Thiên Chúa. Liệu sự tin tưởng vào điều thiêng liêng này có giúp ích được nhu cầu nào trong thời đại của chúng ta ngày nay không ? Thưa, với sự gia tăng của việc trần tục hóa và việc xem thường tội lỗi, qua việc phá thai, chẳng hạn, thì con người đã bị sốc khi khám phá ra ý nghĩa thật sự của tội lỗi mà họ đã cho phép chúng chế ngự cuộc đời của họ. Họ cần đến sự cam đoan về lòng tốt và từ bi của Thiên Chúa, cũng như về sự tha thứ của Ngài. Thêm vào đó, để giúp mọi người ý thức được nhu cầu của sự ăn năn, hối lỗi trong cuộc sống của họ, thì cần phải có việc chiêm niệm, suy gẫm về Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Chính vì thế, chúng ta hãy cầu khẩn vào sự chịu nạn của Chúa Kitô trong việc lần chuổi về lòng từ bi của Thiên Chúa, để được thứ tha mọi tội lỗi, và tín thác khẩn cầu trước hình ảnh của Chúa Kitô từ nhân. Liệu chúng ta không nhận thấy được sự trình bày của đoạn Thánh Kinh “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” hay sao ?

Trong buổi cầu nguyện đặc biệt về Lòng Từ Bi của Thiên Chúa, giá trị của việc Chúa Kitô cứu chuộc được áp dụng vào mỗi một người trong chúng ta hằng ngày. Buổi cầu nguyện đặc biệt này được bắt đầu vào Thứ Sáu Tuần Thánh và kết thúc vào ngày thứ Bảy sau Phục Sinh. Khi Giáo Hội long trọng cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô trong tuần Tam Nhật, thì buổi cầu kinh đặc biệt này hướng người tín hữu hòa vào việc tưởng niệm chung của Giáo Hội. Bằng sự sùng kính này, người tham dự vào buổi cầu kinh được hiệp kết với việc cử hành phụng vụ của mầu nhiệm vượt qua của Giáo Hội. Buổi cầu kinh đặc biệt này không tương phản gì cả với ý chỉ về phụng vụ của tuần Tam Nhật. Mà trái lại, nó giúp làm giản dị hóa không khí trông có vẽ trịnh trọng theo đúng với các ngôn từ của phụng vụ.

Sự thật chính là việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã dành riêng ngày Chủ Nhật sau Lễ Phục Sinh là ngày Chủ Nhật Thiên Chúa Từ Bi để cho thấy được sự phù hợp này. Các đoạn Thánh Kinh đọc trong ngày lễ đó nhấn mạnh đến Lòng Từ Bi của Thiên Chúa vì lẽ chính Chúa Giêsu đã từ bi, nhân hậu tha thứ hết mọi tội lỗi cho các tông đồ để thiết lập ra Bí Tích Hòa Giải, vào chính ngày Người Sống Lại.

Hình ảnh của Thiên Chúa Từ Bi đã nói lên tất cả những điều đó. Hình ảnh phát họa lại việc Chúa Giêsu lên trời, khải hoàn, để qua Ngài, mọi ơn huệ được tuôn đổ xuống trên chúng ta qua các tia màu đỏ và màu nhạt, tượng trưng cho máu và nước tuôn đổ từ trái tim bị đóng trên cập thập giá của Ngài. Thì đó chính là một biểu tượng của Phép Bí Tích hiện thể việc Con Chiên làm tư tế với tư cách là vị Thượng Tế Muôn Đời, là nguồn của Phép Rửa Tội và Thánh Thể, vốn được long trọng cử hành trong suốt phụng vụ của lễ vượt qua và kéo dài suốt cả mùa Phục Sinh lẫn các mùa phụng vụ khác.

Chính vì thế, trong chuỗi tràng hạt, trong kinh cầu đặc biệt, trong thánh lễ Thiên Chúa Từ Bi và qua hình Thiên Chúa Từ Bi, chúng ta có rất nhiều cách để biểu lộ lòng thành kính của chúng ta đối với Mầu Nhiệm Vượt Qua vì lẽ mầu nhiệm ấy tập trung vào việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại. Chẳng phải là ngẫu nhiên, khi chúng thành kính và tôn sùng Phép Thánh Thể. Tất cả những đoạn ký sự trong quyển nhật ký của Thánh Nữ Faustina đều có liên quan đến Phép Thánh Thể trên bàn thờ của Thiên Chúa. Và sau đây là một ví dụ điển hình của đoạn viết đó: “Tôi thấy được làm cách nào mà hai tia sáng đó, như đã được vẽ trong bức ảnh, đến từ mình thánh và lan tỏa ra khắp cả thế giới. Hai tia này không chỉ có xuất hiện trong chốc lát mà đã kéo dài mọi ngày, và nhà nguyện của chúng tôi tràn ngập các tia này suốt cả ngày, tạo ra một không khí rất vui nhộn” (Mục 1046).

Sự thành kính và biết ơn của Thánh Nữ dành cho Thánh Lễ thì đúng là một điều diệu kỳ biết bao. Thánh Nữ viết: “Ôi, thật là nhiều mầu nhiệm cao vời được diễn ra trong suốt Thánh Lễ! Cứ mỗi Thánh Lễ là có một mầu nhiệm vĩ đại. Với lòng thành kính và tôn sung lớn lao này, chúng ta nên biết lắng nghe và dự phần vào cái chết của Chúa Giêsu. Rồi sẽ có một ngày, chúng ta sẽ biết được Ngài làm gì cho ta trong mỗi Thánh Lễ, và những loại phần thưởng nào mà Ngài đang chuẩn bị cho chúng ta qua Thánh Lễ ấy. Chỉ có lòng yêu thương nhân từ của Ngài mới cho phép chúng ta nhận được món quà đó. Ôi, Chúa Giêsu, Chúa Giêsu của con, với những nổi đau đâm thấu trong lòng con khi con nhìn thấy được nguồn sống của con vốn được tuôn đổ từ Ngài, thì đó chính là nguồn sống ngọt ngào và quyền năng mà Ngài dành cho mỗi một linh hồn, và đồng thời con cũng đã thấy được rất nhiều linh hồn bỏ xa, khinh miệt (withering) và khô héo vì tội lỗi của họ. Ôi lạy Chúa Giêsu, hãy ban sức mạnh về lòng nhân từ của Ngài xuống trên các linh hồn đó” (Mục 914).

Việc Thánh Nữ thông hiệp với Thiên Chúa thật là nồng nhiệt và sôi nổi. “Con cảm thất mình quá yếu đuối để có thể đón nhận Mình Thánh Chúa, vì con cứ mãi tiếp tục té ngã. Chỉ có một điều duy nhất có thể duy trì sức sống của con, đó chính là Mình Thánh Chúa. Từ đó, con mới có được sức mạnh. Con sợ chính bản thân mình. Chúa Giêsu luôn ngự trong bánh, thì đó là tất cả những gì con cần. Từ Phép Thánh Thể, con có được sức mạnh, sự can đảm, quyền năng và ánh sáng. Lúc nào, con cũng tìm sự ủi an nơi Ngài, và vào cả những lúc con đớn đau, thống khổ. Con sẽ không biết cách nào để tán tụng danh Ngài nếu như con không có Phép Thánh Thể ngự trong lòng” (Mục 1037).

Khi Giáo Hội nâng một vị Chân Phước lên hàng Hiển Thánh, thì phải có đầy đủ các chứng cớ về sự linh thiêng, nên thánh và sự chuyển cầu của Thiên Chúa. Thánh Nữ Faustina Kowalska biểu lộ sự linh thánh của mình qua cuốn nhật ký. Sự linh thánh đó chính là học thuyết, là bí tích và là mầu nhiệm. Vì qua lời chuyển cầu quyền năng của Thánh Nữ, mong ước và công trình rao giảng của Thánh Nữ đã quá rõ: “Con tin rằng sứ vụ của con sẽ không bị chấm dứt đi sau khi con chết, mà nó sẽ được bắt đầu. Hỡi các linh hồn còn nghi ngại và ngờ vực, ta sẽ vén cho ngươi thấy cánh cửa thiên đàng, để ngươi mau chóng biết ăn năn, hối lổi và đừng làm tổn thương đến Trái Tim Lòng Lành của Chúa Giêsu, vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu và Lòng Nhân Từ”. (Mục 281).

Muốn biết thêm nhiều chi tiết, mời vào trang web:

www.thedivinemercy.org.
trích từ www.dunglac.net
 
 
Thánh Nữ  Faustina Kowalska sinh tại làng quê BaLan tên là Glogowiec, ngày 25 tháng 8 năm 1905. Lúc 20 tuổi, chị được nhận vào tu nơi dòng của các Nữ Tu của Đức Bà Hay Thương Xót tại Warsaw. Và từ đó, trong vòng 13 năm liên tiếp của cuộc đời tận hiến, nữ tu Faustina Kowalska âm thầm và khiêm tốn chu toàn những công việc hết sức tầm thường trong dòng như nấu bếp, làm vườn, giữ cửa tu viện. Nữ Tu qua đời ngày 5 tháng 10 năm 1938, lúc mới 33 tuổi. Tuy nhiên, trong cuộc sống âm thầm khiêm tốn nầy, Nữ Tu Faustina Kowalska đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân được cảm nghiệm thần bí và sống tận hiến cho Thiên Chúa Nhân Từ. Nữ tu nhận được nhiều thị kiến, nhiều mạc khải riêng và được in Năm Dấu Thánh. Theo lời khuyên của cha linh hướng, Nữ Tu Faustina Kowalska ghi lại những thị kiến, những mạc khải và những kinh nghiệm thần bí của mình vào Nhật Ký năm 1934, bốn năm trước khi qua đời, ngày 5 tháng 10 năm 1938.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho nữ tu Faustina Kowalska ngày 30 tháng 4 năm 2000, và đã truyền thiết lập Chúa Nhật Kính Thiên Chúa Nhân Từ  trong khắp giáo hội vào Chúa Nhật II Phục  Sinh hằng năm, để phổ biến sứ điệp trung tâm của Nữ Tu Faustina Kowalska, vị thánh của thời đại chúng ta. Đó là sứ  điệp Thiên Chúa Nhân Từ đối với mỗi người. Năm 1935, Nữ Tu Faustina đã mô tả cho một họa sĩ  vẽ lại Hình Chúa Giêsu, như  Chúa đã hiện ra cho Nữ  Tu, và bên dưới bức hình có đề thêm câu kinh nguyện tắc như sau: “Lạy Chúa Giêsu, Con Tin Tưởng Vào Chúa !”
Trong tập nhật ký có tựa đề  “Tình Thương Nhân Từ của Thiên Chúa trong Linh Hồn Tôi”, nữ tu Faustina Kowalska cho biết là Chúa Giêsu đã trao phó cho Nữ Tu sứ mạng rao giảng cho toàn thế giới sứ điệp phúc âm về Tình Thương Nhân từ của Thiên Chúa. Đặc điểm thiết yếu và và căn bản của con đường tu đức được Thánh Nữ Faustina Kowalska phổ biến là lòng sùng kính Thiên Chúa Nhân Từ và lòng tin tưởng phó thác vào Chúa Giêsu, và  tôn kính giây phút đặc biệt lúc 3 giờ chiều mỗi ngày, giây phút tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. “Lạy Chúa Giêsu, Con Tin Tưởng Vào Chúa”. Theo thánh nữ Faustina Kowalska, lòng sùng kính Thiên Chúa Nhân Từ mời gọi con người hãy đối xử đại lượng nhân từ đối với anh chị em xung quanh, bằng hành động, bằng lời nói và bằng lời cầu nguyện. 

---------------------------------------------------

 
 

PS2-78. Hãy vững tin


VietCatholic News (Thứ Sáu 21/03/2008 00:05)

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH A

Ga 20,19-31

 

Đọc câu chuyện về vị tông đồ Toma, có lẽ mỗi người đều có suy nghĩ nào đó. Thánh Toma vẫn:PS2-78


Đọc câu chuyện về vị tông đồ Toma, có lẽ mỗi người đều có suy nghĩ nào đó. Thánh Toma vẫn được người đời kháo láo là vị tông đồ yếu tin, kém tin và sống với Chúa mà chẳng hiểu biết gì. Tuy nhiên, Chúa phục sinh từ khi sống lại đã hiện ra với các tông đồ 3 lần và lần nào trên môi miệng của Ngài cũng vang lên câu:” Bình an cho anh em “. Lẽ dĩ nhiên, sự bình an thật quan trọng và thật cần cho các tông đồ, đồng thời cũng cần cho mỗi người chúng ta ở muôn thời muôn buổi.

MỘT CÂU CHUYỆN XEM RA BUỒN CƯỜI NHƯNG CÓ THẬT:

Toma một trong nhóm 12, ông cũng rất nhiệt thành, có lúc ông đã nói với các môn đệ khác: ” Nào chúng ta cùng đi Giêrusalem để cùng chết với Thầy”. Trong cuộc hành trình truyền giáo Toma cũng như các môn đệ khác đều được Chúa Giêsu huấn luyện kỹ càng và hết mực yêu thương. Nhiều lần Chúa đã nói bóng, nói rõ về con đường của Chúa đi và ý định Thiên Chúa Cha đã định về Ngài. Trong bữa Vượt Qua cuối cùng tại một căn phòng ở Giêrusalem, Chúa Giêsu đã tâm sự, đã bộc bạch tất cả mọi sự với các môn đệ và con đường của Ngài phải trải qua giờ này đã rõ. Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ của Ngài bài học yêu thương khiêm nhượng và đã trao ban quyền linh mục, giám mục cho các môn đệ khi Ngài lấy chính Thịt Máu của Mình nuôi dưỡng nhân loại. Rồi sự việc đã xẩy ra khi Giuđa Iscariốt ra đi thắt cổ tự vận. Chúa bị bắt và kết án và bị treo trên thập giá. Các môn đệ tan tác như rắn mất đầu.


Mọi môn đệ đều đứng xa xa, lẩn trốn để xem sự việc ra sao. Chúa được mai táng trong mồ và đúng như lời tiên báo trước sau ba ngày bị chôn Chúa đã phục sinh khải hoàn. Để củng cố niềm tin còn yếu ớt của các môn đệ, sau khi phục sinh Chúa đã hiện ra với các ông nhiều lần. Sở dĩ lần nào Chúa cũng nói:” Bình an cho các con” bởi vì các môn đệ đang trong cơn lo sợ hoang mang. Thầy đã bị giết, họ sợ biết đâu nay mai sẽ lại tới phiên mình. Chúa Giêsu đã hiện ra và chúc bình an cho các ông. Và để củng cố niềm tin cho các ông và để làm chứng cớ, làm bảo chứng cho các ông, Chúa Giêsu đã chỉ cho Ngài các vết thương nơi thân xác của mình. Các môn đệ khác nói với ông:” Chúng tôi đã được thấy Chúa!”.Ông Toma đáp:” Nếu tôi không thấy những dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Hôm nay, sau tám ngày sống lại, Chúa lại hiện ra có cả Toma nữa. Chúa nói:”

Toma đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin “( Ga 20,27 ). Đứng trước sự thật hiển nhiên, Toma chỉ có thể thưa:” Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” ( Ga 28 ). Câu chuyện Tin Mừng vềToma xem ra buồn cười vì tấm lòng thương Chúa nhưng lại không dễ tin vào những lời nói của các bạn khác. Đúng là Toma, con người đòi phải xem rõ ràng…Chuyện nực cười nhưng lại giúp mọi người kiểm nghiệm lại đức tin của mình.

NIỀM TIN CHÂN THẬT:

Toma không phải là người thiếu niềm tin nhưng niềm tin của Toma là niềm tin thực nghiệm, việc gì cũng đòi phải kiểm chứng, việc gì cũng đòi phải thấy và chạm đến mới tin. Nhưng thực ra đâu có phải chỉ những gì ta thấy mới tin. Người ta thường tin vào các sự kiện người khác thấy. Chúng ta đâu có thấy mặt mũi bằng xương bằng thịt của nhiều nhà bác học nổi danh, hay các bác sĩ danh tiếng nhất trên thế giới. Chúa bị bắt, bị kết án, bị treo trên thập giá ta nào có thấy. Nhưng niềm tin của chúng ta chỉ dựa vào Kinh Thánh,dựa vào Huấn quyền và đặc biệt dựa vào lời chứng của các tông đồ:” Chúng tôi đã được thấy Chúa”(Ga 20,25 ). Do đó, niềm tin đâu chỉ dựa vào giác quan bên ngoài, mà còn phải dựa vào đức tin của những kẻ đã thấy và đã tin”. Biết bao anh hùng tử đạo đã làm chứng cho niềm tin của mình. Toma là người hạnh phúc vì đã được Chúa chiều cho thấy và còn mời cho chạm vào cạnh sườn, các vết đinh của Chúa nữa. Toma đã quá được đặc ân cao vời, nhưng trước ân huệ ấy ông chỉ biết cúi sạp xuống và thưa:” Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ). Niềm tin của Toma cũng phải là niềm tin của chúng ta. Nhờ Toma mà chúng ta những người ở muôn thời được Chúa khen:” Phúc thay những người không thấy mà tin”( Ga 20, 29 ).

Lạy Chúa Giêsu sống lại, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con chỉ một niềm tin vào Chúa, sống và chết cho Chúa. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

---------------------------------------------------

 

PS2-79. Hiện ra cùng Tôma

Chương 20 của Phúc Âm thứ tư được cấu tạo thành một khối duy nhất về phương diện văn thể:PS2-79

Chương 20 của Phúc Âm thứ tư được cấu tạo thành một khối duy nhất về phương diện văn thể và đề tài. Nó kể lại vài lần hiện ra của Đức Kitô Phục Sinh ở Giêrusalem. Ý chính của chương này: việc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng.

Khi đã để ý đến yếu tố văn thể và giáo thuyết, chúng ta có thể thấy chương 20 được hình thành như sau:

+ Phần thứ nhất: buổi sáng Phục sinh (20,1-18)

- Đoạn 1: viên đá được lăn ra và ngôi mộ trống (c.1-10); xem Mt 28,1-10; Mc 16,1-8; Lc 14,1-10.

- Đoạn 2: Đức Kitô hiện ra với Maria Madalena (c.11-18; xem Mt 28,9tt; Mc 16,9)
+ Phần thứ hai: hiện ra cùng các môn đệ (20,19-21)

- Đoạn 1: hiện ra ngày phục sinh của Đức Kitô sống lại cho các môn đồ (c.19-23; x. Mc 16,14; Lc 24,36-49; 1Cr 15,5)

- Đoạn 2: hiện ra sau tám ngày cho Tôma, kẻ cứng tin (c.24-49)
+ Kết cục: (20,30-31)

1) Nhìn sơ qua, chúng ta thấy không những hai phần này được đặt gần nhau mà còn được cấu tạo một cách gần như đồng nhất, Tôma chiếm một chỗ quan trọng phần thứ hai. Trong lúc Maria Madalena, trong một giây phút buồn phiền, đã khóc khi thấy mồ trống, Tôma, cách tự phát nhưng bồn chồn, đã hồ nghi thực thể của Chúa Giêsu phục sinh. Vắng mặt khi Phêrô và môn đệ dấu yêu khám phá ra mồ trống và khi Gioan biểu lộ đức tin vào sự phục sinh của Đức Kitô (c.8-9), Maria tuyên xưng đức tin khi Chúa tự mạc khải cho bà (c. 18). Cũng thế, vắng mặt khi Chúa hiện ra ngày phục sinh khi các môn đệ tụ họp, Tôma đã tin cách phấn khởi khi Chúa Giêsu chiếu cố hiện ra với ông tám ngày sau.

Trong cả hai phần, sự kiện hay dịp sờ đến thân xác phục sinh Chúa đều được đặt nổi bật (đối với Maria, x.câu 17; với Tôma x.câu 25 và 27) với một cảm giác thật nhân bản. Ngoài ra đức tin của Maria đã làm bà được sứ mệnh loan báo cho các tông đồ sự sống lại (c.18), trong lúc việc tuyên tín của Tôma khai mào đức tin của những người không thấy mà tin (c.29).

Cuối cùng, mỗi đoạn đều nhắm đến kiệc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng: môn đồ dấu yêu tin khi nhìn thấy tấm khăn liệm và dải vải (c.8), Maria tin khi nghe giọng nói quen thuộc của thày gọi tên bà (c.0, các môn đồ tin khi ngắm nhìn tay và cạnh sườn của Đức Kitô (c.20), cuối cùng Tôma tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô Phục Sinh (c.29) khi nhìn thấy tay chúa và thọc tay ông vào cạnh sườn Ngài (cc.25 và 27). Những tương hợp này chứng tỏ có sự đồng nhất trong việc sắp xếp và khai triển toàn bộ chương 20. Tuy nhiên bắt đầu phần thứ hai, đức tin vào Đức Kitô Phục Sinh có những chiều kích rộng lớn hơn. Thật vậy, ngoài các vị tông đồ, toàn thể Giáo hội được nổi bật nhờ được sai đi truyền giáo và nhờ việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng thế, đức tin của một Tôma cứng lòng nhưng đã ăn năn gợi lên đức tin của tất cả các tín hữu sau này.

2) “Đoạn Ngài phán cùng Tôma: hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta; Hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở như người cứng tin mà là như người thành tín” (c.27). Phần đầu của câu nói hay là một sự hạ cố đến Tôma hầu như làm ta khó chịu. Chúa Giêsu chấp nhận thách thức mà Tôma đã đòi cho kỳ được: sờ đến Ngài để đảm bảo đó không phải là một hữu thể tưởng tượng nhưng là một con người thật, sống động. Ngược lại, phần thứ hai hàm chứa một lời khuyến cáo đích đáng. Tôma phải trở nên một tín hữu thật sự trong thực thể của Chúa Giêsu phục sinh.

Không có gì trong bản văn cho thấy là vị tông đồ hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và thi hành điều mà thày dạy làm. Lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu đã đủ cho ông. Vì thế Toma trả lời và nói: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”. Lời tuyên xưng đức tin rạng rỡ này, lời xác quyết nặng về phương diện Kitô học phát xuất từ miệng Tôma cứng tin, nói lên sự hiển nhiên của việc phục sinh.

Từ đầu cho đến giờ, không có ai trong Phúc Âm Gioan gán tước hiệu này cho Chúa Giêsu Kitô. Một cách bộc phát và phấn khởi, Tôma phát biểu đức tin hoàn toàn của mình vào thiên tính của Đức Kitô. Lời tuyên xưng đức tin này là chóp đỉnh, là cao điểm của toàn thể Phúc Âm thứ tư. Câu “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”, vì nặng phần giáo thuyết, đã làm các nhà chú giải để ý nhiều. Tước hiệu “Chúa” (Curios) đã được nghiên cứu rất nhiều. Chỉ cần nhắc lại ở đây là nhiều lần các sách Tân Ước đã gán tước hiệu Curios cho Chúa Kitô. Nhưng trong mỗi trường hợp, cần phải xét kỹ để có thể xác định một cách rõ ràng nội dung Kitô học của tước hiệu đó.

Đức Kitô cũng được gọi là Thiên Chúa, nhất là trong các thư mục vụ (Có lẽ trong Rm 9,5 nữa), trong lúc thánh Gioan chỉ gán tước hiệu này hai lần trong 1,1.18 (x.5,18; 10,53). Trong trường hợp chúng ta đây, hai tước hiệu “Chúa” và “Thiên Chúa” đều được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu. Để xác định ý nghĩa đích thực của hai tước hiệu này, một vài tác giả đã nói rằng văn chương ngoại giáo đã dùng tước hiệu đó (Deisman), đặc biệt trong việc sùng bái các hoàng đế vào thời đầu tiên của Kitô giáo (Bauer). Tuy nhiên, hầu như chắc chắn rằng môi trường của câu nói này phải được tìm trước hết trong văn chương Do thái và Thánh kinh. Thật vậy, câu nói này được tìm thấy nhiều lần trong bản dịch Hy lạp 70 (xem nhất là 2S 7,28; 1V 18,39; Tv 30,2; 35,5.24; 125,15; 138,1; Ga 18,17). Có ý nói là Tôma tôn thờ Đức Kitô, Chúa Con, với những lời mà người Do thái có thói quen dành để tôn thờ TC. Như thế, Tôma đi trước thánh Stephano, người khi chịu tử đạo, sẽ phó dâng tâm hồn mình cho Chúa Giêsu như cho TC (Cv 7,59).

3) Theo từ ngữ nay thành cổ điển của Origène, Phúc Âm thứ tư là “Phúc Âm thiêng liêng” (x. Eusèbe de Kesarée, Hist.Eccl. VI,14,7). Hơn cả Phúc Âm nhất lãm, thánh Gioan, thần học gia, đã nhấn mạnh đến các thực thể cao quí nhất cấu tạo nên đời sống Kitô hữu: tin, đời sống thần linh, ân sủng, ánh sáng. Ông có tài hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của các sự kiện và biến cố cùng khám phá ra những mầu nhiệm linh thiêng của chúng. Tất cả đều xảy ra trên bình diện cao quí của tâm hồn, của việc chúng ta được kết hợp trong ân sủng với Chúa Cha nhờ Đức Kitô. Tuy nhiên, sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta dù cao quí đến đâu, cũng không xóa bỏ được bản tính cùng thực tại thể lý. Cần phải luôn lặp lại điều này: Gioan không giảng đến một thần học thiêng liêng mà không liên quan đến lịch sử; sứ điệp thiêng liêng của ông giả thiết và đòi hỏi phải có các chứng nhân mắt thấy tai nghe.

Như thế, một khi đã để ý đến công trình khảo cứu hiện thời của khoa phê bình văn hình sử (Formgeschichte), và độc lập với mọi cuộc tranh luận về sự sống lại như một sự kiện lịch sử, chúng ta không thể hoài nghi là chính Gioan đã lưu tâm nhiều đến các chứng từ liên quan đến những lần hiện ra của Đức Kitô.

Những lần hiện ra của Đức Kitô ngày phục sinh và 8 ngày sau, việc nhấn mạnh đặc biệt về sự kiện Chúa Giêsu chỉ các thương tích và cạnh sườn Ngài cho các môn đệ và cho Tôma, chúng tỏ cách rõ ràng rằng đối với Gioan, Đức Kitô vinh hiển và Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết là một. Gán cho những trình thuật của Gioan về các lần hiện ra một ý nghĩa hoàn toàn tượng trưng là cưỡng chế bản văn. Vì thế chúng ta không chấp nhận lời chú giải nổi tiếng của Bultmann: “Bài tường thuật về Tôma cũng như bài tường thuật về Maria Madalena... chỉ có một giá trị tương đối...(chúng ta phải coi chúng) như là một lời trong đó các biến cố được kể lại đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho cộng đoàn” (R.Bultmann, The Gospel of John, Oxfort, Elackwell,1971 tr.696).

Lời xác quyết này lại càng đáng ngạc nhiên và gây sửng sốt khi tác giả Phúc Âm thứ tư, hơn các Phúc Âm nhất lãm, đặc biệt làm nổi bật tính cách thể lý của thân xác Đức Kitô trong những lần hiện ra. Tại sao Gioan, thần học gia, tác giả Phúc Âm có tính cách thiêng liêng nhất, lại nhấn mạnh nhiều đến đặc tính nhân loại của Đức Kitô sau khi sống lại? Ngoài ra chúng ta phải thành thật tự hỏi tại sao Gioan suốt cả cuốn Phúc Âm, thường chú trọng đến vinh quang hiển nhiên và thần linh của Đức Kitô, lại tránh ám chỉ đến vinh quang này trong những lần hiện ra, ngược hẳn với Matthêu? Khó có thể tìm ra câu trả lời. Đây là câu trả lời: vì Gioan - tác giả Phúc Âm thiêng liêng nhất, tự cảm thấy cần phải nhấn mạnh phải đến sự kiện Đức Kitô đi vào vinh quang bên cạnh Chúa Cha, nhưng đến mọt sự kiện khác đã đánh động ông nhất với tư cách là nhân chứng tận mắt: Đức Kitô giờ đây, cũng như trước khi tử nạn, tiếp tục tiếp xúc cá nhân với các môn đồ của Ngài, với Tôma.

4) “Còn nhiều dấu lạ khác nữa...": Gioan, khi kết thúc tác phẩm của ông, biết rằng tác phẩm đó chưa chấm dứt. Nhưng có khi nào người ta viết cạn ý một quyển sách không? hay hơn nữa, có bao giờ có thể minh chứng xong xuôi đức tin của ta không? Chúa Giêsu đã nói trong bài tạ từ: “Thày còn nhiều điều phải nói với các con...” (Ga 16,2). Với hình ảnh Chúa Giêsu ao ước mạc khải Chúa Cha cho thế gian - thế gian với tinh thần ích kỷ hay với tâm hồn quá tự mãn để có thể đón nhận đức tin - Gioan nóng lòng trình bày cho độc giả con người của Chúa Giêsu trong chiều kích thật sự của Ngài, con người gây nhiều ngạc nhiên vì là thần linh, Gioan có cảm tưởng tác phẩm của mình chỉ là nét phác họa đơn sơ. Không phải là ông không nói hết: thật ra còn nhiều dấu lạ khác...(x. Hđ 43,27; 1M 9,22), nhưng nhất là vì trình thuật không bao giờ có thể trình bày đủ.

Cuối cùng, ông có thể làm gì nếu không phải là thuật lại các dấu chỉ? Chúng ta hãy nhớ lại các dấu chỉ có tính cách thiên sai ở phần đầu trong đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm này hiểu rộng ra: nó bao gồm những phép lạ (dấu chỉ và công việc 12,37) cũng như lời nói và cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên một khối (12,38); cả hai soi sáng cho nhau vì phép lạ và lời nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con người thiêng liêng của Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể dừng lại nơi những biểu lộ bên ngoài và kêu lên: “Phi thường thay, những phép lạ đó. Ý nghĩa tôn giáo sâu xa thay, những lời nói đó”. Bao lâu lời nói và phép lạ không gợi được cho độc giả con người thiêng liêng của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục đích. Gioan, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sáng suốt, biết chắc rằng thực tại trổi vượt hơn hình ảnh được diễn tả. Vì thế ông tha thiết kêu xin độc giả đừng dừng lại nơi dấu chỉ, nhưng phải đạt đến sự vật được dấu chỉ diễn tả, như ông đã làm dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.

Độc giả cần phải có đức tin, Phúc Âm không được viết ra như một lời biện hộ gởi đến người không tin, trong trường hợp này, Gioan có lẽ chứng tỏ mình thiếu chiến thuật. Thật vậy, cho dù dá mắt vào các sự kiện, ông không quan sát chúng trên phương tiện thuần lý, nhưng dưới ánh sáng của đức tin do Thánh Thần cổ võ và soi sáng. Gioan cho các tín hữu đã tin, nhưng ông báo cho biết không bao giờ họ đi đến mút cùng đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao hàm một thực thể không bao giờ cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ lòng tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách đã được đưa ra ánh sáng trong phần đầu của Phúc Âm (Ga 2-4) và được củng cố do phản ứng đức tin đầu tiên của cộng đoàn Kitô hữu (Cv 2,36), người Kitô hữu phải đào sâu lòng tin vào tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mạc khải vào giờ tôn vinh. Và đức tin càng đâm rễ sâu, thì sự sống thần linh và không thể phá hủy càng được trao ban nhờ danh - hay con người - Chúa Giêsu, vì Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu danh Người (17,11-12) và quyền thông sự sống thần linh vĩnh cửu. Ai tin vào danh Chúa Giêsu thì nhờ Ngài sẽ được sống muôn đời (1,12; 3,15-18; 12,50; 1Ga 5,13)

Không! Tin Mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu chỉ, Phúc Âm vẫn còn là như vậy bao lâu lòng tin của độc giả chưa đạt đến đích. Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi người tín hữu thấy vinh quang của Chúa Giêsu mà Chúa Cha ban cho Ngài khi Ngài trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh đã hiện hữu trước mọi thời gian (17,24)

KẾT LUẬN

Từ đây đức tin không dựa trên cái nhìn, nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy; chính nhờ đức tin này mà các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Kitô Phục Sinh (17,20).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Phản ứng của Toma khi thấy các tông đồ báo tin cho ông việc Chúa Giêsu hiện ra cho chúng ta thấy khía cạnh đầu tiên trong hoạt động của “thế gian”. Vì việc sống lại của Chúa Giêsu vừa khó tin vừa gây bực bội, nên ta thường bị cám dỗ không chấp nhận. Cũng thế, Tôma giới hạn tri giác về thực tại và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay của khả năng suy tư. Những gì ông không thể hiểu, không thể sờ đến, đo lường, đều bị ông từ chối. Đó là tinh thần của thế gian muốn kéo lôi tất cả đến với nó và chỉ chấp nhận những gì nó chứa đựng.

2. Đức tin luôn bao hàm sự liều lĩnh, bởi lẽ nó không tự áp dụng bằng kinh nghiệm hay lý luận. Đức tin trở nên khó khăn đối với Tôma, thì cũng khó khăn đối với tấ cả chúng ta. Đức tin dạy điều khó tin vì giả thiết một sự vượt quá thường xuyên con người chúng ta, vì đức tin là một sự tăng trưởng, một bước tiến đến Đấng nào đó luôn bí ẩn, luôn gây ngạc nhiên.

3. Đức tin không những là một sự liều lĩnh mà còn là một cuộc chiến, một trận đấu. Đức tin không có gì là thoải mái tiện nghi; nếu đức tin xây dựng và tái tạo chúng ta, điều đó có thể thực hiện nếu chúng ta biết từ bỏ chính mình. Thế gian mà đức tin sẽ toàn thắng không phải là một thực thể trừu tượng, xa vời. Thế gian đó, là chính chúng ta với những sợ hãi, lo âu, khoe khoang, ghen ghét, tham vọng và quyến luyến. Bao lâu còn bám chặt thế gian, bấy lâu chúng ta còn bị thống trị. Và chúng ta hoàn toàn giống nhau, nên chúng ta thường biện minh cho nhau, tự làm cho mình ra vô tình và không áy náy trong việc bất tuân lời Chúa và khuyến khích nhau từ bỏ đức tin; thế gian cũng như não trạng tập thể của xã hội thấm nhiễm vào chúng ta đến nỗi nếu phải suy nghĩ hay sống khác biệt với tập thể này, chúng ta có cảm tưởng là mình theo tư tưởng của riêng mình, là không liên đới với những người khác và phá hủy một cái gì cao quí và cần thiết.

4. Tôma thật đáng quí vì tôi nhận ra tôi trong ông; nếu tôi gặp nhiều khó khăn thực sự khi phải chấp nhận tất cả dưới lý do là vì Giáo hội dạy; tôi lại ít sẵn sàng chấp nhận khi thấy Giáo hội không sống như lời giáo hội nói. Nếu là chân lý, tại sao giáo hội không sống phù hợp hơn với điều Giáo hội giảng? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng như thế, hãy lặp lại lòi nguyện khiêm nhường của Phúc âm “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin ban thêm đức tin cho con”.

5. Chúa Giêsu 3 lần nói cùng chúng ta trong đoạn Phúc Âm này: “Bằng an cho các con”. Ngày nay, trong thế giới và Giáo hội với những lao động bất công và bạo hành, ước gì chúng ta sống trong bình an mà Đức Kitô Phục Sinh ban cho; chỉ khi nào đức tin toàn thắng thế gian trong con người chúng ta, khi đó chúng ta mới là kẻ xây dựng an bình.

---------------------------------------------------

 

PS2-80. Sứ điệp Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ


VietCatholic News (Thứ Tư 26/03/2008 10:22)


Ngày 30 tháng 3, 2008: CHÚA NHẬT II PHỤC SINH, NĂM A.

Tông Đồ Công Vụ 2:42-47;Thư I của Thánh Phêrô 1:3-9 và Phúc Âm Gioan 20:19-31

Sứ Điệp Phúc Âm:  Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ để minh chứng Ngài sống lại từ cõi chết.


Câu hỏi giáo lý

 

Tại sao Chúa hiện ra với những dấu đinh trên tay chân và dấu đâm bên cạnh sườn?:PS2-80


1. Tại sao Chúa hiện ra với những dấu đinh trên tay chân và dấu đâm bên cạnh sườn?

Người ta phái lính canh mồ Chúa với lý do là sợ “môn đệ hắn đến trộm xác rồi phao tin hắn sống lại từ cõi chết” (Matthêu 27:64-65). Lính canh mồ giữ xác, Chúa sống lại, xác không còn trong mồ. Lính canh nhận tiền hối lộ và được dạy để phao tin: “Khi chúng tôi ngủ, môn đệ hắn đến trộm xác mang đi! Và người Do Thái vẫn tin như vậy cho đến ngày nay” (Matthêu 28:13-15)

Chúa mang những thương tích trên thân xác phục sinh để nói: Ta chính là Giêsu, đã bị giết chết và nay đã sống lại. Người bị giết chết và người sống lại là MỘT, chứ không phải Giêsu bị giết chết, xác đã bị trộm đem đi và người đang hiện ra là một người khác.

2. Chúng ta biết gì về Tôma, tông đồ?

Tôma được Chúa chọn làm tông đồ. Phúc Âm Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ đều có đề cập đến Tôma (Mt.10:2-4; Mc.3:16-19; Lc. 6:14-16 và TĐCV. 1:13)

Tôma trong triếng Aram có nghĩa là “sinh đôi” (Twin).

Phúc Âm Thánh Gioan, dịch từ “Sinh đôi” sang tiếng Hy Lạp là Didymus để nói với các Cộng Đoàn người biết tiếng Hy Lạp là Tôma có nghĩa là “Sinh đôi” (Gio. 11:16; 20:24; 21:2)

Vào thế kỷ thứ ba và thứ tư, người ta thấy xuất hiện một ngụy thư mang tên Tông Đồ Công Vụ của Tôma (Acts of Thomas) và gọi Tôma là Giuđa Tôma và cho rằng Tôma là anh em sinh đôi với Chúa Giêsu. Cũng theo sách nầy, Tôma chịu tử đạo ở Ấn Độ và thi hài được chuyển về chôn cất ở Mesopotamia.

Phúc Âm Thánh Gioan có ba câu mô tả về Tôma: “Chúng ta hãy đi để cùng chết với Thầy” (11:16); “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu thì làm sao biết đường mà đi đến?”(14:5); và “Tôi chỉ tin, khi tôi thấy dấu đinh nơi tay và đấu đâm nơi cạnh sườn Thầy. Tôi chỉ tin, khi tôi xỏ ngón tay vào đấu đinh và thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Thầy!” (20:25). Phúc Âm mô tả Tôma như một người cứng đầu, đa nghi và giữ vững lập trường.

Áp dụng

1. Tại sao Chúa không hiện ra để trả thù những người đã hành hình và giết Chúa chết?

a) Chúa Phục sinh là niềm vui, là tin mừng. Thượng Tế Cai Pha, Nhóm Biệt Phái, Tổng Trấn Philatô, đội lính hành hình chắc chắn sẽ sợ chứ không mừng khi Chúa hiện ra. Tin mừng chỉ nên ban tặng cho người sẵn sàng và vui mừng đón nhận

b) Những người được Chúa Phục Sinh hiện ra đều được trao ban sứ mạng “loan báo tin mừng Phục Sinh!” Chúa “chọn mặt gửi vàng!” Các Tông đồ Chúa đã hiến cả đời và mạng sống mình vì tin mừng Phục Sinh. Đang khi đó, Biệt Phái phải hối lộ linh canh để phao tin “xác bị trộm!”

c) Tin mừng Phục Sinh được ghi chép lại để “anh chị em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa và nhờ niềm tin nầy mà anh chị em có sự sống!”(Gio. 20:30) Chúa Phục sinh bỏ qua quá khứ đau khổ, hận thù, chết chóc để hướng về tương lai cứu độ nhân loại đầy hữu ích.

2. Có khi nào chúng ta cố gắng học hành thành công hay làm ăn giàu có để làm sáng nắt những ai từng khinh dễ chúng ta không? Hãy bắt chước Chúa: Mang Tin mừng cho người biết đón nhận. Làm Thánh giá trổ sinh hoa huệ trắng Phục Sinh, hoa tình thương mang sự sống cứu độ.


LM. Phêrô Trần Thế Tuyên

---------------------------------------------------

 

PS2-81. SỐNG SỨ ĐIỆP LÒNG THƯƠNG XÓT

 

Để đáp lại lời kêu gọi mà Chúa Giêsu đã truyền cho Thánh Faustina, phong trào tôn sùng Lòng:PS2-81 LÒNGTHƯƠNGXÓT


Để đáp lại lời kêu gọi mà Chúa Giêsu đã truyền cho Thánh Faustina, phong trào tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa Giêsu đang lan tràn khắp nơi trên thế giới. Ơ nhiều nơi trên thế giới, người ta có những nhóm học hỏi, thảo luận và áp dụng sứ điệp Thương Xót vào đời sống. Nhưng có lẽ phần lớn người Việt Nam chỉ có lần Chuỗi Thương Xót và làm Tuần Cửu Nhật Thương Xót, và hầu như không mấy chú tâm những phần quan trọng khác của sứ điệp Thương Xót.

Khi chọn Thánh Faustina là tông đồ của Lòng Thương Xót, Chúa trao cho Chị ba sứ vụ chính là:


• Nhắc nhở nhân loại về Lòng Thương Xót bao la của Thiên Chúa đã được mạc khải trong Thánh Kinh.

• Dạy cho chúng ta những kinh nguyện mới về việc Sùng Kính Lòng Thương Xót Chúa, và...

• Khởi xướng một phong trào tông đồ của Lòng Thương Xót để dẫn đưa người khác đến cùng Chúa trong tinh thần tín thác và tin tưởng vào Thiên Chúa như trẻ em, đồng thời thương yêu tha nhân như được diễn tả trong kinh "Thương Người Có Mười Bốn Mối".

Vậy sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn chúng ta truyền bá cho cả nhân loại không phải chỉ là lần Chuỗi Thương Xót hay làm Tuần Cửu Nhật Thương Xót để lãnh nhận ơn Toàn Xá, mà làm cho người ta nhận biết Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, dù họ tội lỗi đến đâu đi nữa, qua chính cách sống đầy thương xót của chúng ta. Muốn được như thế, chúng ta phải thường xuyên học hỏi Thánh Kinh và những gì Chúa dạy trong Nhật Ký của Thánh Faustina và đem ra thực hành.

Sứ điệp này cò thể được tóm tắt bằng ba chữ ABC:

A - Ăn năn tội lỗi và cầu khẩn ơn Thương Xót.

Thiên Chúa muốn mọi người, đặc biệt là những người tội lỗi, đến với Người qua việc cầu nguyện không ngừng, ăn năn tội lỗi và xin Chúa đổ tràn Lòng Thương Xót trên chúng ta và trên toàn thế giới.

Chúa Giêsu nói với Chị Faustina:

“Con ơi, hãy viết những điều này. Nói cho thế gian về Lòng Thương Xót của Ta; hãy làm cho cả nhân loại nhận ra Lòng Thương Xót vô biên của Ta. Nó là dấu hiệu của những ngày sau hết; sau đó ngày Công Lý sẽ đến. Trong khi còn thì giờ, hãy làm cho nhân loại trông cậy vào nguồn xót thương của Ta; cho họ được hưởng lợi ích từ máu và nước đã vọt ra cho họ” (Nhật Ký 11, 229-230).

"Con ơi, hãy nhìn vào hố thẳm của Lòng Thương Xót Ta và chúc tụng ngợi khen Lòng Thương Xót này của Ta. Hãy làm thế này: Tụ họp tất cả những người tội lỗi trên toàn thế giới và nhận chìm họ vào trong hố thẳm của Lòng Thương Xót Ta. Ta muốn hiến thân cho các linh hồn; con ơi, Ta khao khát các linh hồn. Trong ngày Đại Lễ của Ta, Ngày Đại Lễ Thương Xót, con sẽ đi khắp thế giới và đem các linh hồn yếu ớt đến Suối Thương Xót của Ta. Ta sẽ chữa lành và thêm sức cho chúng” (Nhật Ký, 206).

B - Biết thương xót người.

Thiên Chúa muốn chúng ta nhận lãnh sự thương xót của Ngài và làm cho nó tràn qua chúng ta đến người khác. Ngài muốn chúng ta yêu thương và tha thứ cho tha nhân như Ngài đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta.

Chính Chúa đòi hỏi chúng ta phải làm những công việc thương xót, “Những công việc thương xót phải thực hành vì yêu Ta. Con phải tỏ Lòng Thương Xót tha nhân mọi nơi và mọi lúc. Con không được chùn bước hay từ khước làm điều này." (Nhật Ký, 742).

Chúa Giêsu nói: “Con phải là hình ảnh sống động của Cha qua tình yêu và Lòng Thương Xót, vậy hãy luôn thương xót người khác, nhất là những người tội lỗi.” (Nhật Ký, 1446)

Một cách tốt nhất để thương xót ngươì khác là tích cực rao truyền việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa. Rao truyền không phải chỉ bằng lời nói, mà còn bằng việc làm, nhất là sống đời nhiệm tích, tôn sùng Thánh Thể, bảo vệ sự sống, và thực thi các việc thương xót cả phần hồn lẫn phần xác. Chúa Giêsu đã hứa: “Ta sẽ che chở những linh hồn truyền bá và tôn vinh Lòng Thương Xót Ta cả đời như mẹ hiền che chở con thơ, và trong giờ chết Ta sẽ không là Quan Án của họ, mà là Đấng Cứu Độ đầy Thương Xót” (Nhật Ký, 1075).

C - Cậy trông và tín thác hoàn toàn vào Chúa Giêsu.

Thiên Chúa muốn chúng ta biết rằng ân sủng của Lòng Thương Xót Người tùy thuộc vào lòng tín thác của chúng ta. Càng tín thác nhiều, chúng ta càng nhận được nhiều.

Sứ điệp Chúa ban cho Thánh Faustina kêu gọi ta quay về với Lòng Thương Xót của Chúa với một lòng tín thác để lãnh nhận sự thương xót với lòng biết ơn, và để thương xót tha nhân.

Sứ điệp này kêu gọi chúng ta sống khiêm nhường, vì những người kiêu ngạo tin rằng những thành quả họ đạt được là do sức mình chứ không phải do ơn Chúa. "Tất cả anh em hãy mặc lấy sự khiêm nhường đối với nhau vì Thiên Chúa chống người kiêu ngạo, và ban ơn sủng cho người khiêm nhường" (1 Phêrô 5:5)

Chúa nhấn mạnh, "Các ơn của Lòng Thương Xót của Ta chỉ được lãnh nhận bằng một phương cách mà thôi, đó là tín thác. Linh hồn nào tín thác nhiều sẽ nhận được nhiều" (Nhật Ký, 1578).

Tín thác bao hàm việc trở về với Thiên Chúa, một sự thay đổi đời sống theo Chúa thật, và sám hối cùng tha thứ cho những người thù nghịch ta. Nếu chúng ta thật sự tín thác vào Chúa, thì chúng ta sẽ không còn lo lắng, sợ sệt, và thất vọng: "Vì vậy, đừng lo lắng, mà nói rằng 'Chúng tôi sẽ ăn gì?' hay 'Chúng tôi sẽ uống gì?' hoặc 'Chúng tôi sẽ mặc gì?' vì dân ngoại tìm kiếm những sự đó, và Cha chúng ta ở trên trời biết các con cần gì. Nhưng hãy tìm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước, và các con cũng sẽ có những điều đó" (Mt 6:31-33).

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vác thập giá mà theo Người khi Người dùng những thử thách chúng ta chịu để kéo chúng ta đến gần Người. Người nói với Chị Faustina: "Các linh hồn chỉ được mua bằng một giá, đó là sự đau khổ hợp làm một với sự đau khổ của Ta trên Thánh Giá. Tình yêu tinh tuyền hiểu những lời này, tình yêu xác thịt sẽ không bao giờ hiểu chúng" (Nhật Ký, 324). Chính nhờ trưởng thành trong thử thách mà chúng ta nhận ra cuộc đời thật phù phiếm, nhìn nhận sự lệ thuộc của mình vào Thiên Chúa, và có bình an thực sự là bình an mà chỉ một mình Chúa mới có thể ban cho. "Thầy đã nói với các con rằng trong Thầy các con có bình an. Trong thế gian các con có đau khổ; nhưng hãy vui mừng lên. Thầy đã khắc phục thế gian” (Gioan 16:33).

Khi hiện ra với Thánh Faustina, Chúa cho Chị thấy hai luồng ánh sáng phát ra từ vết thương ở trái tim Người. Luồng ánh sáng đỏ, Chúa Giêsu giải thích, "Luồng trắng tượng trưng cho Nước làm cho linh hồn nên công chính. Luồng đỏ tượng trưng cho Máu là sức sống của linh hồn... Hai luồng sáng này chiếu ra tận đáy của Lòng Thương Xót dịu hiền của Ta khi Trái Tim đang hấp hối của Ta được mở ra bởi lưỡi đòng trên Thánh Giá" (Nhật Ký, 299). Nói cách khác, hai luồng sáng này biểu thị các Bí Tích Thương Xót: Thánh Thể và Hòa Giải. Qua Bí Tích Thánh Thể (Máu Thánh) mà chúng ta nhận lãnh lương thực, và qua Bí Tích Hòa Giải (Nước) mà linh hồn chúng ta được rửa sạch. Chúa Giêsu nói: "Phúc thay cho ai ẩn náu dưới sự che chở của hai luồng sáng này, vì tay công thẳng của Thiên Chúa không đụng đến người ấy" (Nhật Ký, 299).

Vì Tình Yêu cao vời của Chúa, Người ban cho chúng ta Bí Tích Thánh Thể và Hòa Giải, cho chúng ta ân sủng và thần lương trên đường lữ thứ trần gian. Vì thế, chúng ta cần sống một đời nhiệm tích để thi hành sứ điệp của Chúa. Người mời gọi chúng ta tự hạ mà đến cùng vị đại diện Người mà thú tội chúng ta, và cố gắng không phạm tội nữa. Trong Phép Thánh Thể, chúng ta lãnh nhận Bánh Ban Sự Sống, Mình, Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của Chúa Giêsu. "Vì Thịt Ta chính là của ăn, và Máu Ta thật là của uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ ở trong Ta, và Ta ở trong người đó" (Gioan 6:55-56).

Qua Bí Tích Hòa Giải chúng ta giao hòa cùng Thiên Chúa và anh em. Qua Bí Tích Thánh Thể, chúng ta kết hợp với Chúa để một ngày một nên giống Chúa hơn và kết hợp với anh chị em chúng ta là những phần tử của Nhiệm Thể Chúa để chia sẻ với họ tất cả tình yêu thương và sự sống của chúng ta. Nhờ đó chúng ta thật sự yêu tha nhân vì yêu Chúa.

Kết Luận

Mặc dầu những cách sùng kính mà Chúa dạy Thánh Faustina thật quan trọng, nhưng toàn thể sứ điệp Thương Xót kêu gọi chúng ta hãy để Thiên Chúa điều khiển cuộc đời mình và tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta phải trở nên bình chứa thương xót; luôn tỏa tình yêu và Lòng Thương Xót đối với tha nhân. Sứ điệp Lòng Thương Xót không phải là điều mới mẻ, nhưng là một lời nhắc nhở điều mà Hội Thánh luôn dạy là Thiên Chúa là Đấng hay thương xót và tha thứ, và chúng ta cũng phải làm như vậy trong cách cư xử của chúng ta với người khác. "Phúc cho những ai có Lòng Thương Xót vì họ sẽ được thương xót" (Mt 5:7).



(Trích dịch từ Nhật Ký của Thánh Faustina.)
Phaolô Phạm Xuân Khôi

---------------------------------------------------

 

PS2-82. LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA

 

Vào tháng 4 năm 2000 trong dịp phong thánh cho nữ tu người Ba Lan, Sơ Maria Faustina:PS2-82


Vào tháng 4 năm 2000 trong dịp phong thánh cho nữ tu người Ba Lan, Sơ Maria Faustina Kowalska,  ĐTC Gioan-Phaolô II đã ấn định Chủ Nhật thứ II mùa Phục Sinh là lễ tôn kính lòng Thương Xót Chúa.  Khi thiết lập lễ này, ĐTC đã thực hiện lời yêu cầu của chính Chúa Kitô được mạc khải qua Sơ Faustina là quảng bá về lòng tương xót vô lượng của Thiên Chúa.

****

Lòng từ bi thương xót được diễn tả trong cách Chúa Kitô đối xử với các môn đệ khi Ngài đến với họ.  Trong giờ phút khó khăn nhất ở Vườn Dầu, họ đã bỏ Ngài chạy thoát thân, nhưng Ngài không bỏ họ trong tăm tối tuyệt vọng.  Khi họ sống trong cô đơn, sợ hãi, dày vò, mặc cảm, khép kín, Ngài hiện đến an ủi họ, ban cho họ bình an và niềm vui.  Khi họ thất bại và bỏ cuộc, Ngài vẫn đặt niềm tin nơi họ.  Ngài trao năng quyền tha tội và củng cố sứ mạng rao giảng và chữa lành của họ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”  [Ga 20:21].

Lòng từ bi thương xót đó cũng được diễn tả trong cách Chúa Kitô đối xử với những người bắt bớ bách hại Ngài.  Ngài sẽ trả thù những kẻ tố cáo lên án Ngài ư?  Không! Trả thù những kẻ tra tấn, sỉ nhục đóng đinh Ngài ư?  Cũng không!  Trên thập giá, Ngài đã tha thứ tất cả, chấp nhận tất cả.  Và giờ đây, Ngài gửi các môn đệ đến với họ, nói cho họ và cả thế giới biết người mà họ đã đóng đinh chính là Con Thiên Chúa, Đấng gánh tội cho họ.  

Trong số các môn đệ, có lẽ Tôma cảm nghiệm được lòng thương xót này cách mạnh mẽ nhất.  Theo Tin Mừng Gioan, ngay vào buổi chiều ngày Phục Sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ đang co rúm vì lo sợ cho số phận mình.  Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này, Tôma đã không có mặt.  Ngoài phố chợ, người ta đang đồn là xác Đức Giêsu bị các môn đồ đánh cắp.  Ông đau xót quá, nhục nhã quá. Bây giờ lại nghe đồn Thầy sống lại.  Chết rồi cũng chưa được yên.  Tôma không dễ bị thuyết phục bởi những tin đồn.  Vừa rối trí vừa bực mình, ông nhất quyết phải tìm ra sự thật.

Lý trí của ông không dễ dàng chấp nhận chuyện kẻ chết sống lại.  Thật ra, ông đã từng thấy kẻ chết được sống lại: cô bé con ông Giairô, con trai bà goá ở Naim, anh Lazarô ở Bêtania.  Nhưng đó là những ngưòi đã qua đời vì đau ốm bệnh tật; còn đây lại là chuyện khác.  Làm sao một người bị đánh đòn, bị đóng đinh, bị đâm thủng ngực, có thể sống lại được chứ?  Phải chăng các môn đệ chỉ gặp người chết hiện hồn?  Phải chăng họ thương nhớ Thầy mình quá, nên đã nhận diện lộn người?  Phải chăng họ đang sống trong ảo tưởng, chưa dám chấp nhận sự thật phũ phàng là Thầy không còn nữa?  

Lý trí và tình cảm xung đột nhau.  Ông muốn tin lắm, nhưng không thể dễ dàng như thế.  Ông phải đi tìm sự thật, phải tìm ra xác của Thầy.  Ít ra cũng phải đưa về quê chôn cất đàng hoàng, như vậy mới vẹn nghĩa thầy trò.

Nhưng trước khi ông đi tìm Chúa, thì Chúa đã tìm ông.  Ngài đi tìm Tô-ma, con chiên lạc trong mâu thuẫn của lý trí và tình cảm.  Ngài mời Tô-ma đến với Ngài, nhìn tận mắt, sờ tận tay.  Ngài muốn ôm Tôma vào lòng, muốn củng cố đức tin của ông.  Nhưng Tô-ma đã không cần nhìn, không cần sờ.  Chỉ một lời của Chúa cũng đủ xoá tan bao thắc mắc ưu tư của ông.  Lời Hằng Sống đó là lời an ủi, lời cảm thông, lời khích lệ, lời tha thứ.  Ông quỳ xuống ngỡ ngàng tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của  tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” [Ga 20:28]

***

Bạn thân mến,

Bạn thấy điều gì trong ánh mắt của Chúa Kitô nhìn Tôma?  Phải chăng Ngài đang mỉm cười với Tôma?  Ngài thông cảm với cái cứng đầu của ông, với sự dè dặt của ông.  Ngài khoan dung, hạ mình làm theo yêu cầu của Tôma.  Và qua đó, Tôma đã gặp Ngài.

Chúng ta cũng là những Tôma cứng đầu.  Bạn và tôi, chúng ta cũng đã từng kháng cự Chúa Kitô trong đời sống của mình. Cách này hay cách khác, chúng ta cũng đã bỏ rơi Ngài, từ chối Ngài, không tin vào Ngài.  Nhưng chính trong những lúc đó, Chúa Kitô muốn ôm chúng ta vào lòng để củng cố đức tin của chúng ta, Chính những lúc đó, lòng thương xót của Ngài được dịp loan toả.

Lòng từ bi thương xót của Chúa được thể hiện thế nào trong cuộc sống bận rộn vất vả của chúng ta hôm nay?  Khi tôn sùng Lòng Thương Xót của Ngài, chúng ta được những ơn ích gì?

Trước hết, việc tôn sùng này cho chúng ta bình an nội tâm.  Khi ta thống khổ dằn vặt với lo lắng, bực dọc và căng thẳng, ta đang bị “Hội Chứng Tôma” hành hạ.  Phần lớn những lo toan nhọc nhằn, áp lực căng thẳng của cuộc sống hiện đại đến từ sự nghi ngờ cứng tin. 

Chúng ta nghi ngờ vào giá trị thật của con người mình.  Dùng thước đo của thành công, danh vọng, quyền lực, của cải, để đánh giá mình và người khác, chúng ta không còn tin vào mình là một thọ tạo đáng yêu, được Thiên Chúa chăm sóc chu đáo.

Hoặc chúng ta nghi ngờ vào quyền năng và sự tốt lành của Thiên Chúa.  Chúng ta không còn tin Chúa mong muốn hoặc có thể tha thứ cho chúng ta, sửa chữa những lỗi lầm, đem lại thành công trong sự thất bại, điều tốt trong sự dữ, sự sống trong cái chết.   Vì thế chúng ta phải bươn chải tự lo cho mình.

          Mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa xoá tan mọi nghi ngờ.  Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xác quyết rằng chúng ta có giá trị, chúng ta được tha thứ, và Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta.  Chúng ta hãy xác quyết một lần nữa vào lòng thương xót của Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của thánh nữ Faustina: “Giêsu ơi, con tín thác nơi Ngài”.

*****

          Lạy Chúa Giêsu Kitô, qua cái chết của Ngài trên thánh giá và qua bao thời đại, dấu hiệu, nhân chứng, mạc khải… Ngài chỉ muốn tỏ lộ cho thế gian biết về lòng thương xót vô biên của một Thiên Chúa nhân lành đối với chúng nhân tội lỗi.  Xin cho con cảm nghiệm được lòng thương xót vô điều kiện của Chúa để không bao giờ ngã lòng vì những yếu đuối bất toàn của mình.  Giêsu ơi, xin cho con biết noi gương thánh nữ Faustina mà phó thác cuộc đời gian truân nơi Ngài.  Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con, con tin Chúa là Thiên Chúa Hằng Sống của muôn loài và của chính con.  Amen!

Bảo Lộc

---------------------------------------------------

 

PS2-83. Niềm tin vào việc Chúa sống lại


Chúa Nhật 2 Mùa Phục Sinh

(Cv 2,42-47; 1P 1,3-9; Yn 20,19-31)

 

Chúng ta đã có thể nhận thấy vì sao Phụng vụ hôm nay lại đọc cho chúng ta đoạn Tin Mừng:PS2-83


Chúng ta đã có thể nhận thấy vì sao Phụng vụ hôm nay lại đọc cho chúng ta đoạn Tin Mừng vừa nghe. Bởi vì hôm nay là ngày thứ 8 sau lễ Phục sinh; thế mà 8 ngày sau khi sống lại Chúa đã hiện ra đặc biệt cho Thôma.

A. Bài Tin Mừng Yoan

Câu chuyện về người Tông đồ này, chúng ta đã từng nghe biết. Và khi muốn chế nhạo ai, nhiều khi chúng ta bảo họ cứng lòng tin như Thôma. Nhưng thật sự, Thôma vẫn là một vị thánh Tông đồ và người đáng kính phục hơn chúng ta tưởng. Ít nhất người cũng hơn chúng ta nhiều. Theo Tin Mừng Yoan, Thôma là vị Tông đồ có suy nghĩ sáng sủa và nhiệt tình quả cảm. Khi Ðức Yêsu nói với các môn đệ rằng: con đường Người đi, sau này họ cũng sẽ đi. Thôma liền thưa: nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao biết được đường lối của Thầy? (14,5). Nhưng dù vậy, khi thấy Chúa dứt khoát muốn lên Yêrusalem, không kể chi đến những nguy hiểm đang chờ, Thôma đã bảo anh em: Nào cả chúng ta nữa hãy lên Yêrusalem chịu chết với Người. Một tính tình như vậy chỉ đáng khen, chứ có gì là đáng chê.

Riêng trong câu chuyện hôm nay, thoạt tiên Thôma có vẻ như là người Tông đồ duy nhất không muốn tin việc Chúa sống lại. Ðó chỉ là lối thuật truyện của tác giả Tin Mừng thứ tư. Những sách Tin Mừng khác cho biết lúc đầu nhiều môn đệ không muốn tin như vậy. Nhưng Yoan khi kể chuyện thích nói đến "một" người để làm nổi bật ý nghĩa lên. Ông có lý để chọn Thôma vì người Tông đồ này, như ta đã nói, có óc suy nghĩ sáng sủa. Những môn đệ khác đã được thấy Chúa; còn ông, ông cũng muốn được hân hạnh đó, nếu có thể được. Và hơn nữa, ông muốn có bằng chứng xác thực hơn kiểu cách anh em mô tả. Ông muốn được mắt thấy tay sờ. Yoan mô tả thái độ của ông như vậy để khẳng định rằng: niềm tin của các Tông đồ vào việc Chúa sống lại căn cứ vào những cơ sở thật chắc chắn.

Ðó là chủ đích của cả đoạn Tin Mừng Yn 20. Từ đầu chí cuối, tác giả muốn nhấn mạnh: niềm tin vào việc Chúa sống lại phát xuất từ những sự kiện không chối cãi được. Yoan và Phêrô chỉ tin sau khi đã thấy mồ trống và các khăn liệm xác. Maria Magđala chỉ nhận ra Thầy đã sống lại sau khi nghe rõ tiếng Thầy gọi tên mình. Mọi Tông đồ khác, kể cả Thôma, con người có suy nghĩ sáng sủa, cũng chỉ công nhận Chúa đã phục sinh khi đã nhìn thấy Người. Ðức tin của các Tông đồ có cơ sở chắc chắn. Họ thật là các chứng nhân của việc Chúa sống lại.

Thành ra kết câu chuyện về Thôma cũng giống như chuyện về Maria Magđala. Cả hai đều vắng mặt khi những người khác được "ơn". Ðiều ấy thúc đẩy họ khao khát được ơn lớn hơn. Và quả thật, Chúa đã thưởng công những tâm hồn cậy tin. Maria đã được hơn Yoan và Phêrô vì Chúa đã hiện ra với bà và thân mật dịu dàng gọi tên bà. Thôma cũng vậy, ông được Chúa hiện ra cho một mình ông, nếu ta nói được như thế.

Còn câu Chúa nói: "Bởi thấy Ta, con đã tin; phúc cho những ai không thấy mà tin", không thể làm Thôma buồn, vì ông thuộc thế hệ các Tông đồ, những người đã thấy và đã tin. Ai dám bảo thế hệ ấy không có phúc? Chính Chúa đã có lần nói với họ: Phúc cho chúng con vì được xem thấy, nghe thấy bao điều mà các tiên tri vua chúa không được thấy và nghe. Họ có phúc vì đã thấy và đã tin, đang khi có bao kẻ cũng thấy mà không tin. Ðức tin không chỉ căn cứ vào những điều đã thấy. Bọn Biệt phái có mắt mà như mù. Nên Thôma đã thấy và đã tin, thì đã có phúc rồi. Và chắc chắn niềm vui của ông thật đã to lớn khi thấy Chúa hiện ra và nói với mình. Câu nói kia không nhắm ông nữa, nhưng hướng về độc giả sách Tin Mừng và chúng ta hết thảy. Chúng ta không thuộc thế hệ những người mắt thấy, mà chúng ta tin, thì chúng ta là những người có phúc. Có phúc vì đã được ơn Chúa ban, vì đức tin, cuối cùng, là ơn ban của Chúa. Người ban cho những ai Người đã tiền định. Chính cái phúc đó mà chúng ta phải suy nghĩ bây giờ theo lời thư 1 Phêrô.

B. Bài Thư Phêrô

Tác giả bắt đầu bằng lời chúc tụng Thiên Chúa vì nghĩ đến hạnh phúc mình đã được với tư cách là tín hữu. Quả vậy, chỉ vì lòng thương lớn lao mà Người đã ban cho tất cả chúng ta được ơn tái sinh nhờ mầu nhiệm Ðức Kitô Phục sinh từ cõi chết. Chúng ta đâu đã thấy Người, thế mà chúng ta vẫn mến tin Người. Do đâu vậy, nếu không phải do lòng thương xót lớn lao của Người? Chính lòng thương xót ấy đã ban Ðức Kitô cho chúng ta, đã để Người chết cho chúng ta và đã phục sinh Người từ kẻ chết cho chúng ta. Tất cả những việc lớn lao đó nằm trong kế hoạch tình yêu muốn cho chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi và trở nên nghĩa tử trong Ðức Kitô, khiến chúng ta được trông đợi hồng phúc lớn lao bất diệt sau này. Sánh với phúc lộc ấy, những đau khổ ở đời này có là chi? Ðó chỉ là tạm bợ và rơm rác làm cho vàng sáng tỏ. Thế nên chúng ta hãy giữ vững niềm tin, nhìn vào Ðức Kitô sống lại trong vinh quang mà chắc chắn vào tương lai rực rỡ đang chờ mình. Hạnh phúc ở ngay trong niềm tin ấy.

Như vậy bài thư Phêrô đã tiếp nối bài Tin Mừng Yoan, cho chúng ta thấy hạnh phúc của mình khi tin Ðức Kitô sống lại và dùng niềm tin ấy khuyến khích chúng ta trong cuộc đời phấn đấu ở trần gian. Nhưng thật lầm tưởng khi suy nghĩ việc Chúa Phục sinh nguyên trong tương quan với mình mà thôi. Khi nói với Thôma: phúc cho những ai không thấy mà tin, Chúa sống lại gián tiếp ngỏ ý muốn có những người như vậy; nghĩa là Thôma và các Tông đồ phải đi tìm những người như thế. Người cũng đã dạy Maria, khi đã nhận ra Người sống lại, hãy đi báo tin cho các môn đệ. Niềm tin phục sinh bao hàm sứ điệp truyền giáo. Ðức tin của những người đã thấy làm cho những kẻ không thấy mà tin. Những kẻ này có phúc qua trung gian những người trên. Chúng ta nay được phúc lộc nhờ lời giảng của các Tông đồ. Và tác động của các Ngài tới chúng ta qua Giáo Hội mà buổi đầu đã được tác giả sách Công vụ mô tả như chúng ta vừa nghe đọc. Chúng ta cần tìm hiểu đoạn Thánh Kinh này để biết rõ môi trường phải nung nấu niềm tin hạnh phúc của chúng ta vào việc Chúa phục sinh.

C. Bài Sách Công Vụ

Rõ ràng câu cuối bài sách Công vụ cho thấy "số những kẻ được cứu rỗi cứ mỗi ngày được Chúa ban thêm" cho cộng đoàn các Tông đồ lập ra. Và ta phải hiểu niềm tin cứu rỗi nơi mỗi người cũng chỉ tăng trong các cộng đoàn như thế. Thế nên tìm hiểu các cộng đoàn này là một nghĩa vụ.

Tác giả sách Công vụ - thánh Luca - đã nhiệt tình làm công việc ấy. Ở đây rõ ràng người không phác họa tự ý. Bản văn của người thiếu thứ tự và có nhiều nét lặp lại, khiến ta có thể nói người đã nghe tin về nhiều cộng đoàn khác nhau và thấy Ơn Chúa Thánh Thần làm việc ở các cộng đoàn khác nhau thế nào, người ghi tất cả lại như là một bản thống kê các sinh hoạt phong phú của Chúa Thánh Thần.

Trước hết chúng ta thấy các tín hữu bấy giờ kiên trì (hay chuyên cần) với giáo huấn của các Tông đồ và sự hiệp thông, việc bẻ bánh và kinh nguyện. Không có sự chuyên cần với giáo huấn của các Tông đồ, không thể đào sâu và giữ vững đức tin. Người ta sẽ tin hời hợt và có thể lạc mất niềm tin. Việc kiên trì kết hợp với các Tông đồ, với quyền giáo huấn ở trong Hội Thánh là điều kiện để giữ được liên lạc và kết hợp được với Ðức Kitô hầu khỏi bỏ rơi mất niềm tin.

Ðồng thời khi liên kết với đầu, người ta cũng mật thiết với anh em là cùng chi thể trong một thân thể. Các tín hữu đầu tiên đã chuyên cần với hiệp thông, không những trong cùng một đức tin nhưng còn trong một lòng mến. Họ chỉ có một lòng một ý (4,32). Không một người nào nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung. Chắc chắn chúng ta không nên hiểu chế độ "của chung" đã phổ cập ở mọi nơi, trong những cộng đoàn đông đảo. Nhưng sự kiện có một số người sau khi đã đón nhận đức tin, đã biết tình nguyện bỏ chung của để chia sẻ và tương trợ nhau, cũng nói lên ơn Chúa Thánh Thần làm việc mạnh mẽ nơi tâm hồn các tín hữu. Luca ghi nhận sự kiện ấy như là dấu chỉ về đời sống mới và hạnh phúc phục sinh. Ðó có thể là lý tưởng, nhưng vẫn là đặc sủng, là tiếng gọi, là biểu thị của đức tin sống động và toàn vẹn, là dấu chỉ đời sống phục sinh phát triển đến mức cụ thể chi phối đến cả đời sống vật chất.

Tuy nhiên sự hiệp thông sâu xa và căn bản nằm ở bình diện khác. Chính Thiên Chúa và sự sống của Người là nguồn mạch phát sinh ra sự sống trong Hội Thánh. Thế nên hàng ngày các tín hữu chuyên cần với việc bẻ bánh và kinh nguyện. Sách Công vụ nói: họ bẻ bánh ở nhà vì đó là nghi lễ riêng của Kitô giáo, không làm tại Ðền thờ được. Họ làm việc ấy "lòng hân hoan, dạ đơn thành, trong lòng ngợi khen Thiên Chúa", vì đây là lễ Tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ mọi người nơi Ðức Yêsu Kitô Tử nạn và Phục sinh. Chính trong nghi lễ bẻ bánh họ nhận ra sự hiện diện của Chúa đã chết và sống lại; họ thấy Thiên Chúa ra tay cứu độ loài người, nên lòng họ hân hoan, miệng dâng lời ngợi khen. Lúc ấy tâm hồn được bồi dưỡng, dạ họ trở nên đơn thành; họ trở nên tạo vật mới, nên bánh không men của lễ Vượt Qua, tức của mầu nhiệm Phục sinh.

Ngoài ra, họ tỏ ra chuyên cần với việc cầu nguyện vì đó là thái độ chung của mọi người có tin tưởng. Người Dothái trung thành với kinh nguyện ở Ðền thờ. Các môn đệ Chúa cũng vậy. Sách Công vụ kể Phêrô và Yoan lên Ðền thờ cầu nguyện vào giờ chung với mọi người. Nhưng ngay từ đầu các tín hữu đã có lối cầu nguyện riêng chung với nhau, như khi chờ nhận ơn Chúa Thánh Thần. Và việc cầu nguyện này cần cho đời sống mới đến nỗi Phêrô khẳng định các việc từ thiện bác ái không được làm suy giảm.

Chính nhờ nếp sống chuyên cần với việc giáo huấn, hiệp thông, bẻ bánh và cầu nguyện như thế mà Hội Thánh lớn lên trong sự mến phục của toàn dân và được Chúa chúc lành cho tăng trưởng.

Thế thì đời sống đức tin mới của mỗi người cũng chỉ có thể phát huy được nhờ bốn sự chuyên cần trên, tức là nhờ việc tham gia vào nếp sống chuyên cần của Giáo hội. Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta qua Ðức Yêsu-Kitô, Ðấng đã chết và sống lại. Thôma đã xem thấy Người và đã tin. Chúng ta không thấy nhưng vẫn tin vì Người đang hoạt động nơi các Tông đồ và Giáo hội. Chính việc liên kết với các Tông đồ và hiệp thông với anh em trong việc bẻ bánh và cầu nguyện làm cho chúng ta được hợp nhất với Chúa và nhận lấy sự sống của Người. Sự sống này là sự sống Thần Linh hay Thánh Thần mà Ðức Kitô đã đem lại khi Người Tử nạn-Phục sinh. Khi phát triển sự sống ấy có thể phát sinh ra một nếp sống mới thật sự khiến toàn dân mến phục và nhiều người theo Chúa.

Chúng ta cần suy nghĩ về những điều ấy và đem ra thực hành. Chắc chắn đời sống riêng của chúng ta và đời sống chung của giáo xứ sẽ khả quan hơn nhiều. Và để bắt đầu, chúng ta hãy sốt sắng hiệp thông với nhau trong việc tuyên xưng một đức tin, trong việc cầu nguyện và bẻ bánh, để có thể hiệp thông trong việc chia sẻ tương trợ nhau trong đời sống.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố giám mục Nguyễn Sơn Lâm)


GM Nguyễn Sơn Lâm

---------------------------------------------------

 

PS2-84. SỐNG SỨ ĐIỆP LÒNG THƯƠNG XÓT


LÀ ĐỂ CHÚA LÀM CHỦ ĐỜI MÌNH

 

Tín Thác là nhân đức căn bản và cần thiết cho những ai muốn sống Sứ Điệp Lòng Thương Xót:PS2-84 LÒNGTHƯƠNGXÓT


Tín Thác là nhân đức căn bản và cần thiết cho những ai muốn sống Sứ Ðiệp Lòng Thương Xót. Chúa muốn chúng ta trở nên bình chứa đựng sự thương xót. Nhưng cái bình này có khả năng chứa đựng và tỏa ra nhiều hay ít tùy thuộc vào lòng tín thác của chúng ta vào Thiên Chúa. Tín thác không chỉ có nghĩa là tin rằng Thiên Chúa là Đấng đáng tin cậy; mà còn có nghĩa là phó thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa, để cho Ngài điều khiển cuộc đời mình. Tín Thác đòi hỏi sự hối cải tận trái tim và linh hồn. Tín thác đem lại cho chúng ta sự khôn ngoan để hiểu biết sự cần thiết của việc cầu xin Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, để xót thương tha nhân, và để Thiên Chúa làm chủ đời mình. Tín Thác vào Chúa đem lại cho tâm hồn chúng ta bình yên thật, sự bình yên của Đức Kitô Phục Sinh.

Tín Thác đòi chúng ta khiêm nhường. Người kiêu ngạo cho rằng những thành công là do tài năng của mình và họ cảm thấy không cần tín thác vào Thiên Chúa. Làm tông đồ của Chúa mà chỉ biết tin vào tài năng của mình, và không cậy vào Chúa, không những chỉ đưa đến thất bại trong việc phục vụ, mà còn vô hiệu hóa tất cả mọi việc lành mình làm. "Trừ khi Chúa xây căn nhà, vô ích thay những ai dùng sức mình mà xây" (TV 127:1).

Chúa nói rõ cho Thánh Faustina rằng càng tín thác nhiều vào Chúa và cố gắng sống theo ý Chúa, chứ không theo ý mình, thỉ chúng ta càng được Người ban cho nhiều ân sủng. Người nói:

"Con hãy nói [cho mọi người], Cha chính là Tình Yêu và Lòng Thương Xót. Khi một linh hồn đến cùng Cha với một lòng tín thác, Cha sẽ đổ tràn đầy ân sủng xuống đến nỗi nó không thể chứa đựng nổi mà phải tỏa ra cho các linh hồn khác" (Nhật Ký, 1074).

Dịp khác, Người nói cùng Chị:

"Hãy để cho những linh hồn cố gắng trở nên hoàn thiện tôn thờ Lòng Thương Xót Cha, vì những ân sủng dồi dào mà Cha ban phát ra từ Lòng Thương Xót. Cha muốn những linh hồn đó nổi bật vì sự tín thác vô cùng vào Lòng Thương Xót Cha. Chính Cha sẽ chăm lo công việc thánh hóa các linh hồn đó. Cha sẽ ban cho họ mọi sự họ cần để nên thánh. Ân sủng của Lòng Thương Xót Cha được lãnh nhận qua một phương tiện mà thôi, đó là tín thác. Linh hồn nào tín thác nhiều sẽ nhận được nhiều. Những linh hồn tín thác vô hạn là niềm an ủi lớn cho Cha, vì Cha đổ tất cả kho tàng ân sủng Cha trên họ. Cha thích thú vì họ cầu xin nhiều, vì chính Ý Cha là cho nhiều, rất nhiều. Ngược lại, Cha buồn khi họ cầu xin quá ít, khi tim họ hẹp lại" (Nhật Ký, 1578).

Chúa yêu cầu Chị Faustina cầu nguyện cho các linh hồn:

"Hãy chiến đấu cho việc cứu rỗi các linh hồn, thúc đẩy họ tín thác vào lòng thương xót Cha, như là nhiệm vụ của con ở đời này và đời sau" (Nhật Ký, 1452).

"Hôm nay, Chúa đến cùng tôi và nói, 'Con ơi, giúp Cha cứu rỗi các linh hồn. Con sẽ đến cùng một người tội lỗi đang hấp hối, và con tiếp tục lần chuỗi (thương xót), và bằng cách này, con sẽ làm cho họ tín thác vào Lòng Thương Xót Cha. Vì họ đã tuyệt vọng'" (Nhật Ký, 1797).

Chúa muốn chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa trong khi cầu nguyện cho mình và cho các linh hồn. Khi chúng ta sa ngã phạm tội, chúng ta lại càng phải hạ mình xuống xin Chúa thương xót. Đôi khi chúng ta trong mang nặng trong linh hồn tội lỗi, tức giận, tủi hổ, và thiếu tha thứ cùng với sự thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, là chính Lòng Thương Xót, và chúng ta suy nghĩ, "Làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ cho tôi?” Đừng bao giờ tuyệt vọng vì tội lỗi mình. Chúa luôn xót thương và mong chờ chúng ta trở về gieo mình vào vòng tay âu yếm của Người. Ðể minh chứng hùng hồn cho Lòng Thương Xót Chúa, Thánh Faustina kể:

"Vào chiều ngày sau cùng trước khi tôi đi Vilnius, một chị lớn tuổi cho tôi biết tình trạng linh hồn chị. Chị nói rằng chi đã phải đau khổ trong lòng vài năm, dường như chị đã xưng tội không nên, và chị nghi rằng Chúa Giêsu không tha tội cho chị. Tôi hỏi chị xem chị có nói với cha giải tội điều đó không. Chị trả lời rằng chị đã nói với cha các giải tội nhiều lần và... "cha giải tội luôn luôn nói tôi cứ an tâm, nhưng tôi vẫ quá lo buồn, và không gì làm tôi khuây khỏa, tôi luôn cảm thấy rằng Thiên Chúa chưa tha thứ cho tôi.” Tôi trả lời, “Chị nên vâng lời cha giải tội, và hãy hoàn toàn bình an, vì đây chắc chắn là một cám dỗ."

Nhưng chị rớt lệ nài nỉ tôi hỏi Chúa Giêsu xem Chúa đã tha cho chị chưa và chị đã xưng tội nên hay không. Tôi trả lời cách quyết liệt, "Chi cứ tự mình hỏi Người, nếu chị không tin cha giải tội!” Nhưng chị nắm tay tôi và không bỏ ra đến khi tôi trả lời chị, và chị tiếp tục xin tôi cầu nguyện cho chị và cho chi biết Chúa Giêsu nói gì về chị với tôi. Chị khóc lóc thảm thiết và không để tôi đi cùng nói: “Tôi biết Chúa Giêsu nói với chị.” Vì chị nắm chặt tay tôi và tôi không gỡ ra nổi, tôi hứa cầu nguyện cho chị. Buổi chiều, trong lúc Chầu Thánh Thể, tôi nghe những lơi này trong lòng: "Con hãy nói với chị ấy rằng sự không tin của chị làm tim Ta đau nhiều hơn các tội chị ấy đã phạm."

Khi tôi nói cho chị biết điều này, chị bắt đầu khóc như một em bé, và một niêm vui lớn lao xâm chiếm hồn chị. Tôi hiểu rằng Thiên Chúa muốn dùng tôi để an ủi linh hồn này. Dầu tôi bị thiệt hại nhiều, tôi đã làm cho Ý Chúa được thể hiện" (Nhật Ký, 628).

Chúng ta hãy cùng nhau suy niệm lời Chúa; "Con hãy nói với chị ấy rằng sự không tin của chị làm tim Ta đau nhiều hơn các tội chị ấy đã phạm." Một khi chúng ta đã xưng tội và ăn năn, chúng ta không còn lý do gì để tiếp tục có mặc cảm tội lỗi và hổ thẹn, vì Chúa Giêsu là một Lương Y tài giỏi có thể chữa lành hết mọi vết thương lòng và trái tim đầy thẹo của chúng ta. Thánh Faustina viết:

Hôm nay, Chúa nói với tôi, "Ta đã mở trái tim Ta ra như một Suối Thương Xót hằng sống. Tất cả các linh hồn hãy múc sinh lực từ đó. Hãy để chúng đến gần biển Thương Xót này với lòng tín thác lớn lao. Người tội lỗi sẽ được trở nên công chính, và người công chính sẽ được thêm sức trong sự thiện. Ai tín thác vào Lòng Thương Xót Ta sẽ được tràn đầy bình an của Thiên Chúa trong giờ chết" (Nhật Ký, 1520).

"Vậy chúng ta hãy dạn bước lại gần ngai tòa của ân sủng, để chúng ta lãnh nhận ơn thương xót và tìm thấy ơn trợ giúp khi cần thiết" (DT 4:16).

Tín thác vào Chúa khi mọi việc trôi chảy thì dễ. Nhưng tín thác khi gặp khó khăn mới là điều cần thiết. Nghi ngờ sẽ nảy ra khi chúng ta bị thử thách và đau khổ. Khi ấy chúng ta sẽ nghi ngờ và tự hỏi "Thiên Chúa ở đâu?" hoặc "Thực sự có Thiên Chúa không?" Nếu chúng ta cầu nguyện, nhận ra, và tin rằng chúng ta đang thực thi Thánh Ý Chúa, thì chúng ta cần phải cầu xin Chúa ban cho mình ơn can đảm, sức mạnh và đức tin sâu đậm hơn nữa. Vì đôi khi chúng ta quen thói chủ quan, cho rằng chính mình đang làm việc lành, và sau đó mới nhận ra rằng chính Thiên Chúa đã mở cửa cho mình.

Trong lúc phải chiến đầu và thất bại, chúng ta cần noi gương Thánh Phêrô mà thưa cùng Chúa rằng: "Thưa Thầy, chúng con đã vất vả thâu đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Nhưng nếu Thầy bảo thế, con sẽ thả lưới." Sau khi họ làm vậy, họ bắt được nhiều cá đến nỗi lưới gần rách. Nên họ phải làm hiệu cho đồng nghiệp từ thuyền khác đến giúp ho." (Lc 5:5-7).

Thái độ này đòi hỏi một đức tin lớn lao. Nhưng, trong lúc bị thử thách, đức tin của chúng ta cũng bị thử thách, và đây chính là lúc chúng ta cần phải tín thác vào Chúa nhiều hơn nữa. Như một chiến sĩ tinh thần, chúng ta phải "tiến bước nhờ đức tin, chứ không bằng thị giác" (2 Cor 5:7).

Ôi lạy Chúa, xin chạm đến linh hồn con và để Ánh Sáng Chúa đốt cháy lòng con. Xin giúp con nhận ra rằng chỉ qua việc tín thác và phó dâng cuộc đời trong tay Chúa mà con có thể hiểu được bình an thật, bình an mà chỉ có Chúa có thể ban cho, là gì. Amen

(Viết Theo Nhật Ký của Thánh Faustina và Cẩm Nang Tông Đồ Lòng Thương Xót Chúa)

Phaolô Phạm Xuân Khôi

---------------------------------------------------

 

PS2-85. THẦN KHÍ LÀ QUÀ TẶNG CỦA CHÚA KI-TÔ PHỤC SINH


CHÚA NHẬT II PHỤC SINH NĂM B (19.04.2009)

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ       

 

Tin Mừng Phục Sinh đã được loan báo! Tin Mừng Phục Sinh đã được chúng ta đón nhận! Đấng: PS2-85


Tin Mừng Phục Sinh đã được loan báo! Tin Mừng Phục Sinh đã được chúng ta đón nhận! Đấng Phục Sinh đem đến cho những kẻ tin một QUÀ TẶNG cao quý và hiệu quả khôn lường. Đó chính là Thần Khí, là Thánh Thần! Người là quyền năng thần linh có sức làm thay đổi cả chiều sâu lẫn chiều rộng tâm hồn và cuộc sống kẻ tin. Chúng ta - cá nhân và cộng đoàn - sẽ trở thành và phải trở thành những con người / cộng đoàn mới, hoàn toàn mới. Vậy thì chúng ta hãy hân hoan đón nhận Thánh Thần là QUÀ TẶNG mà Chúa Ki-tô Phục Sinh ban cho, bằng cách mở rộng tấm lòng và cuộc sống để Thánh Thần của  Đấng Phục Sinh ngự đến và thực hiện công trình của Người là canh tân đổi mới chúng ta và mọi thực tại trên địa cầu này.          

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Bài đọc 1: Cv 4, 32-35: Các tín hữu chỉ có một long một ý.

 (32) Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.  (33) Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. (34) Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, (35) đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu.

2.2 Bài đọc 2: 1 Ga 5,1-6: Mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.

 (1) Anh em than mến, phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra. (2) Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. (3) Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, (4) vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta. (5) Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa? (6) Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.

2.3 Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31: Tám ngày sau, Đức Giê-su đến.

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!"  (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.  (21) Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."

 (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (28) Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (29) Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"

(30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa     

3.1.1 Trong bài đọc 1 (Cv 4, 32-35), Thánh Lu-ca không mô tả Thiên Chúa là Đấng như thế nào nhưng dựa vào tường thuật của ngài về những nét đặc trưng trong đời sống cộng đoàn tín hữu đầu tiên thì chúng ta dễ dàng nhận ra diện mạo hay chân dung của Thiên Chúa. Đây là cộng đoàn những người đầu tiên tin theo Đức Giê-su Na-da-rét và nhìn nhận Người làm Chúa của mình. Cộng đoàn này được hình thành ở Giê-ru-sa-lem ngay sau ngày Lễ Ngũ Tuần tức Lễ Hiện Xuống. Cách sống của cộng đoàn có những nét đặc trưng riêng như dồi dào ơn Chúa, tích cực làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh, một lòng một ý và yêu thương san sẻ với nhau cả về tinh thần lẫn vật chất khiến không ai trong cộng đoàn phải thiếu thốn.       

Qua cách sống của cộng đoàn tín hữu đầu tiên như kể trên, chúng ta hình dung  được Thiên Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương như thế nào. Thiên Chúa là Đấng quyền năng vì đã làm cho mọi người trong cộng đoàn biến đổi, sống một cách khác thường, thậm chí có thể nói là phi thường. Thiên Chúa là Đấng yêu thương vì đã gắn kết mọi người với nhau và khiến ai nấy đều mở lòng, mở tay chia sẻ của cải với người khác hơn cả với những người máu mủ ruột thịt.

3.1.2 Trong bài đọc 2 (1 Ga 5,1-6), Thánh Gio-an mô tả đời sống của những kẻ tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh với những nét đặc thù: họ được Thiên Chúa sinh ra, họ kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân; họ tuân giữ các giới răn của Chúa và chiến thắng thế gian vì họ có sức mạnh của Niềm Tin và có Thần Khí của Thiên Chúa là Đấng luôn hỗ trợ và chứng giám. 

3.1.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 20,19-31), Thánh Gio-an tường thuật lại hai lần hiện ra của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh với các môn đệ: lần trước thiếu ông Tô-ma; lần sau có đầy đủ tất cả các môn đệ, kể cả ông Tô-ma. Thánh Gio-an làm nổi bật chân dung của ông Tô-ma với đòi hỏi phải được chứng kiến tận mắt tận tay dấu tích bị đóng đinh thập giá và bị lưỡi đòng đâm lủng cạnh sườn của Thầy mình yjhi2 mới tin là Thầy đã trỗi dậy từ cõi chết. Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh đã đáp ứng yêu cầu của Tô-ma trong lần hiện ra thứ hai: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."  Tô-ma không còn dám đòi hỏi gì hơn nữa mà chỉ biết “tâm phục khẩu phục” và thốt lên: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!"

Nhưng nhân vật chính của câu truyện là Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh: Người xuất hiện giữa các môn đệ mà không qua cửa mà vào; Người ân cần, yêu thương mà ban ơn bình an: “Bình an cho anh em!” và cho các ông xem tay và cạnh sườn nơi giữ lại những dầu tích của cuộc Thương Khó mấy ngày trước; Người tin tưởng và thủy chung với các môn đệ mà giao sứ mạng: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”; Người ban Thánh Thần của Thiên Chúa để giúp các môn đệ làm chứng cho Người và thi hành sứ vụ Người trao: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”

Tất cả những điều vừa kể giúp chúng ta khám phá ra chân dung và sứ điệp của Thiên Chúa: Chúa ân cần và tinh tế trong đối xứ, Chúa chúc bình an và giao sứ mạng tông đồ và nhất là ban tặng Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.

3.2 Sứ điệp Lời Chúa:    

Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh Chúa Nhật II Phục Sinh này là:

Đức Giê-su Na-da-rét đã Phục Sinh và hiện ra với các môn đệ để củng cố lòng tin của các ông và để sai các ông đi làm chứng cho Người giữa lòng thế giới. 

Bảo chứng của việc hệ trọng ấy là việc Chúa Ki-tô Phục Sinh trao ban Thánh Thần và các môn đệ đón nhận Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em!”

IV. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là mỗi người / mỗi cộng đoàn Giáo hội (giáo xứ, giáo phận, hội đoàn tông đồ, dòng tu) nhìn vào tâm hồn và đời sống mình:

- xem mình đã trân trọng đón nhận QUÀ TẶNG của Đấng Phục Sinh như thế nào?

- và xem Thánh Thần của Đấng Phục Sinh đã và đang tác động hay biến đổi mỗi người / mỗi cộng đoàn đến mức độ nào?

Mấy câu hỏi cụ thể:

1o) Tôi / cộng đoàn tôi có một lòng một ý theo / trong Thánh Thần không?

2o) Tôi / cộng đoàn tôi có siêu thoát của cải, coi thường danh vọng, chức quyền thế gian để mở rộng tâm hồn và bàn tay chia sẻ tài năng, thời giờ và của cải mình có với người khác không?

3) Tôi / cộng đoàn tôi có làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh không? làm chứng bằng cách nào?

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ NHÂN LOẠI

5.1 “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì Cha đã quy tụ chúng con thành cộng đoàn của Chúa Ki-tô Phục Sinh. Chúng con nguyện xin Cha cho cộng đoàn Hội Thánh biết sống yêu thương, hiệp nhất như cộng đoàn  tín hữu đầu tiên.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì Cha đã quy tụ chúng con thành cộng đoàn của Chúa Ki-tô Phục Sinh. Chúng con nguyện xin Cha ban ơn cách riêng cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và các Giám Mục, linh mục, phó tế và tu sĩ nam nữ, để các vị này chu toàn trách nhiệm làm chứng rằng “Chúa Giê-su là Đấng Phục Sinh và là Thiên Chúa” cho mọi người.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.3 “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”  Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha  vì qua bí tích Thánh Tẩy, Cha đã cho chúng con tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Chúa Ki-tô Giê-su và đưa chúng con vào sự hiểu biết mới về Cha và về Chúa Giê-su Con Cha. Xin Cha ban cho chúng con ơn cảm nghiệm được sự hiện diện và hành động của Chúa Ki-tô Phục Sinh trong tâm hồn và cuộc sống của chúng con để chúng con có thể nói với mọi người rằng “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” 

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.4 “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su  Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban Thánh Thần -là khởi đầu mọi ơn huệ của Cha- cho chúng con qua Chúa Ki-tô Phục Sinh. Chúng con nài xin Cha ban cho tất cả mọi tín hữu, nhất là cho các anh chị em tân tòng, ơn biết đón nhận và sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để mọi người chúng con làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh trong xã hội ngày nay.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.   

---------------------------------------------------

 

PS2-86. TẦN SỐ TÌNH YÊU

 

Một buổi chiều người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố: PS2-86


Một buổi chiều người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha:

- Ba ơi, cái tháp đó để làm gì vậy?

Người cha giải thích:

- Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.

- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!

- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!

***

Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: "Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin" (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20,28).

Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số. Đó là tần số tình yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt xác thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy ngôi mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì "rất đỗi ngạc nhiên" còn Gioan thì "ông đã thấy và ông đã tin"? (Ga 20, 8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: "Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20, 29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.

Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, vì ông nhớ lại lời Kinh Thánh: "Ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy" (Hs 6,2) và phép lạ "Ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm" (Gn 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.

Niềm tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm tin xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đứng chung với mười một Tông đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: "Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng" (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: "Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình" (1 Cr 15,17).

***

Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa để chúng con tin vào Chúa mãnh liệt hơn như Gioan xưa đã tin vào Chúa. Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen!
Thiên Phúc

Ngọc Nga sưu tầm

---------------------------------------------------

 

PS2-87. CHÚA NHẬT II PHỤC SINH


Jn. 20, 19 – 31

Anh chị em thân mến.

 

Nếu có dịp đi về miền quê, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy phương tiện giao thông rất: PS2-87


Nếu có dịp đi về miền quê, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy phương tiện giao thông rất đơn sơ, thế mà người ta vẫn bằng lòng và vui vẻ chấp nhận dễ dàng.
Có lần tôi nhìn thấy, một chiếc xe không biết có từ bao giờ, cũng có thể không có một chiếc xe thứ hai như thế trên thế giới. Nó vừa cũ, vừa không an toàn, hình thể của nó cũng được biến đỗi sao cho phù hợp với thôn quê, vừa là xe khách, vừa là xe tải. Trên xe chất đầy người và hàng hóa cho đến đỗi không còn nhìn thấy chiếc xe, chỉ thấy một khối người từ từ tiến tới. Bổng nhiên chiếc xe dừng hẳn và không còn chuyển động được nữa. Hành khách xuống xe, không có gì là vội vã. Chủ xe lo sữa chữa. Một lúc sau, chủ xe xin mọi người trợ lực cho chiếc xe để nó có thể lăn bánh. Hành trình lại tiếp tục.

Tôi suy nghĩ. Đáng lẽ chiếc xe phải về hưu, nó phải được nghĩ ngơi, sau một thời gian làm việc. Nói đúng hơn, khả năng của chiếc xe, không còn xứng đáng để xử dụng được nữa. Thế mà trong thực tế, chiếc xe vẫn còn hữu dụng cho nhiều người, vì những người nầy cần đến nó và biết cách xử dụng nó, nên nó vẫn phục vụ cách đắc lực.

Các môn đồ sợ sệt vì có liên hệ với phạm nhân bị tử hình. Các ông dường như là những người bị bỏ đi của xã hội, còn đối với Thầy, các ông không còn xứng đáng là những môn đồ trung tín, vì các ông đã bỏ Thầy mà chạy trốn. Chúa Giêsu vẫn tìm đến với những con người dường như bị bỏ đi nầy, Ngài nói lời chúc bình an. Ngài còn trao cho sứ mệnh, đó là Ngài xử dụng họ vào công việc của Ngài. Còn Tôma, vẫn chưa chấp nhận được cách xử dụng bình thường của Chúa Giêsu.

Cổ máy của con người ông chưa thể hoạt động được. Ngài phải ra tay, phải trợ lực để cổ máy được xử dụng theo ý muốn của Ngài. " Hãy đặt ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra và đặt vào cạnh sường Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin". Nhìn thấy được nhu cầu, Chúa Giêsu không ngần ngại vì người môn đồ đặt biệt nầy. Tất cả các môn đồ đã nhìn thấy những điều Tôma đã thấy, tất cả đã được nghe những điều Tôma đã nghe. Tất cả cũng đã nhận được những điều Tôma đã được. Nhưng tất cả không có được hành động mà ông đã có. Tất cả cũng không nói được lời mà ông đã tuyên xưng đối với những gì mà ông đã nghe, đã nhìn thấy và đã nhận được. Chúa Giêsu đã xử dụng con người mà dường như không ai xử dụng được, nên những gì Ngài xử dụng đều trở nên công cụ đắc lực cho Ngài.

Khi vừa nghe qua bài phúc âm, chắc chúng ta thầm trách Tôma, nếu thế thì các môn đồ kia còn đáng trách hơn, vì hành động của các ông chưa đi đôi với lời nói để Tôma có thể tin được. Còn Tôma đã biểu lộ niềm tin mình bằng hành động cụ thể. Còn chúng ta, nếu nhìn lại, chúng ta còn đáng trách hơn Tôma, hơn cả các môn đồ ngày xưa nhiều.

Chúng ta không chỉ nghe một lần Lời chúc bình an. Nhưng nghe rất nhiều, trong mỗi thánh lễ, trong đời sống hằng ngày, trong từng công việc, qua những người chúng ta tiếp xúc. Chúng cũng không chỉ nhìn thấy những vết đinh. Nhưng chúng ta còn nhìn thấy hiệu quả, không phải nơi người khác, nhưng chính nơi bản thân của mình. Chúng đã nhận rất nhiều hồng ân của Chúa, Ngài đã đến vì nhu cầu riêng cho chúng ta trong cuộc sống. Bao ước mơ, bao nguyện vọng đã được đáp ứng. Lời nói với Tôma ngày xưa cũng vang bên tai chúng ta: "Chớ cứng lòng, nhưng hãy tin".

Lời nói đã làm cho Tôma tỉnh giấc, quỳ gối, sụp lạy, và tuyên xưng niềm tin của mình. Còn những Tôma của thời đại mới nầy, vẫn còn khô cứng trong những suy tư của mình , khô cứng trong lối sống của mình. Chúng ta không nhận ra được Chúa đến với chúng ta, đáp ứng như cầu của chúng ta, thì làm sao nghe được để có thể thay đỗi cách sống cho xứng với niềm tin.

Thay vì trách Tôma, phiền trách những người chung quanh, chúng ta có tự trách mình đã quá khô cứng, để không còn nhìn thấy, không còn biết lắng nghe và cũng không thể thay đỗi được con người không thể chấp nhận được của chúng ta. Không lẽ chúng ta là một chiếc xe không thể chuyển động được mà chủ xe không thể chữa nổi. Không lẽ chúng ta không còn có thể xử dụng được vào một việc gì nữa sao? Như thế thì những ngày tháng sống ở trần gian này lại vô dụng sao?

Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra Chúa trong cuộc sống đời thường, để biết lắng nghe và sống cho xứng đáng với những Hồng Ân bằng tất cả niềm tin.

PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN

Jn. 20, 19 – 31

1. Từ hồi rất bé khi có dịp ra viếng Đất Thánh quê tôi, tôi thường được mẹ dẫn đến viếng hai ngôi mộ bằng đá ong cũ kỹ, mẹ nói đây là phần mộ của ông sơ và bà sơ của tôi. Có lần tôi hỏi: “Mẹ có biết mặt ông bà sơ không ? Mẹ có dự lễ an táng của ông bà sơ không ?”. Mẹ tôi trả lời:” Mẹ chỉ nghe ông bà ngoại (của tôi) nói lại thôi, ông bà sơ qua đời đã lâu lắm rồi, nhưng mẹ tin chắc rằng đó là mộ của ông bà sơ”.

Trong cuộc sống, có những điều chính mắt chúng ta chứng kiến, kiểm nghiệm… nhờ đó ta tin, thế nhưng có những điều chúng ta tin nhờ vào người khác.

2. Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Lần thứ nhất không có Tôma, khi các môn đệ khác kể lại với ông: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”, thì ông đáp lại: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người… thì tôi không tin”. Đó là nguyện vọng rất bình thường, rất hợp lý của Tôma. Tám ngày sau, Đức Giêsu Phục Sinh lại hiện ra, lời đề nghị của Tôma được đáp ứng. Chúa nói với ông: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra xỏ vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin ”. Tôma liền đáp lại và tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi ”. Giờ đây, ông chịu khuất phục vì sự hiện diện của Chúa, ông chẳng dám đưa tay ra sờ Chúa nữa, ông đã tin.

3. Chúa luôn sẵn sàng thỏa mãn những đòi hỏi của các môn đệ, của ta, nhưng bao giờ Người cũng muốn niềm tin của ta ở mức cao hơn: “Phúc thay những ai không thấy mà tin”. Thật vậy, từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng giác quan kiểm nghiệm được, lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe , bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe. Như tôi tin vào lời mẹ tôi nói, mẹ tôi tin vào lời của ông bà ngoại tôi về mộ phần của ông bà sơ tôi, lẽ nào họ không nói đúng sự thật?

Tôma chậm tin vào lời chứng của các bạn, nên ông chậm tin vào Chúa Phục sinh. Ông cũng chậm tin, hay quên cả lời Chúa báo trước về sự phục sinh của Người. Điều đáng trách của Tôma là ở chỗ đó, nhưng cũng có cái hay là vì ông chậm tin, nên ngày hôm nay chúng ta vững tin vào việc Đức Kitô Phục Sinh hơn, bởi ông không là người nhẹ dạ cả tin.

4. Trong thực tế, có rất nhiều điều cần phải qua kiểm chứng để mới có thể tin được. Nhất là sống trong thời đại mà sự thật dễ bị coi thường, dễ bị lừa đảo. Thế nhưng chúng ta vẫn phải tin bao điều mình không thấy: như các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn. Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau. Con cái tin vào sự hướng dẫn của cha mẹ. Học trò tin vào sự hướng dẫn của thầy cô… Cái khó là nên tin vào ai, và không nên tin vào ai ? Tin điều gì và không nên tin điều gì ?

Trong cuộc sống hẳn chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về điều này để ứng xử ; nhưng trong lãnh vực đức tin và luân lý, thì không còn nghi ngờ gì nữa, mà phải tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu và Lời Người dạy. Vì Lời Người là chân thật, hằng sống. Chúng ta cũng phải tin vào lời chứng của các Tông Đồ và các đấng kế vị các ngài, vào Hội Thánh của Chúa, nơi chân lý được lưu truyền. “Phúc cho ai không thấy mà tin ”, lời chúc phúc này tiếp tục trao ban cho mọi Kitô hữu, qua mọi thời, mọi nơi dù không thấy Chúa bằng mắt thường, nhưng nhận ra sự hiện diện của Người qua đức tin.

5. Thế nhưng hãy xem coi ta có xứng đáng nhận lời chúc phúc này của Đức Giêsu Phục Sinh hay không ? Bởi khi suy niệm về bài Tin Mừng hôm nay, có khi ta trách Tôma cứng lòng, còn ta ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta mới hờ hững với lời Chúa dạy? Phải chăng vì cứng lòng nên ta đến nhà thờ không phải để thờ phượng Chúa mà để gặp gỡ nhau, để lương tâm được yên ổn… vì thế cứ thích ở ngoài nhà thờ, dù bên trong nhà thờ còn rất nhiều chỗ ngồi ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta chỉ tìm lợi ích cho mình mặc ai thiệt thòi đau khổ ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta không vui trước sự thành công của người khác ? v.v…

Với những cách sống như thế, chúng ta không thể là người có phúc được vì chứng tỏ ta không thực sự tin vào Chúa Phục sinh, không tin Lời Người dạy và như vậy làm sao có thể làm chứng cho tha nhân biết rằng Chúa đã phục sinh ?

---------------------------------------------------

 

PS2-88. Khoa học và đức tin

 

Trong một cuộc hội thảo về tôn giáo, viên kỹ sư thao thao bất tuyệt chứng minh tôn giáo chỉ là: PS2-88


Trong một cuộc hội thảo về tôn giáo, viên kỹ sư thao thao bất tuyệt chứng minh tôn giáo chỉ là thuốc phiện mê hoặc dân chúng. Thế nhưng khi bàn bạc và trao đổi, thì một cụ già đã phát biểu như sau:

- Theo tôi thì khoa học chỉ là chuyện bịa đặt và láo khoét. Viên kỹ sư ngạc nhiên hỏi cụ già tại sao nói thế, thì cụ già đã trả lời:

- Ngài chẳng biết gì về tôn giáo, nhưng lại lên tiếng chỉ trích tôn giáo, thì tôi đây, tôi chả biết gì về khoa học, thì liệu tôi có quyền phê bình khoa học như tôi vừa phát biểu hay không?

Khoa học và đức tin, phải chăng là hai thái cực đối nghịch. Làm thế nào để dung hòa đức tin và khoa học.

Từ những ý nghĩ trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta có thể nói: Thánh Tôma, nếu không phải là thánh tổ của các nhà khoa học thì cũng là một vị thánh có tinh thần khoa học, bởi vì các nhà khoa học chỉ tin, chỉ công nhận là thật những gì mình có thể kiểm chứng được. Nhà khoa học trước khi tin, thường nghi ngờ. Cái đó gọi là óc phê bình.

Jean Guitton đã nói: Tôi luôn hoài nghi. Chính vì hoài nghi mà tôi có được óc phê bình, nhờ đó mà tôi có thể tin vững chắc. Tuy nhiên, liệu chúng ta có quyền xử dụng óc phê bình trong lòng tin hay không? Dẫu muốn hay không, thì trong quá trình của lòng tin, chúng ta thường gặp rất nhiều nghi ngờ như Bernanos đã nói: Tin là hai mươi bốn giờ nghi ngờ trong một ngày, trừ những giây phút trông cậy. Làm sao chúng ta có thể dung hòa được giữa khoa học và tôn giáo, giữa lý trí và đức tin. Nếu phân tích, chúng ta sẽ thấy điểm cuối cùng của khoa học và đức tin nhằm tới chính là Thiên Chúa, tuy nhiên phương pháp xử dụng thì khác biệt nhau.

Phương pháp của khoa học là phương pháp thực nghiệm, đi từ những sự việc cụ thể, để rồi dần dần tiến đến cùng Thiên Chúa, là tác giả của những sự việc cụ thể ấy. Trong khi đó, đức tin thì xuất phát từ Thiên Chúa dựa vào những điều Ngài mạc khải, Ngài tỏ lộ để tìm biết về Ngài. Cũng theo Jean Guitton, thì phải làm sao cho lý trí biết tin và nhất là làm cho lòng tin trở nên có lý. Đó là chuyện của các nhà chuyên môn.

Còn đối với chúng ta, những người tín hữu bình thường thì không đặt vấn đề như thế. Chúng ta thường nói tin yêu. Càng yêu mến nhiều, thì càng tin tưởng vững chắc. Và những người có lòng kính mến Chúa thì thường không cần phải tin, vì họ đã thấy.

Đây là trường hợp của Gioan, khi nhìn thấy bóng người đi trên mặt biển, trong khi các tông đồ bảo là ma, thì chỉ mình Gioan đã kêu lên: Thày đấy.

Rồi trong ngôi mộ rỗng, với những dây băng và khăn liệm được xếp gọn ghẽ, thì Gioan đã tin rằng Chúa đã sống lại. Sở dĩ Gioan đã thấy, đã tin chỉ vì ông có lòng yêu mến. Bởi đó, chúng ta hãy xin Chúa thắp lên trong chúng ta ngọn lửa yêu mến, nhờ đó mà lòng tin nhỏ bé của chúng ta sẽ được củng cố và trở nên vững vàng.

---------------------------------------------------

 

PS2-89. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN

 

Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma: PS2-89


Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”

---------------------------------------------------

 

PS2-90. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN

 

Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm: PS2-90


Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

---------------------------------------------------

 

PS2-91. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt


HIỆN RA CHO CÁC MÔN ĐỒ

CÁC MÔN ĐỒ TỤ HỌP (20,19-23)

 

Làm môn đồ là có một sứ mệnh: chúng ta đã biết điều ấy qua diễn từ giã biệt (13,16.20; 15,1-8): PS2-91


Làm môn đồ là có một sứ mệnh: chúng ta đã biết điều ấy qua diễn từ giã biệt (13,16.20; 15,1-8). Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế gian, nay thành sự hiện diện trọn vẹn của Thiên Chúa, phải được các môn đồ nối dài. Tin Mừng Nhất lãm cũng đề cập đến những lần Chúa Giêsu hiện ra cho các nhóm môn đồ: chính lúc bấy giờ Người giao sứ mệnh cho họ (Mt 28, 16-20; Lc 24,47-49; Mc 16,15: không xác thực; xem Cv 1,8).

Nơi Gioan, cuộc hiện ra cho mấy môn đồ đang tụ họp nằm vào chính chiều ngày thứ nhất trong tuần. Các ông tụ họp đâu đó tại Giêrusalem. Về sau chúng ta sẽ biết là Tôma không có mặt lúc ấy. Mọi cửa đều đóng kín vì họ còn bị ám ảnh bởi nỗi sợ người Do thái.

Nhưng không gì ngăn chận được Đấng Phục sinh. Cách thức hiện hữu mới của Người chẳng còn bị chướng ngại vật chất nào cản trở. Chúa Giêsu đột nhiên đứng giữa họ. Trình thuật Luca 24,36-49 rất giống với trình thuật Gioan ở chỗ này. Các môn đồ thoạt tiên kinh hãi rồi được Chúa Giêsu trấn an. Người không nói như ngày xưa: Chính Ta đây... (6,20), vì sự hiện diện của Người từ nay thuộc một trật tự khác, sự hiện ấy đem lại bình an (14,27) và vui mừng (16, 20-24; 17,13). Lời chào theo thói quen: Bình an cho các con! ở đây vượt quá ý nghĩa thông thường của nó. Chúa Giêsu chúc và ban cho họ một sự bình an và một niềm vui đặc biệt, khả dĩ giúp họ thắng vượt cớ vấp phạm thập giá và những âm hưởng của nó trong cuộc đời họ (14,17).

Vì không có vấn đề quên! Bởi thế Chúa Giêsu trỏ cho xem các dấu vết Tử nạn của Người. Nơi Lc 24, 36-49, Chúa Giêsu đưa tay và chân chứ không đưa cạnh sườn, vì Luca đã chẳng nói đến nhát lưỡi đòng trong trình thuật Tử nạn của ông; vả lại trình thuật của ông chú tâm đến thực tại Phục sinh hơn: các môn đồ đã không thể chỉ tin vào lời nói của mấy người đàn bà, họ chỉ tin khi Chúa Giêsu hiện ra cho Phêrô và sau đó trỏ cho các sứ đồ còn đang sợ hãi xem tay chân của người cùng bắt đầu ăn trước mặt họ. Và kết luận của Lc là Người đã sống lại thực. Nơi Gioan, Chúa Giêsu đưa tay và cạnh sườn Người trong cùng mục đích ấy: chúng ta không đứng trước một hồn ma một sản phẩm của trí tưởng tượng đâu? nhưng đồng thời thánh sử muốn nhấn mạnh rằng sự phục sinh giả thiết phải có thập giá. Thập giá không thể loại trừ khỏi tư tưởng, phủ nhận như một giấc mộng hãi hùng. Cầu mong họ được bình an, thứ bình an trước hết liên hệ tới Người (16, 33) để họ học hiểu thập giá theo Kitô giáo!

Sau đó, mặc dầu thấy các môn đồ tràn ngập vui mừng, Người cũng lặp lại một lần nữa: Bình an cho các con! Việc lặp lại này chứng tỏ đây không phải là một công thức thông lệ, đồng thời cho thấy bình an được cầu chúc là thứ bình an tích hợp mọi dấu vết của cuộc Tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Niềm đau chia ly không thể biến thành một nỗi mong thoáng qua, quên đi cuộc Tử nạn. Không, nỗi đau đó phải trở nên một niềm vui bền vững, nhờ đau khổ mà chín mùi, niềm vui của Chúa Giêsu cũng như niềm vui của họ, niềm vui không một ai cướp mất (16, 20-22). Niềm vui ấy là niềm vui của mùa gặt phát sinh từ nỗi gian khổ, cơ cực cửa Tử nạn (4,38; 17,13). Thật vậy, Chúa Giêsu giờ đây đến trao cho họ sứ mệnh Cha đã giao phó cho Người: Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con. Các hạn từ gần giống như trong lời nguyện thượng tế (17, 18). Chúa Giêsu ra đi, nhưng thực tại thần linh mà Người mang tới và hiện thân, vẫn ở trong họ và bên họ. Phận sự của họ là từ nay mang nó đến cho thế gian còn bỏ hoang. Cảnh này quả tóm tắt và thể hiện tư tường của diễn từ giã biệt vậy (x.Mt 28, 19- 20).

Nhưng nếu đã phải có phần khí trợ giúp, các môn đồ mới hiểu được "chân lý", thì huống là việc làm cho kẻ khác hiểu, họ lại cần Ngài phụ lực biết bao. Như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống vào con người đầ u tiên (St 2,7; Kn 15, 11), hôm nay Chúa Giêsu cũng thổi Thần khí vào các môn đồ để tái tạo họ cho sứ mệnh mới. Việc tuôn đổ Thần khí ở đây không hẳn có nghĩa là việc tái sinh họ trong Nước Thiên Chúa và trong sự sống (3, 3-8) cho bằng là chỉ sứ mệnh đã trao cho họ: sứ mệnh đem bao kẻ khác vào chính sự sống này.

Vì cùng với Thần khí, họ được ban quyền tha và cầm giữ tội trong Lc cũng vậy (24,47), việc loan báo đức tin có mục tiêu tha tội và có đối tượng là mọi dân nước. Trong Mt 16, 19, quyền trên được hứa cho Phêrô; trong Mt 18, 18, quyền năng cởi buộc ấy được ban cho Giáo hội. Thuật ngữ pháp lý bao hàm cả quyền phán xét. Nơi Ga 20,23, cầm giữ đối nghịch với tha thứ (Mc 7,8; x.Hc 28, 1: diatôrein). Trong tư tưởng thánh sử, quyền này là một tia sáng chói lọi của Con Người (Mc 2, 5 và ss; Lc 7, 47- 48), Đấng từ nay được đặt làm thẩm phán (Ga 3, 19; 5, 27; 9, 39; 12, 31- 32; 17, 2). Thành ra các môn đồ nhận được ở đây một quyền xét xử thật sự; họ tham dự quyền tài phán cánh chung của Con Người là Chúa Giêsu. Thế thật hữu lý khi Giáo hội coi lời Chúa Giêsu nói đây như nền tảng của quyền tha thứ tội lỗi bằng bí tích cáo giải. Nhưng tại sao thánh sử, mà trọng tâm tư tưởng là việc mặc khải, định nghĩa ở đây sứ mệnh các môn đồ bằng quyền xét xử chứ không bằng việc loan báo lời (17, 9- 21)? Người ta có thể ngạc nhiên về điều đó. Nhưng chắc chắn là Gioan ghi lại những lời của chính Chúa Giêsu. Trong Lc 24,47, Chúa Giêsu không nói đến việc tha tội; trong Mt 28,18 thì Người để ý tới quyền phổ quát và thần linh của mình. Như đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu (9,39), việc rao giảng Tin Mừng đem lại sự chia rẽ trong thế gian. Các môn đồ được công bố là có thẩm quyền phân biệt xem ai đáp lại sứ điệp; họ được quyền phán xét sau cũng như trước khi người ta lãnh phép rửa tội. Dĩ nhiên quyền này không độc lập với việc rao giảng, vì xét cho cùng chính "chân lý” mới giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi (8,32-34) và biến cải nên tinh tuyền (13, 10; 15,3). Lc 24,47 nhấn mạnh rnối dây liên kết chặt chẽ việc công bố đức tin.và quyền xét xử nhưng xem ra thiên về điểm đầu hơn. Trong Mt 28, 18- 20 quyền được trao ban bao gồm việc loan báo đức tin, quyền thanh tẩy và trông coi việc giữ các giới luật. Tư tưởng Gioan đặc biệt nhấn mạnh đến quyền tài phán của các môn đồ, được xem như một tia sáng của quyền Con Người.

Người ta tự hỏi tại sao Thần khí đã được ban cho các môn đồ ngay từ Phục sinh, trái ngược với cảm thức của cộng đoàn Kitô giáo sơ khai là đặt việc tuôn đổ Thần khí vào lễ Ngũ tuần (Cv 2, 1-4). Luca chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện vào lễ Ngũ tuần. Nhưng ông có thể đưa về phần thứ hai của tác phẩm mình, tức sách Cv.; còn Gioan thì không. Vậy phải chăng ta có thể coi Thần khí như một sản phẩm có điều kiện? Được ban theo lượng theo liều? Thật ra, việc chia sẻ Thần khí được thực hiện từ từ. Ngài đâu phải là một chân lý tĩnh, đặt trong túi như một đồ vật đáng giá. Đối với Kitô hữu, thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài không ngừng được phân phối, vào lễ Ngũ tuần và sau đó trở đi. Việc tuôn tràn vào lúc Phục sinh, Hiện xuống và sau đó đều là những dấu hiệu của cùng một thực tại mà, từ lúc Chúa Giêsu được tôn vinh (7,37-39), đã cách mạng cả thế giới. (3, 3-8). Lối phân biệt việc ban Thần khí vào lúc Phục sinh và Hiện xuống chỉ là thứ yếu, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố đều thuộc về cùng một Giờ. Tất cả mọi cuộc tuôn đổ Thần khí chỉ là một. Ngày Phục sinh, các môn đồ nhận được Thần khí để chuẩn bị sứ mệnh; Thần khí ấy trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2, 1-4); sau đấy Ngài còn tiếp tục giúp đỡ họ không cùng.

Gioan chẳng kể lại ChúaGiêsu giã từ thế nào và môn đồ phản ứng ra sao, không phải vì ông muốn qua đó ngụ ý sự hiện diện thường xuyên của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần (Ga 16, 7; x.Mt 28,20) nhưng vì muốn tuân theo một cơ cấu văn tương phản ứng của Maria Mađalêna sau cuộc hiện ra cũng bỏ qua không bàn đến.

TÔMA (20, 24-29)

Chúng ta biết tính tình của Tôma Diđimô rồi. Là một con người thực tiễn, ông chỉ phê phán theo lương tri. Ong không mấy thích những chuyện điên rồ như việc đi thăm mồ Ladarô dạo nọ hay lang thang vô định trên con đường chẳng biết dẫn tới đâu (11,16; 14,5). Thế là nay người ta lại bảo với ông là đã thấy Chúa. Hãy nói với kẻ khác đi!

Họ đã thấy Chúa! Đó là lời rao giảng đầu tiên, lời chủ yếu liên hệ đến các sự kiện cụ thể, nhưng cũng đã bao hàm mọi khai triển khả dĩ của đức tin: họ đã thấy Người, và sẽ dần dần thay Người. Chúa của họ, sống và ở bên họ ra sao.

Tôma cũng đã thấy Người, một lần thay cho tất cả trên thập giá. Như thế là đủ; đừng tìm cách nói vớ vẩn trước mặt ông. Vết thương lỗ đinh, cạnh sườn đâm thủng, đó là thực tế. “Bao lâu Tôma chưa thấy chúng tận mắt, thì đừng kể chuyện ấy cho tôi”. Tôma nắm được một điểm chắc chắn, sự chắc chắn tàn nhẫn của cây thập giá, và ông diễn tả nó cũng tàn nhẫn không thua gì.

Và đây một tuần sau, đúng vào cùng ngày, Chúa Giêsu hiện đến với đầy đủ tang chứng đòi hỏi. Người hiện ra một ngày Chúa Nhật, không phải để tỏ dấu thích ngày đó, vốn sẽ thành Ngày của Người, song vì muốn hiện ra cho Tôma trong những hoàn cảnh in hệt lần đầu tiên. Như lần trước, mọi cửa đều đóng kín, như lần trước, người thình lình đến giữa họ, chào hỏi cũng với công thức: Bình an cho các con! Mọi cảnh đều được lặp lại Dầu giây phút hiện ra thế nào chăng nữa, Chúa Giêsu vẫn luôn là một. Không chờ câu trả lời, Người đến bên Tôma, và với một lối trả đũa đượm nét khôi hài, Người cho ông kiểm chứng lai lịch của Người, dẹp yên mối nghi ngại của ông và xin ông đừng cứng lòng tin, song hãy dần dần trở nên kẻ thành tín. Chúng tôi dịch: lè ginou ra: (đừng trở nên cứng tin, mặc dầu nhiều tác giả vẫn phản đối kiểu dịch đó và dịch "đừng cứng tin, đừng có thái độ như người không tin". Thật vậy, từ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Tôma dần dần trở nên người không tin. Thành ra ông phải từ từ đào sâu đức tin đầu tiên của mình lại. Niềm tin này phải được củng cố để trở nên một đức tin Kitô giáo trưởng thành; ông không được nằm lì nơi đức tin vào Đấng Messia, ông phải tin vào Con Người đã được tôn vinh trong cái chết.

Tôma rối loạn tâm thần! ông nói quá lố: gọi Chúa Giêsu là Thiên Chúa! Ta không tìm được chỗ nào trong Tin Mừng thứ tư một lời tuyên tín chấn động và rõ ràng hơn: Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi! Quả là một thành ngữ rất xứng đáng với vị thánh sử già nua (1Ga 5,20). Phải chăng Tôma đã phát biểu như vậy? Nhưng ai dám quả quyết rằng tôm, con người khô khan, hoàn toàn bối rối, đã không thể nào ăn nói trượt quá trực giác đức tin đầu tiên của ông được? Dầu sao, người ta có thể chấp nhận rằng việc quay đầu đột ngột từ sự tỉnh mộng thiên sai ác liệt nhất đến cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh đã có thể gợi hứng cho tôm một lời tuyên xưng hơi vượt quá sự nhận biết đơn thuần về Đấng Messia nơi ông. Đối với thánh sử, lời tuyên xưng tóm tắt trong vài chữ ấy thật hoàn toàn thích đáng.

Nhiều diễn giả và độc giả hiện đại thường lấy làm khoái được bôi nhọ Tôma, con người gieo rắc nghi nan ấy. Câu nói sau cùng của Chúa Giêsu được họ giải thích như là lời quở trách nặng nề đối với Tôma, lời quở trách mà những kẻ tin chân chính như họ thoát khỏi. Chúng ta đừng tưởng câu chuyện Tôma được giữ tại trong Tin Mừng với mục đích cho các thế hệ về sau cái thú phê phán kẻ khác. Thật ra, lời quở trách của Chúa Giêsu không quá ác độc. Các sứ đồ khác đã chẳng phải thấy mới tin đó sao? (Mt 28,7; Mc 16, 11- 13. 14; Lc 24, 11. 25. 38. 41). Lời áy của Người có lẽ cũng đượm nét khôi hài không kém cử chỉ phô bày vết thương. Người nói nó ra với một nụ cười; vì còn hơn một tiếng quở trách, đó là một lời hứa, một lời chúc, lời hứa đẹp nhất mà thánh sử có thể ngỏ với mọi độc giả của ông, dù họ thuộc thế kỷ nào: Phúc cho những ai không thấy mà tin! không một thế hệ Kitô hữu nào sẽ bị kém ưu đãi so vớt thế hệ đầu tiên. Dĩ nhiên, cần những chứng nhân tận mắt, bởi vì chứng từ đức tin, dưới sự hướng dẫn cửa Thần khí (15, 26- 27), phải dựa tràn những sự kiện được dẫn chứng hợp cách. Song thực tại của việc Thiên Chúa hiện diện trong Chúa Giêsu (17, 17) tức là cái chân lý được chuyển thông bằng lời mặc khải (17,20) thì ban trực tiếp cho mọi người, tín hữu về sau cũng như chứng nhân của việc Sống lại. Tất cả họ đều ở trong cùng một tương quan đích thực và trực tiếp với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu, với Chúa Cha (17, 21); họ không sống những cuộc hiện ra của Đấng Phục sinh, tuy nhiên trong đức tin họ vẫn thấy Người sống (14, 19; 16, 16-20). Phúc cho ai lời cầu chúc Chúa Giêsu ngỏ với họ không phải chỉ là một lời khuyến khích hãy tin dù sao cũng mặc, nhưng thật là một lời cầu chúc hạnh phúc, vì người xác nhận rằng trong đức tin, họ sẽ có thể thấy Người và đến gần Người (1 Pr 1, 8-9).

KẾT LUẬN CỦA TIN MỪNG GIOAN (20, 30-31)

Nhiều dấu lạ khác nữa... Khi đặt bút kết thúc tác phẩm, Gioan biết rõ rằng nó chưa chấm dứt. Hỏi đời nào ta viết cạn ý một cuốn sách? Hay hơn nữa, có bao giờ ta minh chứng trọn vẹn đức tin của mình? Chính Chúa Giêsu cũng đã bảo trong diễn từ giã biệt: “Ta còn nhiều điều phải nói với các con...” (16,12). Theo gương Chúa Giêsu, Đấng tràn trề ao ước mặc khải Chúa Cha cho thế gian thế gian với tâm trí quá hẹp hòi hay đúng hơn với tâm hồn quá tự mãn khó có thể đón nhận đức Gioan nóng lòng trình bày cho độc giả cơn người của Chúa Giêsu trong chiều kích thật sự của Người, một con người gây nhiều ngạc nhiên vì là thần linh. Gioan có cảm tưởng tác phẩm của mình chỉ là một bức tượng bán thân. Chẳng những vì ông không nói hết: thật ra còn nhiều dấu lạ khác... (x. Hc 43,27; 1Mcb 9,22), nhưng nhất là vì trình thuật không bao giờ có thể trình bày đủ.

Rốt cục, ông có thể làm gì nếu không phải là thuật lại các dấu chỉ? Chúng ta hãy nhớ lại những dấu chỉ có tính cách thiên sai của phần đầu trong đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm được mở rộng ra. Nó bao gồm những phép lạ dấu chỉ và công việc (12, 37) cũng như những lời nói và cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên một khối (12, 38); cả hai soi sáng cho nhau, vì phép lạ và lời nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con người siêu nhiên của Chúa Giêsu. Người ta có thể chỉ dừng lại nơi những biểu lộ bề ngoài và kêu lên: phi thường thay, những phép lạ đó ý nghĩa tôn giáo sâu xa thay, những lời nói của Người!. Bao lâu phép lạ và lời nói không gợi được cho độc giả con người bên trong của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục đích. Thánh sử, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sĩ sáng suốt, biết chắc rằng thực tại vượt xa ngàn trùng vi hình ảnh được diễn tả. Vì thế ông tha thiết kêu xin độc giả phải xuyên qua dấu chỉ và đi đến sự vật được dấu chỉ diễn tả, như ông đã làm dưới ánh sáng của Thần khí.

Độc giả cần phải có đức tin. Tin Mừng không được viết ra như một lời biện hộ gởi đến người không tin; trong trường hợp này, thánh sử có lẽ chứng tỏ mình thiếu chiến thuật. Thật vậy cho dù dán mắt vào các sự kiện, ông không quan sát chúng trên phương diện thuần lý, nhưng dưới ánh sáng của đức tin do Thần khí khơi dậy và soi sáng. Gioan viết cho các Kitô hữu đã tin, nhưng ông báo cho biết không bao giờ họ đi đến mút cùng đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao hàm một thực thể không bao giờ tát cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ lòng tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách đã được làm nổi bật trong phần đầu của Tin Mừng (Ga 2-4) và được củng cố do phản án.g đức tin đầu tiên của cộng đoàn Kitô hữu (vd Cv 2, 36), người Kitô hữu phải đi sâu vào lòng tin vào tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mặc khải rõ ràng vào Giờ tôn vinh. Và đức tin càng đào sâu thì sự sống thần linh và không thể phá hủy cành được trao ban nhờ danh - hay con người - Chúa Giêsu. Vì Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu danh Ngài (17,11-12) đồng thời cả quyền thông sự sống vĩnh cửu (Ga 5, 26-40; 6, 53; 10, 10; 17,2). Ai tin vào danh Chúa Giêsu thì nhờ Người sẽ được sống muôn đời (1, 12; 3, 15-18; 12,50; 1Ga 5,13). Không! Tin Mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu chỉ, Tin Mừng vẫn còn là như vậy bao lâu lòng tin của độc giả chưa đạt đến đích. Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi người tín hữu thấy được vinh quang của Chúa Giêsu mà Chúa Cha ban cho Người khi Người trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh đã hiện hữu trước mọi thời gian (17, 24).

(H. van den Bussche, Jean. Paris DDB, 1967. Tr 549-556)

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Bài Tin Mừng hôm nay thật súc tích; nó gợi lên cho ta ba điểm then chốt: nhấn mạnh ý nghĩa cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, biểu lộ sứ mệnh của Giáo Hội đã ghi khắc trong chiến thắng Phục sinh, và suy nghĩ về sự chậm tin.

a. Chúa Giêsu sống: các môn đồ đã gặp lại Chúa Giêsu đang sống. Tin Mừng không ghi lại chính biến cố phục sinh, và các trình thuật hiện ra cũng rất ngắn gọn. Đây là một lời mời gọi đi thẳng vào điểm chủ yếu: hôm nay, Chúa Giêsu đang sống. Người đang hiện diện trong đời ta. Cũng như ngày trước, hôm nay Người cũng có thể vượt qua các bức tường ta đang ẩn úp bên trong, để hiện ra với ta. Đặc biệt trong hy tế tạ ơn ngày Chúa Nhật, trong lòng cộng đồng tín hữu đang tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu chết và sống lại, đang sống hôm nay, vừa đang hiện diện. Lời Người đang vang dội bên tai ta trong lòng Giáo hội đang họp nhau.

b. Sứ mệnh của Giáo Hội: Cuộc gặp gỡ với Chúa hằng sống là nguồn mọi sinh động. Tin là tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội. Nhưng việc này không phải là một việc thuần nhân loại. Ta hãy tự hỏi mình có phải là tín hữu không? Mọi công việc ta làm có được thúc đẩy bởi Thần khí của Chúa Kitô không. Niềm vui cũng biểu thị đời sống của những kẻ đã gặp Chúa Kitô trong niềm tin. Không phải là một niềm vui dễ dãi chẳng biết đến gian nan thử thách, nhưng là niềm vui của đức tin, cắm chặt trong chiến thắng Phục sinh của Chúa Kitô.

c. Phát triển đức tin: Tin không phải chỉ một lần. Đức tin là một cuộc sống. Mà sống là phải triển nở, lớn lên; mọi hữu thể sống động cần phải được bồi dưỡng bằng một thức ăn thích hợp. Làm sao trở nên sứ giả của Chúa Giêsu nếu mỗi ngày không cố gắng sống đời môn đồ Người? Sự kiện cả những kẻ thân cận của Chúa Giêsu cũng đã chậm tin không phải là một khích lệ cho ta sao? Ta thường hay tìm cách biện minh, tìm các dấu chỉ khả giác, kết quả.

2) Tin Mừng Gioan được gọi là Tin Mừng về các dấu chỉ: Chúa Kitô bắt đầu cuộc sống công khai của Người bằng dấu chỉ đầu tiên (nước biến thành rượu ở Cana xứ Galilê) và lời nói cuối cùng của Người là: "Phúc cho những ai không thấy mà tin" (Ga 20,29). Gioan nói thêm: "... Còn nhiều dấu chỉ khác nữa, ... các điều đã viết đây là để anh em tin". Do đó, Tin Mừng Gioan đã tuyển tập các dấu chỉ của Chúa Kitô, kèm theo các diễn từ giải thích chúng, để cho thấy Chúa Giêsu là Đấng Messia và là Con Thiên Chúa, và để khơi dậy niềm tin, một niềm tin ban sự sống trong Ngươi? (Max Thurian). Vì thế Kitô hữu không chỉ mê say với các điều kỳ diệu trong Tin Mừng mà còn phải ham thích lời giải nghĩa cấc điều kỳ diệu đó. Chúa Giêsu Phục sinh minh nhiên hiện đến với tôm là kẻ đã nói: "Nếu tôi không thấy Người, tôi sẽ không tin", nhưng chính vì Tôma và nhất là vì chúng ta mà Chúa Giêsu tuyên bố: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".

3) Điều cốt yếu thì vô hình đối với con mắt" (Saint- Exupéry). Câu này đúng với thế giới duy vật của ta. Phải có các dấu chỉ về điều cốt yếu vô hình đó; chúng ta là những hữu thể có xác phàm, những hữu thể vật chất, nhưng cũng là những hữu thể tinh thần, tâm linh: xuyên qua các dấu chỉ vật chất, ta khám phá ra tình huynh đệ sâu đậm, tình yêu thương chân thành đang tự hiến cho ta.

4) Ta có tin vào các dấu chỉ không? Ta có tin rằng Tin Mừng giúp ta biết rõ các sự kiện để ta' "nhận ra chúng" nhờ Thánh Thần mà Chúa Giêsu ban cho ta không? Ta có biết khám phá ra các dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang hiện diện trong đời ta không?

5) Thánh Thể là một trong những dấu chỉ đặc biệt nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô. Vì sao phép Thánh Thể ít hiệu lực đối với ta? Thưa vì ta thường hay dừng lại giữa đường: ta ít khi nhận biết Chúa Kitô đang ở đó như một Đấng sống động, một ngôi vị sinh động mà ngày hôm nay đang tự hiến cho Chúa Cha và cho ta ... Ta không chịu đọc các dấu chỉ ...

6) Phản ứng của Toma khi thấy các tông đồ báo tin cho ông việc Chúa Giêsu hiện ra cho chúng ta thấy khía cạnh đầu tiên trong hoạt động của “thế gian”. Vì việc sống lại của Chúa Giêsu vừa khó tin vừa gây bực bội, nên ta thường bị cám dỗ không chấp nhận. Cũng thế, Tôma giới hạn tri giác về thực tại và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay của khả năng suy tư. Những gì ông không thể hiểu, không thể sờ đến, đo lường, đều bị ông từ chối. Đó là tinh thần của thế gian muốn kéo lôi tất cả đến với nó và chỉ chấp nhận những gì nó chứa đựng.

7) Đức tin luôn bao hàm sự liều lĩnh, bởi lẽ nó không tự áp dụng bằng kinh nghiệm hay lý luận. Đức tin trở nên khó khăn đối với Tôma, thì cũng khó khăn đối với tấ cả chúng ta. Đức tin dạy điều khó tin vì giả thiết một sự vượt quá thường xuyên con người chúng ta, vì đức tin là một sự tăng trưởng, một bước tiến đến Đấng nào đó luôn bí ẩn, luôn gây ngạc nhiên.

8) Đức tin không những là một sự liều lĩnh mà còn là một cuộc chiến, một trận đấu. Đức tin không có gì là thoải mái tiện nghi; nếu đức tin xây dựng và tái tạo chúng ta, điều đó có thể thực hiện nếu chúng ta biết từ bỏ chính mình. Thế gian mà đức tin sẽ toàn thắng không phải là một thực thể trừu tượng, xa vời. Thế gian đó, là chính chúng ta với những sợ hãi, lo âu, khoe khoang, ghen ghét, tham vọng và quyến luyến. Bao lâu còn bám chặt thế gian, bấy lâu chúng ta còn bị thống trị. Và chúng ta hoàn toàn giống nhau, nên chúng ta thường biện minh cho nhau, tự làm cho mình ra vô tình và không áy náy trong việc bất tuân lời Chúa và khuyến khích nhau từ bỏ đức tin; thế gian cũng như não trạng tập thể của xã hội thấm nhiễm vào chúng ta đến nỗi nếu phải suy nghĩ hay sống khác biệt với tập thể này, chúng ta có cảm tưởng là mình theo tư tưởng của riêng mình, là không liên đới với những người khác và phá hủy một cái gì cao quí và cần thiết.

9) Tôma thật đáng quí vì tôi nhận ra tôi trong ông; nếu tôi gặp nhiều khó khăn thực sự khi phải chấp nhận tất cả dưới lý do là vì Giáo hội dạy; tôi lại ít sẵn sàng chấp nhận khi thấy Giáo hội không sống như lời giáo hội nói. Nếu là chân lý, tại sao giáo hội không sống phù hợp hơn với điều Giáo hội giảng? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng như thế, hãy lặp lại lòi nguyện khiêm nhường của Phúc âm “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin ban thêm đức tin cho con”.

10) Chúa Giêsu ba lần nói cùng chúng ta trong đoạn Phúc Âm này: “Bằng an cho các con”. Ngày nay, trong thế giới và Giáo hội với những lao động bất công và bạo hành, ước gì chúng ta sống trong bình an mà Đức Kitô phục sinh ban cho; chỉ khi nào đức tin toàn thắng thế gian trong con người chúng ta, khi đó chúng ta mới là kẻ xây dựng an bình.

-----------------------------------

 

PS2-92. Dấu chứng Phục Sinh


“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”.

 

Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của con người khoa học thực nghiệm: PS2-92


Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm nghiệm được mới tin.

Ngày 23 thánh 9 năm 1968, cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại Italia. Suốt 50 năm cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai chân và ngực ngài được in năm vết thương của Chúa Giêsu. Những vết thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và tham dự thánh lễ cha cử hành. Khi cha Piô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận thức rõ ràng ngài mang trên thân thể ngài những dấu thương tích mà Chúa đã chịu trên thập giá, những vết thương làm cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ ra trên tay của cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay ngài được bao lại trong đôi gang tay màu nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một người vác thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài như thiên thần, nhưng người có mặt cảm thấy bình an.

Với một số người, câu chuyện của cha Piô coi như chuyện đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực ra đây là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của chúng ta. Hằng trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương trên cơ thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị được.

Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nỗi khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác cha Piô. Và trong lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã được in dấu thánh, đặc biệt là cha Thánh Phanxicô thành Assisi, để họ trở nên những nhân chứng sống động cho cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Ktô.

Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xẩy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.

Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính dấu đinh. Nếu chính Đứng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chuá Phục Sinh một cách sống động nhất. Từ 2000 năm nay, Thánh giá mới thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị đánh đập sỉ vả; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa” trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói khát, trần truồng, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.

Nhưng thưa anh chị em,

Giáo hội nói chung và mỗi người tín hữu chúng ta nói riêng có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta phải sẵn sàng đổ ra hay không?

Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nghiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không nhìn thấy những vết thương,những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những kẻ tin, muôn người như một, chuyện cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (X. Cv 4,32-35; 2,42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Đạo của anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của anh đi!

Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.

-----------------------------------

 

PS2-93. Đức tin là một sự tăng trưởng

 

Ký sự thuật lại lần xuất hiện thứ hai của Chúa tại phòng Tiệc ly, trong lúc có một môn đệ Tôma: PS2-93


Ký sự thuật lại lần xuất hiện thứ hai của Chúa tại phòng Tiệc ly, trong lúc có một môn đệ Tôma là người bản tính cứng tin. Ký sự đáng cho ta chú ý về hai điểm được nhấn mạnh. Trước hết là thực tại hữu thể trong sự Chúa sống lại, dù người ta đưa ra bất kỳ lý thuyết phỏng đoán về cơ thể hiển vinh của Chúa. Tiếp đến là tầm quan trọng và ưu thế của đức tin.

Trước khi nhấn mạnh vấn đề đức tin, chúng ta ghi sơ qua rằng rất có thể bài tường thuật muốn trả lời hai ý kiến phản kháng:

a/ Chúa Phục Sinh không phải làmột bóng ma, cũng chẳng phải là một ảo ảnh. Chúa phô bày những dấu vết về nhân dạng –về thực tại hữu thể của Người: đó là những thương tích của một người đóng đinh trên thập giá, Chúa cho Tôma tra tay vào những vết thương đó.

b/ Truyền thuyết mà người Do Thái tưởng tượng về việc thi hài Chúa bị mấy môn đệ lấy đi mất, là một chuyện dựng đứng, bởi lẽ một số đông môn đệ đã thấy Chúa, nhận đúng Chúa bằng xương bằng thịt.

Giả thuyết này, giả thuyết nọ cốt ý giải thích cái thực tại hữu thể, nhưng không thay đổi được gì trong việc kiểm chứng một sự kiện.

Đối với chúng ta, vấn đề hấp dẫn nhất liên quan đến đức tin:

1) Trước đây, Chúa đã phán: Các ngươi tin vào Thiên Chúa, vậy hãy tin vào Ta (Ga 14,1). Đáp lại lời đó của Thày, vang lên tiếng hô của Tôma: Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi. Khoảng giữa Lời Chúa và tiếng kêu kỳ diệu của Tôma, một quá trình dài đã được thực hiện. Có thể nói rằng một trong những mạch văn chứa đựng tính chất bi kịch trong toàn bộ Phúc Âm của thánh Gioan biểu lộ trong bước tiến chật vật từ cứng tin vươn tới đức tin. Người Do Thái sau này sẽ đứng tại chỗ với lòng cứng tin. Đức tin chỉ được vươn tới sau khi vượt thắng bao khó khăn trở ngại. Tôma thuộc hạng người ưa phản kháng, khó thuyết phục. Ta nhớ lại, ông đã từng xem việc Chúa đi thăm mộ Lagiarô như một việc liều lĩnh (Ga 11,16). Ông đã dám nói với Chúa rằng ông không biết cuộc phiêu lưu của Người rồi đây sẽ kết thúc ở đâu (Ga 14,5). Vậy mà chính ông đã tuyên xưng đức tin bằng một câu tuyệt vời nhất trong khắp Tân Ước. Đây là một kết quả cho thấy cùng một lúc lòng rộng rãi Chúa khi Người ban ơn đức tin, và lời đáp đơn sơ của một tâm hồn khó tính nhưng ngay thẳng.

Người ta sẽ nhận xét: Tôma dễ có được niềm tin vì may mắn được thấy Chúa. Phần chúng ta, chúng ta nhận định rằng các môn đệ khác cũng may mắn như Tôma. Tuy nhiên đã có một khoảnh khắc các ông nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhiều hơn là một người. Niềm tin của ông nằm trong quá trình các ông thừa nhận Đức Giêsu Thiên Chúa.

Chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta vượt lên trên những gì chúng ta biết về con người Giêsu lịch sử, để vươn tới niềm tin vào Đức Giêsu Thiên Chúa.

2) Đức tin là một sự “trở nên” liên tục, một sự tiến tới không ngừng. Không bao giờ người ta đạt tới hoàn hảo trong đức tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta và là Thiên Chúa chúng ta. Một trong những bản dịch có thẩm quyền nhất về câu 27, viết: Ngươi đừng trở nên cứng tin, mà là người thành tín. Cứng tin hay thành tín không phải là trạng thái bất động của nội tâm. Từ chối không tin, là khiến cho đức tin càng thêm khó. Ngược lại, chấp nhận tin và làm cho đức tin càng dễ được chấp nhận và sống động. Người ta tiến hóa trong đức tin. Người ta trở nên cứng tin hơn hoặc thành tín hơn.

Sự kiện này có một hệ quả. Đức tin sống động thiết lập trong con người một sự tăng trưởng thiêng liêng. Sau một thời kỳ tăng trưởng, cơ thể bị hao mòn dần rồi chết. Đức tin là một thực tại thiêng liêng lớn lên và tăng trưởng theo mức độ chúng ta muốn sống trong đức tin. Đức tin không hao mòn, nhưng phát triển và nảy nở không ngừng. Tại sao? Vì lẽ đức tin nối chúng ta vào Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch vô tận của sự sống. Tuy nhiên chúng ta có trở nên mỗi ngày một thành tín hơn hay không là tùy thuộc lòng ước muốn, thái độ ngay thẳng thực tiễn và cung cách chúng ta nghênh tiếp đức tin.

-----------------------------------

 

PS2-94. Chú giải của William Barclay


CHÚA KITÔ SAI PHÁI (Ga 20,19-23)

 

Có lẽ các môn đệ vẫn tiếp tục họp tại phòng cao, nơi đã tổ chức Bữa Tiệc Ly. Nhưng họ đã họp: PS2-94


Có lẽ các môn đệ vẫn tiếp tục họp tại phòng cao, nơi đã tổ chức Bữa Tiệc Ly. Nhưng họ đã họp mặt trong bầu khí đầy sợ hãi. Họ kinh hoàng vì đã biết sự cay cú độc ác của dân Do Thái vừa giết Chúa, và các môn đệ sợ rằng tiếp theo sẽ tới phiên họ. Họ đã họp lại trong sợ hãi, sợ từng tiếng chân đi ngoài hành lang, từng tiếng gõ cửa, e có tay sai của Tòa Công Luận đến bắt họ. Đang lúc đó, thình lình Chúa Giêsu hiện ra giữa họ, Ngài chào họ bằng lời chào thông thường của người Phương Đông: “Chúc anh em được bình an”. Câu ấy mang ý nghĩa nhiều hơn là: “Cầu mong cho anh em khỏi lo lắng bối rối”. Nó có nghĩa: “Nguyện Thiên Chúa ban cho anh em mọi điều tốt lành”. Sau đó Chúa Giêsu ban cho môn đệ một mệnh lệnh, sự sai phái mà Hội Thánh chẳng bao giờ được quên.

1) Ngài phán rằng Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai phái họ y như vậy. Đây là điều mà Westcott đã gọi: “hiến chương của Hội Thánh”. Nó có ba nghĩa.

a/ Chúa Giêsu cần Hội Thánh. Đúng như thánh Phaolô muốn nói khi ông gọi Hội Thánh là “thân thể của Chúa Kitô” (Ep 1,23; 1Cr 12,12). Chúa Giêsu đã đến với một sứ điệp cho mọi người, bây giờ Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ điệp ấy sẽ chẳng bao giờ đến được với mọi người nếu Hội Thánh không loan truyền. Hội Thánh phải là cái miệng nói thay cho Chúa, là đôi chân đi những nơi Ngài cần đến, là đôi tay để làm công việc của Ngài. Sứ điệp của Chúa Kitô được đặt vào tay Hội Thánh. Vậy ý nghĩa nhất trong câu chuyện này là Chúa Giêsu tùy thuộc vào Hội Thánh.

b/ Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Một sứ giả cần có người phái mình đi, cần có sứ điệp để mang đi, cần một thế lực, một thẩm quyền để hậu thuẫn cho sứ điệp mình mang đi, người ấy cần có người để nhờ cậy khi nghi ngờ và gặp khó khăn. Vì thế, Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Nếu không có Ngài, Hội Thánh sẽ không có sứ điệp, không có năng lực, không có ai để nương cậy khi bị chống đối, không có gì để soi sáng cho tâm trí, thêm sức cho đôi tay, khích lệ cho tâm hồn. Vậy, câu này có nghĩa là Hội Thánh lệ thuộc vào Chúa Giêsu.

c/ Nhưng ở đây vẫn còn một điểm khác nữa. Việc Hội Thánh được Chúa Giêsu sai phái song song với việc Ngài được Chúa Cha sai phái. Không ai đọc tường thuật của sách Gioan mà không thấy tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha luôn luôn dựa trên sự vâng phục trọn vẹn và tình yêu trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu làm sứ giả của Chúa Cha, chỉ vì Ngài vâng phục và yêu mến Chúa Cha cách trọn vẹn. Do đó Hội Thánh cũng chỉ làm sứ giả, công cụ cho Chúa Giêsu khi Hội Thánh yêu mến và vâng phục lời Ngài thật sự trọn vẹn. Hội Thánh không thể ra đi với các chính sách nhân tạo của mình mà phải theo ý của Chúa Giêsu. Bất cứ lúc nào cố ý dựa vào sự khôn ngoan và năng lực riêng để giải quyết vấn đề mà không tìm ý muốn và hướng dẫn từ nơi Chúa Giêsu, Hội Thánh sẽ thất bại.

2) Chúa Giêsu hà hơi trên các môn đệ để ban Thánh Thần. Khi nói như vậy chắc chắn Gioan đang nhớ lại câu chuyện sáng tạo con người. Tác giả xưa đã viết: “Thiên Chúa bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì con người trở nên một loài sinh linh” (St 2,7). Đó cũng chính là bức tranh mà Êdêkiên đã thấy trong thung lũng đầy hài cốt khô, ông nghe Chúa phán với gió: “Hỡi hơi thở, hãy đến từ gió bốn phương, thở trên những người bị giết, để cho chúng được sống” (37,9). Khi Thánh Thần đến, có sáng tạo mới, như đánh thức sự sống từ trong cái chết. Khi Thánh Thần xuống trên Hội Thánh, Hội Thánh được đánh thức và tái tạo để thi hành nhiệm vụ của mình.

KẺ NGỜ VỰC CHỊU THUYẾT PHỤC (Ga 20,24-29)

Với Tôma, ông chỉ còn chờ thập giá mà thôi. Khi Chúa Giêsu đề nghị đến Bêtania lúc được tin Ladarô bị bệnh, Tôma nói: “Chúng ta hãy tới đó để cùng chết với Ngài” (Ga 11,16). Tôma không thiếu can đảm, nhưng ông có tính bi quan. Không ai nghi ngờ việc Tôma rất yêu mến Chúa Giêsu. Ông yêu Ngài đủ để sẵn sàng cùng đi với Ngài lên Giêrusalem, sẵn sàng để chết khi các môn đệ khác phân vân, sợ hãi. Điều mà Tôma chờ đợi đã xảy ra, và khi việc xảy ra như ông chờ đợi thì ông vẫn đau đớn vô cùng, ông đau đớn đến độ không muốn nhìn mặt ai nữa, ông ở riêng với niềm đau của mình.

Vua George Đệ Ngũ thường nói một trong những quy luật sống của ông: “Nếu ta phải chịu đau khổ thì hãy để ta như một con vật tốt giống và để ta chịu khổ một mình trong cô đơn”. Tôma phải đối diện với nỗi đau buồn của ông trong cô đơn. Vì thế, khi Chúa Giêsu trở lại với các môn đệ thì Tôma đã không có mặt. Với ông tin báo Chúa Giêsu sống lại là một tin dường như quá tốt lành đến độ không thể tin có thật, vì thế ông đã không chịu tin. Với tâm trạng phân vân do bản tính bi quan, ông tuyên bố chẳng bao giờ ông tin Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, cho đến khi thấy tận mắt, đặt ngón tay ông vào dấu đinh trên tay Chúa và đặt bàn tay ông vào chỗ mũi giáo đã đâm nơi hông Ngài (Kinh Thánh không chép gì về các vết thương nơi bàn chân Chúa Giêsu, vì trong hình phạt đóng đinh vào thập giá, đôi chân không bị đóng đinh, chỉ cột vào đó mà thôi).

Thêm một tuần lễ trôi qua, lần này Tôma có mặt với các môn đệ khác. Chúa Giêsu biết rõ tấm lòng của Tôma, Ngài lặp lại lời ông và mời ông tự làm cuộc trắc nghiệm mà ông từng đòi hỏi. Bấy giờ, lòng Tôma tuôn trào tình yêu và thờ kính, ông chỉ có thể thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma ơi, ngươi cần thấy tận mắt rồi mới chịu tin, nhưng sẽ có lúc người ta chỉ thấy bằng con mắt đức tin và tin nhận. Trong câu chuyện này tâm tính Tôma đã bộc lộ rõ ràng trước mắt chúng ta:

1) Tôma đã phạm một lỗi lầm. Ông đã vắng mặt trong buổi họp mặt anh em. Ông tìm sự cô đơn hơn là họp nhau. Và vì không có mặt với các bạn nên ông mất cơ hội gặp Chúa Giêsu lúc Ngài đến đó lần thứ nhất. Chúng ta sẽ bị mất mát nhiều nếu tự tách mình ra khỏi cộng đoàn để tìm cách sống cô đơn. Nhiều điều có thể xảy ra khi chúng ta cùng ở với nhau trong Hội Thánh Chúa, nhưng sẽ không xảy ra khi chúng ta sống cô đơn. Khi gặp cảnh đau buồn, chúng ta thường có khuynh hướng muốn đóng cửa lại, nhốt mình riêng một nơi, không muốn gặp ai cả. Nhưng chính những lúc như thế, mặc dù đau buồn, chúng ta nên tìm cách thông hảo với anh em, vì trong sự thông hiệp đó chúng ta có cơ may gặp Chúa.

2) Nhưng Tôma có hai đức tính lớn. Ông nhất định không chịu nói là tin khi ông không tin, không bao giờ nói mình hiểu trong khi không hiểu. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ. Tôma không thuộc loại người chịu thông qua điều chưa hiểu. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng.

Một người đòi hỏi chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ lặp đi lặp lại như con vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến, không thật sự tin tưởng. Cính hoài nghi như thế đến cuối cùng sẽ đạt đến chỗ tin chắc.

3) Đức tính kia của Tôma là khi biết chắc, ông sẽ đi cho đến cùng. Ông nói: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Với Tôma không có vị trí lưng chừng. Ông không làm bộ hoài nghi chỉ nhằm chơi trò xiếc tinh thần, ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã chắc rồi, ông hoàn toàn vâng phục. Khi một con người chiến đấu với nỗi hoài nghi để đi đến chỗ tin Đức Giêsu là Chúa, người ấy đạt được sự chắc chắn mà những người dễ dàng chấp nhận không suy nghĩ sẽ chẳng bao giờ đạt tới được.

TÔMA VÀO NHỮNG NGÀY SAU ĐÓ (Ga 20,24-29)

Chúng ta không rõ những ngày sau đó điều gì xảy đến cho Tôma. Nhưng có một sách ngoại kinh nhan đề: “Các công việc của Tôma” dựng lại tiểu sử của ông. Dĩ nhiên đây chỉ là truyền thuyết cũng có phần nào là lịch sử, và trong sách đó, Tôma được mô tả trung thực với tính tình của ông. Sau đây là một phần trong câu chuyện đã được kể lại về ông.

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, các môn đệ phân bổ khu vực rao giảng Phúc Âm, mỗi người đến một nơi nào đó để truyền bá Phúc Âm cho mọi người khắp thế gian đều được nghe. Tôma bắt thăm nhằm xứ Ấn Độ (Giáo Hội thánh Tôma ở miền Nam Ấn truy lai lịch của họ từ Tôma). Thoạt đầu Tôma không chịu đi, ông bảo ông không đủ sức thực hiện một chuyến đi xa đến thế. Ông nói: “Tôi là một nguòi Do Thái, làm sao lại có thể đến sống giữa những người Ấn Độ mà rao giảng chân lý cho họ được?”. Tối đến, Chúa Giêsu hiện đến với ông và phán: “Hỡi Tôma đừng sợ, hãy đến Ấn Độ và giảng ở đó, vì ân sủng Ta ở với ngươi?. Thế nhưng Tôma vẫn ngoan cố từ chối. Ông nói: “Nếu Ngài muốn sai con đi thì sai, nhưng đi nơi nào khác chứ không đến với dân Ấn, con sẽ không đi đâu!”. Bấy giờ có một thương nhân tên Abbanes từ Ấn đến Giêrusalem, ông được nhà vua Gundaphorus sai đi tìm một thợ mộc giỏi đem về Ấn Độ, và Tôma vốn là thợ mộc. Chúa Giêsu đến cùng Abbanes ngồi chơi và hỏi: “Ông có muốn mua một thợ mộc không?” Abbanes đáp “Muốn” Chúa Giêsu nói: “Tôi có một tên nô lệ làm thợ mộc và tôi muốn bán”. Rồi Ngài chỉ Tôma đứng ở đàng xa, họ thuận giá và Tôma bị bán. Tờ bán viết như sau: “Tôi tên là Giêsu, con trai Giuse làm thợ mộc, nhìn nhận có bán tên nô lệ của tôi là Tôma cho ông Abbanes, thương gia của Gundaphorus, vua dân Ấn”. Sau khi biết xong giấy bán, Chúa Giêsu đi tìm Tôma, đưa ông đến với Abbanes. Abbanes hỏi: “Có phải người đó là chủ của anh không?” Tôma đáp: “Phải!” Abbanes nói: “Tôi đã mua anh từ tay ông ta”. Tôma yên lặng. Sáng hôm sau, Tôma dậy sớm cầu nguyện, sau đó ông thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu con xin đi bất cứ nơi nào Ngài muốn, nguyện ý Ngài được nên trọn”. Đó chính là Tôma một người chậm tin, nhưng khi đã tuân phục thì tuân phục hoàn toàn.

Câu chuyện tiếp tục kể rằng vua Gundaphorus ra lệnh cho Tôma xây một cung điện, Tôma tâu rằng ông có đủ khả năng để làm việc ấy. Nhà vua cấp tiền đầy đủ cho ông mua vật liệu và thuê nhân công, nhưng ông đem phân phát hết cho người nghèo. Ông luôn tâu với vua rằng ngôi nhà đang được xây cất, sau đó nhà vua sinh nghi, cho gọi Tôma đến và hỏi: “Ngươi xây cung điện cho ta xong chưa?” Tôma đáp: “Xong rồi!” Nhà vua hỏi: “Vậy bây giờ ta đến xem được chăng?” Ông đáp: “Bây giờ hoàng thượng chưa thể đến xem được, nhưng sau khi lìa bỏ cõi đời này thì hoàng thượng sẽ thấy”. Thoạt đầu nhà vua nổi cơn thịnh nộ và tính mạng Tôma bị đe dọa, nhưng cuối cùng nhà vua tin Chúa. Như thế, Tôma đã đem Kitô giáo đến Ấn Độ.

Nơi Tôma có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ. Ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay. Ông là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả. Một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cuối cùng. Đức tin như ông tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi, vâng lời như ông tốt hơn cái gật đầu dễ dãi đồng ý nhận làm một việc gì đó mà không cân nhắc, để rồi sau đó lại rút lại điều mình đã hứa.

MỤC TIÊU CỦA SÁCH PHÚC ÂM (Ga 20,30-31)

Rõ ràng theo mục tiêu đã hoạch định từ ban đầu, sách Phúc Âm này phải chấm dứt ở đây. Chúng ta có câu kết thúc tự nhiên và chương 21 tiếp theo phải được xem là phụ lục được thêm về sau này. Đoạn này đã tóm tắt mục tiêu của tác giả cách ngắn gọn và đầy đủ.

1) Các sách Phúc Âm không có ý đưa ra một tường thuật đầy đủ về đời sống Chúa Giêsu. Các sách này không ghi theo từng ngày, từng giờ của Chúa, nhưng lại ghi chép một cách chọn lọc. Các tác giả không kể lại cho chúng ta tất cả mọi sự Đức Giêsu đã phán dạy hay thực hiện, vì kể như vậy chẳng bao giờ có thể xong được, nhưng họ chọn lọc các biến cố điển hình nhằm vạch rõ Chúa là ai, và các loại công việc mà Ngài thường làm.

2) Hơn nữa, các sách Phúc Âm không có viết về tiểu sử Chúa Giêsu, mà chỉ nhằm kêu gọi người ta hãy nhận Ngài làm Chúa Cứu Thế, là Thầy và Chủ của mình. Mục tiêu sách không nhằm thông báo tin tức, nhưng nhằm ban sự sống. Các sách ấy mô tả Đức Giêsu thế nào cho người đọc phải thấy, Người giảng dạy, hoạt động, chữa bệnh như vậy không ai khác hơn Con Thiên Chúa. khi đã tin như vậy thì độc giả sẽ tìm được bí quyết của một đời sống đích thực.

Nếu đọc các sách Phúc Âm như một loại sách sử ký hay tiểu sử, chúng ta đã sai lầm. Chúng ta phải đọc các sách ấy như những người đi tìm kiếm Chúa chứ không phải sử gia tìm tài liệu lịch sử.

Theo bất cứ quan điểm nào, chương 21 cũng là chương sách lạ lùng. Gioan đã chấm dứt chương 20, nhưng rồi dường như lại bắt đầu trong chương 21. Nếu không có những điều thật đặc biệt cần nói, chắc tác giả không thêm chương này. Chúng ta biết trong Phúc Âm Gioan thường có hai nghĩa, một nghĩa hiển lộ, một nghĩa ẩn tàng. Khi nghiên cứu chương này, chúng ta sẽ cố gắng tìm những lý do tại sao nó lại được thêm vào cách lạ lùng như vậy, sau khi sách này đáng lẽ phải chấm dứt.

-----------------------------------

 

PS2-95. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour


HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ (không có ông Tôma): 20,19-23

CHÚA HIỆN ĐẾN (cc. 19-20)

 

Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách: PS2-95


Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.

Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.

SỨ VỤ (cc. 21-23)

Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.

Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày của Chúa”, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian.

ÔNG TÔMA: KHÔNG THẤY MÀ TIN (20,24-29)

Việc ông Tôma vắng mặt cho phép người kể chuyện đưavào cảnh tượng tiếp sau. Sự cứng lòng không tin của ông Tôma được đặc biệt nhấn mạnh, bởi lẽ điều này được diễn tả gần như cùng một từ ngữ như trong 4,48: “Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu”. Ông Tôma, là người tuy đã mời gọi các bạn đồng môn cùng đi cùng chết với Chúa Giêsu (11,16), lại chối từ cùng với các bạn đi theo Chúa trong đức tin vào Chúa Giêsu hằng sống. Ông có hai lỗi: trước hết không tin vào lời chứng của các Tông đồ; sau nữa, nghi ngờ Chúa Giêsu sống lại.

Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai cũng được miêu tả với những từ ngữ như lần thứ nhất. Tuy nhiên sự cứng lòng tin của ông Tôma cho phép thánh sử thực hiện hai mục tiêu: trước tiên việc nhấn mạnh về những dấu vết thương tích đánh dấu sự liên tục và sự liên kết giữa Chúa Giêsu chịu đóng đinh và Chúa Giêsu được tôn vinh. Chính việc nâng cao là thập giá làm nên mặc khải tối thượng về tình yêu của Chúa Cha và vinh quang của Chúa Con. Tiếp đến, đức tin mà ông Tôma, kẻ không tin, tìm gặp lại, trổi vượt đức tin của các môn đệ bởi vì ông dành cho Chúa Giêsu tước hiệu vĩ đại nhất của cả Tin Mừng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Trong số tất cả các tước hiệu của Chúa Giêsu đã được khai trình giữa chương đầu này, chúng ta đạt đến tột đỉnh mà mọi định nghĩa giáo lý sau này đều không thể vượt qua được. Giữa “Ngôi Lời là Thiên Chúa” ở Lời Tựa (1,1) và lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa và Thiên Chúa”, mọi sự đều đã rõ. Quả là ngược mặc khải, kẻ làm chứng về chân lý này lại là người không muốn tin vào lời chứng của các Tông đồ.

Hạnh phúc cuối cùng là kết luận của Tin Mừng và là sự lặp lại chủ đề chính yếu của đối tượng: giữa thấy và tin, cảnh tượng và nghe biết, sự kỳ lạ và lời nói, thì chính phần thứ hai mới là điều kiện thường tình và lý tưởng của kẻ tin. Ngay cả những kẻ đã thấy, cũng phải tin hơn điều họ đã thấy. Ngôi Lời từ lúc mặc lấy các phàm, nghĩa là nhân tính nơi mà vẫn phải “nhận biết Thiên Chúa tỏ hiện trong vinh quang”. Chúng ta, những người lãnh nhận Tin Mừng, chúng ta quả có phúc vì đã không thấy mà nhờ những lời chứng của các Tông đồ, chúng ta gắn bó với Chúa Kitô và trở nên những kẻ tin vào Người.

KẾT LUẬN (20,30-31)

Hai câu này làm thành đoạn kết của Tin Mừng trước khi chương 21 được thêm vào. Gioan là tác giả duy nhất trong các thánh sử đã đưa vào tác phẩm của mình đoạn kết. Để cho độc giả tương lai tiện sử dụng, ông có hai xác định quan trọng:

Trước hết, Gioan nhận biết đã cố ý thực hiện một sự tuyển chọn trong số các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu. Vậy nên cần phải ghi nhớ điều đó mỗi khi thấy một vài thời kỳ trong cuộc đời của Chúa Giêsu được các Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, còn ông thì vẫn im lặng, và đừng vội kết luận rằng ông không hay biết các sự kiện đó. Trong khi định trước các môn đệ như những người lãnh nhận các dấu lạ, Gioan đặc biệt liên tưởng đến các độc giả của mình, tuy đã trở thành môn đệ, nhưng lại không thấy các dấu lạ được thực hiện trong cuộc đời của ông.

Sau nữa và nhất là, ông minh định mục tiêu của mình: kiên định các môn đệ trong đức tin vào Chúa Giêsu, vừa là Đấng Mêsia như Kinh Thánh đã hứa, vừa là Con Thiên Chúa, từ đó các môn đệ có được sự sống nhờ Chúa Giêsu. Như vậy, độc giả có sẵn chìa khóa để học hiểu. Tin Mừng không phải là một quyển sách bình thường, sáng tác để cho độc giả giải trí, mà là một quyển sách có sự sống; thừa hưởng cũng một năng lực từ sự xác tín và cũng một tiềm năng sự sống như lúc Chúa Giêsu còn tại thế. Đối với các độc giả sinh sống vào thời mà Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng xác thể nữa, thì có quyển sách này đây, sẵn sàng cho cuộc hội ngộ giữa độc giả và quyển sách, làm nảy sinh sự sống do đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa.

-----------------------------------

 

PS2-96. Chú giải của Noel Quesson


Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở... Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà đó.

 

Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai lần Đức Giêsu Phục sinh "hiện ra" cách nhau: PS2-96


Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai lần Đức Giêsu Phục sinh "hiện ra" cách nhau tám ngày. Tự nhiên chúng ta dễ để tâm chú ý dện lần hiện ra thứ hai với "Tôma" hơn, vì ta thường đồng hóa với ông, khi trên thực tế ta cũng thấy nơi mình một "kẻ hồ nghi", một “kẻ cứng lòng tin" và có thể gặp được nơi ông một thứ biện minh cho thái độ thiếu đức tin của ta.

Nhưng dù có thông đồng với Tôma, ta cũng không thể bỏ qua việc đọc trọn vẹn bản văn trên.

Trước tiên, ta cần lưu ý, Đức Giêsu hằng sống thường hiện ra vào Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần, đó có phải là điều ngẫu nhiên không? Ta quá biết rõ, thời đó các Kitô hữu tiên khởi đâu có ngày nào cũng họp nhau lại. Hằng ngày mỗi người đều phải lo sinh kế. Họ không thể luôn sống bên nhau. Vì thế, Đức Giêsu Phục sinh chỉ hiện “đến" trong khung cảnh buổi họp mặt hằng tuần của họ. Chúng ta có thể nhầm lẫn khi coi đức tin như một vân đề hoàn toàn "riêng tư" hay "cá nhân": ta thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh đăc biệt được nhận biết, thấu cảm, và xác nghiện trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ tập thể. Họ cùng hiện diện với nhau, tập họp chung ‘trong Giáo Hội’.

Các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông.

Vào lúc thánh Gioan viết những dòng trên. Giáo hội đang gặp sợ hãi và bách hại. Các môn đệ Đức Giêsu đã có thói quen tụ họp này tại nhà ông này, mai tại nhà ông khác. Họ đón tiếp nhau. Họ kiểm tra lẫn nhau: có những người rút lui, có những kẻ bồ đức tin, bỏ nhóm. Họ đâm hoảng sợ. Họ đóng kín cửa. Nhưng giờ đây mỗi Chúa nhật như "Chúa nhật đầu tiên" này, "dấu chỉ" bữa tiệc ly lại được cử hành và một cách huyền nhiệm, Đức Giêsu lại lướt qua những kẻ thuộc về Người, trong "nơi mà họ hiện diện" tại Êphêxô, Côrintô, Giêrusalem, Rôma. Đúng vậy mỗi Chúa nhật là ngày Phục sinh! Chúa vẫn luôn hiện diện giữa cuộc sống chúng con. Chính Chúa làm cho chúng con sống động, dù không thấy Chúa nhưng chúng con vẫn tin.

Lạy Chúa, ngày nay chúng con cũng dễ khóa chặt cửa lại vì sợ hãi, khi Thánh Thần Chúa thổi đến, xin cho những bức tường vây hãm chúng con sụp đổ, để chúng con trở lại thời ca vang: Nào ta hãy mở rộng cửa cho Đức Kitô Phục sinh.

Trước khi đi xa hơn trong việc suy niệm đoạn tin Mừng trên, chúng ta tự hỏi Đức Giêsu muốn giải thoát để phục sinh chúng ta khỏi những tình trạng nào? Khỏi tình trạng bí bức không lối thoát, khỏi tình trạng sợ hãi, đóng cửa cài then, khỏi tình trạng "nguy tử" cho mình? Đó có thể là tội lỗi, thử thách về sức khỏe, đau đớn và thất vọng, khó khăn thuộc phạm vi gia đình, nghề nghiệp. Đó là “Nơi các môn đệ đang hiện diện: đóng cửa cài then!”

Người nói với các ông: "Chúc anh em được bình an". Thế rồi, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Chúc anh em được bình an!".

Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô hữu, trước hết không phải là niềm vui dễ dàng, niềm vui tự phát; nghĩa là niềm vui tự nhiên làm ta thấy phấn khởi khi mọi sự đều ổn thỏa, tình trạng sức khỏe khả quan, "tuổi trẻ" vẫn tràn đầy sinh lực, công việc đều thành công, tương quan bạn hữu và gia đình luôn thoải mái. Nhưng niềm vui Phục sinh là niềm vui đến ‘sau' sự sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an khơi dậy từ một tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng (từ cái chết của một kẻ bị đóng đinh) mà từ đó trở đi không có gì để cướp đi khỏi họ niềm vui này: đó là niềm vui và sự bình an phát xuất từ "lòng tin" vào Đức Giêsu. Cũng như ngày thứ nhất trong tuần đó, mỗi buổi họp mặt Chúa nhật, Đức Giêsu đều chúc bình an cho ta, qua tiếng nói của Linh mục: "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em" và Công đồng Vatican II đã tái lập truyền thống xưa "hôn chúc bình an": các Kitô hữu được mời gọi trao bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô: bắt tay nhau, ôm hôn, mỉm cười với nhau và chào chúc: "Bình an Đức Kitô. Đó không phải là cử chỉ tầm thường, nhưng là "trở nên Đức Kitô" đối với người gần cận của mình; "khi nhiều người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy hiện diện ở đó giữa họ"

Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em.

Đó! Chúng ta đâu có thể tưởng tượng được một lời nói như vậy! Thế mà chính Đức Giêsu lập lại cho ta. Tôi là một con người đâu có ra gì, thế mà lại trở nên Đức Giêsu, được sai gởi đến với anh em tôi y như Người đã được “Chúa Cha" sai gởi đến trần gian. Chúng ta đừng lướt qua nhanh những lời trên. Cũng đừng vội vàng gán cho Tôma là kẻ cứng lòng tin. Hãy dừng lại nơi những lời nói trên đây của Đức Giêsu. Ta hãy hiểu biết trách nhiệm trọng đại mà Người trao phó cho ta: "sứ vụ” của Đức Kitô được trao phó cho Giáo Hội và một phần cho tôi. Tôi được Đức Giêsu “sai đi" như Đức Giêsu được Chúa Cha "sai đến". Một lần nữa tôi phải tìm hiểu ý nghĩa của hai từ trên: "sứ vụ” có nghĩa là "sự sai đi" (bởi tiếng La tinh là "missus") và "tông đồ” có nghĩa là "kẻ được sai đi" (bởi tiếng Hy Lạp là ‘apostolos’). Khi tôi gặp một người nào trong công việc làm ăn, trong môi trường sống của tôi, thì không phải chỉ nhân danh cá nhân, hay vì lợi ích riêng của tôi, mà chính vì tôi được Đức Kitô sai đến? Tôi phải truyền thông cho bạn một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói với bạn những gì tôi sẽ nói với bạn; Người luôn "sống động" trong tôi. Tôi là “miệng lưỡi" của Người, là "thân thể" Người, kề cạnh bạn, để thông tỏ cho bạn tình yêu của Chúa Cha.

Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần".

Đó là việc ban Thánh Thần, một cuộc "tạo thành mới": Thần Khí của Đức Giêsu được thông truyền cho các môn đệ. Đức Giêsu đã chết "đã tiến về gặp gỡ Chúa Cha" các Kitô hữu tiếp tục công trình của Người. Họ sẽ mang hơi thở sống động của Người, mang Thần Khí Người. Họ sẽ tiếp tục thể hiện những việc làm của Người. Sau này thánh Phaolô sẽ nói: "Anh em là thân hình Đức Ki tô. Anh em là Đền thờ của Thánh Thần". Còn thánh Gioan cho ta biết, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Đấng tạo thành trong sách Sáng thế (St 2,7): "Lạy Thánh linh tạo dựng, xin hãy đến!".

Đối với Gioan, việc Thánh Thần ngự đến đã xảy ra vào chiều ngày Phục sinh: hoạt động cốt thiết của Đức Giêsu sau khi chiến thắng tử thần, là thông ban "Thánh Thần, Đấng đã Phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết" (Rm 8,11). Trong kinh Tin kính đó là điều cốt yếu ta kháng định về Thánh Thần: "Người là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống". Thần Khí được trao ban cho các môn đệ ngay buổi chiều ngày Phục Sinh, sẽ hiện lộ ngời sáng trên công trường năm mươi ngày sau đó, vào ngày lễ Ngũ tuần. Đó là thần khí của Thiên Chúa vừa mới thành công rực rỡ, ta dám nói như thế - khi giật Đức Giêsu ra khỏi quyền lực tử thần, và mạc khải Ngài như con Thiên Chúa, nhờ cuộc Phục sinh. "Xét như Đấng đã được Thần Khí thánh hóa, Người đã được đặt làm con Thiên Chúa với tất cả quyền năng, do việc Người từ cõi chết sống lại" (Rm 1,4).

Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.

'Thắt buộc" và "tháo cởi", "tha giải” và “cầm giữ". Kiểu nói này là một hình thức văn phạm của tiếng Aramên: theo đó, người ta dùng hai từ nghịch nghĩa nhau để xác nhận một thực tại cách mạnh mẽ hơn, và để nhấn mạnh tới từ mang tính "tích cực" . Như thể, khi trao ban cho các môn đệ Thần Khí Ngài, Đức Giêsu cũng thông nho họ quyền tháo gỡ con người khỏi sự ác: kể từ đó, ngay tại trần gian, các ông trở nên những kẻ mang" tình xót thương của Thiên Chúa cho mọi người, cũng như Đức Giêsu đã trở nên hiện thân của tình thương đó! "Như Chúa Cha đã sai Thầy thì bây giờ Thầy cũng sai anh em". Người Kitô hữu cũng được trao ban cho chính sứ vụ mà Đức Giêsu đã tuyên bố là của Người, trong Hội đường Nagiarét, vào lúc khởi đầu tác vụ: "Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố một năm hồng ân của Chúa, trả lại tự do cho người bị áp bức" (Lc, 4,18-19). Tôi có mang thần khí đó, Thần khí giải phóng, Thần khí ban sự sống, Thần khí yêu mến và tha

thứ nhân danh Đức Giêsu không? Tha thứ là một ân huệ Phục sinh.

Một người trong nhóm Mười Hai, nên là Tôma, không có mặt khi Đức Giêsu đến. Ông nói: "Nếu tôi không thấy... tôi chẳng có tin".

Đó là "con người chậm trễ". Sau buổi lễ gặp mặt, ông mới tới. Trong Tin Mừng, Tôma luôn là người chỉ tin vào lương tri của mình, là người thiết thực nên nghi ngại cả thái độ liều lĩnh của Đức Giêsu: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? (Ga. 14,15). Khi Đức Giêsu nói đến sự phục sinh cho Lagiarô, thì Tôma chỉ thấy trước mắt cái chết (Ga 11,15-16).

Tám ngày sau... Đức Giêsu lại đến và nói: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa".

Một tuần. Tôi thấy như Đức Giêsu đang mỉm cười hóm hỉnh trao đổi với Tôma. Người có vẻ đang nói với ông: "Này anh bạn, bạn tưởng tôi đã chết và khuất mặt, khi bạn bày tỏ thái độ không tin. Nhưng tôi vẫn hiện diện lúc đó, cách vô hình, chứng kiến các bạn nói chuyện với nhau. Tuy nhiên, lúc đó tôi không tỏ mình ra với các bạn". Đó là thái độ kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người đã chọn thời gian của Người.

Ong Tôma thưa Người: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”

Đó là tiếng kêu diễn từ một lòng tin của con người đã đòi "chạm, thấy". Ong đã hiểu được Đức Giêsu cho dù không hiện hình, vẫn có đó! Người hiện diện cả vào giờ phút ông nghi ngờ.

Vì thấy Thầy, nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.

Đó là mối phúc, mối phúc cuối cùng. Những thực tại cao siêu nhất của Thiên Chúa, ta không thể tự mình thấy được. Chỉ có “đức tin" dẫn đưa chúng ta tiến sâu vào những thực tại đó. Và đó chính là hạnh phúc đích thực!

-----------------------------------

 

PS2-97. Chú giải của Fiches Dominicales


TỪ CHÚA NHẬT NÀY TỚI CHÚA NHẬT KIA, TỪ NHẬN THỨC ĐẾN TRUYỀN GIÁO (Ga 20,19-31)

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1) Từ ‘ngày đầu tuần’

 

Phần đầu của Phúc âm Chúa nhật này đưa ta đến "sau cái chết của Đức Giêsu, vào buổi chiều: PS2-97


Phần đầu của Phúc âm Chúa nhật này đưa ta đến "sau cái chết của Đức Giêsu, vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần ngày quy tụ phụng vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn mà Người quy tụ lại để chia sẻ Lời và Bánh, và để sai họ đi vào thế giới.

Các môn đệ quy tụ lại ở cùng một nơi: một kiểu nói mà thánh sử dùng để báo trước tính giáo hội của việc Chúa hiện ra mà ngài sắp tường thuật. Các cửa đều "đóng kín" vì "sợ người Do thái? Nỗi sự hãi cho đến lúc này vốn bao trùm những người Israel, đến nỗi họ không dám tuyên bố ủng hộ Đức Giêsu, thì từ nay còn là phận của các môn đệ thân tín của Chúa: các ông đang cảm nhận một tâm trạng lo âu sọ hãi mà lát nữa đây ơn bình an sẽ đối nghịch lại và khoả lấp hết.

Người ta dễ dàng nhận ra ba tiến trình đặc biệt của những lần gặp gỡ sau phục sinh: Đức Giêsu có sáng kiến (1), Người tự tỏ mình ra cho các môn đệ (2) người uỷ thác cho các ông một sứ mạng (3).

- Sáng kiến của Đức Giêsu:

+ Đức Giêsu "đến" như vậy là Người thể hiện lời đã hứa với các môn đệ trong bài diễn từ giã biệt: "Thầy sẽ đến cùng anh em" (14,18-28).

+ Người "đứng giữa các ông”, dịch sát nghĩa là "Người đứng dậy”, chuyển từ trạng thái đang nằm, ý nói là chết sang tư thế thẳng đứng của Đấng phục sinh.

+ "Chúc anh em được bình an". Đó là những lời đầu tiên Đấng-hằng-sống gởi cho các môn đệ của Người đang tu họp. Đây không phải chỉ là lời chào hỏi thông thường "Shalom" của những người Do thái khi gặp nhau. Càng không phải là lời cầu chúc suông, nhưng là ơn huệ mang hiệu quả thực sự của Bình an, đúng như lời Chúa hứa: "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy; Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng" (14.27).

Các môn đệ nhận biết Chúa.

Đức Giêsu cho họ xem "tay và cạnh sườn Người" (đối chiếu với ngọn giáo của Gioan 19,34). Chắc chắn từ nay đã qua rồi thời gian người hiện diện thể lý, nhưng Đấng đang đứng giữa họ lúc này vẫn là Đức Giêsu, nghĩa là cũng vẫn là Đấng mà họ đã thấy chết và được mai táng, nhưng từ nay đã biến hình đổi dạng nhờ mầu nhiệm Phục sinh. Và trong cái "nhận Thầy" do lòng tin ban cho, các môn đệ "tràn đầy niềm vui" niềm vui bất tận và Chúa đã báo trước cho các ông: "Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai lấy mất được" (16,22).

Trao phó sứ mạng:

Việc các môn đệ được gặp Đấng-đang-sống, cùng nhận ra Đấng đã trải qua và chiến thắng vẻ vang cơn thử thách của cái chết trên thập giá, không phải là đã hoàn tất. Cuộc gặp gỡ ấy giờ đây khai mở một sứ mệnh.

+ Sau khi đã làm mới lại ơn bình an: "Chúc anh em được bình an!”.

+ Đức Giêsu "thổi hơi vào các ông", làm lại cử chỉ ban đầu khi tạo dựng con người, giống như trong Sáng thế ký 2,7: ở đây hành động này càng ám chỉ rõ nét là hành động sáng tạo của Chúa, nhất nữa vì đây là lần duy nhất Tân Ước sử dụng cách diễn tả của bản văn Sáng thế ký.

Đúng là một cuộc tạo dựng mới. Đức Giêsu vinh hiển thông ban Thần Khí tái sinh cho con người. Khi cho họ được chia sẻ sự hiệp thông với Chúa. "Như (chữ ‘Như' ở đây không phải chỉ là một so sánh, nhưng ám chỉ một nền tảng, một liên hệ sâu xa) Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”.

+ Và nếu các môn đệ được sai đi, chính là để loan báo cho ‘mọi người tin mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa’. X. Leon- Dufour giải thích: "Tha/cầm giữ ” lối văn chương Do thái dùng một cặp từ trái nghĩa nhau để diễn tả một sự trọn vẹn ở đây cách diễn tả ấy có nghĩa là trọn vẹn quyền thương xót được đấng Phục sinh trao ban cho các môn đệ. Thể văn thụ động diễn tả hiệu quả đạt được đều ngụ ý rằng chính Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn tha thứ, cách dùng thì (động từ) ở quá khứ hoàn thành có nghĩa là ơn tha thứ của Chúa là yếu tố quyết định. Người ta sẽ có thể giải thích một cách rộng rãi là khi cộng đoàn tha thứ, thì chính Thiên Chúa tha thứ vậy. (Lecture de l'evangile se lon Jean. quyển IV, Seuil. tháng 11/1996, trang 241).

2) đến buổi tụ họp “tám ngày sau”

Lần hiện ra thứ hai đã được tác giả đặt vào ‘tám ngày sau’, tức Ngày Chúa nhật tiếp đó, ngày mà các Kitô hữu của Gioan quy tụ lại để cử hành Thánh Thể, để chia sẻ Bánh và Lời như chúng tôi đã viết ở trên. Ngày đó trong sách Khải Huyền, cũng được gọi là “Ngày của Chúa”. Đó là ngày tưởng niệm mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô.

Ông Tôma, được tác giả báo trước, "không có mặt khi Đức Giêsu đến”. Độc giả của Phúc âm thứ tư đồng hoá mình ngay với Tôma, bởi lẽ chính người ấy cũng được mời gọi chỉ dựa vào nguyên chứng từ của các Tông Đồ mà có được niềm tin phục sinh: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!”.

Ngay lập tức, Tôma từ chối nhận chứng từ của cộng đoàn; ông đòi xem tận mắt, sờ tận tay, tự mệnh xác minh thì mới tin: "nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.

Thế là diễn ra lần hiện ra thứ hai của Đức Giêsu được mô tả cùng một kiểu cách như lần trước. Đức Giêsu lại hiện đến, mặc dầu các cửa đều "đóng kín”. Một lần nữa Người nói lời cầu chúc bình an cho các môn đệ, lời mang ơn cứu độ của phục sinh: "Chúc anh em được bình an!”. Người cho Tôma xem tay và cạnh sườn như để nhấn mạnh cho ông hiểu rằng Đấng bị đóng đinh xưa với Đấng nay được vinh hiển cũng là một. Giữa hai tình trạng đó vẫn có sự nối kết và liên tục. Rồi Người bảo ông: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin”.

Tác giả chẳng cần nói đến chuyện người môn đệ kia không còn nghĩ đến việc đưa bàn tay ra để sờ và đặt vào cạnh sườn Chúa nữa. Ông kể lại phản ửng tức thời của Tôma là thay đổi hẳn thái độ; con người ấy một khi đã vấp phải chướng ngại là cái chết, thì giờ đây công khai tuyên xưng niềm tin tuyệt đối:

“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”, trong tư cách là người phát ngôn của cộng đoàn Kitô hữu. Độc giả nào tự cho mình có thái độ như thái độ đầu tiên của Tôma đều được mời gọi thực hiện một sự trở lại tương tự.

3) Cho tới Chúa nhật hôm nay, ngày chúng ta tụ họp

Câu chuyện Đức Giêsu hiện ra kết thúc bằng một mối phúc hứa ban cho tất cả. Những ai đang sống vào thời không còn sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô, cũng hứa ban cho chính chúng ta, những con người hôm nay đang tụ họp nhân danh Người: “Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc”.

Dufour kết luận: “Lời hứa này không còn liên quan tới Tôma nữa, nhưng là nhắm đến các môn đệ tương lai. Cộng đoàn Kitô hữu hôm nay không có gì phải nuối tiếc về khoảng cách và sự khác biệt về hoàn cảnh sống của mình. Nếu cách thức cộng đoàn tiếp cận niềm tin không giống như các tông đồ trước đây, thì những ai đang và sau này không thấy mà tin, chính họ là người có phúc vậy. Kinh nghiệm mà những chứng nhân tận mắt được hưởng là kinh nghiệm làm nền và không thể được tái diễn: kinh nghiệm ấy được ban cho họ không chỉ vì họ mà thôi, nhưng còn vì những thế hệ tương lai mà lòng tin sẽ dựa vào lời chứng được truyền lại cùng với sức mạnh của Thánh Thần, chứ không dựa vào những dấu chỉ cụ thể về sự Chúa hiện diện, xuyên qua các môn đệ đang đứng trước mặt Người lúc đó, Đức Giêsu hướng chú ý của Người tới tất cả những ai sẽ nối tiếp các ngài sau này tới tất cả con cái Thiên Chúa mà Người đã đến quy tụ lại nên một; vào buổi chiều lễ Vượt qua. Đức Giêsu há đã chẳng nói với các môn đệ của Người rằng sứ mạng của các ông từ nay sẽ diễn tả và nối dài sứ mạng của Người đó sao? Giờ đây lòng trí Người hẳn đang nghĩ tới những ai sẽ là thành quả của sứ mạng được sai đi rao giảng và làm chứng này.

Cuộc gặp gỡ của Đấng đang-sống với các môn đệ của Người không kết thúc bằng sự nghỉ ngơi. Cuộc gặp gỡ ấy vẫn luôn là một khai mở hàng về một tương lai vô tận trong niềm hân hoan tồn tại dù khi các chứng nhân tận mắt không còn nữa. Đó là điều đã được diễn tả khéo léo trong thư thánh Phêrô: "Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt, mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả" (1Pr 1,8-9) (O.C., trang 251-252).
BÀI ĐỌC THÊM.

Từ những lần Đức Kitô hiện ra đến việc Người loan báo

(G.Bessière, trong Thiên Chúa rất gần, Năm A", Desclée de Brouwer, trang 53-54).

“Lời Chúa nói với Tôma: "Vì anh đã thấy Thầy, nên anh mới tin. Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc" không đặt Tôma vào vị trí đối lập vời các tông đồ khác. Lời đó phân biệt ra hai lớp người tin: thế hệ các chứng nhân trực tiếp về đời sống Đức Giêsu và đông đảo các tín hữu sau này không được biết trực tiếp Đức Giêsu. Chế độ thông thường của đức tin sẽ là như vậy.

Câu chuyện kể về ông Tôma đánh dấu sự chuyển đổi từ những lần Đức Kitô “hiện ra" đến việc Người "loan báo". Từ nay chứng từ phải khơi gợi nên sự gắn bó với "con đường" là chính Đức Giêsu. Ta sẽ gặp lại Người đang khi cùng với các anh em bước theo Người trên con đường ấy, và đang khi sống chan hoà tình cảm tạ, tình huynh đệ, tình hoà hảo, là những dấu chỉ thâm sâu của Chúa Thánh Thần.
Nhiều người vẫn muốn tìm kiếm những biến cố lạ thường, những dấu hiệu giật gân thuộc loại được Chúa hiện ra hoặc được thị kiến mà chẳng mấy khi quan tâm đến Phúc Âm của Đức Giêsu, hay đời sống của các Kitô hữu, cùng tất cả những gì Chúa làm trong cuộc sống đời thường của con người. "Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc". Tin là ngày qua ngày đi theo Đức Kitô phục sinh đồng thời đón nhận ơn Người thúc đẩy biến đổi đời mình theo lòng mong ước của Chúa Cha vậy".

----------------------------------------------------

 

PS2-98. ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ


Ga 20,19-31

Việc Đức Giêsu sống lại thật là một điều không thể tin được, nếu như chính Đức Giêsu đã không ban Thánh Thần và làm nhiều cách để giúp các môn đệ chấp nhận sự thật. Là những con người sống vào thời đại này, chúng ta thừa kế di sản là kinh nghiệm gặp gỡ và sống niềm tin vào Đấng Phục Sinh không phải chỉ của Hội Thánh sơ khai mà còn của hơn hai mươi thế kỷ lịch sử Hội Thánh.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

I. NgỮ cẢnh

 

Dựa theo bố cục tổng quát của Tin Mừng Gioan, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương: PS2-98


Dựa theo bố cục tổng quát của Tin Mừng Gioan, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách Vinh quang), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng. 

Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Hơn nữa, qua truyện Đức Giêsu hiện ra với Tôma không tin, tác giả Tin Mừng IV giải quyết một vấn nạn: Làm thế  nào con người hôm nay có thể đi tới chỗ tin vào Đức Giêsu, khi mà Người không còn tỏ mình ra trực tiếp là Đấng chịu đóng đinh đã sống lại? Phải chăng bất cứ ai cũng có quyền yêu cầu Đấng Phục Sinh phải hiện ra với mình?

II. BỐ cỤc

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Đức Giêsu hiện ra với các môn đê không có Tôma (20,19-23):

    a) Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng minh (cc. 19-20),
    b) Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng (cc. 21-23);
2) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (20,24-29):


Tôma không tin anh em (cc. 24-25),
Đức Giêsu và Tôma (cc. 26-31);

3) Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (20,30-31).

III. Vài điỂm chú giẢi

- Nếu tôi không thấy dấu đinh... (25): Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp ứng yêu cầu của ông, Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin. 

- Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin (27): Dịch sát là “đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”. Đức Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ. 

- Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (28): 

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (19-23)
Khi hiện ra, điều đầu tiên Đức Giêsu làm là cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Rồi Người không chỉ nói về bình an, Người còn cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương. Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Các vết thương cũng là dấu chỉ cho thấy tình yêu vô biên của Người. Do đó, Người là nền tảng của sự bình an và nguồn mạch tuôn trào niềm vui cho các môn đệ.


Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các ông, rồi cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người là tha tội. Các ông sẽ bị từ chối, ghét bỏ, nên chỉ khi nào bám vững vào sự bình an của Người, các ông mới chu toàn được nhiệm vụ. Như Chúa Cha đã sai Người, nay Người sai các môn đệ. Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp với Chúa Cha. Để các ông chu toàn được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các ông Chúa Thánh Thần là sự sống mới không tàn phai. Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn đệ sẽ tha tội và cầm buộc.

Ở trong một thế giới đang làm cho các ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33) và được đầy sự bình an và niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho các ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho thế giới. Các môn đệ không được khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới, nhưng phải đầy tin tưởng đi vào thế giới.

 * Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (24-29)

Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và được Người sai đi (cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”, nhưng Tôma không tin anh em. Ông yêu cầu Đấng Phục Sinh cũng phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ khác. Không những ông muốn thấy Người, ông còn muốn chạm vào các vết thương của Người. Vì ông khép mình lại trước lời chứng của anh em, nên chưa tìm ra con đường đưa tới đức tin và sự bình an phục sinh. Phản ứng của Tôma rất đáng trách, vì ông đã tỏ ra không tin vào lời chứng về Đức Giêsu Phục Sinh (“thấy Chúa”: “thấy” là động từ chuyên biệt để nói về đức tin; “Chúa” là danh xưng của Đức Giêsu sau Phục Sinh) của tập thể (“chúng tôi” # Hội Thánh).

Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, và cũng như lần trước, Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che chở. Đức Giêsu lấy sáng kiến đi đến với Tôma, cho ông thấy những dấu chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng chứng minh rằng Người là nguồn mạch ơn cứu độ. Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, một lời tuyên xưng chưa hề có ai nói lên... Ông theo một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng ông đã đến gần Đức Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và Thiên Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ. Quan hệ với Người có tính vững bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa. Sau đó, Đức Giêsu nhìn đến các thế hệ tín hữu tương lai. Chứng từ về kinh nghiệm mà các môn đệ đã có về Đức Giêsu Phục sinh là động lực đưa họ đến đức tin.  

 * Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (30-31)

Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt mục tiêu của công trình của Đức Giêsu và cho thấy, đối với những người không được thấy, đâu là nẻo đường đưa tới đức tin. Các tín hữu hôm nay được mời gọi tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết chúng ta với Người, và nhờ Người là Chúa Con, chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa Cha. Đó là sự sống đời đời.     

 + Kết luận

Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông.

Đã nhận được các lời chứng của các môn đệ, kinh nghiệm của Tôma, các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín: quả thật, Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, và hãy tin vào Người. Niềm tin nối kết họ với Người, và nhờ Người là Chúa Con, các Kitô hữu được đưa vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha.

 V. GỢi ý suy niỆm

1. Đức Kitô mà chúng ta gặp trong Lời Chúa, trong các buổi cử hành Phụng vụ, trong giờ cầu nguyện giữa cộng đoàn anh chị em, là Đức Kitô Phục Sinh. Người ban cho chúng ta bình an và Thánh Thần, và sai chúng ta đi hân hoan chia sẻ niềm tin và niềm hy vọng ấy. Chúng ta cần phải để Người đưa chúng ta ra khỏi ngôi mộ của sợ hãi, của ích kỷ, để tin tưởng đi vào lòng thế giới. Quả thật, Đức Giêsu không giải thoát các môn đệ khỏi những ưu phiền (x. 16,33), nhưng ban cho chúng ta sự vững vàng, không lay chuyển và sự tin tưởng an bình.

2. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là “Con Chiên đứng như thể đã bị giết” (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.

3. Khi ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo: “Hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người như là gió. Người ta không thấy gió, người ta không biết gió bắt nguồn từ đâu và đến đâu thì dừng lại. Cho dù các nhà khí tượng học có bao trước được các trận bão, ta vẫn có cảm tưởng mình bị một sức mạnh vừa huyền bí vừa mạnh mẽ bao trùm. Gió thổi và gây tiếng động. Gió bẻ gãy và nhổ bật lên. Gió tàn phá nhưng cũng làm cho đất đai ra phì nhiêu.  Có khi gió quạt mát, có lúc gió thiêu đốt. Về làn gió Thánh Thần cũng thế. Người mạnh mẽ, Người len lỏi vào mọi sự. Nếu chúng ta mở lòng ra với Người, Người sẽ bẻ gãy, Người nhổ tung và phá hủy tất cả những gì chống lại tình yêu Thiên Chúa; Người cũng làm cho các con tìm nên dồi dào phong phú. Người liên tục làm việc trong lòng chúng ta, như thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà [liên tục] kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4,6).         

4. Tôma đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu  theo cách chưa ai làm: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Ông đã đi theo con đường dài hơn con đường của các anh em, nhưng đã đến gần Đức Giêsu hơn. Đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và là Thiên Chúa. Ông tin, ông quy phục Đức Giêsu, ông bày tỏ niềm tin vào Người. Maria Mácđala cũng như các môn đệ đã tin vào Đức Giêsu như là Đức Chúa. Tương quan của họ với Người nay có giá trị vĩnh viễn và trọn vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy chính là Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang tìm đến gần con người để ban cho con người sự sống đời đời. Tôma nhận biết Đức Giêsu như thế và gắn bó với Người. Do đó, người nào chỉ nói đến một Tôma thiếu lòng tin, là quên mất là ông đã đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ giúp của Đức Giêsu.

5. Tất cả những gì Đức Giêsu đã làm và đã nói, được ghi lại là để đưa loài người đến chỗ chính mình tin chính xác vào Người: Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Niềm tin kết hiệp chúng ta với Người, và nhờ Người là Con Thiên Chúa, chúng ta được đưa vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha. Đây chính là sự sống đời đời. Như thế, mọi sự tùy thuộc vào đức tin này, vì chỉ đức tin này mới đưa vào sự sống vĩnh cửu.

6. Hôm nay, ngày lễ “Lòng Thương xót Chúa” mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng BT Thánh Thể và BT Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Người!” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

---------------------------------------------------

 

PS2-99. CHÚA NHẬT II PHỤC SINH


Chủ Ðề: Bài giáo lý I về cuộc sống kitô hữu: tin, yêu và giữ giới răn."Phúc cho những ai không thấy mà tin" (Ga 20,29)

Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

I. Dẫn vào Thánh lễ

 

Mặc dù đã được tái sinh thành con Chúa qua bí tích Rửa tội, chúng ta vẫn còn rất yếu như: PS2-99


Mặc dù đã được tái sinh thành con Chúa qua bí tích Rửa tội, chúng ta vẫn còn rất yếu như một đưa trẻ sơ sinh. Chúng ta cần được nuôi dưỡng thêm bằng Lời Chúa và bánh Thánh thể. Chúng ta cần được nâng đỡ bởi một cộng đoàn. Nhất là chúng ta cần được tác động bởi Chúa Thánh Thần. Ngày xưa Ðức Giêsu phục sinh đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các tông đồ, thì hôm nay chúng ta cũng xin Ngài ban Thánh Thần cho chúng ta và nói với chúng ta "Bình an cho chúng con".

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta còn ích kỷ, cần được Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta tình bác ái huynh đệ.

Chúng ta còn hoài nghi, cần được Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta lòng tin tưởng cậy trông.

Chúng ta còn yếu tin, cần được Chúa Thánh Thần giúp cho đức tin chúng ta vững mạnh thêm.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Cv 4,32-35

Trong hai tác phẩm của mình là sách Tin Mừng và sách Công vụ, Thánh Luca thường viết những bảng toát yếu để thỉnh thoảng tóm lược lại những điểm chính của những đoạn mà Ngài đang viết. Trong phần thứ nhất của sách Công vụ (1,12-5,42) mô tả cách sống của các tín hữu trong giáo đoàn Giêrusalem tiên khởi, có 3 bảng toát yếu tóm lại những nét chính của cuộc sống này (2,42-47 ; 4,32-35 ; 5,12-16). Ðoạn được chọn hôm nay là bảng toát yếu thứ hai. Ngoài những nét chung với 2 bảng toát yếu kia, nét riêng biệt của bảng này là việc để của riêng thành của chung:

Ðây không phải là một quy định có tính bó buộc (xem Cv 5,3-4 lời Phêrô nói với Khanania: "Khi đất còn đó, nó chẳng là của anh sao? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó sao?"), nhưng là việc làm tự nguyện để thực thi cách cụ thể giới luật yêu thương, vì yêu thương không phải chỉ bằng tình cảm hay bằng lời mà còn phải bằng hành động cụ thể.

Thể thức: các tín hữu bán những bất động sản như ruộng đất, nhà cửa rồi đem tiền giao cho Hội Thánh giữ. Hội thánh phân phối lại cho các tín hữu theo nhu cầu từng người. Như thế, có kẻ góp ít (hoặc không góp gì) mà được hưởng nhiều và có kẻ góp nhiều mà được hưởng ít. Nhưng không ai phân bì, vì họ đã ý thức việc chia xẻ cho nhau.

Kết quả là trong giáo đoàn không có ai phải túng thiếu.

2. Ðáp ca: Tv 117

(như Chúa nhật I Ps)

Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.

3. Bài đọc II: 1 Ga 5,1-6

Lý do khiến thánh Gioan viết bức thư này là để giúp tín hữu khỏi bị lây nhiễm những tư tưởng sai lệch của thuyết ngộ đạo.

Nói một cách rất tóm lược, thuyết ngộ đạo chủ trương rằng chỉ cần biết ("ngộ") thì được cứu độ. Ðành rằng "biết" là một điều rất quan trọng (trong quyển Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan cũng rất nhấn mạnh vào sự "biết" này), nhưng sai lầm của thuyết này là do quá đề cao sự "biết" nên bỏ đi hai điều khác cũng quan trọng không kém, đó là tin và yêu. Trong đoạn thư này, thánh Gioan lưu ý tín hữu về hai điều ấy:

Tín hữu là người đã tin rằng Ðức Giêsu là Kitô. Mà tin vào Ðức Giêsu Kitô thì cũng phải yêu mến Ðấng đã sinh ra Ðức Giêsu Kitô, tức là Thiên Chúa.

Mà làm sao để biết mình yêu mến Thiên Chúa? Thưa là qua cách sống cụ thể là thực hành các giới răn của Ngài.

4. Bài Tin Mừng: Ga 20,19-30

Ðoạn này tường thuật hai cuộc hiện ra của Ðức Giêsu phục sinh với các tông đồ cách nhau 8 ngày:

Trong lần hiện ra thứ nhất, Ðức Giêsu cho các ông thấy tay và cạnh sườn Ngài (tức là thấy những vết thương Ngài đã chịu trong cuộc chịu nạn). Khi thấy những dấu chứng đó, các tông đồ đã tin rằng người đang ở trước mặt họ là Thầy họ nên họ vui mừng. Sau đó, Ðức Giêsu ban Thánh Thần cho các ông và sai các ông đi (nhưng chưa nói là đi đâu và đi để làm gì). Nhưng lần đó không có mặt Tôma. Khi Tôma trở về và được các tông đồ kia thuật lại thì ông không tin. Ông đòi điều kiện là phải thấy (chẳng những thấy mà còn sờ) những thương tích của Ðức Giêsu thì mới tin.

8 ngày sau, Ðức Giêsu hiện ra lần thứ hai. Lần này có mặt Tôma. Ðức Giêsu bảo riêng Tôma hãy đưa tay ông ra chạm trực tiếp vào các vết thương của Ngài. Nhưng khi đó Tôma không còn bảo lưu yêu cầu thấy của mình nữa. Ông tuyên xưng đức tin ngay. Ông gọi Ðức Giêsu là "Chúa" và là "Thiên Chúa". Tôma đã vươn tới mức độ cao của đức tin: tin mà không cần thấy.

Như thế đoạn Tin Mừng này trình bày hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy, nghĩa là tin dựa vào bằng chứng ; mức độ cao là tin mà không cần thấy, nghĩa là tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.

Ðức Giêsu đánh giá mức độ thứ hai là cao hơn, và kêu gọi chúng ta - qua lời nói với Tôma - hãy cố vươn lên mức độ cao ấy: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con tin. Nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin".

IV. Gợi ý giảng

* 1. Hành trình của Tôma

Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn: vắng mặt - hồ nghi - và tuyên xưng đức tin. Ðó cũng là hành trình đức tin của kitô hữu chúng ta.

Khi Ðức Giêsu hiện ra lần thứ nhất, Tôma không có mặt, cho nên ông không tin. Ông đòi thấy bằng chứng rồi mới tin. Thế nhưng nếu có bằng chứng rồi thì đã là chuyện hiển nhiên, đâu còn phải là đức tin nữa. Ðức tin không thuộc phạm vi khoa học hay lý luận, nên không dựa trên bằng chứng.

Nhưng đức tin không phải là mù quáng. Tuy không đòi bằng chứng nhưng phải có lý do. Lý do để tin là lời làm chứng của những người có uy tín. Tôma chưa tin khi nghe lời thuật của các bạn, nhưng khi nghe lời của Ðức Giêsu thì ông tin ngay. Sau này ông còn trở thành nhân chứng để cho nhiều người khác cùng tin nữa. Tin theo lời làm chứng của ai đó bao hàm một tình cảm với người đó: vì mình có tình cảm với người đó nên khi người ấy nói thì mình tin. Ðiều này làm nên giá trị của sự tin vào lời chứng, cho nên Ðức Giêsu nói "Phúc cho kẻ không thấy mà tin".

Lý do để tin còn là những dấu chỉ. Dấu chỉ Ðức Giêsu cho Tôma là những thương tích của Ngài. Chỉ cần thấy những dấu chỉ ấy, ông không đòi đụng chạm và sờ mó nữa, ông tin ngay. Ngày nay chúng ta không thấy Chúa, nhưng chúng ta có những dấu chỉ Ngài ban, đó là các bí tích, các biến cố và gương sống quảng đại của các tín hữu nhiệt thành. Chính chúng ta cũng phải là những dấu chỉ cho người khác nhận biết Chúa.

* 2. Hạnh phúc của tín hữu Giêrusalem

Các tín hữu Giêrusalem đã thể hiện đức tin bằng việc chia xẻ, không phải chia xẻ những cái mình dư thừa mà chia xẻ chính tiền bạc và tài sản của mình. "Ðồng tiền liền khúc ruột", chia xẻ tất cả tiền bạc của mình là chia xẻ chính sự sống của mình.

Kết quả của chia xẻ như thế là trong Hội Thánh không có ai bị túng thiếu và mọi người đều hạnh phúc.

Gương của các tín hữu Giêrusalem cho chúng ta hiểu được rằng: một đức tin sống động sẽ biến thành tình yêu. Và khi sống đức tin và tình yêu như thế thì người ta sẽ hạnh phúc, vì khi đó người ta sống sự sống của chính Thiên Chúa, Ðấng luôn yêu thương và chia xẻ.

* 3. Dấu chỉ của yêu thương

Làm sao biết được người đó thực sự yêu thương ta?

Có phải vì người đó luôn quấn quít bên ta? Chưa chắc.
Có phải vì người đó thường tặng quà cho ta? Chưa chắc.
Có phải vì người đó đề nghị sống chung với ta? Chưa chắc.

Người thương ta thật là người tế nhị biết ý của ta và luôn làm theo ý ta.

Ðó là điều Thánh Gioan nói: "Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa, là chúng ta thực hành các giới răn của Ngài".

* 4. Phúc cho ai không thấy mà tin

Bài Tin Mừng này khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều.

Ðiều thứ nhất khiến tôi suy nghĩ là điều kiện mà Tôma đặt ra: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin". Mặc dù xem ra Ðức Giêsu không tán thành thái độ của Tôma, nhưng trong thâm tâm tôi, tôi vẫn tán thành, bởi vì đó là thái độ của người chín chắn, cẩn thận, không nhẹ dạ. Trong những giao tế xã hội, tôi vẫn giữ thái độ cẩn thận ấy. Chẳng hạn khi tôi đi mua hàng, tôi không thể chỉ dựa vào những lời quảng cáo của người bán hàng để rồi mau chóng tin theo mà bỏ tiền ra mua ngay một món hàng mà tôi chưa thử. Huống chi câu chuyện mà Tôma nghe các bạn thuật lại là một chuyện "động trời" chưa bao giờ xảy ra: một người chết sống lại! Ðòi hỏi phải kiểm nghiệm xong rồi mới tin là một đòi hỏi hợp lý.

Nhưng khi tôi tán thành với Tôma, phải chăng là tôi không tán thành với Ðức Giêsu? Ngài đòi tôi "không thấy mà tin". Phải chăng Ngài đòi hỏi một điều không hợp lý?

Suy nghĩ thêm, tôi mới hiểu rằng Ðức Giêsu không coi nhẹ sự hợp lý, nhưng Ngài đề cao sự hợp tình. Trong tương quan giữa những người yêu thương nhau, không nên cái gì cũng đối xử với nhau bằng lý, mà phải đối xử với nhau bằng tình. Thí dụ cha mẹ nói với đứa con rằng "Con đừng thọc tay vào ổ điện nhé, điện giật chết đấy!" Nếu đứa con không tin, đòi thử nghiệm xong rồi mới tin thì nó sẽ ra sao? Nó phải tin cha mẹ chứ, vì nó biết cha mẹ yêu thương nó. Vì Ðức Giêsu yêu tôi nên Ngài có quyền đòi hỏi cao hơn sự hợp lý, Ngài có quyền đòi hỏi sự hợp tình.

Tôi cũng suy nghĩ về chữ "Phúc" trong câu Ðức Giêsu nói với Tôma: "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Ðọc Tin Mừng theo Thánh Matthêu, tôi đã biết có tám mối phúc. Bây giờ tôi biết thêm mối phúc thứ chín nữa. Tại sao không thấy mà tin thì có phúc? Tôi nghĩ rằng hạnh phúc thường đi đôi với tình yêu. Khi yêu ai thì người ta dễ tin vào người ấy. Tin thể hiện Yêu, và chính vì yêu nên hạnh phúc. Ðến đây tôi khám phá một dây liên hệ giữa ba điều: Yêu - Tin - và Hạnh phúc.

Và kết luận tôi rút ra được từ bài Tin Mừng này là:

Trong tương quan với những người không thân thiết lắm, tôi có thể cẩn thận đòi hỏi sự hợp lý.

Nhưng trong tương quan với những người thân yêu, tôi phải cư xử sao cho hợp tình.

Nhất là trong tương quan với Chúa, tôi phải tin Ngài để chứng tỏ là tôi yêu Ngài. Và nếu tôi tin yêu Ngài như thế thì tôi là người hạnh phúc.

* 5. Thấy bằng trái tim

Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện về vị tu sĩ Hồi Giáo Nasruddin như sau:

Một ngày nọ, nhà của thầy bốc cháy. Ðể được an toàn, thầy vội trèo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng, vì mạng sống thầy chỉ còn "ngàn cân treo sợi tóc". Họ liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn:
Nhảy đi, Thầy nhảy xuống đi!


Thầy Nasruddin nói:

Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề!

Ôi, Thầy ơi! Không phải trò đùa đâu, Thầy nhảy mau đi!

Thầy Nasruddin vẫn ngoan cố:

Không! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.

*

Tin là chấp nhận bấp bênh, là chấp nhận có thể bị lừa dối. Nhưng không thể sống mà không tin. Người ta không thể nói: "Có thấy mới tin". Trên đời này có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin. Chẳng ai thấy rõ lòng dạ con người, nhưng họ vẫn tin vào tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn, tình làng xóm... Người ta cũng không thể nói: "Tôi chỉ tin vào Chúa nếu có bằng chứng". Paul Misraki nói: "Nếu bạn chỉ đợi có bằng chứng mới tin, thì đức tin đã trở thành khoa học rồi".

Khủng hoảng lớn nhất của thế giới ngày nay là khủng hoảng niềm tin. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi hãy giữ vững niềm tin.

Tin vào Thiên Chúa và tin vào con người.
Tin vào thế giới do Người tạo nên.
Tin vào cuộc đời mà Người gởi ta đến.
Tin vào vẻ đẹp và hạnh phúc Người tặng ban.

"Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga.20,28). Người tín hữu Kitô là những người không thấy mà tin. Họ không thấy Chúa bằng con mắt thường, nhưng họ thấy Người bằng con mắt đức tin. Họ không thấy Chúa bằng giác quan, nhưng họ thấy Người với cả trái tim. Thiên Chúa muốn cho giác quan chúng ta ra tăm tối, để niềm tin được ăn rễ sâu trong Người.

Miguel de Unamuno viết: "Tôi tin vào Thiên Chúa như tin vào một người bạn, vì tôi cảm nhận được hơi thở tình yêu của Người, cảm nhận được bàn tay vô hình và khả giác của Người tác động đến tôi".

Nhà sinh vật học Jean Henry Fabre sau 87 năm khảo sát và suy tư đã phải thốt lên: "Tôi không thể nói rằng tôi tin vào Thiên Chúa, mà là tôi trông thấy Người". Thấy Chúa là Cha rất nhân từ hằng yêu thương chăm sóc con người, và thấy mọi người là anh em với nhau. Cha Michel Quoist có viết: "Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Ðức Kitô".

*

Lạy Chúa, xin cho chúng con được thấy Chúa đi ngang qua cuộc đời chúng con, để chúng con tin Chúa đang sống động, hiện diện, thật gần, ngay bên cạnh chúng con, trong cuộc sống và trong người anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 6. Mảnh suy tư

Ðiều cốt yếu thường không nhìn thấy được.

Thế giới hữu hình chỉ là một phần của thế giới rộng lớn hơn bao gồm nhiều điều vô hình.

Nhiều khi thị giác, thính giác và xúc giác lại là trở ngại cho cảm xúc và suy nghĩ.

Ðôi khi cần phải tin thì mới thấy được.

Tối quá người ta không thấy, nhưng sáng quá người ta cũng chẳng thấy.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, thánh Tôma đã đòi đụng chạm đến Ðức Giêsu Phục sinh để có dấu hiệu chắc chắn nâng đỡ niêm tin của mình. Niềm tin của chúng ta cũng còn yếu kém lắm, chúng ta hãy sốt sắng nguyện xin:

1. Xin cho Hội thánh Chúa ngày nay / là những người chỉ gặp Ðức Giêsu trong đức tin / luôn vững tin vào Chúa Phục sinh / để nâng đỡ niềm tin cho nhiều người khác.

2. Xin cho những người còn "cứng lòng tin" trên khắc thế giới / có được cơ hội gặp gỡ Ðức Giêsu để dẹp bỏ thành kiến và mặc cảm / mà đón nhận tình thương cứu độ của Người.

3. Xin cho những người đang gặp khủng hoảng về đức tin / hoặc đánh mất niềm tin vì gặp nhiều gian nan thử thách / tìm được những người biết cảm thông và chia sẻ niềm tin cho họ.

4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta biết nêu gương sáng về đức tin cho nhau / bằng việc sống đức tin và truyền bá đức tin cho người khác.

Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã phán rằng: "Phúc cho ai không thấy mà tin". Xin cho chúng con là những người không được thấy Chúa, cũng luôn vững vàng tin rằng Chúa đã sống lại và ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Chúa là đáng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

---------------------------------------------------

 

PS2-100. LÝ TRÍ VÀ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH


Chủ đề: "Lý trí chấp nhận những gì Thánh Kinh kể lại cho chúng ta: đó chính là Đức Giêsu đã thực sự sống lại"

Lm. Mark Link, S.J.

 

Giả như chúng tôi mời một anh chị em lên toà giảng và bịt mắt anh chị em đó lại, rồi chúng: PS2-100


Giả như chúng tôi mời một anh chị em lên toà giảng và bịt mắt anh chị em đó lại, rồi chúng tôi đặt một xô nước trước mắt anh chị em đó, và hỏi anh chị em đó đoán xem nó chứa nước hay không. Có ba cách trả lời câu hỏi đó mà không cần phải cởi khăn bịt mắt ra. Ba cách đó thế nào.

Cách thứ nhất là đến thẳng xô nước và thò tay vào xem có nước trong đó không. Nói cách khác, anh chị em có thể Kinh nghiệm trực tiếp xem xô ấy đầy hay rỗng. Cách này được gọi là Kinh nghiệm. đây là tri thức mà chúng ta có được bằng Kinh nghiệm trực tiếp. Đó là tri thức do giác quan.

Cách thứ hai để biết cái xô ấy có chứa nước hay không là thả vào đó một vật, chẳng hạn một đồng xu. Nếu vật ấy chạm vào đáy xô tạo nên một âm thanh vang và to, anh chị em sẽ biết ngay cái xô ấy rỗng. Nhưng nếu đồng xu ấy va chạm tạo nên âm thanh không rõ hoặc có những hạt nước bắn toé ra, anh chị em biết ngay cái xô ấy có nước. Tri thức này có được là nhờ lý luận.

Cách thứ ba để biết xem cái xô ấy có nước hay không là hỏi thăm người nào mà anh chị em tin cậy. Người ấy có thể nhìn vào cái xô và nói cho anh chị em biết trong ấy có nước hay không. Cách biết này là tin vào người khác mà biết. Đó chính là tri thức có được do niềm tin.

Kinh nghiệm, lý luận, và tin tưởng đó chính là ba cách thức để biết ở đời này.

***

Bây giờ chúng ta hãy xét đến một câu hỏi khác, câu hỏi thứ hai. Trong ba cách để biết ấy, có cách nào giúp chúng ta biết được nhiều hơn cả? chúng ta biết được điều này điều kia phần nhiều là do Kinh nghiệm bằng giác quan, hay do đầu óc suy luận hay do tin tưởng vào ngưòi khác.?

Nếu anh chị em trả lời là do niềm tin, do sự tin tưởng nơi người khác, thì anh chị em đúng hoàn toàn. Hầu hết chúng ta biết được điều này điều kia là do chúng ta tin vào những gì người khác nói với chúng ta, có một nhà chuyên môn ước lượng rằng 80% những kiến thức của chúng ta là do tin tưởng vào người khác mà có.

Chẳng hạn, trong chúng ta ít có ai được may mắn du hành quanh thế giới. Cách duy nhất để chúng ta biết về phần lớn các quốc gia trên thế giới là do người khác nói cho chúng ta biết, Nói cách khác, chúng ta tin vào những người đã từng đến những nơi ấy. Nếu họ kể cho chúng ta rằng có một xứ sở nọ tên là Trung Hoa, và dân chúng ở đó thế này thế kia, chúng ta sẽ tin họ.

Phương cách để chúng ta có được những tri thức thông thường còn chân thực như thế, thì cách thức để chúng ta có được những tri thức tôn giáo càng chân thực hơn nữa. Phần lớn các tri thức tôn giáo mà chúng ta có là do chúng ta tin vào những gì Kinh Thánh kể lại cho chúng ta. Nói cách khác, phần lớn tri thức tôn giáo của chúng ta là do niềm tin.

Bây giờ chúng ta xét đến câu hỏi thứ ba. Chúng ta có thể hiểu biết những thực tại tôn giáo bằng ba cách mà chúng ta thường dùng để hiểu biết những thực tại thông thường không?

Chẳng hạn, chúng ta có thể biết Đức Giêsu sống lại từ cõi chết không phải chỉ nhờ tin những gì Kinh Thánh nói, mà còn nhờ vào suy luận nữa không? Có nhiều ngừơi nghĩ rằng được. Họ giải thích rất hấp dẫn. Họ lập luận rằng sau khi Đức Giêsu chết, các môn đệ bị khủng hoảng tinh thần tột độ. Họ chỉ còn là một nhóm người đại bại, một nhóm người thất chí, một nhóm người nhát sợ. Thế rồi, vào Chúa nhật Phục sinh, có một biến cố nào đó đã biến đổi họ một cách không thể tưởng tượng được. Có một biến cố nào đó đã thay đổi con người họ một cách thật lạ lùng. Bỗng nhiên lòng họ bùng lên niềm vui, niềm hạnh phúc thực sự. Họ không thể cầm lòng được. Họ vội chạy đi loan báo cho mọi người họ gặp rằng Đức Giêsu đã sống lại và hiện đang sống. Họ tin điều ấy một cách chắc chắn đến độ họ thà sẵn sàng chịu bắt bớ bách hại đủ kiểu đủ cách, dầu là phải chết, còn hơn phải chối bỏ Đức Giêsu đã phục sinh của họ.

Đời sống và lời giảng của nhóm người này đã thay đổi cục diện lịch sử nhân loại. Không một giả thuyết nào có thể giải thích được tại sao đời sống của họ lại có thể biến đổi như thế, ngoại trừ cách giải thích của chính họ: họ đã thấy Đức Giêsu hiện còn sống.

Giả như nhóm người thất học này đã phịa chuyện về Đức Giêsu và sự phục sinh của Ngài thì chắc chắn ta phải chấp nhận rằng sớm hay muộn, ít nhất phải có một người trong bọn sẽ phải nói ra sự thật, vì không chịu nổi sự bách hại và giết chóc.

Nhưng không một ai trong nhóm ấy đã làm thế. Lời chứng của họ về Đức Giêsu sống lại không bị lay chuyển chút nào, không bị giảm cường độ chút nào. Ngược lại, lời chứng ấy càng ngày càng mạnh mẽ và ảnh hưởng tới mọi người hơn. Họ đã cảm nghiệm được một năng lực mới lạ và dịu kỳ đã khiến họ thực hiện được nhiều phép lạ. Chính sự biến đổi không thể nào giải thích được nơi các môn đệ Đức Giêsu khiến cho nhiều người nói rằng chính lý trí cũng minh chứng rằng Chúa Giêsu đã phục sinh. Nói cách khác, lý trí thuần lý cũng xác quyết rằng một biến cố nào đó rất ngoạn mục đã xảy ra làm biến đổi các môn đệ Đức Giêsu lý trí thuần lý xác nhận rằng sự phục sinh của Đức Giêsu thực sự xẩy ra.

Anh chị em cũng như tôi đều không được đặt tay vào cạnh sườn Chúa Giêsu như thánh Tomas, để trực tiếp cảm nghiệm được Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Tuy nhiên, chúng ta có thể tin tưởng vào chứng cứ của Thánh Kinh, chúng ta cũng có thể làm hơn thế nữa. Chúng ta có thể sử dụng tặng phẩm Chúa ban là lý trí để xác quyết thêm điều Kinh Thánh đã truyền dạy chúng ta. Và rồi, chúng ta cũng có thể quì gối xuống như thánh Tôma đã làm và thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa Con, lạy Thiên Chúa của con". Đáp lại, Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta: "Hạnh phúc biết bao cho kẻ chẳng thấy mà tin".

Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:

Kính lạy Chúa, bất cứ khi nào đức tin chúng con bị chao đảo, giống như trường hợp của thánh Tôma, thì xin Ngài hãy nhắc chúng con nhớ lại những lời Kinh Thánh thuật lại về những biến cố đã xảy ra vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh. Cũng xin Chúa nhắc chúng con nhớ biến cố này không chỉ gây ảnh hưởng trên các môn đệ Chúa Giêsu mà còn trên toàn dòng lịch sử. Và nhất là, xin nhắc chúng con biết tham dự vào Tin Mừng Phục sinh của Ngài với tha nhân quanh chúng con, giống như các môn đệ đã chia xẻ niềm vui ấy với quần chúng quanh họ. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Lm. Mark Link, S.J.

------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây