Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 151-173 Vâng lời Thầy con xin thả lưới

Thứ hai - 06/05/2019 07:59
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 151-173 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 151-173 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 151-173 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
----------------------------------------
Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}: "Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô,
Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".] - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------------------------
PS 3-C151: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.. 1
PS 3-C152: Ngài đã sống lại thật như lời Ngài đã hứa. 4
PS 3-C153: ĐAU KHỔ VÌ CHÚA.. 7
PS 3-C154: TIẾNG GỌI THỨ HAI 9
PS 3-C155: Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn. 11
PS 3-C156: Khởi hành sứ mạng với Chúa Kitô Phục Sinh. 13
PS 3-C157: Suy niệm Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 16
PS 3-C158: Do đâu Gioan nhận ra ngay: "Chính Chúa đó!". 19
PS 3-C159: Chúa luôn ở bên bạn khi khó khăn. 22
PS 3-C160: Chúa Giêsu cầm lấy bánh trao cho các ông. 24
PS 3-C161: Anh em hãy đến mà ăn. 28
PS 3-C162: Chú giải của Noel Quesson. 30
PS 3-C163: CHỨNG NHÂN PHỤC SINH.. 34
PS 3-C164: MƠ ƯỚC ĐẸP. 37
PS 3-C165: SỨC MẠNH VÀ NIỀM VUI PHỤC SINH.. 39
PS 3-C166: TÌNH YÊU MẾN.. 41
PS 3-C167: XIN CHO CON NHẬN RA CHÚA.. 44
PS 3-C168: BIỂN HỒ TIBÊRIA VÀ BA CUỘC GẶP GỠ.. 45
PS 3-C169: TÌNH THẦY TRÒ PHÊRÔ – GIÊSU VÀ GIOAN.. 49
PS 3-C170: BÀI HỌC TỪ MẺ CÁ KỲ DIỆU.. 51
PS 3-C171: YÊU NGHỀ.. 53
PS 3-C172: YÊU THẦY HƠN.. 58
PS 3-C173: GỞI GẮM YÊU THƯƠNG.. 60

------------------------------
 

PS 3-C151: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT


(Cv 5, 27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-14)

M. Hiếu Liêm
 

Xã hội Việt Nam trong thời gian qua xảy ra rất nhiều biến động. Những biến động này được mạng PS 3-C151


Xã hội Việt Nam trong thời gian qua xảy ra rất nhiều biến động. Những biến động này được mạng truyền thông lề trái và lề phải truyền tải trái chiều và mâu thuẫn nhau. Đôi khi độc giả bị rối loạn và không biết phân biệt đâu là tin thật, đâu là tin giả; cái gì là đúng, cái gì là sai. Ví dụ:  về sự kiện cưỡng chế vườn rau Lộc Hưng, “báo lề đảng” đều đồng loạt đưa tin, đó là đất công, còn “báo lề dân” thì trưng dẫn đầy đủ bằng chứng giấy tờ, đây là đất có nguồn gốc hợp pháp, có chủ quyền chứ không phải là đất công. Còn nói về tình trạng sức khỏe của ông tổng bí thư, kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. “Báo lề đảng” thì bưng bít, hoặc im lặng. Hoặc nếu lên tiếng thì cũng mập mờ, hoặc là nói vô thưởng vô phạt để đánh lừa dư luận. Ngược lại, “báo lề dân”, dù bị cấm đoán nhưng lại đưa tin rất nhanh, chính xác và rõ ràng. Từ đó người ta rút ra một kinh nghiệm thực tế là: sự giả dối càng phô trương thì càng phơi bày ra sự gian trá. Càng đưa tin giả dối để ép buộc, thì càng bị dư luận từ chối và chống đối. Ngược lại, sự thật càng bưng bít, càng được loan truyền. Thông tin thật càng bị cấm đoán, càng được công chúng tôn trọng và đón nhận. Những kẻ nói láo để lường gạt thì giống như con vẹt, chỉ biết hót cho hay chứ không dám chịu trách nhiệm về những điều dối trá họ đã tung ra. Còn những ai nói thật thì chẳng những dám chịu trách nhiệm về điều mình đã nói, mà con thí cả mạng sống để bảo vệ và làm chứng cho sự thật. Như vậy, họ mới xứng đáng được tôn vinh là những chứng nhân cho sự thật, tự do, công lý và công bình.

Suy niệm lời Chúa qua ba bài đọc hôm nay, chúng ta rút ra một sợi chỉ đỏ, một chủ đề nổi bật đó là: Làm chứng cho sự thật, mà sự thật ở đây là Chúa Kitô đã phục sinh. Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại. Đó là một sự thật, một chân lý, một sự kiện lịch sử không ai có thể phủ nhận hay vùi lấp đi. Vì thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu chúng ta hãy làm chứng cho sự thật này.

Trước hết, bài Tin Mừng thuật lại sự kiện Chúa Kitô phục sinh hiện ra với 7 môn đệ đang đánh cá tại biển hồ Galilê. Tại sao Gioan chỉ kể tên có 7 chứ không phải 11 tông đồ? Tại vì con số 7 đối với người Do thái là con số thánh, con số hoàn hảo, con số tròn đầy viên mãn. Do đó, chỉ cần 7 tông đồ làm chứng cho thầy Giêsu Phục sinh là quá trọn hảo rồi. Chúa Giêsu đã phục sinh đó là một sự thật. Ngài đã hiện ra bằng xương bằng thịt cho 7 môn đệ được biết. Ngài đã nói chuyện với các ông, cùng ăn bánh và ăn cá nướng với các ông trên bờ biển. Chúng ta ghi nhận thêm một chi tiết nữa chứng minh cho sự phục sinh của Chúa Kitô. Không phải đây là lần thứ nhất, mà là lần thứ 3 Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ. Nếu số 7 là con số hoàn hảo, thì con số 3 diễn tả sự chắc chắn: “Quá tam ba bận”. Bảy môn đệ làm chứng rằng đã có ít nhất 3 lần thầy Giêsu hiện ra, sau khi Người chỗi dậy từ cõi chết. Như vậy, đây là một sự kiện lịch sử có thật, chứ không phải do các môn đệ bịa đặt hay tưởng tượng ra. Vì là một sự thật, một chân lý nên bảy môn đệ đã làm chứng với tất cả xác tín của mình. Chúa Kitô phục sinh là một Tin mừng vĩ đại, một niềm hy vọng sáng ngời, một chiến thắng vinh quang và là cánh cửa mở tung tất cả…

Tiếp theo, bài đọc 1, sách Công Vụ Tông Đồ cũng thuật lại sự kiện Phêrô và các tông đồ đã công khai làm chứng về sự sống lại của Chúa Kitô. Mặc dù bị giới chức Do thái nghiêm cấm không cho lên tiếng rao giảng về Chúa Giêsu Kitô phục sinh, và về sự thật của Người, nhưng “ông Phêrô và các tông đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,30). Vì vâng lời Thiên Chúa, nên dù bì đánh đập và ngồi tù, các môn đệ vẫn mạnh dạn làm chứng về “Danh Đức Giêsu Kitô”, Đấng đã bị trao nộp vào tay người Do thái, bị kết án tử hình thập giá, bị đóng đinh và chết ô nhục trên thập tự. Nhưng ngày thứ ba, Ngài đã phục sinh vinh hiển, và trở thành thủ lãnh, thành Đấng Cứu Độ trần gian (x. Cv 5,29-31). Vì đây là một sự thật mang tính lịch sử, nên: “Chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 5,32). Như vậy, để trở thành chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các tông đồ dám liều mất mạng sống mình. Nhờ đó mà Tin mừng Phục Sinh được loan đi khắp cùng bờ cõi trái đất.

Sau cùng, qua bài đọc 2, thánh Gioan còn mở ra cho chúng ta biết, tất cả vũ trụ vạn vật, hữu hình và vô hình đều là chứng nhân của Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta hãy nghe những lời chứng mạnh mẽ hào hùng này của người môn đệ Chúa yêu: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô:

        "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận
        phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,
        danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc" (Kh 5,11-12).

Không những thế, thánh Gioan còn xác quyết lại một lần nữa rõ ràng hơn: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô:

       "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên
       lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng
       đến muôn thuở muôn đời!"

       Bốn Con Vật thưa: "A-men." Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy” (Kh 4,13-14).

Như vậy, không phải chỉ có các môn đệ, mà cả cơ binh các thiên thần cũng làm chứng về Chúa Kitô phục sinh. Không phải chỉ có các thụ tạo ở dưới đất mà cả triều thần thiên quốc cũng thờ lạy Con Chiên và vinh quang của Người. Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã chịu đau khổ và chết trên thập giá, nhưng Ngài đã phục sinh vinh hiển để trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn người. Vì thế, toàn thể địa cầu đều thần phục suy tôn Người. Do đó, loan báo Tin mừng Phục Sinh, cũng là đem Tin Vui cứu độ cho con người.

Tóm lại, sứ điệp Lời Chúa qua ba bài đọc hôm nay mời gọi người Kitô hữu hãy trở nên chứng nhân của Chúa Kitô phục sinh. Nhận ra Chúa và làm chứng về Chúa Kitô phục sinh đó là một sứ mệnh cao trọng và cũng là niềm vui hạnh phúc của người môn đệ. Các tông đồ khi xưa đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh và thánh Gioan đã vui mừng thốt lên: “Chúa đó!”. Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra Chúa Kitô luôn hiện diện trong cuộc đời và trong môi trường mình sống, để chúng ta cũng sung sướng thốt lên lời mời gọi: “Chúa đó” cho mọi người! Amen.

------------------------------
 

PS 3-C152: Ngài đã sống lại thật như lời Ngài đã hứa


Chúa nhật 3 Phục sinh Năm C

Ông bà anh chị em thân mến. 
 

Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ để minh chứng Ngài đã sống PS 3-C152


Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ để minh chứng, để củng cố đức tin cho các ông ở hiện tại và trong tương lai, khi phải thi hành sứ mệnh làm chứng và rao giảng Tin mừng cho Chúa.  Đây là một sứ mệnh quan trọng, và Chúa biết trước rằng các ông sẽ phải đối diện với những khó khăn, thử thách và đau khổ.

Bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với 7 tông đồ ở bờ biển Ti-bê-ri-a, là Phêrô, Tôma, Natanaen, Giacôbê, Gioan và 2 người khác không rõ tên.  Chúng ta biết đa số các tông đồ của Chúa Giêsu là những người làm nghề chài lưới đánh cá. Khi được Chúa Giêsu kêu gọi, các ông đã bỏ tất cả nghề nghiệp để đi theo và sống với Người.  Các ông đã ước mong có một tương lai huy hoàng, trở thành những người quan trọng và danh vọng. Nhưng sau khi Chúa bị bắt, bị vác thập giá, sau đó bị đóng đinh và chết trên thập giá như là một tội nhân, thì mọi ước vọng tiêu tan thành mây khói.

Sau khi đến nơi như lời Chúa bảo, các ông đã rủ nhau đi đánh cá, nhưng thất bại, không bắt được gì.  Khi thuyền về gần đến bờ, thì Chúa Giêsu hiện ra nhưng các ông đã không nhận ra Chúa, có lẽ vì mệt mỏi, chán chường và thất vọng.  Sau vài câu chào hỏi, Chúa bảo các ông trở ra biển thả lưới lại.  Họ đã thả lưới suốt cả đêm mà không bắt được gì, bây giờ đang mệt mỏi, buồn ngủ và chán nản lại bảo thả lưới ở gần bờ chỗ chẳng bao giờ có cá thì hy vọng gì!  Nhưng các ông đã vâng lời làm theo lời chỉ bảo đó, và đã được một mẻ cá lớn.  Ông bà anh chị em thân mến. Đây chính là ý nghĩa, bài học quan trọng Chúa muốn dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay.

Có một cha xứ thường dùng những sự kiện hay nhân vật trong bài Tin mừng để chia bài giảng thành nhiều phần. Thí dụ như trong câu truyện Đa-vít và Gô-li-át, vị linh mục đã dùng 5 hòn đá mà Đa-vít dùng để hạ Gô-li-át, để chia bài giảng thành 5 phần.  Khi giảng về dụ ngôn 3 người đầy tớ quản lý tài chánh của ông chủ đi vắng, thì vị linh mục cũng dùng 3 người đầy tớ để chia bài giảng thành 3 phần.  Vào một Chúa nhật, vị linh mục đã làm cho mọi người trong nhà thờ kinh hoàng khi tuyên bố với mọi người là sẽ chia bài giảng thành 153 phần theo số lượng cá Phê-rô và các bạn đã bắt được như bài Tin mừng hôm nay kể lại!

Thông thường, mỗi câu chuyện hay dụ ngôn trong Tin mừng có 4 ý nghĩa chính. Thứ nhất: ý nghĩa nguyên văn hay nghĩa đen; thứ hai: ý nghĩa biểu tượng hay nghĩa bóng; thứ ba: ý nghĩa chủ đích hay có ý muốn nói; và thứ tư: ý nghĩa cá nhân.

Thứ nhất, nghĩa đen của một bài Tin mừng, đơn giản là nguyên văn câu chuyện chứa đựng, diễn tả trong bài Tin mừng. Nhưng ý nghĩa của nhiều bài Tin mừng không luôn luôn rõ ràng.  Tuy nhiên ý nghĩa của bài Tin mừng hôm nay thật rõ ràng!  Thật sự, câu chuyện Chúa hiện ra với các tông đồ và theo lời bảo của Người, các ông đã bắt được một mẻ cá lớn, là một trong những đoạn văn rất quen thuộc nhất trong Tân Ước.

Ý nghĩa thứ hai là biểu tượng.  Biểu tượng chính trong bài Tin mừng hôm nay chú trọng đến câu hỏi Chúa Giê-su nói với Phê-rô được lập lại 3 lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?”  Vậy biểu tượng hay nghĩa bóng chứa đựng trong 3 câu hỏi của Chúa Giê-su với Phê-rô mà ông cảm thấy buồn phiền là gì?  Nhiều người hiểu rằng ba câu này liên quan đến 3 câu chối Chúa của Phê-rô trong ngày Chúa bị bắt.  Họ nhận thấy ba câu trả lời của Phê-rô với Chúa là ba câu xác quyết lòng yêu mến, xóa bỏ và đền bù lại ba câu chối Chúa.   Hay nói một cách khác, ba câu hỏi và trả lời,  cho Phê-rô một cơ hội để cải chính và chuộc lỗi của mình.

Ý nghĩa thứ ba là chủ đích của bài Tin mừng. Lý do tại sao thánh Gioan viết, ghi chép lại câu chuyện này?  Hay chủ đích của bài Tin mừng là gì?  Hay thánh Gioan muốn nói gì với chúng ta qua câu chuyện trong bài Tin mừng?  Công Đồng Va-ti-can  đã trích dẫn ba câu nhắn nhủ của Chúa với Phê-rô “Hãy chăn dắt chiên Ta” là một bằng chứng hiển nhiên về việc Chúa ban cho Phê-rô quyền năng và trách nhiệm thay mặt Chúa như là người chủ chăn, chăn dắt đoàn chiên của Người.  Hay nói một cách khác, Chúa tái xác nhận quyết định, ý định mà Chúa đã tuyên bố trước đây, khi Chúa nói “Phê-rô, con là Đá, và trên đá này Ta sẽ xây giáo hội… Ta sẽ trao ban cho con chìa khóa Nước Trời.”

Chúng ta thấy, trong dịp này Chúa đã có thể đổi ý định rút lại quyết định này và có thể nói với Simon Phê-rô rằng “Vì con đã chối Ta ba lần, nên Ta quyết định rút lại ý định, và trao ban cho người khác.”   Nhưng Chúa Giê-su Ki-tô đã không làm như vậy.  Người còn tái xác nhận ý định của chính mình chọn Phê-rô làm chủ chiên.

Sau cùng là ý nghĩa thứ tư: ý nghĩa cá nhân và đây cũng chính là ý nghĩa mà qua câu chuyện trong bài Tin mừng, Chúa muốn ban cho cho mỗi người chúng ta, những người nghe lời Chúa hôm nay.  Hay nói một cách khác, Chúa dùng Kinh thánh, Tin mừng để nói với chúng ta một cách riêng tư.  Thí dụ như trong một sự kiện khi Phê-rô nói với Chúa rằng  ông, một người đầy kinh nghiệm, đã thả lưới bắt cá cả đêm nhưng không được con cá nào.  Nhưng khi nghe Chúa  bảo ông hãy ra biển và thả lưới lại.  Phê-rô đã nghe lời và kết quả thật lạ lùng. Phê-rô và các bạn đồng nghiệp đến giúp đỡ đã bắt được một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng được diễn ta qua con số 153.  Vậy thì ý nghĩa cá nhân là gì?  Thưa là trước đó Phê-rô và các tông đồ đã cố gắng hết sức làm việc bắt cá một mình, nhưng sau đó có Chúa, nghe lời và thực hành lời Chúa chỉ bảo thì thành công một cách lạ lùng.  Và đây là bài học Chúa dạy chúng ta đừng bao giờ dựa vào tài, vào sức, vào khả năng của chính mình, mà phải có Chúa và dựa vào Chúa chúng ta sẽ vượt được những khó khăn, để có kết qua tốt, thành công.

Ông bà anh chị em thân mến.  Như Phê-rô và các tông đồ xưa trước đó đã thất bại khi đánh cá một mình, có lẽ đã từ lâu, chúng ta đã cố gắng cầu nguyện, hy sinh phục vụ hay làm việc tốt lành một cách hăng say, nhiệt tình và khó nhọc một mình, theo ý riêng mình, cho nên những lời cầu nguyện, sự hy sinh và việc tốt lành không đem lại kết quả gì hay chỉ có kết quả ít. Có lẽ lý do mà chúng ta thất bại hay không được như ý nguyện là vì chúng ta quên lời Chúa nói với các môn đệ theo Chúa “Thầy là cây nho, chúng con là nhành.  Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái vì không có Thầy, các con không thể làm được gì.”  (John 15:5)

Chúng ta nhận thấy, Phê-rô đã xác quyết lòng yêu mến của mình với Chúa Giê-su ba lần “Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.’’  Sau đó, khi Chúa về trời, Phê-rô, qua sự hiện diện và lòng yêu mến Chúa chân thành, đã không quản ngại khó khăn và đau khổ, quyết tâm hy sinh và trung thành với Chúa để trở thành chứng nhân và rao giảng lời Chúa cho mọi người.  Đối với chúng ta ngày nay cũng thế, nếu chúng ta không có Chúa trong đời sống, không có lòng yêu mến Chúa chân thành, thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, phục vụ, hy sinh là khó khăn, vác thánh giá là một cực hình, quảng đại và giúp đỡ là sự so đo tính toán của chính chúng ta.  Còn nếu chúng ta có Chúa, có lòng yêu Chúa chân thành thì cầu nguyện là một việc thích thú; hạnh phúc khi đến nhà thờ; vui mừng khi hy sinh phục vụ, và giúp đỡ và quảng đại vì tha nhân, vì Chúa.  Cho nên, muốn sự cầu nguyện, sự hy sinh phục vụ, lòng quảng đại, bác ái có kết quả và có một đức tin sâu sắc và trưởng thành hơn thì phải có sự hiện diện của Chúa trong đời sống hàng ngày. 

Muốn có một đời sống đạo sốt sắng và nhiệt thành thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa chân thành. Yêu mến Chúa thì hăng say sống đạo tích cực.  Một khi chúng ta đã có lòng yêu mến Chúa thật sự, thì sẽ không còn những cản trở để dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân, lòng quảng đại, bác ái của chúng ta được mở rộng.  Có Chúa hiện diện và vâng lời Chúa, Phê-rô đã bắt được một mẻ cá lạ lùng, và ơn sủng cứu độ còn tiếp tục cho đến ngày nay.  Tin mừng cũng cho chúng ta biết, Chúa đã hỏi Phêrô ba lần: “Con có yêu mến Thầy không?”  Đó cũng là câu hỏi Chúa hỏi chúng ta hôm nay.  Chúng ta hãy thành tâm nhìn vào đời sống, và trả lời Chúa như thế nào?  Chúng ta thật sự có Chúa trong đời sống hay không?  Phê-rô đã từ bỏ ý riêng, sự cứng lòng và tự hào về những kinh nghiệm, lão luyện của mình trong nghề đánh cá, để nghe lòi và thực hành sự chỉ bào của Chúa.  Cho nên muốn có Chúa và có lòng yêu mến Chúa chân thành, chúng ta cũng phải noi gương Phê-rô.

 Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa

------------------------------
 

PS 3-C153: ĐAU KHỔ VÌ CHÚA

 

Trong bài đọc của sách Công Vụ Tông Đồ kể về sự phản đối các tông đồ đã gặp phải từ phía PS 3-C153


Trong bài đọc của sách Công Vụ Tông Đồ kể về sự phản đối các tông đồ đã gặp phải từ phía các nhà lãnh đạo Do Thái. Các ngài đã vượt qua được với một niềm tin lớn, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây chính là người mới đây đã chối Thầy Giêsu ba lần, mà giờ đây ngài kiên vững lập trường, can đảm làm chứng cho Chúa. Chịu đau khổ để giữ vững niềm tin: ngài và các tông đồ bị đánh đòn. Nhưng các ngài vui vẻ chịu đựng vì Chúa Giêsu. Từ nơi đâu mà thánh Phêrô có được sự can đảm này ? Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Thánh Thần và sự nâng đỡ từ các tông đồ đồng môn của ngài.

May thay, suốt thời các tông đồ, đã từng có nhũng Kitô hữu, nhờ ân sủng Chúa, đã vượt qua sự sợ hãi và làm chứng cho Tin Mừng, mặc dù trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.

Tháng 3 năm 1983, nhà thơ Nga - Irina Ratushinskaya, bị kết án 7 năm lao động khổ sai và 5 năm lưu đày. Tội của bà là - sáng tác những bài thơ mà không được chính quyền chấp nhận. Trong tù, bà chịu đựng sự đánh đập, buộc phải ăn và bị biệt giam trong diều kiện khí hậu lạnh khắc nghiệt.

Bà đã bị vấn đề về tim, gan, cật, cũng như viêm phế quản kinh niên. Dù trong điều kiện như vậy bà vẫn tiếp tục viết, chuyển những bài thơ được viết trên những mảnh giấy vụn ra bên ngoài qua những người gác ngục, những người lính và những khách đến thăm. Bà đã được phóng thích vào tháng 10 năm 1986.

Niềm tin Kitô giáo đã quyết định sự sống còn của bà. Bà nói: khi bạn đang phiền muộn, hay trong con quẫn bách, dường như Chúa luôn luôn gần bên bạn hơn. Chúa bên tôi trong những ngày tôi ở trong tù, như cánh tay liền sát vai."

Một điều quan trọng khác nữa giúp cho sự tồn tại của Irina trong những ngày lao tù là mối tương quan bền vững  thật khó tin mà bà đã có với lương tâm của những nữ tù nhân. Gian nguy đã nối kết mọi người với nhau và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm với nhau. Với nhịp sống và áp lực của cuộc sống hiện đại, chúng ta quá quan tâm đến bản thân mình ; để rồi khi một tai họa hay một căn bệnh dến với ta, sẽ dạy cho chúng ta biết chúng ta lệ thuộc vào nhau như thế nào.

Irina và những bạn bè của bà thường biểu tình tuyệt thực nếu một trong số họ bị ngược đãi. Bà nói: "Tôi cảm thấy hạnh phúc khi tất cả chúng tôi vẫn còn sống. Trong thời gian tôi ở tù, một phần ba nam tù nhân trong trại đã chết. Tất cả phụ nữ đã từng ở trong trại giờ đây đều là các Kitô hữu. Trong số đó có người nay là nữ tu công giáo.

Niềm tin cũng dạy cho đời sống tâm lý của tôi tránh khỏi bị huỷ hoại bởi lòng căm thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vô song của tinh thần con người để có hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào."

Những người như Irina và các bạn của bà là niềm cảm hứng cho chúng ta. Họ đã mở rộng khả năng của con người về lòng can đảm và tình yêu. Thật dễ dàng tin vào Chúa, khi chúng ta quỳ xuống và khép mắt lại, cũng như thật dễ dàng là người Kitô hữu khi xa lánh sự ồn ào và thử thách của thế giới con người. Nhưng thật là một tôn giáo nghèo nàn khi tin rằng chỉ tìm thấy Chúa ở những nơi xa cách với thế giới. Chúa không thể bị giới hạn như cách suy nghĩ này.

Chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Người trông mong chúng ta làm chứng cho Người trong thế giới hôm nay. Một số người trong chúng ta đã được kêu gọi đón nhận những đau khổ như nhùng đau khổ mà các tông đồ hay những người như Irina và bạn bè của bà đã trải qua. Nhưng chúng ta có thể phải đối diện với những việc hầu như tồi tệ - thái độ hết sức dửng dưng của người đương thời.

Chúng ta không thể nói trước rằng ơn gọi Kitô hữu sẽ đưa chúng ta đến đâu, hoặc đòi hỏi gì nơi chúng ta. Giả như chúng ta có thể thấy được những nơi ấy, sẽ làm cho trái tim ta nhen nhúm sự nản chí và sự can đảm sẽ đánh gục ta. Trong lãnh vực này, chúng ta giống như Phêrô. Lần đầu tiên ông đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, ông không nghĩ rằng ơn gọi này sẽ dẫn ông đến cái chết vì đạo. Nhưng bất cứ điều gì mà ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi nơi chúng ta, chúng ta sẽ được dền bù gấp trăm.

-------------------------------
 

PS 3-C154: TIẾNG GỌI THỨ HAI

 

Ngày xưa có một người làm ra lửa. Khi anh ta đang trên đường về nhà thì tuyết đổ xuống. Khi thấy PS 3-C154


Ngày xưa có một người làm ra lửa. Khi anh ta đang trên đường về nhà thì tuyết đổ xuống. Khi thấy ánh lửa, anh vội băng ngang một miếng đất trống. Hầu như chẳng phải là ngọn lửa - đó chỉ là một đống củi cháy âm ỉ. Quanh đống củi, một đám người hỗn độn kéo những tấm giẻ rách cũ lại gần chung quanh họ với hy vọng là sẽ tránh được cái lạnh tê buốt, nhưng vô hiệu. Anh đã dừng lại, nhưng anh ở lại không lâu.

Anh cảm thấy thật khó mà ở cùng với những người này. Sau khi nói vài lời về giá trị của lửa, anh lẩn đi mất. Song chẳng bao lâu sau khi anh rời khỏi họ, anh cảm thấy khó chịu. Anh nghĩ, anh chỉ có thể nhóm ngọn lửa dó lên được nếu như anh tình nguyện chấp nhận mất thời gian và rắc rối. Nhưng rồi, sẽ ra sao nếu như anh ta bị viêm phổi trong khi làm ? Và hầu như họ không đánh giá đúng những nỗ lực của anh.

Xa hơn chút nữa, anh đến gần một nhóm người khác đang ngồi chung quanh ngọn lửa cháy rực, dưới mái nhà. Chú ý diện mạo đang đói của anh, họ kêu lên: "Vào đây! Vào đây! Anh không đợi kêu lần thứ hai. Anh ta đã ở đó lâu hơn dự định. Cuối cùng khi anh ra đi, họ đã đồng thanh thốt lên: "Cám ơn vì đã ghé vào."

Lần kia ở nhà, đang khi ngủ, anh mơ thấy Chúa hiện ra và nói: "Ta chỉ định ngươi là người làm ra lửa, nhưng người đã làm Ta thất vọng." Đó là tất cả những gì Chúa đã nói. Người làm ra lửa hiểu ngay sứ diệp đó. Anh thức dậy và không thể nào ngủ lại được nữa. Tâm trí anh nhớ lại những ngày đầu trong công việc tạo ra lửa của anh. Thật là hăng hái làm sao. Thật là đẹp biết bao nghề của anh - đem đến cho những người lạnh lẽo sự ấm áp trong cuộc sống.

Nhưng ngay sau đó, anh không hình dung được về những hy sinh triệt để mà lời mời gọi của Chúa đòi hỏi ở anh. Anh cũng chẳng nghĩ đến sự rắc rối của công việc này, cũng như thái độ không đáp trả và không biết đánh giá của con người. Nhưng qua nhiều năm, tất cả những điều này dã trở nên rõ ràng với anh. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh đã lu mờ. Anh dần dần hờ hững trong ơn gọi của anh.

Nhưng vào cái đêm đáng thương này, anh đã dò được độ sâu của sự yếu đuối nơi bản thân, đêm nay tính ích kỷ trong anh đã bộc phát dữ tợn, đêm nay sự thiếu lòng nhiệt tình đã được bộc lộ cách đau đớn với anh, tia lửa của ơn gọi một lần nữa được nhóm lại trong tâm hồn anh. Anh quyết định ngày mai, một lần nữa, anh sẽ trở thành người làm ra lửa. Và anh đã làm.

Có hai tiếng gọi Phêrô được thuật lại trong Tin Mừng. Tiếng gọi thứ nhất xảy ra lúc bắt đầu sứ mạng của Chúa Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai xảy đến sau Phục Sinh, và được thuật lại trong Tin Mừng ngày hôm nay. Hai lần kêu gọi cách nhau ba năm. Trong ba năm đó có rất nhiều chuyện xảy đến cho Phêrô. Ông đã nhận ra rất nhiều điều về Đấng đã kêu gọi ông, về công việc mà Người đã gọi ông, và trên tất. cả, là chính bản thân ông. Khi tiếng gọi thứ hai đến, Phêrô đã là người sáng suốt và khiêm tốn hơn. Vì thế tiếng "vâng" thứ hai chín chắn và sáng tỏ hơn tiếng "vâng" thứ nhất rất nhiều.

Câu chuyện của Phêrô là một tiếng gọi, vấp ngã và lại kêu gọi. Nó cho thấy rằng tiếng gọi của Chúa không loại trừ sự vấp ngã. Ơn gọi không phải là điều mà người ta nghe và đáp lại chỉ một lần. Tiếng gọi phải được nghe và được đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày một phần của con đường đã chọn mở ra trước mắt chúng ta, phần mà chúng ta đã không bước qua trước đây. Khi một người tiếp tục thì tiếng gọi sẽ trở nên sâu sắc hơn, và sự đáp lại sẽ nội tâm hơn và riêng tư hơn.

Mọi ơn gọi đều là ơn gọi tình yêu - tình yêu Thiên Chúa, và tình yêu các con chiên trong đàn chiên của Người (anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).

LỞI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Chúng ta hãy cầu nguyện với Thiên Chúa, Đấng đã phục sinh Người Con của Người, làm cho chúng ta nên mạnh mẽ trong tình yêu và hy vọng.

Xướng: Để các vị lãnh đạo Giáo Hội tận tâm chăm lo cho các anh chị em trong cộng đoàn.

Xướng: Để Chúa hướng dẫn và thúc lành cho công việc của các môn đệ ngày nay, dưới sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa sẽ bắt được những mẻ cá lớn.

Xướng: Để chúng ta tìm gặp niềm vui trong khi phục vụ anh chị em, và nhớ rằng chính Chúa Giêsu đã dọn bữa cho các tông đồ.

Xướng: Để chúng ta ân cần và tha thứ cho tất cả những ai đã làm chúng ta thất vọng hay vấp ngã, như Chúa đã ân cần với ta.

Chủ tế: Lạy Cha, Cha là nguồn sự sống của chúng con, Cha biết chúng con yếu đuối. Xin cho chúng con vươn tới niềm vui mà Cha đã ban cho chúng con trong Đức Kitô, dế chúng con dễ dàng bước đi trên đường lối của Cha.

Chúng con cầu xin .... '

-----------------------------
 

PS 3-C155: Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn


CHÚA PHỤC SINH ĐẤY!
HÃY TIN VÀO LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
 

Các Tông đồ thật sự buồn rầu chán nản, thất vọng vì các ông đã bỏ tất cả để theo Thầy nhưng nay PS 3-C155


đã chết. Cho nên, các ông trở về quê với nghề cũ, đánh cá. Phêrô và anh em lên thuyền ra khơi và vất vả suốt đêm không được gì. Nhưng, khi bình minh ló rạng, Chúa Giêsu phục sinh vĩnh hằng hiện ra giúp đỡ các ông, bảo các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sẽ bắt được cá. Dù không biết ông này là ai, các môn đệ vẫn vâng lời thả lưới, chắc lòng thầm nghĩ rằng “méo mó có hơn không” và “thà đốt lên một bó đuốc còn hơn ngồi nguyền rủa bóng đêm”. Ai ngờ họ được cả chì lẫn chày: vừa trúng được một mẻ cá lạ lùng vừa gặp lại Thầy mình, Đức Kitô phục sinh. Khi các ông kéo cá vào bờ, Chúa Giêsu nướng cá và bánh trao cho các ông, và thế là Thầy trò có một bữa ăn đượm tình thân hữu yêu thương như xưa.

Đêm tối đi đánh cá trên biển chuyện thường, nhưng biển cả và đêm tối trong Tin Mừng hôm nay gợi về nơi chốn của ma quỷ, là thế giới của tội lỗi thống trị kèm theo bao khó khăn thử thách của các Tông đồ xưa, và cả chúng ta hôm nay. Giuđa, đệ tử ruột của Chúa Giêsu, vất vả theo Thầy để mong được dự phần vinh phúc với Thầy nhưng vào bữa ăn tối cuối cùng, Giuđa đã sa chước cám dỗ, bán đứng Thầy mình vì ham tiền. Cho nên, thay vì lãnh phần thưởng vinh phúc, tự ông chốc lấy phần tủi nhục ê chề. Rồi Phêrô, người đã từng tuyên bố bỏ Thầy con biết theo ai vì Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống nên ai bỏ thì bỏ chứ con đây dù có chết cũng không bỏ. Ấy thế mà trong đêm Chúa Giêsu bị bắt và đánh đòn, ông đã chối Thầy 3 lần.

Trong cuộc sống, tội lỗi và sự cám dỗ của ma quỷ gây ra cho chúng ta biết bao nhiêu khó khăn đau khổ và thách thức. Nhiều khi mình cố gắng để vượt qua, để vững tin vào Chúa nhưng không được gì. Chẳng hạn, chúng ta vừa mới đi xưng tội tuần trước đó tuần này lại tái phạm, Mùa chay vừa rồi tôi quyết tâm bỏ thói xấu này, nhưng hôm nay mới tuần 3 Phục Sinh tôi lại quen đường cũ, bỏ không được, vì sao? Vì đức tin của mình còn yếu quá. Vì vậy, nhiều khi chúng ta cảm thấy mình sống theo Phúc Âm thật sự đấy nhưng chẳng được gì mà còn thiệt thòi, thua lỗ, mất mát và chán nãn đâm ra ngã lòng. Thử hỏi giờ đây động lực nào tăng thêm sức mạnh giúp chúng ta đứng lên, tiếp tục đi tới, vượt qua những thách đố này. Đó chính niềm tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu phục sinh, Ngài luôn đồng hành trợ lực và chỉ lối đưa đường cho chúng ta bước theo đường ngay nẽo chính đem lại bình an và hạnh phúc cho mình, gia đình, giáo xứ… ngay trong cuộc sống này và mai sau nữa. Vậy điều quan trọng là chúng ta có tin không, khi cuộc đời của chúng ta bị thử thách nhưng Chúa vẫn có đấy? Nhất là niềm tin không phải trừu tượng mà bằng hành động giống như Phêrô nghe lời Thầy thả lưới xuống biển. Và khi nghe biết Chúa đó, ông mặt áo vào phóng xuống biển bơi về phía Thầy, phía ánh sáng, phía sự sống. Chúng ta thì sao bơi về phía sự sống là Chúa và Giáo hội hay bơi về phía bóng tối, phía tội lỗi gây biết bao nhiêu đau khổ đắng cay cho mình, gia đình vợ chồng, con cái…

Ngày nay chúng ta phải đối diện với nhiều cám dỗ, thử thách và khó khăn, thêm vào đó, chúng ta quá căng thẳng vì mãi lo bươn trải, bon chen tìm kiếm cơm áo gạo tiền, học hành, nghề nghiệp. Những thứ đó dễ làm cho chúng ta mệt mõi, rã rời, kiệt sức nãn chí và thất vọng. Đừng sợ! Chúa phục sinh đang hiện diện trong Lời Người, trong Thánh Thể, và trong Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Người, và trong mọi hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Giờ đây và lúc này, Ngài đang hiện diện với chúng ta trong thánh lễ. Ngài dọn cho chúng ta bữa ăn đó là Lời Chúa, Mình và Máu Ngài để nuôi sống, tăng thêm sức mạnh và đỡ nâng tinh thần cho chúng ta trong cuộc sống dương thế để chúng ta vững tin bước theo Chúa vì không có Chúa chúng ta không thể làm gì được. Cho nên, thật có lý, khi bậc tiền bối của giáo xứ nọ cho khắc 2 câu đối trước cổng ra vào nhà thờ như lời xác tín với ai khi đến nhà thờ ấy rằng: “Thuyền ngược nước xuôi đời khó xử, trời nhào đất lộn Đạo không lây”.

Vì thế, trong Sứ Điệp Phục sinh năm nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Chúa Giêsu Kitô, sự nhập thể của lòng thương xót của Thiên Chúa, vì yêu thương chúng ta, đã chết trên thập giá, và vì yêu thương mà Ngài đã sống lại từ cõi chết. Đó là lý do mà chúng ta hôm nay loan báo: Chúa Giêsu là Chúa đó! Sự phục sinh của Ngài làm viên mãn lời tiên tri của Thánh Vịnh: lòng thương xót của Thiên Chúa tồn tại đến muôn đời; lòng thương xót không bao giờ chết. Chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, và chúng ta tạ ơn Ngài vì chúng ta mà Ngài đã xuống tận những tầng sâu của ngục tổ tông. Giờ đây chúng ta trở thành những người thông phần vào sự sống vĩnh cửu của Ngài và giúp chúng ta thấy được bằng đôi mắt của tình yêu và lòng thương cảm những người đang đói và khát, những khách lạ và tù nhân, những người ở bên lề và bị loại trừ, những nạn nhân của tình trạng áp bức và bạo lực. Thế giới của chúng ta đang đầy rẫy những con người đang đau khổ về thể xác và tinh thần, ngay cả những tin tức hằng ngày cũng đầy rẫy những câu chuyện về những tội ác dã man vốn thường chiếm lĩnh trong các gia đình, và những mâu thuẫn có vũ lực ở qui mô lớn vốn tạo nên sự đau khổ không thể nào mô tả được cho toàn thể các dân tộc".

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết khám phá ra sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh trong môi trường sống của chúng ta hầu cậy tin vững vàng dù có gặp trăm chiều thử thách đồng thời luôn kết hiệp với Ngài qua việc tham dự bàn tiệc Thánh Thể và thi hành Lời Chúa vì Chúa là chính là nguồn sức sống, nguồn an ủi và Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường con đi đến bến bờ bình an, hạnh phúc đồng thời thực thi lòng thương xót Chúa cho muôn người hầu làm cho xã hội loài người được hòa thuận yêu thương nhau. Amen.
----------------------------------
 

PS 3-C156: Khởi hành sứ mạng với Chúa Kitô Phục Sinh


(Suy niệm của Dã Quỳ)
 

Sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô thiết lập Hội Thánh và trao quyền cho Phêrô chăn dắt đoàn chiên của PS 3-C156


Sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô thiết lập Hội Thánh và trao quyền cho Phêrô chăn dắt đoàn chiên của Chúa nơi trần thế. Người cũng trao cho các môn đệ sứ mệnh ra đi làm chứng cho Chúa. Qua những sự kiện đời thường trong lần hiện ra này, Chúa muốn dạy các ông cần khởi hành thực hiện sứ mạng mới với Chúa, trong quyền năng và ý muốn của Người.

+ Thả lưới theo hướng dẫn của Chúa. Lúc bình minh, khi môn đệ đang buồn rầu vì suốt đêm vất vả, đã đem hết khả năng kinh nghiệm để đánh cá mà vẫn thất bại. Chúa đến, Người yêu cầu các ông thả lưới bên phải thuyền. Một mẻ cá lạ lùng đạt được hôm nay nhắc nhớ đến một lần thuở ban đầu theo Thầy, Phêrô và các bạn cũng đã nhọc nhằn cả đêm không bắt được gì, nhưng khi Chúa bảo họ thả lưới bên phải thuyền, họ làm theo và bắt được rất nhiều cá. (x. Lc 5, 1-11)

Sau mẻ cá không ngờ này, "Tông đồ được Chúa thương mến" nhận ra đó chính là Chúa của mình và nói cho Phêrô. Quyền năng của Đấng Phục Sinh làm cho mắt ông mở ra và tình yêu giúp ông nhận ra Chúa. Có lẽ lúc này các ông nhớ lại lời Chúa đã nói "Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được." (Ga 15,5b) Vâng lời Thầy, thực hiện theo sự hướng dẫn của Thầy, tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Thầy và cùng làm với Thầy; thành công hay bất cứ hoàn cảnh nào, môn đệ vẫn luôn bình an, sẽ sáng suốt nhận ra "Chúa đó!" Chúa vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành sẻ chia cùng.

Chính vì thế mà sau này khi đi rao giảng, các ngài cũng chỉ một lòng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.” (Cv 5, 29) Phêrô không còn cậy dựa vào sự hiểu biết của mình, nhưng ông xác tín lời chứng của ông là: "cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người." (Cv 5, 32) Vì tình yêu mãnh liệt vào Chúa, các Tông đồ dù bị đánh đòn và cấm cách, lòng vẫn hân hoan được chịu đau khổ vì danh Chúa Giêsu.

Hôm nay, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy thả tấm lưới yêu thương, công bằng, sự thật và bình an ngay trong cuộc sống đời thường của mình. Đời người Kitô hữu sống giữa trần gian và những thực tế của xã hội đôi khi làm ta nản lòng chẳng muốn ra khơi hay thả lưới dù ta cũng có chút tài năng hay kinh nghiệm nhưng vẫn cứ thất bại và thiệt thân. Ta đã cố gắng sống ngay lành, yêu thương để làm chứng cho Chúa nhưng vẫn chả đi đến đâu. Vậy hãy quay về với Chúa Giêsu, trong kinh nguyện ta lắng nghe tiếng Chúa và dù có vất vả, ta vẫn tiếp tục "Vâng lời Thầy." Tin tưởng vào Chúa Phục Sinh và quyền năng của Người.

+ Trở về bên Chúa để được bồi dưỡng. Đấng Phục Sinh đang ở bên bếp than hồng. Chúa chờ để chia sẻ với họ bữa ăn thân mật và đoàn tụ. Tình yêu Chúa dành cho các môn đệ thật chu đáo và nồng ấm. Chúa đã chuẩn bị tất cả "Có sẵn than hồng với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa." (Ga 21, 9) Thế mà, trước đó Chúa đã hỏi các ông "Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21,5) Chúa biết rõ các ông và dường như Chúa muốn các ông chân nhận tình trạng của mình để rồi càng biết vâng lời Chúa, tin tưởng vào Chúa hơn.

Lối giáo huấn của Chúa thật tuyệt! Dù đã dọn sẵn cá và bánh, nhưng Chúa vẫn mời các ông "đem ít cá mới bắt được tới đây.” (Ga 21,10) Đó là thành quả, là công sức của các ông và họ có quyền tự hào vì đã thi hành theo ý Chúa. Chắc hẳn các môn đệ nhớ lại nhiều lần sau khi rao giảng, Chúa cũng thường nhắc nhở các ông nghỉ ngơi hay những lần hóa bánh, Người mời các ông cộng tác. Thật hạnh phúc vì lời mời chan chứa yêu thương "Anh em đến mà ăn" (Ga 21, 12) Và cũng thật vui vì được góp phần vào bữa tiệc. Sự chăm sóc ân cần này chỉ có Chúa dành cho các ông, nên tất cả đã biết đó là Chúa. Hơn thế nữa, cử chỉ bẻ bánh và cá trao cho từng người chỉ là cử chỉ của Chúa. Qua cử chỉ duy nhất này thì bất cứ môn đệ nào cũng nhận biết rõ đó là Chúa Giêsu.

Bữa ăn của Chúa và các môn đệ bên bờ biển tượng trưng cho Bữa Tiệc Thánh Thể hôm nay. Không thể có ra khơi tung lưới mà không có trở về bên Chúa. Trong Cử Hành Thánh Thể, mỗi Kitô hữu kín múc được nguồn sức sống từ Chúa. Thánh Lễ là đỉnh cao của Giáo Hội. Trong Thánh Lễ, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa dạy, được chính Chúa trao ban Bánh là Thịt Máu Người. Cũng chính trong Thánh Lễ, chúng ta được mời gọi trao chúc bình an cho nhau, tha thứ và hòa giải vì ta được cùng ăn một Tấm Bánh, ta cố gắng làm như Chúa, chăm sóc anh chị em như Chúa đã chăm sóc ta, sống tình cộng đoàn yêu thương nhau như Chúa mời gọi. Chính Thánh Lễ bảo đảm rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta sẽ không chấm dứt.

+ Sống và chết với Chúa. Chúng ta thấy mặc dù Phêrô đã chối Chúa, thế nhưng hôm nay Chúa trao cho ông làm đầu Hội Thánh. Theo cái nhìn bình thường thì ta thấy điều này hơi bất thường, nhưng đặt trong ánh sáng của lòng thương xót và tha thứ thể hiện trong Chúa Giêsu, ta sẽ nhận ra quả là điều kỳ diệu của tình yêu. Lỗi lầm không phải là không thể xóa được. Nhấn mạnh đến ba lần hỏi Phêrô "anh có mến Thầy không?", Chúa Giêsu như muốn làm vọng lại và thỏa ý với ba lần chối Chúa của ông. Lời giáo huấn và thái độ của Chúa đối với người môn đệ luôn rất dứt khoát, chỉ dựa vào tình yêu. Tình yêu của Chúa đụng chạm vào con tim của con người và mở ra với hành động tha thứ. Tình yêu nảy mầm sống mới trong trái tim.

Sự sống mới đã vươn mầm trong Tông đồ Phêrô. Từ nay ông không còn khoác lác tự phụ nữa. Trước đây ông đã nói:"Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.” (Mc 14, 29) Giờ đây ông không dám khẳng định mình yêu Thầy hơn những người khác. Ông biết rằng ông yêu Chúa và đón nhận điều đó với lòng khiêm nhường "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,17) Gần như trong ngại ngùng ông đã cảm thấy tất cả là ân huệ nhưng không mà ông được lãnh nhận thế mà ông đã không giữ lại trong sâu thẳm hồn mình.

Chúa Giêsu không muốn Phêrô nhìn về quá khứ nhưng là hướng về tương lai. Nếu Chúa đã chất vấn ông về tình yêu, đó là để chuẩn bị cho ông một trách nhiệm mà Người sẽ tin tưởng trao cho ông. Và nếu những câu hỏi của Chúa là sự nhấn mạnh đó là để cho ông hiểu một điểm tuyệt đối cần thiết cho ông đó là Yêu Thương. Ông không thể nối dài sự hiện diện và hoạt động của Thầy mà không yêu Thầy cách say mê và không yêu như Thầy. Chỉ có tình mến Thầy mới giúp ông chăn dắt đoàn chiên Thầy trao. Chăm sóc chiên bằng tình yêu mà ông yêu Thầy, thông truyền cho chiên tình yêu của Thầy dành cho ông và tình yêu, lòng tin của ông đối với Thầy. Chỉ bằng cách này, ông mới giúp chiên cảm nhận được sự hiện diện thực của Chúa Giêsu và tình yêu của Người dành cho ông, cho chiên. Đây chính là ý nghĩa cuộc sống tông đồ chứ không phải là những thành công rực rỡ bên ngoài.

Trước đây Phêrô đã bỏ chài lưới, bỏ nhà cửa để theo Chúa. Nhưng hôm nay, Chúa mời gọi ông trao phó chính mình để chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh và để được "dẫn anh đến nơi mà anh chẳng muốn.” (Ga 21, 18) Chúa muốn Phêrô sống như Thầy, làm những gì Thầy làm và hiến mạng sống như Thầy đã hiến trao. Mỗi Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi sống trọn cuộc sống của mình và noi gương các Tông đồ, hăng say gieo tấm lưới cuộc đời mình "Vâng lời Thầy, con xin thả lưới." Dám can đảm sống chứng nhân cho Chúa giữa lòng đời hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương chăm sóc chúng con. Xin giúp chúng con biết sống xứng đáng là con cái Chúa và hăng say làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.

-----------------------------------
 

PS 3-C157: Suy niệm Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
 

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp tục kể lại sự kiện Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ PS 3-C157


Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp tục kể lại sự kiện Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Đây là lần thứ ba Ngài hiện ra với các ông sau khi từ cõi chết sống lại.

Ngài hiện ra tại Biển Hồ Tibêria đang khi các ông đang đánh bắt cá. Thánh Gioan cho biết, các ông khó nhọc suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Đúng lúc đó, Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến, Ngài bảo các ông: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được” (Ga 21,6). Vâng lời Chúa, các ông thả lưới xuống bên hữu thuyền. Khi kéo lưới lên, các ông đã bắt được rất nhiều cá, tất cả được một trăm năm mươi ba con. Theo các nhà động vật học Hilạp, thời đó người ta đã tìm được 153 giống cá ở biển khơi. Như vậy, 153 giống cá trong lưới của các Tông Đồ là hình ảnh tiên báo họ sẽ quy tụ muôn dân muôn nước vào trong gia đình Giáo Hội sau này. Vậy, làm sao để qui tụ muôn dân muôn nước thành một gia đình?

Thứ nhất, Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội và đặt Thánh Phêrô làm thủ lãnh. Phần thứ hai của đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan tường thuật việc Chúa Giêsu bổ nhiệm Thánh Phêrô làm Giáo Hoàng tiên khởi. Đó cũng là khởi đầu của phẩm trật trong Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tới nay đã có 266 vị Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng hiện tại kế vị Thánh Phêrô là Đức Phanxicô. Để đảm nhận trách nhiệm quan trọng này, chắc chắn Chúa Giêsu đã cân nhắc và đặt ra nhiều tiêu chuẩn cần thiết. Nhưng tiêu chuẩn đầu tiên và trên hết đó chính là lòng yêu mến Chúa. Vì vậy, trước khi giao trách nhiệm cho Phêrô, Chúa Giêsu đã trắc nghiệm lòng mến của ông: “Con có yêu mến Thầy không?”. Ngài hỏi Thánh Phêrô ba lần như vậy (x. Ga 10,15-18). Ba lần Ngài hỏi Phêrô có thể gợi lại ba lần Phêrô chối Chúa, nhưng đó cũng là cách Chúa muốn ông khẳng định chắc chắn hơn về quyết định của mình.

Mặc dầu Phêrô đã chối Chúa ba lần vì yếu đuối, nhưng lòng mến của ông đối với Thầy luôn chân thành. Lòng mến đó được thể hiện qua câu trả lời hết sức đặc biệt của ông. Ông không trả lời “Có, con yêu mến Thầy”. Nếu trả lời như vậy thì quá bình thường. Phêrô đã trả lời một cách đặc biệt và tự tận đáy lòng rằng: “Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Thật vậy, Chúa Giêsu biết lòng mến nơi Phêrô. Vì kẻ được tha nhiều thì yêu mến nhiều hơn (x. Lc 7,36-50). Ngài tin tưởng Phêrô nên đã trao nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Ngài cho ông. Phêrô sẵn sàng đón nhận, từ đó về sau ông đã chu toàn trọn vẹn nhiệm vụ Chúa trao phó. Cuối cùng, ông lấy cái chết để chứng minh lòng mến và lòng trung thành của mình đối với Chúa.

Trong đời sống đạo, Đức Mến bao giờ cũng quan trọng. Đức Mến có thể quyết định tất cả mọi vấn đề. Hay nói cách khác, có Đức Mến là có tất cả. Thánh Phaolô nhắc nhở: "Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Nhưng lớn hơn cả là Đức Mến” (1 Cr 13,13). Thật vậy, nếu không có Đức Mến thì tất cả mọi việc làm của chúng ta chỉ mang hình thức bên ngoài, phô trương cho người ta thấy. Thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần đi nữa, mà không có Đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1). Nếu không có Đức Mến thì Đức Tin của chúng ta sẽ không bền vững, giống như người xây nhà trên cát. Chúng ta thấy rõ điều này qua các thời kỳ Giáo Hội bị bách hại, có vô số kitô hữu đã chấp nhận hy sinh vì lòng mến Chúa, nhưng cũng không thiếu những kitô hữu vì không có lòng mến nên đã nhẫn tâm dẫm đạp lên thập giá để được yên thân. Nếu hôm nay, Chúa hỏi chúng ta “Con có yêu mến Thầy không?” thì chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Hy vọng chúng ta cũng trả lời như Phêrô “Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Thứ hai, để qui tụ muôn dân nước, Giáo Hội có trách nhiệm loan báo Tin Mừng. Sau khi trắc nghiệm lòng mến của Phêrô, Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”. Đàn chiên của Chúa hiểu theo nghĩa rộng là tất cả muôn dân nước. Vì vậy, nhiệm vụ của Giáo Hội không chỉ chăm lo cho những người kitô hữu, mà còn phải lo cho những người chưa nhận biết Chúa. Đó chính là sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đó chính là sứ mạng “Đánh bắt các linh hồn”. Chính Chúa Giêsu đã nói với bốn môn đệ đầu tiên rằng: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá" (Mc 1,17). Sau khi sống lại, Ngài tiếp tục nhắc nhở các ông: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 46-48). Vâng lệnh Chúa, các Tông Đồ đã thi hành nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ngay những ngày đầu của Giáo Hội. Bài đọc I cho chúng ta thấy, các Tông Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu để giảng dạy giáo lý khắp cả Giêrusalem. Mặc dầu thầy thượng tế cấm các ông không được nhân danh Đức Giêsu mà giảng dạy, nhưng Thánh Phêrô và các Tông Đồ trả lời với họ rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta" (Cv 5, 29).

Sau các Tông Đồ, các kitô hữu qua mọi thời đại vẫn tiếp tục loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Nhờ vậy, từ con số nhỏ bé ban đầu, hiện nay Giáo Hội đã có 1 tỷ 253 triệu người Công Giáo, chiếm 17% dân số hoàn cầu.

Giáo hội không dừng lại ở đó, nhưng Giáo Hội phải có trách nhiệm làm cho 83 % dân số còn lại trở thành thành viên của mình. Trách nhiệm của Giáo Hội cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể rao giảng Tin Mừng bằng lời nói, việc làm hay bằng chứng tá đời sống. Nhưng phải nhớ rằng, công việc loan báo Tin Mừng không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong ba năm giảng đạo, chính Chúa Giêsu đã gặp biết bao chống đối từ phía những người lãnh đạo Do thái và cuối cùng vì họ mà Ngài đã bị giết chết trên Thánh giá. Ngài cũng đã từng báo trước với các Tông Đồ về những bắt bớ, đau khổ mà các ông phải chịu. Ngài nói: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết” (Mt 10, 17-18). Đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng tiên báo về cái chết của Phêrô: “Khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến"(Ga 21,18). Như vậy, đau khổ, chết chóc là số phận của những người đi theo Chúa. Trong số 12 Tông Đồ, đã có 11 vị Tử đạo, riêng Thánh Gioan bị dìm vào vạt dầu sôi nhưng không hề hấn gì. Chính vì vậy, chúng ta không lạ gì, Giáo Hội qua mọi thời vẫn bị bách hại bằng cách này cách khác. Xin cho chúng ta và mọi thành phần trong Giáo Hội, dù trong hoàn cảnh nào cũng biết trung thành với sứ mạng rao giảng Tin Mừng, nhất là trung thành yêu mến Chúa. Vì “Ai bền độ đến cùng sẽ được cứu độ” (x. Mt 10,22)

Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nên Chúa đã hiện ra nhiều lần để củng cố niềm tin nơi các Tông Đồ. Vì yêu thương nên Chúa đã thiết lập Giáo Hội để ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Xin Chúa tiếp tục củng cố đức tin cho chúng con. Xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội luôn hiệp nhất với nhau để vượt qua được mọi sóng gió trong cuộc đời. Xin cho chúng con luôn hăng say rao giảng Tin Mừng để mọi dân nước được qui tụ trong đại gia đình Giáo Hội. Amen.

---------------------------------
 

PS 3-C158: Do đâu Gioan nhận ra ngay: "Chính Chúa đó!"


(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)
 

Một số người trong chúng ta, thời chưa có internet, đã hơn một lần giơ tay vặn nút dò đài trên PS 3-C158


Một số người trong chúng ta, thời chưa có internet, đã hơn một lần giơ tay vặn nút dò đài trên chiếc Radio. Rà tới chỗ 19m, 25m, 31m, 41m… quay đi quay lại cũng ngần ấy làn sóng. Nhất là làn sóng 31m. Nhưng mà rà tới đó rồi còn phải xê đi xích lại đôi chút (fine tuning) mới bắt được đúng đài mà mình muốn. Bởi lẽ cũng 31m đó, nhưng có biết bao nhiêu là đài: VN, BBC, VOA, Úc,… Mỗi đài trên làn sóng 31m đó có một tần số riêng, ví dụ: Hà Nội 31m 10.060KHz, VOA 31m 9890KHz, BBC 31m 9605KHz… (Những máy thu thanh nào có bộ rà đài bằng tần số, thì chỉ cần bấm nút: td. 10060 là ra ngay đài HN). Vì thế chúng ta hay nghe thông báo: "Chương trình chúng tôi được phát trên làn sóng 31m, tức là 9710 kilo chu kỳ." Phải đúng tần số thì mới bắt được đài mà ta cần.

Máy thu hình cũng vậy. Mỗi kênh có một tần số hình, tần số tiếng riêng. Rà đúng là hình rõ, tiếng trong. Rà lệch là hình mờ tiếng đục.

Chúa Giêsu chịu chết tại Giêrusalem, khi sống lại, Ngài hiện ra với các môn đệ cũng tại Giêrusalem, phía nam Palestina. Nhưng có một lần hiện ra với chị Maria Mađalêna tại Gierusalem, Chúa Giêsu nhờ chị đi báo với các môn đệ là hãy trở về Galilê, họ sẽ được gặp Chúa tại đó. Từ Giêrusalem về lại Galilê, chặng đường hơn trăm cây số, có lẽ phải ba ngày đường mới trở về đó được. Họ đã về "để gặp Chúa."

Trong khi chờ gặp Thầy mình hiện ra, họ rủ nhau đi đánh cá: 7 người tất cả: Phêrô, Toma, Natanael, 2 người con của Zebeđê: Gioan và Giacôbê, và hai môn đệ khác… Họ thức trắng đêm mà vẫn trắng tay: đêm ấy họ không bắt được gì cả. Sáng ra khi đã có thể nhận biết được người và thuyền, chứ không phải còn mờ mờ tối tối nữa, Chúa Giêsu hiện ra. Nhưng không ai nhận ra Chúa, mặc dầu họ từ Gierusalem trở về Galilê là "để gặp Chúa." Nói theo ví dụ trong phần mở đề, thì họ đã cố ý tiến đến làn sóng 31m, nhưng vẫn chưa “tinh chỉnh” cho đúng tần số để có thể bắt gặp được Chúa. Họ chỉ mới “thấy” Giêsu đứng trên bờ, như một chàng thanh niên nào đó. Chúa Giêsu gợi ý để họ bắt đúng tần số. Ngài phát tín hiệu:

“Các chú có gì ăn không?” Ngôn ngữ miền biển có nghĩa là có đánh được con cá nào không? Họ trả lời “không”. Chán nản, mệt mỏi, vẫn chưa nhận đúng tần số. Chúa lại phát tín hiệu mới như là một lệnh: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, anh em sẽ bắt được cá!”

Bên phải và bên trái thì khác gì đâu. Nhưng giống như một mật hiệu, khi cá thu được nhiều, Gioan (chúng ta tạm xem Gioan là người môn đệ Chúa yêu, như truyền thuyết xưa nay), Gioan nhận đúng tần số và báo liền cho Phêrô: “Chúa đó.” Còn các môn đệ khác, kéo lưới lên bờ đếm được 153 con cá to, lưới không rách, lại thấy than hồng có cá đang nướng bên trên, cộng thêm ít bánh bên cạnh, kèm theo lời mời nghe rất quen của Chúa: “anh em hãy đến mà ăn,” họ mới thật sự là rà đúng tần số. Không ai dám hỏi Người là ai, vì các ông lúc đó biết rằng chính là Chúa.

Do đâu Gioan nhận ra được ngay chính Chúa đó (rà đúng tần số nhanh nhất)? Thưa:

1) Do Gioan có lòng trong sạch. Phúc thứ 6 trong Bát Phúc: Phúc cho ai có lòng trong sạch vì họ sẽ được "nhìn thấy Chúa." Những tâm hồn trong sạch, nhìn thấy Chúa nhanh hơn vì con mắt họ trong sáng. Có người còn nói mạnh, vì Gioan theo truyền thống là tông đồ duy nhất không lập gia đình, ở độc thân, giữ đức trong sạch, nên ông dễ nhận ra Chúa hơn các tông đồ khác. Nhưng lý do này không đủ mạnh cho bằng:

2) Do Gioan yêu Chúa và được Chúa yêu.

Gioan được kèm theo biệt hiệu “kẻ Chúa yêu”. Trước khi nhận ra “chính Chúa đó” và thông báo cho Phêrô, thì biệt hiệu “Kẻ Chúa yêu” được sách Tin Mừng nhấn mạnh: “Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với Phêrô: Chúa đó.”

Từ trái tim đi tới trái tim là con đường nhanh nhất. Khi hai tim cùng rung một nhịp, một tần số, thì dù cách xa nghìn trùng cũng “thấy nhau”. Hoàng thi Thơ có làm bài hát “Khi tình yêu đến” với những lời lẽ thật ý nghĩa này: “Khi tình yêu tình yêu tới, tuy có đông người, đôi mắt đôi mắt ta buồn cười, một người ta thấy thôi.” Cả một rừng người, chỉ thấy có một mình "ên" em!

Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.

Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau?

Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm mua một món quà đưa cho người khác, quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ!

Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thập giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, thì đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, và làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

Trong bài Tin mừng, Chúa dọn sẵn cá, bánh, là một cách thức biểu lộ tình thương. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Ai sống cũng trong tình yêu thì nhận ra ngay được tình yêu.

Chính Phê-rô, cuối bài Tin Mừng (bài dài) cũng được thử thách bằng 3 câu hỏi: Có yêu mến Chúa không?

Một nhà kinh doanh ở Chicago có một môn giải trí vui vui, là cứ cuối tuần, ông chọn 5, 7 em bé của các gia đình nghèo, cho các em bộ đồ mới, dẫn các em đi công viên giải trí rồi đi ăn. Cứ vậy, tuần này qua tuần kia. Một hôm, sau bữa ăn khá ngon, một em bé 8 tuổi chỉ vào nhà kinh doanh và nói: “Thưa ông, ông là Giêsu.” Em bé này nói câu như Gioan nói với Phêrô: “Chính Chúa đó.”

Những ai làm ơn lành cho ta, có lẽ ta dễ nhận ra ”chính Chúa đó”.

Nhưng Chúa Giêsu không chỉ ở nơi những ân nhân, Ngài còn ở nơi cộng đoàn, nơi người linh mục, nơi Thánh Thể, và nhất là nơi những người cùng khổ.

Đó là những cách hiện diện của Chúa, những hiện thân của Ngài. Nhiều người trong chúng ta dư “biết” điều đó, nhưng chúng ta không dễ gì nhận ra (thấy) Ngài: như chúng ta biết làn sóng 31m đó… nhưng không thấy Ngài, vì tần số yêu thương ta chưa rà tới. Nói khác đi, ta chưa thật sự sống yêu thương nên không dễ gì nhận ra Chúa.

Phải sống thế nào như một nữ tu tập sự của Mẹ Têrêxa Calcutta: Sau khi chăm sóc cho một người nghèo khổ hấp hối, trở về báo cáo với Mẹ: "Thưa Mẹ, hôm nay con đã đụng tới thân thể Đức Kitô."

Chúng ta cũng phải yêu Chúa và nhất là yêu người để nhận ra ngay đó là Chúa ("chính Chúa đó") mà chúng ta yêu mến. ĐGH Phanxicô khi đi thăm những người tàn tật, đã nói: anh chị em là xác thịt của Chúa Kitô! “Chính Chúa đó!”.

--------------------------------
 

PS 3-C159: Chúa luôn ở bên bạn khi khó khăn


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
 

Thất bại đã dạy tôi bài học sâu cay: “Khi giàu có, ta không dám cho ai vay tiền nhưng lúc nghèo PS 3-C159


khó, cũng chẳng biết tìm ai để xin giúp đỡ”. Và cũng có câu nói rằng: “Lúc khó khăn mới biết ai là bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai!”. Quả đúng vậy, chỉ khi gặp khó khăn, bế tắc, chúng ta mới hiểu được cuộc sống này tìm được người giúp mình vượt qua khó khăn kể là khó. Người ta ví cuộc đời như trái táo:

Tôi có một quả táo, chia cho bạn một nửa, là tình bạn
Tôi cắn một miếng, phần còn lại cho bạn, là tình yêu
Tôi không cắn miếng nào, đưa hết cho bạn, là tình thân
Tôi giấu đi, nói rằng tôi cũng đói, là thực tế xã hội.

Xã hội là thế! Khi giầu có nhiều bạn bè. Khi quyền lực trong tay có hàng trăm kẻ theo hầu. Khi thất bại mới thấy xã hội thật khắc nghiệt. Bạn bè đã bỏ rơi mà xã hội lại càng muốn đạp mình xuống thật sâu trong đau khổ.

Có một linh mục kể rằng: ngài mới về một giáo xứ không được thành công. Việc ngài làm không hiệu quả bị giáo dân phản đối, bị anh em linh mục chế diễu xem thường. Dường như ngài không tìm được sự nâng đỡ, cảm thông, ủi an từ bề trên hay anh em. Một mình trong tủi hổ và cô đơn thất bại.

Đúng là trời mưa rồi, mới biết ai sẽ là người đưa dù cho bạn. Gặp chuyện rồi, mới biết ai sẽ là người đối đãi với bạn thật lòng. Có những người chỉ biết thêu hoa trên gấm, chứ không biết đưa than trong những ngày đông. Lại có những người chỉ biết thêm dầu vào lửa, chứ không biết đối đãi chân thành.

Thật hạnh phúc cho người ky-tô hữu chúng ta, vì luôn có một Đấng không bao giờ bỏ rơi ta. Ngài luôn theo sát cuộc đời ta. Ngài luôn có mặt khi ta gặp buồn sầu thất vọng. Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dường như Chúa Giê-su luôn đến bên những ai đang đau khổ buồn rầu để Ngài ủi an nâng đỡ. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một người đồng hànhvà đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17).

Tin mừng hôm nay, Ngài đến với các môn đệ như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các môn đệ gặp thất bại: “Suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” ( Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21, 6a)

Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của ta, khi ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính ta không tài nào thoát ra được.

Cuộc đời hôm nay, có lẽ có nhiều lần chúng ta cũng từng vấp té, nhưng chẳng ai cảm thông, nâng đỡ. Đôi khi còn bàn tán, xem thường, chế diễu... Mỗi lần vấp té đã đau lại càng đau hơn khi không nhận được sự cảm thông nâng đỡ từ anh em. Một mình ta quặn đau. Một mình ta phải đương đầu với khó khăn. Một mình phải gượng đứng dậy. Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán trường muốn buông xuôi mặc cho dòng đời đưa đẩy. Nhưng hãy tin tưởng vì Chúa biết mọi sự. Chúa vẫn nhìn chúng ta như Ngài đã từng trìu mến nhìn Phê-rô. Chúa đã từng hứa: “cho dù người mẹ có bỏ con, Ta vẫn không bỏ các ngươi”. Chúa vẫn ân cần vực dậy khi chúng ta vấp té trên đường.

Noi gương các tông đồ, ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).

Xin Chúa cho chúng ta luôn nhận ra Chúa luôn yêu thương để không bao giờ thất vọng về bản thân mình, nhưng luôn đứng dạy làm lại cuộc đời sau những lần vấp ngã. Xin cho chúng ta cũng biết học nơi Chúa để luôn nâng đỡ nhau, và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Amen.

-------------------------------
 

PS 3-C160: Chúa Giêsu cầm lấy bánh trao cho các ông


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Phêrô nói: “Tôi đi đánh cá đây”.
 

Gậm nhấm mãi nỗi buồn chối Thầy, dù Thầy không một lời trách cứ, Phêrô tìm một công việc gì PS 3-C160


Gậm nhấm mãi nỗi buồn chối Thầy, dù Thầy không một lời trách cứ, Phêrô tìm một công việc gì làm để đừng nhớ đến nỗi buồn ray rứt đó.

Các anh em khác cùng đi. Nhưng cả đêm không bắt được gì. Một đêm mệt nhọc, lạnh giá mà không kết quả.

Hừng sáng, các ông bơi vào bờ, nhưng trên bờ có ai đó lên tiếng hỏi: “Này các chú có gì không?” Họ trả lời là không. Người ấy bảo: “Hãy thả lưới bên phải thuyền mới có cá”.

Họ làm theo và kết quả vượt mức tưởng tượng của họ là những tay đánh cá lâu năm nơi biển hồ này.

Người bảo họ bủa lưới là ai? Một người chài lưới có kinh nghiệm đã chỉ cho họ luồn cá đang di chuyển? Không chính là Thầy mà họ chưa nhận ra.

Sau khi sống lại, mặc dù Ngài vẫn giữ thân xác của Ngài, nhưng nó đã được biến đổi, vì thế mà Ngài có thể cho họ nhận ra hay không. Các môn đệ thành Emmaus, đi với Ngài suốt một ngày đàng vẫn không thể nhận ra Ngài.

Nơi đây cũng thế, họ không nhận ra Ngài. Có lẽ vì ở xa. Nhưng có một người đã nhận ra, đó là người môn đệ Thầy thương mến: “Chúa đó!” Ông đã nhận ra Thầy bằng con tim.

Khi người ta yêu nhau, quả tim thành một thứ “rađa” rất nhạy bén. Chỉ cần một ánh mắt, một hiện diện. Gioan, trước hết, đã nhận ra Thầy. Có lẽ ông còn nhớ, ngày nào đó, sau một đêm nhọc mệt không kết quả, Thầy đã bảo ra khơi thả lưới và cá đã đổ đầy hai chiếc thuyền. Hôm nay cũng thế, Thầy bảo thả lưới, sau một đêm vất vả vô ích. Cá đầy lưới mà lưới không rách: “Không có Thầy, chúng con không làm được việc gì”.

Muốn bắt được cá, muốn được kết quả, phải theo lệnh Thầy, phải có Thầy. Chúng ta có thể thành công trên phương diện nào đó. Chúng ta có thể tổ chức những buổi lễ hoành tráng, rực rỡ hoa đèn, nhưng ai đo được kết quả? Nhiều khi chỉ tốn kém, cực nhọc mà “không bắt được con cá nào”, lại làm tủi nhục cho những người nghèo, cơm không đủ no. Họ không cần hoa đèn rực rỡ, cũng không cần nhạc trỗi ầm vang. Họ cần được yêu thương, được ân cần nâng đỡ. Tôi có nghe những người đứng nhìn cảnh rực rỡ của một lễ Giáng Sinh: “Dọn lễ này chắc cũng 300 triệu. Phải chi…” Họ không nói thêm, nhưng sự im lặng mang nhiều ý nghĩa… Chúng ta có nhiều luận điệu biện minh cho sự sang trọng xa xỉ của chúng ta: cho sáng danh Chúa – cho Chúa bao nhiêu cũng không đủ - người nghèo có phần của người nghèo…

“Nghe lời Thầy con thả lưới…” Phải có Thầy, nếu không chúng ta chỉ uổng công múa may quay cuồng mà không có ích gì, chỉ phí thời gian và phô trương thôi.

Có Chúa, lưới sẽ đầy cá. Thầy là thế đó! Là sự sung mãn tràn trề, tuyệt diệu. Đám cưới ở Cana, nhà tiệc bỗng đầy rượu hảo hạng. Năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn năm ngàn người no nê, còn dư mười hai thúng. Đó là dấu hiệu khiến Gioan nhận ra Thầy.

Chúng ta có nhạy bén nhận ra Chúa trong cuộc đời chúng ta không? Trong những biến cố xảy ra, trong những người anh em chúng ta không? “Chúa đó!” Chúa đang đợi chúng ta sau những ngày sống cơ cực không kết quả.

“Chúa đó!” khi người hàng xóm đang nhờ chúng ta một tay.
“Chúa đó!” khi tai nạn bất ngờ ập đến trên gia đình chúng ta.

Chúa trong từng giây phút.
Chúa trên mọi nẻo đường.
Hãy mau mắn như Phêrô đón Chúa.

Phêrô, khi nghe biết là Thầy, nhanh tay khoác áo vào và nhảy ngay xuống biển để đến gặp Thầy. Phêrô bao giờ cũng mau mắn, bộc trực, cũng thành thật nhưng mau thay đổi. Nhưng Thầy vẫn tin vào con người thành thật đó.

Các môn đệ khác kéo lưới vào bờ và kiểm tra kết quả: 153 con cá lớn. Con số này đã làm hao nhiều giấy bút. Chúng ta chỉ hiểu theo thánh Hiêrônimô: con số 153 tượng trưng cho mọi dân tộc trên thế giới, báo trước sứ mệnh của các Tông đồ là phải chinh phục các linh hồn. Mẻ cá lạ lùng này cũng giống như mẻ cá ngày nào khi Chúa gọi các ông làm “kẻ lưới người ta”, cũng trên bờ hồ này. Đây phải chăng là hình bóng của sứ mệnh Ngài trao cho các Tông đồ: “Hãy đi rao giảng khắp muôn dân…”

Ngài không còn hiện diện cụ thể trong trần gian nữa, các Tông đồ sẽ tiếp nối sứ mệnh của Thầy.

Đây là những giây phút quí báu cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Ngài làm một việc “lạ” hơn thường. Ngài nhóm lửa, nướng cá và bánh mì cho các ông. “Hãy lại đây ăn”.

Sau một đêm đánh cá vừa đói, vừa lạnh. Đám than hồng sưởi ấm và thức ăn đã sẵn. Khi đói lạnh mà có một đám than hồng sưởi ấm và bánh cá nướng thì còn gì ngon bằng! Và do ai? Thầy! Thầy thật ân cần! thật đáng yêu! Thầy như một người mẹ hiền hiểu những nhu cầu của con. “Hãy lại đây ăn”. Lời mời gọi thân tình, ngọt ngào thế nào đâu ấy!

Bữa ăn quanh ngọn lửa này trên bãi biển, ấm cúng, thân thương. Phải chăng đây là hình bóng của bữa tiệc Thánh Thể, của cộng đoàn dân Chúa, được mời gọi đến chia nhau bữa ăn đầy yêu thương do chính Chúa dọn sẵn? “Này là Mình Thầy… Chúng con hãy cầm lấy mà ăn”.

Không ai dám hỏi vì ai cũng biết là Thầy. Nhưng hành động, thái độ và tiếng nói của Thầy làm cho lòng các ông ấm lại. Lúc này chỉ cần im lặng để cho con tim nhìn thấy và cảm nhận.

Ăn xong, quanh ngọn lửa tàn, Chúa Giêsu nhìn Phêrô cũng như đã nhìn Tôma. Chúa hỏi: “Simon Phêrô, con ông Gioan, con có thương Thầy hơn nhưng người này không?” (khi gọi tên và nói cả tên cha, theo tục lệ Do Thái là đặc biệt chú ý đến người đó).

“Thương thầy hơn”, Chúa Giêsu chú ý đến từng tiếng. Chúa muốn Phêrô chứng tỏ tình yêu của mình trước mặt anh em, và Phêrô khiêm tốn trả lời: “Thầy biết, con yêu mến Thầy”.

Câu hỏi được lặp lại ba lần và lần thứ ba, hình như Phêrô hiểu và tỏ ra buồn. Ông nhớ lại ba lần chối Thầy. Hôm nào ông đã cương quyết liều mạng cho Thầy, hôm nay, ông nhìn nhận sự mong manh của mình. Yếu đuối, nhưng tình yêu nguyên vẹn và chắc không tự tin mà khiêm tốn: “Thầy biết mà, con yêu mến Thầy”.

Mỗi lần nói yêu mến Thầy, Thầy trao cho một sứ mệnh, cũng lặp lại ba lần: “Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”, đàn chiên mà Thầy đã cứu vớt bằng chính cái chết đau thương, bằng dòng máu tinh tuyền của Thầy. Đàn chiên này quí giá hơn mọi sự trần gian, Thầy trao trong tay con. Hãy chăn dắt với tất cả tình yêu. Thầy tin cậy vào con”.

Phêrô đã nhận sứ mệnh đặc biệt đó và đã theo Thầy đến cùng.

Hôm nay, Thầy cũng hỏi mọi người chúng ta: “Con có yêu mến Thầy không?”

Chúng ta dám trả lời như Phêrô không? Nói yêu thì rất dễ, nhưng trung thành với tình yêu không dễ chút nào. Biết bao nhiêu gia đình sụp đổ chỉ vì họ không có can đảm yêu thương thực sự. Nhiều người chỉ mơ mộng thôi vì tình yêu đưa đến cái chết: “Chết cho người mình yêu”. Chúa Giêsu đã yêu đến tận cùng. Chúng ta chết không phải vì roi đòn, vì thập giá, nhưng chết vì phục vụ, hi sinh để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu.

“Con có yêu mến Thầy không?” Câu hỏi này là một ám ảnh êm đềm cho những ai yêu mến Chúa.

Câu nói cuối cùng Ngài nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”, cũng là câu nói cuối cùng Ngài nói với mỗi tâm hồn thiện chí. Câu nói mang một âm vang nhẹ nhàng yêu thương, là một mời gọi kết nối cuộc đời chúng ta với Ngài… Bất tận!

--------------------------------
 

PS 3-C161: Anh em hãy đến mà ăn


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
 

Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu quan tâm và săn sóc các tông đồ. “Này anh em, không có PS 3-C161


Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu quan tâm và săn sóc các tông đồ. “Này anh em, không có gì ăn ư?… Thả lưới xuống bên hữu thuyền thì sẽ bắt được cá”. “Khi lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt lên trên, và có cả bánh nữa. Đức Yêsu bảo các ông: đem ít cá mới bắt được tới đây… Anh em đến mà ăn” (Ga.21, 5-6. 9-10. 12). Qua cách đối xử của Đức Yêsu, các môn đệ nhận ra Ngài. Phải chăng đây là cách đối xử bình thường của Đức Yêsu đối với các môn đệ? Ngài luôn quan tâm để ý và săn sóc các ông, không chỉ về nhu cầu tinh thần nhưng cả nhu cầu vật chất nữa.

Các tông đồ làm chứng cho Đức Yêsu trước mặt mọi người, kể cả trước mặt những người có quyền hành: “Đức Yêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa cha ông chúng ta đã làm cho Ngài trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội” (Cv.5, 30-31). Đức Yêsu mà các tông đồ rao giảng, những người thời đó ai cũng biết, đặc biệt là các thượng tế ký lục và biệt phái, là người có tương quan rất đặc biệt đối với các tông đồ. Các tông đồ đã sống với Ngài trước khi Ngài bị bắt và bị giết; hôm nay Đức Yêsu Phục Sinh săn sóc đặc biệt các tông đồ. Dù có bị ngăn cản cấm không được rao giảng nhân danh Đức Yêsu nữa, nhưng các tông đồ không thể vâng lời những người có quyền hành được. Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người. Các tông đồ vẫn tiếp tục rao giảng Đức Yêsu bị bắt, bị giết nhưng nay Ngài vẫn sống.

Đức Yêsu, được hiểu là, “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh.5, 12). Cái nhìn về Đức Yêsu đã biến đổi. Ngài không chỉ đơn thuần là người, mà là Con Chiên, Đấng gánh tội trần gian, Đấng xứng đáng lãnh nhận mọi vinh quang. Đức Yêsu mà các tông đồ rao giảng, là dụng cụ Thiên Chúa dùng để cứu độ con người, để con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người, để con người có thể tin tưởng phó thác tất cả đời họ cho Thiên Chúa hầu được bình an hạnh phúc.

Các tông đồ nhận ra sứ mạng của các ngài: rao giảng Đức Yêsu Phục Sinh. Làm chứng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi Đức Yêsu. Ngài đã rong ruổi rao giảng, đã chết, và nay đang sống. Ngài là công trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người. Tin Đức Yêsu đã phục sinh là khởi đầu để nhận ra chân tướng của Ngài. Ngài là một tiên tri, là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Những người tốt lành, các thiên thần, các vị thiên sai đều được gọi là con Thiên Chúa; nhưng Đức Yêsu là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, Ngài là Con Thiên Chúa. Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa (Ga.10, 30), là Lời nhập thể (Ga.1, 14). Đức Yêsu là Con Chiên, xứng đáng mọi lời ca tụng.

Con Chiên này, theo cái nhìn của sách Khải Huyền, được đặt ngang hàng với Thiên Chúa, được nhận những danh dự dành cho Thiên Chúa: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời” (Kh.5, 13). Đức Yêsu, Con Chiên đã bị giết nhưng vẫn đang sống, được chúc tụng cùng với Thiên Chúa. Đức Yêsu Phục Sinh, ngang hàng với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể.

Đức Yêsu là Con Người, Con Chiên, Con Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa. Những từ ngữ này dùng để diễn tả chân tướng của Đức Yêsu. Lúc đó người ta chưa dùng từ ngữ Ba Ngôi để chỉ Ba Ngôi Thiên Chúa, và chưa có từ Ngôi Hai nhập thể để chỉ Đức Yêsu. Từ ngữ Ba Ngôi chỉ xuất hiện sau này, để diễn tả thực tại Thiên Chúa vượt quá trí hiểu của con người. Đức Yêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa, giúp con người nhận ra Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị, là Đấng yêu thương con người vô cùng.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Đức Yêsu rất gần gũi con người. Bạn nghĩ sao về khẳng định này? Bạn có thể chứng minh điều này được không?
2. Đức Yêsu Phục Sinh đang ở đâu? Bạn có thể gặp gỡ và nói chuyện với Ngài được không? Xin chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Đức Yêsu Phục Sinh, nếu có.

------------------------------
 

PS 3-C162: Chú giải của Noel Quesson


Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh”.
 

Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là PS 3-C162


Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là những siêu nhân. Họ lại hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ động khởi xướng. Đó là một biểu tượng đầy ý nghĩa.

Mọi người ra đi, lên thuyền nhưng đêm đó họ không bắt được gì cả.

Đánh cá vào ban đêm là một cách thông dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử. Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh mù tối.. trong đêm khuya... họ đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được con cá nào. Chúng ta cũng thường gặp như thế trước những lo lắng về gia đình, nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm tối đời tôi là gì?

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức Giêsu.

Bảy người đang sống trên "biển nổi sóng", giữa cảnh mù tối. Đối với người Xê-mít, biển là nơi các thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày mới lên... nét tương phản cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến bờ khác? Người vừa mới trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên kia, đang chờ đợi ta ở đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.

Hôm nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng ta như thế.

Đức Giêsu nói với các ông: “Này các chú, không ăn gì ư?". Các ông trả lời: "Thưa không". Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.

Đức Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng khổ cực của họ. Người chủ động giúp đỡ họ... ngay lúc họ đang bối rối lo lắng. Còn tôi, tôi có thể nghe thấy gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng đến từ "bờ" bên kia?

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó". Vừa nghe nói “Chúa đó” ông Simon - Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.

Phêrô nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã. Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung động. Nhưng, cũng như trong cảnh đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là người phát hiện ra trước Phêrô. Ông sống "yêu thương", nên ông đoán định theo trực giác. Nhận biết một người, chính là một công việc của tình yêu.

Do đó, đức tin luôn liên hệ với tình yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình ra với những kẻ thù nghịch, những đối phương. Người không có ý định khuất phục họ. Người không thích bá chủ, chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa với tình yêu, Người sẽ tỏ hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và chân thành. Bạn hãy kiếm tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.

Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Đây là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký xác thực của một nhân chứng.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.

Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "

Đây cũng là một chi tiết nữa, rất khác thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính. Đức Giêsu đã chuẩn bị một "bữa 'ăn" cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ đợi, do nỗ lực sửa soạn của họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời cứ việc tham dự, bằng cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được, theo lệnh truyền của Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.

Ta biết tầm quan trọng của "bữa ăn” trong những lần hiện ra sau biến cố Phục sinh: vào chiều tối Thứ Năm Thánh Đức Giêsu cũng đã "phục vụ” các bạn hữu của Ngài như thế. Ngày nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia bánh luôn là một dấu chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức Giêsu đang ở trên một bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống mới trong một mối hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.

Ông Simon - Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.

Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.

Sau trực giác yêu thương của Gioan, con người chiêm niệm… bây giờ đến thái độ dấn thân của Phêrô, con người hoạt động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo hội, được coi như "tấm lưới" không bị rách. Cũng như trong đoạn văn diễn tả "chiếc áo của Đức Giêsu không bị xé rách" (Ga 19,24). Ở đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và chia rẽ.

Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: "ông là ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.

Nhận xét đơn sơ trên đây giúp ta bước sâu vào "mầu nhiệm". Cuộc Phục sinh đã khiến Đức Giêsu, người bạn thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu Nadarét sống trong một trạng thái hoàn toàn khác... Rõ ràng đúng là Người, nhưng đồng thời không phải như người hôm qua. Người đã trở nên "O kiirios, Đức Chúa!”. Và trong trường hợp này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng!

Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.

Đây là bữa ăn thực sự... đồng thời, cũng là bữa ăn mầu nhiệm.
Chúng ta hãy nhớ lại diễn tả dài của Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng theo thánh Gioan, sau khi Chúa dùng "năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá nhỏ", từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra nhiều…

Vâng, hiện nay Đức Giêsu đang ở "trên bến bờ khác", trên một vùng đất khác, để trao ban cho ta "lương thực từ trời " Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Ga 6,33). "Tôi là Bánh hằng sống... Thịt Tôi thật là của ăn... Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời….” (Ga 6,51-55-58).

Chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào thời gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng trên đây, các Kitô hữu thường dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức Giêsu. Thực vậy, từ "con cá" (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu các từ định nghĩa Đức Giêsu:

Lèsous Kristos Théou Unios Sôter
Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?". Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Trong cuộc đối thoại trên bãi biển, đã ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó trở thành người mục tử. Người thông truyền cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội. Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là chính Đức Giêsu. "Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên" (Ga 10,11). Giờ đây Đức Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện "bằng xương, bằng thịt" nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp tục sứ vụ của Người trên thế giới và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là chiên của Đức Giêsu: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".

Lần thứ hai... rồi lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”.

Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?". Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy".

Bị hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ yêu cầu ông ba "lần biểu lộ tình yêu! "Anh có mến Thầy không?": Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt ra cho chính tôi. Trong thinh lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: "'Này anh X... anh có yêu Thầy không?". Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.

Tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi đang được để ý và hỏi han….

Như thế, người đã phạm tội nặng nhất, kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án và chịu khổ hình (thật là một tội khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong tương quan thân mật và yêu thương. Và Đức Giêsu lại uỷ thác cho con người tội lỗi đó, trách nhiệm trọng đại nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oi, tình yêu thật là quan trọng! Tình yêu phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính trong Giáo hội, tác vụ trong Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải phục vụ yêu thương anh em mình (Mc 9,35; Ga 13,4-16)... nhưng trong chính tác động đó, cũng là phục vụ yêu thương Đức Giêsu... Đó là một trong những nguồn gốc mầu nhiệm của đời độc thân tận hiến.

Thật Thầy bảo thật cho anh biết: "Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn". Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy".

Anh chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi trẻ như biểu tượng của tự do và hoạt động ("Anh đi đâu tuỳ ý")... và tuổi già như biểu tượng của sự gò bó và thụ động ("một người khác sẽ thắt lưng cho anh"), nghĩa là sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến ta không thể tự mình ăn mặc được nữa)... Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận này, cũng là cách thế thuận theo của Đức Giêsu trên thập giá. " Đó là hoạt động cuối cùng của con người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng khác: đó chính là tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm mất thể diện Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Người. Đối với Đức Giêsu, cái chết là hoạt động cuối cùng.

----------------------------
 

PS 3-C163: CHỨNG NHÂN PHỤC SINH


Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
 

Sách Tông đồ Công vụ thường được gọi là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần. Nội dung sách này PS 3-C163


Sách Tông đồ Công vụ thường được gọi là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần. Nội dung sách này kể lại đời sống Đức tin của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, nhất là chứng từ của các tông đồ và nỗ lực truyền giáo của các ngài. Vào thời sơ khai ấy, nội dung lời giảng dạy của các tông đồ rất đơn giản, chỉ là sự quả quyết Đức Giêsu đã chết nhưng đã sống lại theo như lời Thánh Kinh và Người đang hiện diện giữa các tín hữu. Bài đọc I cho thấy, vị Thượng tế và các thành viên Thượng Hội đồng rất đỗi ngạc nhiên, vì thấy Phêrô và các tông đồ là những người dân chài ít học quê mùa, nhưng lời chứng của các ông rất rõ ràng, xác quyết. Các ông còn sẵn sàng chấp nhận đau khổ để chứng minh sự sống lại của Đức Giêsu. Hơn nữa, Phêrô còn tỏ ra rất uyên bác và khôn ngoan, khi tuyên bố trước các thành viên của Thượng Hội đồng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Ông còn diễn giải sự phục sinh của Đức Giêsu là do quyền năng của Thiên Chúa. Ông sẵn sàng làm chứng, cùng với Thánh Thần “Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người”. Lời chứng của các ông mạnh mẽ đến nỗi, những thành viên Thượng Hội đồng là những người học thức, phải im lặng. Họ không làm gì được các ông, và chỉ còn gỡ thể diện bằng cách cho đánh đòn rồi thả các ông ra.

Không chỉ Phêrô và các tông đồ, cộng đoàn tín hữu tiên khởi cũng xác tín vào sự hiện diện của Đấng Phục sinh. Chính Đấng Phục sinh đã làm cho lời giảng của các tông đồ mang tính thuyết phục. Chính Đấng Phục sinh đã quy tụ các tín hữu, để làm nên một thân thể và một tâm hồn, liên kết với nhau trong tình hiệp thông. Vì thế mà số người tin theo Chúa Giêsu qua lời giảng của các tông đồ tăng lên nhanh chóng.

Thực ra, ban đầu các môn đệ cũng rất hoang mang trước cái chết của Chúa. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus là một ví dụ. Dường như các ông chưa hiểu được sứ mạng của mình sau sự kiện Phục sinh. Việc ông Phêrô đi đánh cá, và các môn đệ cùng đi với ông trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy các ông đã muốn trở lại với nghề nghiệp cũ, tức là nghề đánh cá, là công việc các ông vẫn làm trước khi theo Chúa Giêsu. Bởi lẽ khi nghe Chúa gọi, các ông đã bỏ thuyền, bỏ chài lưới và bỏ gia đình, cha mẹ mà đi theo Người. Qua việc các ông đi đánh cá, dường như việc theo Chúa đã kết thúc. Hơn ai hết, các ông hiểu thời điểm và vị trí nào thuận tiện để mẻ lưới có kết quả. Tuy vậy, các ông vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Chỉ đến lúc Đức Giêsu hiện ra và bảo các ông thả lưới bên phải mạn thuyền, lúc bấy giờ, các ông mới thu hoạch được mẻ lưới kỳ diệu.

Khi từ cõi chết sống lại, Đức Giêsu hiện diện giữa các môn đệ với một phong thái khác. Chính các ông cũng không nhận ra Người, mặc dù trước đó các ông ở với Người, cùng ăn uống với Người. Chỉ khi trực tiếp chứng kiến mẻ cá lạ, mắt các ông mới mở ra và nhận ra Thày mình. Sự hiện diện của Đấng Phục sinh mang tính huyền nhiệm linh thiêng, không còn như trước, bởi Người đã từ cõi chết sống lại. Nếu Chúa hiện diện vô hình và huyền nhiệm, thì hiệu năng của sự hiện diện ấy lại vô cùng mãnh liệt. Thánh sử Gioan ghi rõ số cá thu được từ mẻ lưới lạ là 153 con. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, con số 153 là số loài cá dưới đại dương mà những nhà nghiên cứu chuyên môn thời bấy giờ thống kê được. Như thế, 153 con cá có nghĩa là tất cả các loài cá dưới đại dương. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện qua Đức Giêsu Kitô mang tính hoàn vũ. Tất cả mọi người dưới gầm trời này, nếu đến với Đức Giêsu và đón nhận giáo huấn của Người, thì đều được cứu rỗi. Đó cũng là điều tác giả sách Khải Huyền đã thấy trong thị kiến, ở Bài đọc II của Chúa nhật này. Tác giả viết: “Tôi nghe thấy mọi loài thụ tạo trên trời dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả cùng tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời”. Con Chiên chính là hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng đã chịu sát tế làm của lễ dâng lên Chúa Cha, giống như con chiên mà người Do Thái giết trong dịp lễ Vượt qua để tưởng niệm việc Chúa cứu Dân Ngài ra khỏi Ai Cập. Như máu chiên bôi trên khung cửa nhà người Do Thái để tránh cho các con đầu lòng bị tàn sát, máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá tẩy rửa tội lỗi, giải phóng và ban ơn cứu độ cho loài người.

Cuộc gặp gỡ giữa các môn đệ với Đức Kitô Phục sinh, vừa củng cố Đức tin của các ông, đồng thời cũng là dịp Chúa trao trách nhiệm trông coi đàn chiên, mà người đứng đầu là Phêrô. Trách nhiệm này chỉ được trao phó khi Phêrô thành tín tuyên xưng tình yêu mến và lòng trung thành. Lời tuyên xưng ấy, Phêrô đã giữ suốt đời, cho đến lúc chết để làm chứng cho Thày mình. Tác giả cuốn tiểu thuyết nối tiếng “Quo Vadis” của nhà văn người Ba Lan, Henryk Sienkievich, đã diễn tả Phêrô như một ông cụ già nua, khả kính, luôn hiện diện giữa cộng đoàn tín hữu trong lúc cuộc bách hại của hoàng đế Nêrô ở thời điểm khốc liệt nhất. Trong cuộc hành hình các tín hữu ở Hý trường Rôma, Phêrô vẫn hiện diện giữa đám khán giả, để chúc lành cho các tín hữu đang bị làm mồi cho sư tử. Sự hiện diện của vị Tông đồ trưởng đã tiếp thêm sức mạnh để các tín hữu can đảm và trung thành tuyên xưng Đức tin cho đến hơi thở cuối cùng. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Phêrô cảm thấy buồn, vì Thày hỏi đến ba lần về lòng yêu mến. Thực ra, những cử chỉ và lời nói yêu thương cần phải được lặp đi lặp suốt cả cuộc đời, như đôi lứa đang yêu tâm sự cùng nhau, như mẹ cha nói với con cái và như con cái tỏ bày với cha mẹ. Phêrô đã trung thành với lời hứa ấy. Chúa đã quên quá khứ của ông. Người không còn nhớ đến lỗi lầm của Phêrô cũng không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng ta.

Cũng như Chúa đã trao cho Phêrô nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên, Người cũng đang mời gọi chúng ta làm chứng cho Người giữa thế gian. Làm chứng cho Chúa Phục sinh là sứ mạng nhiều khó khăn gian khổ. Chúa đã nói với tông đồ Phêrô về một tương lai sắp tới: “Anh sẽ phải giang tay cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Thánh sử Gioan đã nhận thấy đây là một lời tiên tri, ám chỉ Phêrô sẽ phải trải qua đau khổ và phải chết. Những chứng nhân của Chúa, thời nào cũng trải qua thập giá. Bởi lẽ, chúng ta rao giảng một Đức Giêsu chịu khổ hình và chịu đóng đinh. Muốn là người môn đệ đích thực, Kitô hữu phải đi trên con đường Thày mình đã đi. Đó là con đường thập giá. Nhưng thập giá không phải là đích điểm của hành trình Kitô hữu. Đó chỉ là một chặng đường tiến tới Phục sinh. Chúng ta đang đi trên con đường ấy, với lòng kiên nhẫn và trung thành, có Đấng Phục sinh luôn hiện diện và đỡ nâng chúng ta. Tác giả sách Tông đồ Công vụ đã ghi lại một điều bất ngờ: khi Thượng tế và các thành viên Thượng Hội đồng ra lệnh đánh đòn ông Phêrô và các tông đồ, có ý đe doạ và làm các ông xấu hổ, các ông lại vui mừng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu. Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu không phải là một điều xấu hổ hay thẹn thùng, nhưng một vinh dự mang lại niềm vui. Tuy vậy, để có thể tuyên xưng Đức Giêsu Phục sinh, chúng ta phải kết nối với Người, tức là gặp gỡ Chúa, qua lời cầu nguyện và niềm tín thác cậy trông.

Người tín hữu mừng lễ Phục sinh không giống như một lễ hội thế tục. Các nghi lễ Phụng vụ giúp cho chúng ta gặp gỡ Đấng Phục sinh, để xác tín vào sự hiện diện của Người, đồng thời có khả năng giới thiệu Chúa cho những người xung quanh mình.

Xin cho mỗi Kitô hữu chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa giữa đời, để rồi nếu người thời nay không nhìn thấy Đấng Phục sinh, thì họ nhận ra Người đang sống và đang hiện diện qua những môn đệ của Người là chính chúng ta. Amen.

---------------------------------
 

PS 3-C164: MƠ ƯỚC ĐẸP


Lm. Jos DĐH.
 

Lên đường, khởi hành, ra khơi, chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta nghiêm túc với điểm đến ở PS 3-C164


Lên đường, khởi hành, ra khơi, chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta nghiêm túc với điểm đến ở phía trước. Cuộc đời chúng ta luôn có gian truân vất vả, đồng thời cũng sẽ thu được kết quả nhiều hoặc ít. Dù muốn hay không, đều phải tuân quy luật: cuộc hành trình ngàn dặm, cũng bắt đầu từ bước chân. Nhân vô thập toàn, nhưng ai cũng có thời gian, có cơ hội để tập luyện, hoàn thiện mình, hầu đạt tới mức độ trưởng thành thật sự. Cha ông chúng ta cho rằng: cần phải có cái đầu tỉnh táo, người ta mới biết sử dụng thời giờ cách hợp lý, hợp tình. Mơ ước nhiều tiền lắm của, khao khát được dồi dào sức khoẻ, được phong phú về kiến thức, đúng là đẹp và chuẩn hết ý. Bằng những cảm nghiệm riêng tư, một số lại cho rằng, đời còn gì vui hơn trong phút giây được yêu, dù mai này tình phụ hay phụ tình, đều là khổ là đau.

Được ra khơi là niềm vui của các ngư phủ, tuy là dân chuyên, thế mà suốt cả đêm các ông không bắt được con cá nào, thất bại là mẹ thành công, thiết tưởng các ông chỉ mơ ước nhỏ bé thế thôi ! Tiếp đến là tình yêu thương, đã cho thấy hành trình của các ông khởi sắc ngay khi Vị khách lạ xuất hiện, việc ra khơi thả lưới là điều khó chấp nhận, nếu các ông không được thôi thúc từ bên trong. Rõ ràng các ngư phủ không muốn thất bại, các ông phải vượt lên chính mình, phải vượt qua tự ái để nghe theo Vị khách lạ: “các bạn có gì ăn không ? Hãy thả lưới bên phải thuyền thì sẽ được”. Sự khôn ngoan ở đời: gió chiều nào theo chiều ấy, hoặc có bệnh vái tứ phương. Sự khôn ngoan của người môn đệ theo Chúa là: “ai không chống đối ta là ủng hộ ta”. (Mc 9, 40). “Bất cứ ai sống mà tin vào Thầy sẽ không phải thất vọng bao giờ”. (Ga 11, 26)

Tât cả mọi người đều có quyền mơ ước, dù lên đường đi du học, khăn gói đi làm kinh tế ở nơi xa, ai chẳng muốn thành công, được kết quả tốt đẹp. Có Đấng phục sinh, có niềm tin và vâng nghe Đấng là Thầy là Chúa, các môn đệ đã thấy mẻ cá lạ cùng. Trước mẻ cả đặc biệt, hẳn Vị khách lạ muốn nói về tình yêu và quyền năng của Đấng phục sinh, giống các ngư phủ hôm xưa, ai cũng có quyền mơ ước thành công. Bài học các môn đệ thể hiện, không phải là bề dày kiến thức hay kinh nghiệm đánh bắt cá, mà ở đâu có tình yêu, có niềm tin, có sự hiện diện của Đấng phục sinh, ở đó có phép lạ, có hạnh phúc. Sứ điệp mà Đấng phục sinh tác động nơi tâm hồn các học trò hết sức chân tình: cố gắng quên người mình yêu, cũng giống như cố gắng nhớ người mình yêu chưa bao giờ gặp.

Mơ ước đẹp đối với các môn đệ, chắc chắn không phải là “công lý báo thù”, không phải là ra khơi bắt cá, mơ ước đẹp cũng không phải là lẩn tránh Đấng đã chết vì yêu, Đấng đã sống lại vì yêu. Mơ ước đẹp đối với chúng ta hôm nay, chắc không phải là ngồi đó chờ phép lạ, điều đẹp ý Chúa thật đơn giản, là hãy tin Chúa luôn đồng hành với tất cả những ai thuộc về Đấng phục sinh. Mơ ước đẹp sẽ còn thôi thúc chúng ta đừng nghĩ rằng: tài giỏi là thông minh, giầu sang là do chăm chỉ, do chí thú làm ăn. Không phải cầu được ước thấy là do đạo đức hơn người, hãy tin, có Chúa trong cuộc sống là có tất cả. Đấng phục sinh sẽ còn ra khơi với các học trò, hiện diện, chúc lành, nhưng không phải là “lưới cá” mà là “lưới người”, đem các linh hồn trở về với Thiên Chúa cứu độ. Đừng xem thường lời động viên khích lệ của đấng bậc sinh thành, hãy khiêm tốn để thấy Chúa yêu ta, để hiểu và sống nén bạc Chúa trao.

Đấng phục sinh chính là mơ ước đẹp của từng người trong chúng ta, Ngài theo và ở cùng các môn đệ, Ngài cũng sẽ ở cùng mỗi chúng ta, dù ý thức của chúng ta còn non kém, giới hạn. Đấng phục sinh sẽ không hiện diện cách hữu hình, nhưng tình yêu và mơ ước đẹp của Ngài vẫn ở trong những ai tin Đức Kitô là Vị lãnh đạo tối cao. Đấng phục sinh mở ra cho các học trò: sứ mạng theo Thầy là qua đau khổ thập giá đến vinh quang, là cầu nguyện và hoạt động, là được yêu thương vì biết yêu. Sống ở đời, người ta vẫn cư xử với nhau rất sòng phẳng: có tiền bạn tựa như quan lớn, không tiền bạn chỉ là thứ dân. Đấng phục sinh đã đồng hành với các môn đệ, Ngài cho thấy hành trình cuộc đời, tin theo Chúa là một chuỗi ngày những hồng ân với mơ ước đẹp, có sức mạnh và phép lạ tình yêu thương hiện diện.

Con đường đưa đến sự khốn cùng, bao giờ cũng bằng phẳng. (Hésiode). Con đường đi đến hạnh phúc thật, không thể thiếu vắng khổ đau thập giá. Mơ ước đẹp mãi mãi là mơ ước được mở ngỏ, được chúc phúc, khi mỗi người biết chọn lựa và sống niềm tin có Chúa nơi các tương quan. Nếu ở đời quan niệm: vẻ đẹp bên ngoài, bắt nguồn từ sức khoẻ bên trong, thành công, tài giỏi thông minh, hoặc có danh có phận, nhưng thiếu bình an, thì cũng chỉ là hạnh phúc giả tạo, có khác gì người giầu thiếu sự khôn ngoan, nên bị xem như bù nhìn mặc áo gấm. Tất cả đều đáng thương, dù trẻ hay già cũng cần được quan tâm, Chúa phục sinh không đòi hỏi thành quả nơi chúng ta, nhưng Ngài rất cần mỗi người hãy bày tỏ niềm tin bằng ước mơ đẹp có Chúa. Amen.

----------------------------------
 

PS 3-C165: SỨC MẠNH VÀ NIỀM VUI PHỤC SINH


Jorathe Nắng Tím
 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đi vào bầu khí hân hoan của những người tin vào PS 3-C165


Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đi vào bầu khí hân hoan của những người tin vào Đức Giêsu sống lại. Họ là những môn đệ đã đi theo Đức Giêsu, được ở với Ngài, chia sẻ  gian truân, đau khổ với Ngài và được thấy Ngài trong thân xác phục sinh. Họ là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh 7,9) đang cùng “ức ức triệu triệu các thiên thần” lớn tiếng hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời chúc tụng” (Kh 5,11-12).

Bài đọc thứ nhất làm chứng sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh đã biến đổi những con người yếu đuối, nhát đảm mới hôm nào còn lấm lét sợ người Do Thái, còn kinh hãi bỏ Thầy trốn chạy để bảo toàn mạng sống, còn nao núng, chao đảo, thất vọng qua hành động thề thốt “không biết người ấy là ai” trước đầy tớ gái của thượng tế Caipha đang khi Thầy bị tra khảo (x. Mc 14,66-71), nay trở thành những chứng nhân anh dũng, mạnh mẽ trước uy lực của “thần quyền” là “Thượng Hội Đồng gồm” vị thượng tế và những người kề cận, cùng toàn thể viện bô lão Ítraen” (Cv 5,21) khi cương quyết tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29), trước lệnh “nghiêm cấm các ông không được giảng dạy” về danh Đức Giêsu, Đấng đã chịu đóng đinh, “nhưng Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy” (x.Cv 5, 28.30).

Bên cạnh sức mạnh phục sinh là niềm vui phục sinh của các môn đệ được Tin Mừng Gioan kể lại.

Trước hết, các môn đệ  hớn hở vui mừng vì bất ngờ “có người” đến chỉ cho các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” sau đêm dài thức trắng mà không bắt được con nào, và các ông đã “trúng” mẻ cá khủng, “vì lưới đầy những cá” (Ga 21,6).

Và niềm vui ấy bất chợt vút cao, khi bước lên bờ, các ông thấy “người ấy” đã chuẩn bị sẵn “than hồng với cá đặt trên, và có cả bánh nữa”, lại còn thân thiện  mời các ông: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21,12).

Điều quan trọng chúng ta cần ghi nhận  đây là cho đến lúc này không ai trong các ông đã nhận ra “người ấy” chính là Đức Giêsu, và có “nhận ra đó là Chúa”  cũng “không ai trong các môn đệ dám hỏi Ngài: “Ông là ai?” (x. Ga 21,4.12).

Sau cùng, niềm vui  đã vỡ òa  khi chính “Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (Ga 21,13), là cử chỉ Đức Giêsu đã làm trong bữa ăn cuối cùng với các ông trước khi chịu khổ nạn và tử hình đóng đinh. Cử chỉ này làm các ông nhớ lại những lời trăn trối dạt dào yêu thương của Ngài, và  hôm nay, sau khi sống lai, tình yêu ấy lại được công khai thể hiện khi Đức Giêsu  âu yếm hỏi Phêrô đến ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” và nói với ông: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21.15.16.17).

Quả thực, Đức Giêsu sống lại là sức mạnh và niềm vui của những ai tin vào Ngài và đi theo Ngài.

Họ được trở nên mạnh mẽ vì qua biến cố phục sinh, họ nhận ra Đức Giêsu chính là “vị Thủ Lãnh, Đấng Cứu Độ”, Đấng mà “Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, hầu đem cho dân Người ơn sám hối và ơn tha tội” (Cv 5,31), đồng thời là “Chúa” như thánh tông đồ dân ngoại đã quả quyết: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người… và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9.11).

Họ được hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh của Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, vì qua Thánh Giá, Ngài đã chiến thắng tội lỗi, thần chết, hỏa ngục. Bằng chứng là khi được thả ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các Tông Đồ phấn khởi, “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).

Niềm vui ấy sẽ không bao giờ vơi cạn, vì ơn phục sinh đã cho đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu nhận ra Ngài là “người cha nhân hậu, quan phòng” quan tâm đến từng đứa con, như Đức Giêsu phục sinh đã chu đáo chuẩn bị sẵn than hồng, bánh, cá trên bờ, vì biết các môn đệ của Ngài  rất đói sau đêm dài mất ngủ và vất vả chài lưới.

Niềm vui ấy ngày càng phong phú, sâu sa vì họ nhận ra Đức Giêsu chính là Mục Tử  nhân lành chăn dắt đàn chiên bằng tình yêu; chăm sóc  chiên con yếu đuối, thơ dại bằng tình mẹ bao la, ân cần, tận tụy; và chăm nom đám chiên đau bệnh, xa đàn, lạc đàn bằng tình yêu nhẫn nại chịu đựng, kiên trì đợi chờ và  bao dung, thương xót.

Tóm lại, người môn đệ trên đường làm chứng, loan báo Nước Trời luôn được sức mạnh và niềm vui của Đức Giêsu phục sinh, Đấng mà Thiên Chúa đã nâng lên làm “Chúa, Thủ Lãnh, Đấng Cứu Độ và Mục Tử nhân lành” bao phủ, gìn giữ, bảo đảm. Và chính Ngài là Đấng chúng ta tuyệt đối tin tưởng và hy vọng, vì chỉ một mình Ngài là “Đường, Sự Thật, Sự Sống” và “Sự Sống Lại” (Ga 14,6 ; 11,25).

----------------------------------
 

PS 3-C166: TÌNH YÊU MẾN


Lm. Thái Nguyên

Suy niệm
 

Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ đã hai lần gặp được Chúa bằng xương bằng thịt (x. Ga 20 PS 3-C166


Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ đã hai lần gặp được Chúa bằng xương bằng thịt (x. Ga 20. 19.26), nhưng xem ra quá ngắn ngủi. Lòng các ông cũng còn bối rối và lo sợ, nên chưa đủ mạnh để thay đổi cuộc đời mình. Thầy không còn bên cạnh như trước nữa, nên họ thấy trống vắng, buồn tẻ và cuộc sống hằng ngày dường như vô vị, không còn ý nghĩa. Trong tâm trạng đó, họ muốn trở về với đời sống của dân thuyền chài, trở về với những gì quen thuộc ngày xưa để lấp đầy khoảng trống mênh mông. Trong tâm trạng như thế, nên khi Phêrô gợi ý đi đánh cá là họ đồng thanh hưởng ứng ngay.

Các ông đã vất vả suốt đêm nhưng không bắt được con cá nào. Vào buổi bình minh của ngày mới, giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán thì Chúa Giêsu xuất hiện trên bờ hồ, nhưng họ không nhận ra. Ngài bảo cho các ông cứ thả lưới bên phải mạn thuyền. Họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra, người môn đệ thân yêu đã tinh ý nhận ra là chính Chúa Giêsu, và nói với Phêrô: “Chúa đó”. Ông liền nhảy xuống biển, bơi ngay vào bờ để gặp Chúa.

Khi đưa thuyền vào bờ, các ông thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bánh và cá nướng. Chúa Phục Sinh dọn bữa sáng cho các ông. Bầu khí thật ấm cúng và chan hòa tình nghĩa Thầy trò. Khung cảnh bữa ăn gợi lên bầu khí của thánh lễ, cũng Chính Chúa dọn bữa ăn cho chúng ta, không phải của ăn vật chất mà là chính Lời Ngài và Mình Ngài. Hội Thánh vừa lan rộng vừa tập trung nơi thánh lễ, để kín múc và trao ban ơn phúc. Ðó là nhịp thở đều đặn làm nên sức sống cho Hội Thánh.

Hội Thánh ấy giờ đây được giao cho Simon Phêrô, nhưng trước hết ông phải trải qua một cuộc sát hạch: “Này anh Simon… anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không ?”. Câu hỏi thật khác thường khi giao sứ mạng, Chúa Giêsu không đặt vấn đề khả năng lãnh đạo hay tầm nhìn sâu rộng, nhưng là tình yêu mến. Có lẽ ông rất ngượng ngùng vì mới chối Thầy ba lần, mà Ngài lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả thật khó khăn. Chắc chắn là ông yêu mến Thầy rồi, nhưng Ngài lại thích cái “hơn”.

Tình yêu là như thế, chỉ khi yêu “hơn”, người ta mới dám sống “hơn” cho người mình yêu. Nhiệm vụ càng cao thì phải yêu mến càng nhiều. Bởi ai cũng rất sợ những người làm to mà trái tim lại quá nhỏ. Ngài hỏi Phêrô đến ba lần về tình yêu mến, như muốn xóa sạch mọi ký ức của ông về việc chối Ngài ba lần, để ông đừng tự phụ dựa vào sức riêng của mình nữa, mà từ đây hãy dựa vào chính Ngài. Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng:“Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Thánh Phaolô cho thấy, không có tình yêu mến thì mọi hy sinh và công lao sẽ trở thành tro bụi (x. Cr 13,1-7). Nó khiến ta lệch lạc ngay trong cách sống hằng ngày: không có tình yêu mến thì bổn phận khiến ta dễ nóng giận; trách nhiệm đẩy ta tới chỗ bất nhã; công bằng làm cho ta đâm ra tàn nhẫn; sự thật biến ta thành kẻ ưa soi mói; khôn ngoan dẫn ta tới chỗ láu cá; sự đon đả biến ta thành kẻ giả dối; hiểu biết đẩy ta trở thành kẻ cố chấp; quyền bính khiến ta trở thành kẻ áp bức; danh thơm tiếng tốt làm ta trở thành kẻ kiêu ngạo; của cải làm ta trở nên tham lam; lòng tin biến ta thành kẻ cuồng tín.

Không có tình yêu mến, trên đời này ta không là gì cả! Nhưng với tình yêu mến, ta sẽ trở nên tất cả. Chỉ có tình yêu mới làm nên những điều nhiệm lạ chứ không phải tài năng hay tri thức. Thế giới này cũng chỉ được thu phục bởi tình yêu. Cha thánh Vianey cũng đã khẳng định: “Thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu mến!”.

Hôm nay Đức Kitô Phục Sinh cũng hỏi mỗi người chúng ta về tình yêu mến, được biểu lộ bằng việc sống hết mình cho Chúa và tha nhân. Cuộc sống này chẳng ai tin vào lời chúng ta nói, người ta chỉ tin vào việc chúng ta làm. Người ta cũng chẳng tin vào việc chúng ta đi lễ, mà chỉ tin khi cuộc đời ta biến thành của lễ, nghĩa là thấy được sự dấn thân phục vụ của chúng ta để đem lại những gì tốt đẹp cho con người và xã hội hôm nay. Thánh lễ nối dài là như thế, là Chúa tiếp tục tỏ mình và hiến mình cho nhân loại qua chính đời sống của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Cha là Thiên Chúa của Tình Yêu!
Với tình yêu thì không gì là thiếu,
tình yêu sẽ làm nên điều huyền diệu,
cho con thấy những chứng tích cao siêu.

Chính tình yêu là nguồn mạch sự sống,
khơi sáng mọi hoạt động của nhân trần.
làm nên ý nghĩa và giá trị nhân sinh,
là biểu hiện cao vời của nhân tính,
đỉnh cao nhân cách và lòng nhân đạo,
chiều sâu của tâm linh và tôn giáo.

Thành công không phải làm điều lớn lao,
mà làm sao thể hiện được tình yêu,
tội lỗi là vì đã từ chối tình yêu,
để chạy theo những dự định của mình,
và không theo chương trình của Thiên Chúa.

Khi Chúa đặt Phê-rô đứng làm đầu,
Chúa không đòi tài cao hay đức trọng,
mà chỉ cần một lòng mến thâm sâu,
còn mọi sự chính Chúa sẽ làm sau.

Cuộc đời con cũng chỉ cần như vậy,
là một trái tim yêu thật thắm nồng,
dám biểu tỏ hằng ngày trong cuộc sống
để đem đến niềm an vui hy vọng.

Xin cho con luôn yêu Chúa hết lòng,
để phục vụ với tính cách khiêm nhường,
để ứng xử với tâm hồn cao thượng,
để bức phá giới hạn của đời thường,
và tiến đến vô hạn của tình thương,
là niềm vui hạnh phúc cõi thiên đường. Amen.

------------------------------
 

PS 3-C167: XIN CHO CON NHẬN RA CHÚA


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
 

Là con người, dù mạnh mẽ đến đâu rồi cũng có lúc yếu đuối, thất vọng, muốn buông xuôi mọi PS 3-C167


Là con người, dù mạnh mẽ đến đâu rồi cũng có lúc yếu đuối, thất vọng, muốn buông xuôi mọi sự. Dù đam mê tự do đến đâu, cũng có lúc cảm thấy cô đơn, lạc lõng chơi vơi giữa dòng đời… Và sau những dọc dài cuộc sống vì miếng cơm manh áo sẽ có ngày một mình đối diện với đủ thứ khó khăn của thế giới này, ta cũng cần lắm một bờ vai rộng, một bàn tay ấm, một sự cảm thông và khích lệ để cho ta niềm tin, nghị lực vươn lên, như ai đó đã viết rằng:

“Mình chỉ cần một ai đó gọi tên giữa cuộc đời
Trong giấc mơ dù chỉ là thoáng qua cũng có hình ảnh mình trong đó
Dù biết sẽ trải qua những tháng ngày khó khăn chưa rõ
Người vẫn tin sẽ có mình ở đó
đứng đợi người.
Mình chỉ cần một ai đó lắng nghe mình kể hết những câu chuyện cười
Rồi vục đầu vào vai ngủ một giấc ngon lành đến sáng
Nghe mình lải nhải đâu đâu từ bình minh đến hoàng hôn chạng vạng
Người vẫn thấy ở bên mình là đáng
chẳng hối hận điều gì.
Mình chỉ cần một người làm cho những vết xước trong tim mình quên đi…

Đức Thánh Cha Phanxico với trái tim của người cha cũng rất muốn đến với đất nước Ucraina đang chìm trong bể khổ của chiến tranh để an ủi, chia sẻ và cầu nguyện cho họ sớm bình an. Trước đó, vào ngày 26/03/2022, Đức Hồng y Konrad Krajewski, Chánh Sở Từ thiện của Tòa Thánh đến Ucraina thay mặt Đức Thánh Cha: “Để gần những người đang đau khổ và mang lại cho họ sự gần gũi của Đức Giáo hoàng, để nói với họ rằng ngài yêu thương họ, và cầu nguyện với họ vì lời cầu nguyện cũng có thể ngăn chặn chiến tranh.”

Chúa Giê-su sau khi phục sinh dường như vẫn luôn hiện diện đồng hành thật gần gũi với các môn đệ và với những người thân quen để nâng đỡ, cảm thông và khích lệ họ sống và làm chứng cho Chúa Phục sinh. Có khi Ngài đến với họ như một người làm vườn để thăm hỏi anủi: “Này bà, sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Có khi ngài hiện diện như người đồng hành với hai môn đệ đi làng Emmau. “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy ?” (Lc 24, 17). Và rồi qua sự gàn gũi ấy, Chúa Giê-su từng bước dùng Kinh Thánh để soi dẫn cho họ hiểu về những gì đang xảy ra trong mầu nhiệm ơn cứu độ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?.

Tin mừng Chúa Nhật thứ 3 mùa phục sinh hôm nay, Chúa Giê-su đã đến bên các tông đồ như một người đồng nghiệp, sẵn sàng lắng nghe, chia sẻ và cảm thông. Khi nhận ra bạn hữu mình: “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” (Ga 21, 3b), thì Ngài đưa ra kế sách cho họ: “Anhem hãy thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”( Ga 21, 6a)

Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của ta, khi ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính ta không tài nào thoát ra được.

Xin Chúa cho chúng ta luôn nhận ra Chúa luôn yêu thương để không bao giờ thất vọng về bản thân mình, nhưng luôn đứng dạy làm lại cuộc đời sau những lần vấp ngã. Xin cho chúng ta cũng biết học nơi Chúa để luôn nâng đỡ nhau, và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Amen

----------------------------------
 

PS 3-C168: BIỂN HỒ TIBÊRIA VÀ BA CUỘC GẶP GỠ


Gioan Phạm Duy Anh

Các bạn thân mến!
 

Cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi vô vàn mối tương quan và bởi vô số cuộc gặp. Có những PS 3-C168


Cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi vô vàn mối tương quan và bởi vô số cuộc gặp. Có những cuộc gặp chỉ thoáng qua đời ta mà không để lại ấn tượng sâu sắc. Nhưng cũng có những cuộc gặp vĩnh viễn thay đổi số phận và dự định hiện hữu của đời ta. Cuộc gặp gỡ ấy được xem là cuộc gặp gỡ định mệnh. Cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Giê-su trên bờ biển hồ Tibêria là cuộc gặp gỡ định mệnh bởi vì nó vĩnh viễn thay đổi số phận và cuộc đời của các ông. Thực chất cuộc gặp của các ông đổi với Chúa Giê-su bao hàm ba cuộc gặp gỡ khác: cuộc gặp gỡ mang tính bản lể, cuộc gặp gỡ của đức tin và của gặp gỡ của tình yêu.

Cuộc gặp gỡ bản lề

Bờ biển hồ lúc ấy diễn ra cuộc gặp gỡ với của những con người mà số phận còn dang dở. Sau khi Chúa Giê-su chịu chết, người thì bỏ Chúa, kẻ thì chối Chúa, nhóm môn đệ nòng cốt xem ra có vẻ mất kiên nhẫn, mất lý tưởng và năng lượng sống, đàn chiên có nguy cơ tan rã. Các tông đồ trở về với nhịp sống xưa, vẫn bờ biển ấy nhưng con người ấy đang lao động trên bờ biển quen thuộc. Giờ đây các ông trải qua kinh nghiệm về sự mất mát vị thủ lãnh, người Thầy lãnh đạo tinh thần. Sự mất mát này trở thành lỗ hổng không thể nào bù đắp lại được nơi các ông. Các ông vất vả suốt đêm nhưng không bắt được gì. “Ví như CHÚA chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà CHÚA không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm.”[1] Cái sự khác biệt căn bản giữa việc “vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì” và lưới đầy thuyền là có Chúa Giê-su hiện diện, can thiệp và các ông làm theo lời Chúa.

Chính cuộc gặp gỡ với vị thầy Giê-su biến đổi hoàn toàn cuộc đời các ông. Cuộc gặp ấy ngang qua mẻ cá lạ lùng. Hai khung cảnh đối nghịch giữa trước khi gặp Đức Ki-tô Phục Sinh và sau khi gặp Đức Ki-tô Phục Sinh là “trời tối” và ” vất vả suốt đêm mà không bắt được gì” và “bình minh,” “than hồng” và thuyền đấy cá. “ 6 Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.”[2] Rõ ràng bạn thấy rằng, việc thả lưới bắt cá là việc của các ông. Các ông phải nỗ lực, bằng sự khôn khéo của mình để thả lưới nhưng việc thu lượm và bắt được cá lại tùy thuộc vào yếu tố bên ngoài ông. Sự thành công trong mẻ lưới tùy thuộc vào Chúa. Nếu Chúa không hiện diện và các ông không thả lưới bên phải mạn thuyền thì có lẽ, mẻ cá lạ sẽ không xảy ra. Việc xây dựng đời sống gia đình và giáo hội cũng như nỗ lực truyền giáo sẽ trở nên vô ích và sẽ là “vất vả suốt đêm mà chẳng được gì” nếu thiếu sự hiện diện của Đức Ki-tô trong những nỗ lực ấy. Sự hiện diện của Ngài biến đổi nỗ lực của con người từ tình trạng không được gì đến tình trạng “thuyền đầy ắp.”

Cũng nên nhớ rằng sự khác biệt giữa việc bắt được cá và không bắt được gì là có sự hiện diện của Đức Ki-tô. Trong bất cứu hoàn cảnh nào, bạn và tôi phải là người luôn ý thức được rằng Chúa luôn đồng hành với mỗi người chúng ta dù có trải qua nhưng khúc quanh tăm tối như thế nào. Chắc chắn một điều, ngoại trừ cái đêm gặp Chúa Ki-tô, các môn đệ thường xuyên đối diện với việc trắng tay. Đêm tối của thế gian và của tâm hồn luôn tìm cách vùi dập và bóp nghẹt giá trị Tin Mừng. Trải qua hơn hai ngàn năm giá trị Tin Mừng và chân lý về Đức Ki-tô Phục Sinh vẫn còn bị nhiều người bóp méo. Người ta vẫn tìm cách hủy hoại Tin Mừng Phục Sinh, giá trị Ki-tô giáo, chân lý cứu độ, và muốn chôn vùi Đức Ki-tô Phục Sinh trong ngôi mộ trống. Với niềm tin và ân sủng của Đấng Phục Sinh, bạn và tôi tin rằng một ngày nào đó, Tin Mừng đó sẽ phục sinh trở lại, sự sống sẽ chiến thắng cái chết, Thầy sẽ chiến thắng thế gian. Sự phục sinh trước hết là sự phục sinh giá trị Tin Mừng, hình ảnh của Đức Ki-tô trong trái tim con người, sự phục sinh lại sự thiện đã bị sự dữ đè bẹp. Sự phục sinh đó biến đối toàn thể hệ thống giá trị và sự hiện hữu của bạn và tôi.

Cuộc gặp của đức tin

Trong nhiều trường hợp, người môn đệ được Chúa yêu và cũng đồng thời là người môn đệ yêu Chúa trở thành trung gian giữa Chúa và các tông đồ mà trong trường hợp này là Phê-rô. Trong khi những người khác không nhận ra Đức Ki-tô Phục Sinh thì chỉ người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nhận ra điều đó.“ 7Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô:“Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.”[3]

Điều gì làm nên sự khác biệt này. Đó là do cặp mắt đức tin, cặp mắt siêu nhiên, là sự thân mật trong tình yêu Thiên Chúa. Việc Gioan nhận ra Chúa có sự nối kết gì giữa việc nhận ra Đức Ki-tô hôm nay và Đức Ki-tô phục sinh, khi ông chứng kiến các băng vải được xếp lại hay không. Điều này có thể cho bạn thấy tính tiệm tiến trong tiến trình khám phá ra dấu chỉ về Đức Ki-tô Phục Sinh. Trước kia từ băng vài được cuốn mà nhận ra Đức Ki-tô phục Sinh, còn bây giờ phải vén băng vài “vô minh” của sự tối tăm và kém tin để nhận ra người. Việc nhận ra Đức Ki-tô bây giờ không chỉ còn qua dấu chỉ băng vải được xếp lại nhưng là tiếp xúc trực tiếp với Đức Ki-tô phục sinh. Nói cách khác, muốn nhận ra Đức Ki-tô phục Sinh không chỉ là khởi từ bằng vải như trước kia nhưng phải vén bức màn che phủ trong trái tim của mình để có thể nhận ra Chúa.

Hơn ai hết, Chúa Giê-su đã là người vén bức màn trong Trái Tim Ngài cho con người qua lưỡi đòng bị đâm thâu. Xuyên qua vết thương diễn tả tình yêu dâng hiến đến cùng này mà bạn nhận Đấng Ban Sự Sống. Việc thả lưới bên phải mạn thuyền[4] cũng ít nhiều giúp bạn liên tưởng đến điều này. Hai điều tiên quyết khi thả lưới đó là vâng lời Thầy và thả bên phải, bên cạnh sườn bị đâm thâu, nơi trái tim đã chảy Máu và Nước, bằng tình yêu của chính Đấng đã yêu thương và hiến mình vì tôi.

Cuộc gặp gỡ trong tình yêu

Anh có thương mến thầy không? Có thể nói rằng, tự bản chất con người đi tìm sự thông hiệp và sự trao tặng sự sống. Điều mà bạn và tôi vẫn xác quyết đó là con người xuất phát từ Thiên Chúa và phản ảnh “chính mẫu thức” của Thiên Chúa về việc sống tình yêu và việc trao tặng sự sống. “Đức tin không chỉ tìm kiếm sự hiểu biết” nhưng, “đức tin còn tìm kiếm sự thông hiệp.” Sự đồng nhất là điều mà mọi người đều tìm kiếm, bất chấp bạn là người có tôn giáo hay không. Sau khi đã trải qua những kinh nghiệm với Thầy, có lẽ đây là thời điểm quyết định về số phận và sự chọn lựa dứt khoát. Chúa Giê-su hỏi Phê-rô ba lần: “Anh có thương mến Thầy không.”[5]

Đến thời điểm này, Chúa Giê-su không hỏi Phê-rô về tài năng, bằng cấp và địa vị xã hội nhưng hỏi về việc “Anh có thương mến Thầy không.” Với sự chân thành, yêu thương và sự khiêm tốn, Phê-rô chỉ trả lời: “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Câu hỏi này giả định “một cuộc trao đổi của tình yêu, một sự chân thành, tự do và trách nhiệm.” Tình yêu của Thầy đã đi bước trước: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.”[6] Để đến bây giờ khi đã cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã chết vì mình, ông mới khiêm tốn trả lời về tình yêu của mình dành cho Thầy. Chỉ khi cảm nghiệm được một cách thật sự tình yêu của Thầy đã chết và thông ban sự sống cho mình khi đó ông mới có thể trả lời với Chúa được câu này. Giả như câu trả lời không phản ánh tâm hồn và con người của ông, chắc chắn ông không thể theo Chúa đến cùng.

Ngang qua mẻ cá lạ, Đức Ki-tô Phục Sinh vẫn đồng hành với các môn đệ. Ngài không để các ông mồ coi. Ngài là điểm tới cho các ông chèo thuyền. Ngài hiện diện và mời gọi các ông thả lưới bên phải mạn thuyền. Thả lưới bằng chính tình yêu và sức mạnh của Đấng đã chết và cứu cho muôn người. Câu hỏi của Chúa Giê-su hỏi Phê-rô là một lời mời gọi sự đáp trả của tình yêu sau khi ông đã cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã sống và chết cho ông. Câu trả lời của bạn và tôi trước câu hỏi của Chúa, “Anh có thương mến Thầy không,” vẫn là một lời mời gọi bước vào tương quan thông hiệp, trao ban sự sống và “hãy chăm sóc chiên của thầy.”

Như thế, chính kinh nghiệm gặp gỡ với một con người đã thay đổi số phận và hướng đi của bạn và tôi. Cuộc gặp gỡ này không phải là cuộc gặp gỡ thông thường nhưng nó chính là cuộc gặp gỡ định mệnh. Cuộc gặp gỡ đó mở ra một chân trời mới và một hướng đi mới. “Ở nguồn gốc của việc làm một Kitô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định“[7]

-----------------------------------------
[1] TV 127, 1
[2] Ga 21, 6
[3] Ga 21, 7-8
[4] Ám chỉ đến thị kiến của tiên tri Ezekiel về nước từ bên phải đền thờ chảy ra. Chúa Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu tức thì Máu và Nước chảy ra làm phát sinh sự sống và ơn cứu độ.
[5] Ga 21, 17
[6] Ga 13, 1
[7] Encyclical Letter Deus Caritas Est (25 December 2005), 1: AAS 98 (2006), 217

-------------------------------
 

PS 3-C169: TÌNH THẦY TRÒ PHÊRÔ – GIÊSU VÀ GIOAN


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 

Vào lúc bình minh ló rạng. Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và hỏi: “Này các con, có gì PS 3-C169


Vào lúc bình minh ló rạng. Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển (Ga 21, 5- 7). Hỏi : Đâu là cái để Gioan với biệt hiệu là “người môn đệ Chúa yêu” nhận ra Thầy mình, và điều gì đã khiến Phêrô khoác áo vào và nhảy ngay xuống biển? Thưa: Tình yêu.

Tình thầy trò

Tình thầy trò Phêrô – Giêsu và Gioan thật đậm đà thắm thiết. Tình yêu giúp người môn đệ được yêu mến là người đầu tiên nhận ra chính Chúa (x. Ga 21,7). Vì yêu mà Gioan được ngồi cạnh Thầy trong bữa Tiệc Ly và tựa đầu vào ngực Chúa và hỏi thay cho Phêrô (x. Ga 13, 23). Nhờ yêu mà Gioan cùng với Thầy đi vào nhà Caipha bằng cổng chính như những mục tử, chứ không như Phêrô phải ở ngoài chờ Gioan ra dẫn vào.

Từ yêu đi đến hành động. Phêrô chỉ được chọn làm thủ lãnh và chăm sóc đàn chiên Chúa sau khi công bố yêu mến Thầy đến ba lần (Ga 21,15-17). Chúa chọn Phêrô với trọn tình yêu. Phêrô đáp lại cách trung thành, dù phải mất mạng (Ga 21,18). Dẫu biết rằng, đàn chiên thuộc về Thầy Giêsu chứ không thuộc về trò Phêrô.

Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy rõ được tình Thầy trò Giêsu. Gioan là người duy nhất trong các tông đồ ra đi trong tuổi già. Ngài cũng là môn đệ được Chúa Giêsu trao phó nghĩa vụ làm con thay thế Thầy đón Mẹ Thầy về nhà chăm sóc.

Phêrô đã tiếp nối công việc Thầy trao, chèo lái con thuyền Giáo Hội từ buổi sơ khai, rao truyền giáo huấn của Thầy cho những người chưa biết, bảo vệ chân lý về Ơn Cứu Độ mà Thầy đã trao ban. Ông hạnh phúc được lãnh nhận phúc tử đạo giống như cái chết của Thầy. Con thuyền Giáo Hội do Phêrô cầm lái vượt qua biết bao sống cả ba đào, và cho đến hôm nay vẫn vững chắc lướt qua sóng gió trần gian.

Mẻ cá tình yêu

“Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển” (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và vòng xoáy của ba thù, và bờ tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: “Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa” (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l’Évangile, n°24).

Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.

Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, chẳng những không hướng về Thiên Chúa, mà còn đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: “Tôi đi đánh cá đây“(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: “Bây giờ họ không có gì khác để làm“.

Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau “khổ đau” của Thập Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này chứng tỏ bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày hôm sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới  trống rỗng.

Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Thầy, họ thả lưới ở “phía bên kia” thuyền. Câu hỏi được đặt ra: Tại sao lại bên kia? Bên kia là bên của tình yêu Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của tình yêu Chúa. Tình yêu ấy rất cần thiết trong thế giới hôm nay.

Hiệp nhất trong tình yêu

Phúc âm thánh Gioan có hai cảnh bên lửa than hồng. Một lần bên lò sưởi, Phêrô chối Thầy ba lần (Ga 18). Lần hai cũng bên lửa than, ông bày tỏ tình yêu với Thầy mình ba lần. Tình yêu đã tẩy xóa tội của ông và nối kết ông trở lại với Đức Giêsu.

Bữa ăn mà Chúa Giêsu dọn cho các môn đệ là bữa ăn hiệp nhất trong tình yêu (x. Ga 21,9-13) tiên trưng cho phép Thánh Thể. Lưới không rách là dấu chỉ sự hiệp nhất mà 153 con cá do các môn đệ mang bắt được tượng trưng cho cả thế giới lúc bầy giờ là 153 nước đến với Chúa Giêsu.

----------------------------
 

PS 3-C170: BÀI HỌC TỪ MẺ CÁ KỲ DIỆU


Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
 

Cha Antony de Mello có kể câu chuyện như sau: ngày nọ, một người băng ngàn lội suối để kiểm PS 3-C170


Cha Antony de Mello có kể câu chuyện như sau: ngày nọ, một người băng ngàn lội suối để kiểm chứng cho rõ thực hư về danh tiếng đồn đãi của vị Minh Sư. Ông ta hỏi một đệ tử: “Minh Sư của anh đã làm được những phép lạ nào?” Người môn đệ đó trả lời: “Này ông bạn, có những phép lạ khác nhau. Trong xứ bạn, người ta bảo phép lạ là khi Thượng Đế làm theo ý muốn của một người. Còn trong xứ chúng tôi, người ta bảo phép lạ là khi một người thực thi thánh ý Thượng Đế!”

Nếu nói phép lạ là khi một người thực thi thánh ý Thượng Đế, thì trình thuật “mẻ cá kì diệu” của thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay có thể được coi là “phép lạ của việc thực thi thánh ý Chúa.” Trình thuật này gợi cho chúng ta những bài học quý giá đáng suy gẫm. Xin được gợi ý hai điểm:

1- “Đêm hôm đó, họ chẳng bắt được gì cả”

Trước hết, đó là sự kiện các môn đệ đánh cá suốt đêm nhưng họ chẳng bắt được gì cả.

Thánh Gioan cho chúng ta biết: sau khi chứng kiến biến cố Thầy mình bị giết và treo trên thập giá cách đau đớn, các môn đệ thất vọng, bỏ cuộc, họ trở về Galiêa và tiếp tục nghề đánh cá. Lúc đó, có bảy môn đệ của Chúa Giêsu ở biển hồ Tibêria. Các ông rủ nhau đi đánh cá.

Theo kinh nghiệm của người ngư phủ thời đó, người ta thường đánh cá vào ban đêm thì sẽ bắt được nhiều cá. Nhưng lần này, họ đã vất vả suốt đêm và không bắt được gì (x. Ga 21,3). Bởi vì, đêm hôm đó, Chúa Giêsu không hiện diện với các ông. Các ông tự mình làm việc mà không có sự giúp đỡ của Chúa Giêsu.

Đây là một ghi nhận đáng lưu ý đối với mỗi người chúng ta. Cũng vậy, trong cuộc sống hằng ngày, đã nhiều lần chúng ta trải nghiệm nhiều thất bại giống như các Tông Đồ. Có nhiều lúc chúng ta dốc hết sức, dồn hết lực làm việc, phải mất ăn, mất ngủ vì công việc, nhưng kết cục, mọi sự “dã tràng xe cát biển đông.” Cuối cùng không mang lại kết quả gì. Tại sao? Xin thưa: vì chúng ta làm việc mà không cần đến ơn Chúa đồng hành. Chúng ta chỉ cậy dựa vào sức mình mà không cần đến Chúa. Chúng ta làm việc mà không có ơn Chúa trợ giúp. Kết quả là không được gì cả!

2- “Vâng Lời Thầy, con thả lưới”

Sau một đêm vất vả mà không thu được kết quả gì, Đức Kitô Phục Sinh hiện ra và bảo các ông: “Cứ thả lưới bên phải thuyền, thì sẽ bắt được nhiều cá.”

Nếu xét về kinh nghiệm nghề nghiệp, các Tông Đồ chắc chắn hơn hẳn Chúa Giêsu. Các ông là những tay ngư phủ lành nghề, biết phải đi giờ nào, đánh chỗ nào và đánh như thế nào thì bắt được cá. Còn Chúa Giêsu chỉ là con bác thợ mộc, đâu có kinh nghiệm gì về đánh cá và biển cả. Thế nhưng, vâng lời Thầy, Phêrô và các môn đệ thả lưới. Quả thật, phép lạ đã xảy ra: họ “không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy cá.”

Sự kiện này nói lên một bài học quan trọng: Phêrô và các môn đệ không còn dựa trên kinh nghiệm cá nhân, ý riêng và tài cán của mình nữa, nhưng là dựa vào “Lời Thầy,” tin vào quyền năng của Thầy. Đây là thái độ đức tin, một thái độ giúp các ông vượt lên giới hạn của mình, đi xa hơn những kinh nghiệm và hiểu biết cá nhân, để tiến tới một sự vâng phục, tín thác hoàn toàn và làm theo ý Chúa muốn.

Như thế, phép lạ mẻ cá kỳ lạ là kết quả của ơn Chúa và là phần thưởng cho những ai biết tín thác vào quyền năng Thiên Chúa. Phép lạ này cho thấy: Ai tin vào Chúa, sẽ thành công. Ai tín thác vào Chúa, sẽ gặt hái những hoa quả tốt đẹp. Ai cậy dựa vào Chúa, sẽ không bao giờ làm việc mà không có kết quả.

Đây là bài học quý báu cho mỗi người chúng ta: Tất cả chúng ta được mời gọi từ bỏ ý riêng, không cậy dựa vào khả năng mình, nhưng tín thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa, và nhất là thực thi theo thánh ý Người. Lúc đó phép lạ sẽ xảy ra cho chúng ta.

Lạy Chúa, xin Chúa cho mỗi người chúng con biết chọn lựa như các Tông Đồ: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người phàm” (Cv 5,29), biết chọn ý Chúa hơn ý riêng, biết lắng nghe Lời Chúa và hành động theo sự hướng dẫn của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của mình. Amen!

--------------------------------
 

PS 3-C171: YÊU NGHỀ


Trầm Thiên Thu
 

Người ta nói: “Sinh nghề, tử nghiệp.” Ở đây “sinh tử” không phải là “sống chết” theo nghĩa đen PS 3-C171


Người ta nói: “Sinh nghề, tử nghiệp.” Ở đây “sinh tử” không phải là “sống chết” theo nghĩa đen, mà là “sống chết” theo nghĩa bóng, tức là phải có niềm đam mê và yêu công việc mình làm. Người Việt thường nói “gộp chung” là Nghề Nghiệp.

Nghề của dân Biển Hồ là đánh cá. Dân vùng biển là ngư dân. Đa số các tông đồ cũng là ngư phủ. Ngư nghiệp liên quan cá, và cá liên quan con người. Chúa Giêsu dùng hình ảnh chài lưới để nói về việc “chài lưới linh hồn người ta.” Con cá và con người có điểm giống nhau là động vật, nhưng lại có điểm khác nhau là con cá chỉ có giác hồn, còn con người có linh hồn – cao cấp hơn.

Trong đời thường, con cá cũng thường được dùng để ví von. Chẳng hạn, khi nói về tình quân và dân: “Quân và dân như cá với nước.” Hoặc khi nói về giáo dục: “Cá không ăn muối cá ươn.” Khi kêu gọi Phêrô và Anrê đi truyền giáo, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh con cá: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mt 4:19; Mc 1:18; x. Lc 5:10) Cá là cá là loài có gì đó rất đặc biệt: chứa nhiều dưỡng chất tốt cho cơ thể, đặc biệt là khi ăn chay theo Kitô giáo, người ta không phải kiêng cá.

Khi biết chắc Chúa Giêsu đã sống lại thật, các Tông Đồ không còn lo sợ, nhát đảm, vì họ đã xác tín và được Thầy Giêsu ban Chúa Thánh Thần qua việc thổi hơi vào họ. (Ga 20:22) Trình thuật Cv 5:27b-32, 40b-41 cho biết rằng khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng, vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”

Mặc kệ. Các Tông Đồ vẫn hiên ngang và thẳng thắn nói: “Phải VÂNG LỜI THIÊN CHÚA hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ƠN SÁM HỐI và ƠN THA TỘI. Về những sự kiện đó, CHÚNG TÔI XIN LÀM CHỨNG, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.”

Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà ĐÁNH ĐÒN và CẤM các ông KHÔNG ĐƯỢC NÓI ĐẾN DANH ĐỨC GIÊSU, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng CHỊU KHỔ NHỤC VÌ DANH ĐỨC GIÊSU. Và tất nhiên các Tông Đồ không thể im lặng theo lệnh thế quyền. Họ vẫn rao giảng về Đức Kitô dù biết khó yên thân. Hằng ngày, cả trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu – Đấng chịu đóng đinh, chịu chết nhưng đã phục sinh.

Điều này quá kỳ cục: Mắc mớ chi mà cấm nói về Ông Giêsu? Ngày nay người ta cũng vẫn viện đủ lý do để bách hại những người tin vào Đức Kitô. Tại sao người ta tìm bắt Chúa Giêsu và những người tuyên xưng Ngài? Nếu không là ghen tức thì là gì? Những người tin vào Đức Kitô luôn làm điều tốt mà sao cứ bị ghét? Vô cùng vô lý!

Vô tri bất mộ. Có biết mới yêu. Khi đã biết rõ thì người ta càng thêm lòng yêu mến, và phải thổ lộ: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con.” (Tv 30:2) Ai cũng có kinh nghiệm sống, đặc biệt là sống thật về phần linh hồn. Chỉ kẻ cố chấp và vô ơn mới không chịu nhận ra hồng ân Thiên Chúa trao ban hằng ngày, mọi lúc và mọi nơi.

Sự thật minh nhiên là Chúa Giêsu phục sinh, nhưng người ta không muốn tin, thậm chí còn phao tin giả; chính người ta cũng được cứu thoát nhưng vẫn không muốn công nhận. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, như Thánh Vịnh gia xác định: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.” (Tv 30:4-6)

Chuỗi vui-buồn-sướng-khổ hoặc chuỗi sinh-lão-bệnh-tử được gọi là “bể khổ.” Đó là chuỗi đời nhân thế. Sầu khổ luôn nhiều hơn vui sướng, nhưng người có đức tin vẫn thấy thanh thản, ngay cả khi đối diện với cái chết. Họ tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót nên cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng.” (Tv 30:11-13) Đối với tín nhân, không có gì tách họ ra khỏi tình yêu của Đức Kitô. (x. Rm 8:35) Thực sự đúng như vậy!

Thánh Gioan cho biết thị kiến về sự tôn vinh Con Chiên: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.” (Kh 5:11-12) Vô số các sinh vật tôn vinh và xưng tụng Con Chiên, không thể đếm nổi. Dù ngày nay con số đó chưa nhiều, chỉ là số ít so với dân số thế giới, nhưng ngày cuối cùng sẽ là đa số, có hằng hà sa số những người tin vào Đức Kitô. Con số đó đang gia tăng hàng năm, hàng tháng, và hàng ngày. Một sự thật minh nhiên!

Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’ Bốn Con Vật thưa: ‘Amen.’ Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.” (Kh 5:13-14) Con số những người tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót đã và đang gia tăng – từ cấp số cộng rồi cấp số nhân. Thực sự chúng ta đang chứng kiến sự lạ lùng như vậy. Loài người không thể làm gì nhưng Thiên Chúa có thể biến đổi tất cả.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra lần thứ ba tại Biển Hồ Tibêria. Qua trình thuật Ga 21:1-19, Thánh Gioan cho biết: Hôm đó, ông Simôn Phêrô, ông Tôma, ông Nathanaen, các con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác, đang ở bên nhau. Vậy là có 7 người. Có lẽ ngồi không cũng buồn, vả lại làm việc quen rồi, thế nên ông Phêrô nói đi đánh cá. Nghe nói vậy, các ông kia cũng đi. Thế nhưng suốt đêm đó họ không bắt được con cá nào.

Tảng sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các ông không nhận ra. Ngài hỏi: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông uể oải lắc đầu và nói “không.” Rồi Ngài bảo các ông cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Các ông làm theo. Thật lạ lùng, họ không sao kéo lưới lên được vì quá nhiều cá. Ông Gioan tinh ý nhận ra Ngài nên nói với ông Phêrô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói vậy, ông Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì bờ chỉ cách khoảng gần trăm thước, không xa lắm.

Lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và cả bánh nữa. Chúa Giêsu bảo các ông đem ít cá mới bắt được tới nướng. Ông Phêrô lên thuyền và kéo lưới vào bờ. Lưới đầy cá lớn, đếm được 153 con, vậy mà lưới không bị rách. Chúa Giêsu bảo mọi người đến ăn. Không ai dám hỏi “Ông là ai?” vì họ đã biết chắc đó là Thầy rồi. Chúa Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, với cá Ngài cũng làm như vậy. Một Thánh Lễ ngay tại bờ biển Hồ. Thật tuyệt vời!

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Phêrô có mến Ngài hơn các anh em không. Ông thưa “có,” và xác định: “Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chắc hẳn lỡ miệng chối Thầy mấy hôm trước nên lúc này hối hận lắm. Tội to mà được Thầy tha thì còn gì bằng, thế nên ông càng yêu Thầy nhiều hơn. Chúa Giêsu bảo ông chăm sóc chiên của Ngài. Rồi Ngài lại hỏi lại như trước, ông cũng thưa “có.” Ngài lại hỏi ông lần thứ ba, thế nên ông hơi buồn. Lần này ông thưa rạch ròi: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chúa Giêsu cũng bảo ông chăm sóc chiên của Ngài.

Ôi, thật kỳ diệu, vì buổi đăng quang giáo hoàng của Phêrô rất giản dị trong khung cảnh thân mật tình Thầy trò, cũng ngay tại bờ biển. Hay quá chừng! Rõ ràng Chúa Giêsu không câu nệ nghi thức. Từ đó, ngư phủ Phêrô không còn lưới cá mú chi nữa, mà chỉ chuyên lưới người ta mà thôi.

Sự công bằng hiển nhiên: ĐƯỢC nhiều thì bị ĐÒI nhiều. Chúa Giêsu cũng minh định với GH Phêrô: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh TỰ MÌNH thắt lưng lấy, và đi đâu TUỲ Ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ PHẢI dang tay ra cho người khác thắt lưng và DẪN ANH ĐẾN NƠI ANH CHẲNG MUỐN.” Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Rồi Ngài bảo ông: “Hãy theo Thầy.” Phêrô đã theo Thầy Giêsu đến cùng, chứng minh bằng cái chết là bị đóng đinh ngược trên thập giá!

Cá sống nhờ nước, người sống nhờ khí. Có nước và không khí là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiếu nước thì cá chết, thiếu khí thì người chết. Nhưng có nước và có khí mà cá và người cũng vẫn chết, vì sinh – tử là quy luật muôn thuở. Sinh ra để chờ chết. Chết rồi chờ sống lại. Chính cái chết là ngưỡng chuyển tiếp từ cõi tử qua miền sinh. Đó là cuộc vượt qua rất ngoạn mục và kỳ diệu.

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự phục sinh của Ngài bảo đảm cho cuộc vượt qua kiếp người của chúng ta. Thật là mầu nhiệm về sự chết và sự sống của những người tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa!

Chúng ta biết chắc rằng Muhammad không sống lại, Khổng Tử không sống lại, Lão Tử không sống lại, Phật Thích Ca không sống lại. Nhưng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI, dù bị người ta giết chết, đặc biệt là đúng như Ngài đã BÁO TRƯỚC. Dù là ai cũng chẳng có ai sống lại. Ướp xác, quan tài đồ sộ, lăng tẩm to lớn,… để làm gì? Khoe khoang cũng chỉ “đẹp mặt” người sống. Thực sự quá vô ích!

Và rồi cũng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ đi trên nước, tuyên bố là Thiên Chúa, và làm cho người khác sống lại. Chính Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, chiến thắng Tử Thần, chiến thắng vĩnh viễn. Chỉ có trong Kitô giáo mới có Đức Kitô là Thiên Chúa, làm nhiều phép lạ minh chứng Ngài là Thiên Chúa thật, chỉ có một mình Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là “Con Đường, Sự Thật và Sự Sống,” và chúng ta chỉ có thể qua Ngài đến với Chúa Cha mà thôi. (Ga 14:6) Tín nhân thực sự hãnh diện và hạnh phúc, vì niềm tin của chúng ta không mơ hồ.

Sau mỗi màn diễn, dù phim hay kịch, chúng ta thường nhận xét về cách diễn của diễn viên chứ không cần biết vai diễn của người đó là chính diện hay phản diện, là hoàng đế hay tướng cướp, là chủ nhân hay đầy tớ,…

Cuộc đời giống như một sân khấu lớn, và ai cũng là diễn viên trên “sàn diễn cuộc đời.” Thiên Chúa không xét “vai diễn” của chúng ta – giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, giàu hay nghèo, giỏi hay dốt, đẹp hay xấu,… Ngài chỉ xét “cách diễn” của chúng ta – tức là có sống đúng cương vị của mình và thể hiện đức ái theo Thánh Ý Chúa hay không.

Khoảng năm 1602, họa sĩ Annibale Carracci (1560–1609, Ý) vẽ bức hình “Domine, Quo Vadis?” mô tả một cảnh trong ngụy thư Công Vụ Phêrô (Acts of Peter). Ông là người sáng lập trường phái hội họa Baroque của Ý – Trường Phái Bologna. Bức hình “Quo Vadis” là m​​ột trong các tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất, mô tả Thánh Phêrô đang trên đường trốn khỏi Rôma thì gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá. Khi đó, Phêrô hỏi: “Domine, quo vadis? – Lạy Chúa, Ngài đi đâu vậy?” Chúa trả lời: “Romam vado iterum crossifigi! – Thầy đến Rôma chịu đóng đinh!” Nghe Thầy Giêsu nói vậy, GH Phêrô trở lại Rôma ngay lập tức.

Ước gì chúng ta có thể xác định như Thánh Phaolô: “Tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Ga 2:19-20a)

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn duy trì sự sống trong ơn nghĩa với Ngài, được ngụp lặn trong Dòng Tình Thương Xót của Ngài. Vâng, lạy Ngài, xin giữ gìn con như thể con ngươi, và dưới bóng Ngài, xin thương che chở. (Tv 17:8) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

-------------------------------
 

PS 3-C172: YÊU THẦY HƠN


Bông hồng nhỏ
 

Dù đã được gặp gỡ, nói chuyện, cùng ăn uống với Chúa phục sinh vài lần nhưng mỗi lần Người PS 3-C172


Dù đã được gặp gỡ, nói chuyện, cùng ăn uống với Chúa phục sinh vài lần nhưng mỗi lần Người hiện đến cách bất ngờ thì các môn đệ vẫn chưa thể nhận ra Chúa ngay được. Lần này cũng vậy. Sau khi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào, các ông đành phải chèo thuyền vào bờ trong tâm trạng mệt mỏi, chán chường. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Thầy Giêsu. Chỉ khi làm theo lời Thầy “thả lưới bên phải mạn thuyền” và bắt được rất nhiều cá, được ăn bánh và cá từ tay Thầy, các ông mới nhận ra Chúa. Cũng trong lần Chúa hiện ra này, ông Phêrô được Người hỏi tới ba lần về tình yêu ông dành cho Người. Người mời gọi ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).

Biết rõ các môn đệ đang mỏi mệt và đói, Thầy Giêsu hỏi các ông như một lời mời gọi: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không” (Ga 21, 5). Dù Người biết rõ những thất bại và thiếu thốn mà người môn đệ đang phải đối diện, nhưng Người vẫn muốn các ông chia sẻ cho Người biết về những điều ấy. Người không ngần ngại lắng nghe những than phiền của người môn đệ, Người chỉ đơn giản lắng nghe tất cả với sự quan tâm. Người hướng dẫn các ông cách thức thả lưới. Các ông vâng lời dù chưa nhận ra người lạ ấy chính là Chúa. Sau khi mẻ cá được kéo lên, Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó!”. Ông là người đầu tiên nhận ra Chúa. Có lẽ, chính nhờ việc ông luôn lắng nghe và cảm nhận tình yêu của Chúa, nên ông mới mau mắn nhận ra Chúa. Ông đã nhận ra Chúa và ngay lập tức nói cho người anh cả biết. Trong đời sống của người Kitô hữu, sẽ có những lúc họ gặp phải những gian nan, thử thách, những thất bại. Giữa những lúc ấy, họ sẽ gặp bế tắc và sẽ dễ đánh mất đức tin. Ai sẽ nâng đỡ họ? Điều cần thiết là luôn luôn cần có một ai đó nói cho họ biết về sự hiện diện của Chúa. Cần một ai đó dám nói cho những người khác biết về sự hiện diện của Chúa, dù đó chỉ là kinh nghiệm của cá nhân mình. Cần phải có ai đó cảm nhận được sự hiện diện của Chúa, có lòng yêu mến và gắn bó với Chúa. Người ấy có thể là một người rất bình thường, nhỏ bé và khiêm tốn, nhưng họ sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm về Chúa cho người khác. Một Kitô hữu thực sự sẽ luôn muốn chia sẻ tình yêu mà họ nhận được từ Chúa cho người khác, luôn muốn cho người khác được nhận biết Chúa. Ta có phải là người ấy không?

Khi đã ăn bánh và cá từ tay Thầy Giêsu, các ông đều biết rằng đó là Chúa, dù chẳng ai nói ra. Khi bữa sáng đã kết thúc, Thầy Giêsu hỏi ông Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Người hỏi ông tới ba lần về điều ấy. Sau khi ông công khai bày tỏ tình yêu ông dành cho Thầy, Người trao cho ông nhiệm vụ chăn dắt chiên của Người. Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần. Ông thưa với Thầy: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người biết rõ tâm tư tình cảm của ông và hiểu rõ ông hơn ai hết, Người hiểu ông hơn cả ông nữa. Và chắc chắn, Người cũng yêu ông hơn ông yêu Người. Theo Chúa, người môn đệ được mời gọi dành trọn vẹn tình yêu của mình cho Chúa. Ta cần yêu Chúa bằng một tình yêu luôn muốn nhiều hơn nữa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu Người dành cho ta thì vô cùng, ta không thể yêu Chúa ít hơn yêu người khác hay ít hơn yêu bản thân ta. Vì yêu Chúa, ta sẵn sàng từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa; sẵn sàng chết đi với con người tự nhiên để trở nên người môn đệ của Thầy Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh! Người đã sống lại và Người cũng kêu lớn tiếng để gọi con trỗi dậy. Người không muốn con sống mà như đã chết, sống èo ọt và tàn lụi dần. Người ban sức mạnh cho con để con có thể từng ngày từ bỏ mình, vác lấy thập giá mình mà theo Chúa; và từng ngày sống để yêu Chúa với một tình yêu hơn nữa. Xin Chúa đốt lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.

------------------------------
 

PS 3-C173: GỞI GẮM YÊU THƯƠNG


Thiên San
 

Đức Giêsu Phục sinh nhiều lần hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin cho các ông, sai các PS 3-C173


Đức Giêsu Phục sinh nhiều lần hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin cho các ông, sai các ông ra đi loan báo về Tin mừng phục sinh. Tại biển hồ Tibêria ngày hôm ấy, Đức Giêsu Phục sinh đã hiện ra với các môn đệ cách gần gũi thân thuộc. Sau một đêm vất vả mà không bắt được gì, các môn đệ vẫn đủ kiên nhẫn để nghe theo lời hướng dẫn của ai đó đang đi dạo trên bờ biển. Quả thực, các ông đã bắt được một mẻ cá lạ lùng. “Chúa đó!” (Ga 21, 7), môn đệ Gioan nói với ông Phêrô rằng người đang ở trên bờ kia là Chúa. Sau khi kéo lưới vào bờ, các ông được dùng bữa sáng do chính Thầy Giêsu chuẩn bị, có than hồng sưởi ấm, có cá và bánh lót dạ. Sau đó, môn đệ Phêrô được Đức Giê su Phục sinh gửi gắm và trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Người.

Khung cảnh của buổi sáng ngày hôm ấy thật đẹp. Đó là một bức tranh có đủ màu sắc sáng tối, buồn vui, thương nhớ, bịn rịn và cả tin yêu. Khi không có Chúa bên cạnh, các ông chẳng bắt được gì cả, mặc dù các ông vẫn sát cánh bên nhau. Đêm hôm đó là một đêm thật tối. Tối từ cảnh vật đến cả trong tâm hồn các ông. Hai lần được gặp Chúa phục sinh vẫn chưa đủ vơi đi nỗi nhớ thương trong lòng, những cảm xúc sau bao biến cố lớn nhỏ cứ liên tục xảy đến. Đức Giêsu phục sinh vẫn thật sự rất dễ thương, gần gũi, ân cần như ngày nào. Người biết rằng, sau một đêm vất vả, các môn đệ cần có cái gì đó lót dạ. Than hồng và sự hiện diện của Chúa đã sưởi ấm cõi lòng các ông, xua tan bao mệt nhọc, nhớ thương. Không ai trong các ông dám hỏi “ông là ai?” vì tất cả các ông đều biết rằng đó là Chúa (x. Ga 21, 12).

Sau bữa ăn, Đức Giêsu chính thức gửi gắm đoàn chiên thân yêu của mình cho tông đồ trưởng Phêrô. Ba lần xác tín về tình yêu của mình dành cho Thầy là ba lần Phêrô chuộc lại lỗi lầm xưa khi buông lời chối Chúa. Ông biết rõ Chúa hiểu lòng ông. Chúa hiểu ông yếu đuối dường nào và cũng yêu Chúa dường nào. Ông không ngần ngại để nắm lấy cơ hội bày tỏ tình yêu của mình dành cho Thầy. Ông buồn vì Thầy hỏi đến ba lần “anh có yêu mến Thầy không?”. Buồn nhưng Phêrô vẫn đón nhận sứ mạng Chúa trao phó cho ông. Ông cũng được báo cho biết sẽ phải chết cách nào để làm chứng cho Chúa.

Chúa Giêsu Phục sinh đã gửi gắm bao yêu thương, sự ân cần, quan tâm, chăm sóc đến các môn đệ. Đặc biệt, Người đã không ngần ngại trao phó trách nhiệm coi sóc, chăm sóc và dẫn dắt đoàn chiên cho Phêrô – người đã từng chối Thầy. Chúng ta sẽ chẳng thể hiểu được cách chọn gọi của Chúa, bởi Người không chọn gọi theo cách chúng ta thường làm. Hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang gửi gắm bao yêu thương, sự ân cần chăm sóc đến từng người chúng ta qua các trung gian là những cánh tay hữu hình của Người. Như tông đồ Phêrô, trong một cách thức nào đó, chúng ta cũng được mời gọi can đảm lãnh sứ mạng coi sóc đoàn chiên Chúa trao. Đoàn chiên ấy có thể là gia đình nhỏ của ta, nhóm bạn, lớp học, hội đoàn… là những con người đang sống với chúng ta, thậm chí là cả những người chúng ta chưa từng có cơ hội gặp mặt. Can đảm lên: “Hãy theo Thầy” (Ga 21, 19).

-----------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây