Linh mục Mễn

https://www.linhmucmen.com


Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 1-50 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 1-50 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 1-50 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 5-C Bài 1-50 Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
------------------------------------
Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35: "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau". - Ðó là lời Chúa.
---------------------------------------
PS 5-C1. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG.. 2
PS 5-C2. HRK/110 - ĐIỀU RĂN MỚI 4
PS 5-C3. NTGT/138 - YÊU THƯƠNG.. 5
PS 5-C4. CSTM/120- TÌNH THƯƠNG.. 8
PS 5-C5. PV/269- YÊU THƯƠNG.. 10
PS 5-C6. SCĐ/287- YÊU THƯƠNG.. 11
PS 5-C7. SCĐ/290- ĐÃ YÊU.. 13
PS 5-C8. SCĐ/296- NHẬN BIẾT.. 15
PS 5-C9. SCĐ/299- TÌNH YÊU.. 16
PS 5-C10. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành. 17
PS 5-C11. Điều răn mới 18
PS 5-C12. TRỜI MỚI ĐẤT MỚI- Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm.. 20
PS 5-C13. THẦY BAN CHO CÁC CON ĐIỀU RĂN MỚI, 23
PS 5-C14. MỘT LỜI TRỐI TRĂN- Lm. Bùi Mạnh Tín. 25
PS 5-C15. THẾ GIỚI VẮNG BÓNG TÌNH YÊU - Lm Augustine, SJ. 27
PS 5-C16. NHỮNG LỜI CÁO BIỆT - Lm JK.. 30
PS 5-C17. THẬT TUYỆT VỜI CÁI GIỚI RĂN... - Lm Phêrô Phan Văn Lợi 33
PS 5-C18. BA CHI TIẾT ĐÁNG LƯU Ý.. 36
PS 5-C19. MỌI NGƯỜI SẼ NHẬN BIẾT ANH EM LÀ MÔN ĐỆ CỦA THẦY.. 38
PS 5-C20. BÍ QUYẾT HẠNH PHÚC HỌC NƠI ĐỨC KITÔ.. 40
PS 5-C21. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG.. 41
PS 5-C22. YÊU THƯƠNG NHAU - ASTY/121. 44
PS 5-C23. YÊU NGƯỜI - NMS/74. 45
PS 5-C24. SỨC MẠNH - SNTMCN/93. 47
PS 5-C25. MÔN ĐỆ - CS/66. 48
PS 5-C26. VINH QUANG - TMCN/324. 50
PS 5-C27. CON GIÁN - Dòng Đồng Công. 51
PS 5-C28. ĐIỀU RĂN MỚI – VIKINI 53
PS 5-C29. CHÚA MỞ LÒNG TRÍ NHIỀU DÂN  NGOẠI 55
PS 5-C30. Chúa Giêsu là đường. 58
PS 5-C31. GIỚI RĂN MỚI: “CÁC CON HÃY YÊU THƯƠNG NHAU.. 61
PS 5-C32.  “ĐIỀU RĂN MỚI”. 63
PS 5-C33. Sắp tới giờ Ngài được tôn vinh - Lm JK.. 69
PS 5-C34. Sự thành công của việc phúc âm hóa dân ngoại 73
PS 5-C35. ĐỨC ÁI XÂY DỰNG HỘI THÁNH. 74
PS 5-C36. VINH QUANG CỦA ĐAU KHỔ.. 78
PS 5-C37. Sự vấp ngã trong tình yêu mến. 80
PS 5-C38. Lời từ biệt của Chúa Giêsu. 86
PS 5-C39. Sự hiệp nhất giữa những người tin Chúa. 88
PS 5-C40. Điều Răn Mới: Yêu Thương. 90
PS 5-C41 : Yêu thương là dấu chứng của các Kitô hữu là môn đệ Chúa Giêsu. 92
PS 5-C42.: Tình yêu đúng nghia. 96
PS 5-C43. Điều răn mới 97
PS 5-C44. HÃY THUƠNG YÊU NHAU.. 103
PS 5-C45. Giới luật yêu thương. 106
PS 5-C46: Giới răn mới 108
PS 5-C47. Yêu như Thầy đã yêu. 111
PS 5-C48. Yêu thương nhau theo giới răn mới 112
PS 5-C49. ĐIỀU RĂN MỚI 114
PS 5-C50. MỖI TÌNH TUYỆT VỜI CỦA LINDA VÀ PETER.. 115

--------------------------------------------

 

PS 5-C1. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG

 

Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã gửi gấm những tâm sự cuối cùng cho các môn đệ: PS 5-C1


Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã gửi gấm những tâm sự cuối cùng cho các môn đệ. Ngài đã trăn  trối cho các ông, cũng như cho chúng ta một sứ điệp quan trọng mà mỗi người phải đem ra thực hành trong cuộc sống. Ngài nói:

- Các con thân mến, Thầy chỉ còn ở với các con một thời gian ngắn nữa mà thôi, nên Thầy ban cho các con một điều răn mới, đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.

Như chúng ta đã biết: giới răn thứ nhất đó là lòng  kinh mến đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là tình yêu thương đối với anh em.

Thế nhưng, nếu kiểm điểm lại cuộc sống, chúng ta thấy mình đã thực hiện hai giới răn ấy như thế nào ? Bởi vì tất cả đều xuất phát từ lòng mến Chúa và tình yêu người. Tất cả mọi lời khuyên nhủ và ngăn cấm cũng chỉ là kết quả đương nhiên của hai giới răn ấy  mà thôi.

Đúng thế, nếu chúng ta thực sự yêu thương anh em, hẵn chúng ta sẽ không còn thù oán và ghen tương, hẳn chúng ta sẽ sẽ không còn nói hành và nói xấu, hẳn chúng ta sẽ không còn gian tham  và bất công. Trái lại, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta đều cố gắng chia sẻ và giúp đỡ họ. Trong chiều hướng đó, chúng ta mới hiểu được lời nói sâu xa của thánh Augustinô:

- Ama et fac quod vis, nghĩa là hãy yêu và hãy làm điều mình muốn.

Sở dĩ như vậy, vì tất cả những hành động xuất phát từ tình yêu thương đều có giá trị riêng của chúng.

Không phải chỉ trong ngày sau hết chúng ta  mới bị xét xử về tình yêu thương, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ tình yêu thương đã trở thành dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Không có tình yêu, thì mọi hành động chỉ là tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã phải nhấn mạnh:

- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.

Như vậy, tình yêu thương vừa là một điểm đặc sắc nhất của người Kitô hữu, vừa là một bảo chứng chắc chắn nhất cho niềm hạnh phúc đời đời.

Thực vậy, hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa phán trong ngày phán xét. Với những người lành, Ngài bảo:

- Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần thưởng đời đời đã được sắm sẵn cho các ngươi từ muôn ngàn thưở trước, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi Ta khát, các ngươi đã cho uống, Khi ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm.

Vậy lúc này đây, chúng ta đang thuộc về nhóm người nào: nhóm người lành hay nhóm kẻ dữ ? Nhóm chiên hay nhóm dê ? Nhóm ở bên phải hay nhóm ở bên trái ? Nhóm được chúc lành hay nhóm bị chúc dữ ? Nhóm được ân thưởng hay nhóm bị trừng phạt ?

Từ đó, hẳn chúng ta đã nhận ra  điều gì cần phải làm ngay ? Đó là tình yêu thương. Điều ấy tuy dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng,bởi vì nó sẽ  ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, yêu thương bằng miệng lưỡi, bằng lời nói mà thôi chưa đủ, điều quan trọng và cần thiết, đó là phải biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những việc làm cụ thể.

Bác tài xế của Đức Thánh Cha Phaolô VI kể lại rằng:

Có một cụ già chẳng may bị mất một con lừa. Cụ ta bèn viết thư xin Đức Thánh Cha giúp đỡ, lúc bấy giờ ngài mới chỉ là một vị Tổng Giám Mục. Sau khi biết được giá mua của một con lừa, ngài liền gửi số tiền ấy cho cụ già.

Là một vị Hồng Y, bận rộn nhiều công chuyện lớn lao, thế mà ngài vẫn không quên những nhu cầu nhỏ bé cần phải giúp đỡ cho những kẻ bất hạnh. Chính vì những hành động nhỏ bé này mà người ta xác định được tình yêu thương chân thành của người Kitô hữu. Một linh mục ở Milan cũng đã nhận xét: Tôi thường thấy đức Hồng Y quì gối chăm sóc cho những người nghèo túng và bệnh tật.

Với chúng ta cũng vậy, Hãy biểu lộ tình yêu thương của chúng ta đối với những người chung quanh bằng những việc làm cụ thể, bởi vì chính những việc làm cụ thể này sẽ là như một tấm vé để chúng ta được đón nhận vào Nước trời.

--------------------------------------------

 

PS 5-C2. HRK/110 - ĐIỀU RĂN MỚI

 

Bài Phúc âm của Chúa nhật V Phục sinh hôm nay ghi lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu nói: PS 5-C2


Bài Phúc âm của Chúa nhật V Phục sinh hôm nay ghi lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong bữa tiệc ly, trước khi Chúa chịu tử nạn và sau khi Giuđa đã bỏ bàn tiệc đi ra thực hiện ý đồ phản bội Chúa.

“Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con hãy thương yêu nhau”. Yêu thương là một lệnh truyền phải thi hành chứ không phải là một lời khuyên hay một sự kêu mời muốn làm hay không cũng được: “Đây là lệnh truyền của Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Nếu chúng ta yêu thương anh chị em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại, kẻ không yêu thương anh chị em mình thì ở trong sự chết. Vì phàm ai ghét anh chị em thì là kẻ sát nhân mà đã là kẻ sát nhân thì không có sự sống đời đời.

Yêu thương nhau là một giới răn mới, bởi vì Đức Kitô đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu ước: “Ngươi phải yêu thương anh chị em như chính mình ngươi” bằng cách gắn liền nó với tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, Ngài đã mặc cho nó một bản tính siêu việt mới là chính tình yêu của Ngài: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Như Thầy đã yêu thương các con là điều răn mới mà Đức Kitô thêm vào luật cũ của Cựu ước. Nói con phải yêu thương anh chị em như chính mình con, nơi thánh Gioan 12,34 Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Như vậy, tình yêu thương này không còn phát xuất từ chính chúng ta nữa, nhưng là phát xuất từ Thiên Chúa. Lòng mến phát xuất từ Thiên Chúa như thư I của thánh Gioan 4,7 diễn tả như sau: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy”.

Tình thương của chúng ta đối với anh chị em là tham dự vào tình thương của chính Thiên Chúa đối với chúng ta. Cũng chính vì vậy giới răn yêu thương mới này được đồng hóa bởi tình yêu mến mà chúng ta có đối với Chúa. Yêu thương anh chị em và mến Thiên Chúa là một, và ai không yêu thương anh chị em thì cũng không mến Chúa. Nếu ai nói tôi mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình thì là kẻ nói dối.

Chính vì thế mà yêu thương là dấu chỉ chúng ta là những người thuộc về Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Chỉ khi nào ta hiểu và sống thực sự điều này thì mới là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng đây là việc khó, chúng ta cần phải cố gắng hằng ngày: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt chúng con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.

--------------------------------------------

 

PS 5-C3. NTGT/138 - YÊU THƯƠNG

 

Tình yêu là gì ? Nó có phải là thứ mà tất cả chúng ta đều khao khát không ? Điều chắc chắn: PS 5-C3


Tình yêu là gì ? Nó có phải là thứ mà tất cả chúng ta đều khao khát không ? Điều chắc chắn rằng mỗi chúng ta ai cũng muốn yêu và được yêu. Vì thế, tình yêu trở nên một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời bây giờ, nó là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện trên sách vở, báo chí, phim ảnh, mọi ngành nghệ thuật những bản tình ca, tạp chí chuyên đề về tình yêu vẫn thu hút mọi người. Có vẻ như tình yêu hiện diện khắp nơi và chi phối đời sống nhân loại. Thế nhưng sự thật lại khác hẳn. Con người hôm nay đã dùng chính sức mạnh để triệt tiêu lẫn nhau thay vì phải dùng chính nó để kiến tạo nên hòa bình và yêu thương.

Sức mạnh đích thực của con người không nằm trong khả năng chinh phục hay đàn áp kẻ khác để chứng tỏ quyền lực của một kẻ mạnh trên một kẻ yếu, mà chính là trong khả năng có thể chế ngự được chính mình, vượt thắng sự ích kỷ để hiến mình cho tha nhân. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã thể hiện qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài. Chúa Giêsu đã chứng tỏ sức mạnh vô biên của tình yêu. Vì thế, Ngài mới có thể để lại cho chúng ta một điều răn mới như một lời di chúc: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Yêu thương nhau là điều răn mới của Chúa Giêsu. Tại sao mới ? Mới ở chỗ nào ? Từ ngàn xưa, văn hóa Á Đông từng nêu câu châm ngôn: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn bể là anh em) và đạo lý cha ông cũng răn dạy: “Thương người như thể thương thân”. Luật Cựu ước cũng thừa nhận luật tự nhiên đó khi dạy: “phải yêu người thân cận như chính mình”. Người thân cận ở đây đối với người Do thái chỉ là anh em bà con ruột thịt không phải là tất cả mọi người. Điều răn này đối với Kitô hữu hôm nay vẫn là điều quan trọng nhất mà họ phải giữ khi sống với tha nhân. Nhưng với Chúa Giêsu, “yêu thương nhau” là điều răn mới, nó mới bởi vì:

Trước hết, đối tượng của tình yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai kể cả kẻ thù nữa, không phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói và tôn giáo. Đó là nét đặc thù của điều răn này. Tiếp theo, nó còn mới ở chỗ có tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn, tiêu chuẩn của tình yêu thương là chính tình yêu của Thiên Chúa. Luật Cựu ước dạy: “Hãy yêu người thân cận như chính mình” tức là lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn. Còn Chúa Giêsu dạy phải yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta, tức là phải lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn, làm kiểu mẫu cho tình yêu của chúng ta. Ngài yêu ta đến nỗi tự ý nộp mình chịu chết vì ta. Sau hết, điều răn này được coi là mới, vì nó gắn liền với giao ước mới, giao ước đã được thiết lập trong Máu Đức Giêsu. Đây không phải là điều răn được khắc trên bia đá, nhưng được ghi vào tâm hồn các Kitô hữu do tác động của Chúa Thánh Thần. Như vậy, điều răn “yêu thương” chỉ thực sự là mới khi mỗi Kitô hữu phải yêu thương người như Chúa yêu.

Sự thật yêu người như chính mình đã khó, nhưng yêu người như Chúa yêu lại càng khó hơn. Vì thế khoảng cách vẫn còn đó từ chỗ biết đến chỗ sống. Chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân – người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như vậy. Yêu người chỉ vì người đó xinh đẹp, dễ thương để cuối cùng cũng chỉ là tình yêu vụ lợi, chiếm đoạt cho riêng mình. Một tình yêu như thế thì không thể bước qua được mọi cản trở của tình yêu: vong ân, báo oán nhưng có thể vượt qua nếu yêu bằng tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa.

Gandhi, một vị cha già của dân tộc An Độ đã vĩnh viễn nằm xuống sau nhát gươm của một thanh niên quá khích, vì anh ta không thể chấp nhận sự kiện vị cha già ấy bày tỏ lòng quảng đại yêu thương ngay cả những người Hồi giáo. Hàng triệu người An Độ than khóc, để tang vì dân tộc đã mất đi một con người vĩ đại, trường kỳ lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không hề dùng đến khí giới của bạo động và hận thù.

Cũng thế, mẹ Têrêxa đã dùng chính khí giới của tình thương để cho những người không nhà không cửa, những mảnh đời đang hấp hối nơi đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người. Vì sống yêu thương, mẹ Têrêxa đã cảm nhận được cõi thẳm sâu niềm khao khát được yêu thương của người bất hạnh. Mẹ kể “Khi ở Luân Đôn, tôi có dịp đến thăm những người vô gia cư mà các nữ tu của chúng tôi săn sóc tại một trung tâm phân phát thức ăn. Một người đàn ông nọ, mà nơi cư trú là một thùng giấy cứng, cầm lấy tay tôi rồi nói: “Đã lâu lắm rồi tôi mới cảm nhận được hơi ấm của một bàn tay”. Mẹ nói tiếp, yêu thương không phải là thương hại. Điều qaun trọng không phải là tiền, của cải, mà hãy đưa bàn tay ra ngồi bên cạnh họ, tiếp xúc diện đối diện.

Những mẫu gương trên đây là những phản ảnh của một tình yêu trọn vẹn hơn, đó là tình yêu đi bước trước, hoàn toàn phục vụ trong khiêm tốn và chịu chết cho người mình yêu của Đức Giêsu. Vì thế bác ái đích thực chỉ có một kiểu mẫu chính là Ngài: mỗi Kitô hữu hãy sống cho tình yêu đó: Yêu thương như Chúa yêu thương. Nếu có ai trong chúng ta đang nhiệt tình trong các công việc từ thiện, phân phát cho đi một cái gì, hăng say hoạt động rao giảng hoặc đảm nhận việc này, việc khác… điều đó rất tốt nhưng chúng chỉ có ý nghĩa đích thực và bác ái Kitô giáo khi chúng ta làm chỉ vì yêu thương mà thôi, chứ không vì những gì có thể nhận lại, thi hành mọi việc phải làm với lòng tự nguyện, bằng một tinh thần hy sinh và lòng quảng đại vì những va chạm, bất đồng ý kiến là điều không thể tránh khỏi: mọi thành kiến, hận thù và lòng ganh tị là những thứ cản trở cho tinh thần hợp tác trong cộng đoàn giáo xứ, gia đình, đoàn thể… Đồng thời làm phân hóa, đổ vỡ tình yêu thương và bác ái đối với nhau.

Hãy tha thứ cho nhau vì những thiếu sót hạn chế nơi mỗi người là điều kiện để có thể đến gần nhau hơn, sống hiệp nhất vì Chúa đã yêu ta qua mầu nhiệm Nhập thể, sống quên mình quan tâm đến tha nhân vì Đức Kitô đã hiến mình cho nhân loại và phải trở nên sức sống cho người khác sẵn sàng phục vụ vì Chúa đã yêu ta qua Bí tích Thánh Thể.

Tóm lại: Điều răn mới của Chúa Giêsu là “Anh em hãy yêu thương nhau như Ngài yêu thương”. Quả thật, một tình yêu có ranh giới là yêu thương không có ranh giới, nghĩa là không chỉ cho đồng bào ruột thịt, mà là cho mọi người hết thảy.

Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết sống trọn vẹn điều răn yêu thương. Điều đó sẽ trở nên dấu chỉ cho một tình yêu Kitô giáo đích thực.

--------------------------------------------

 

PS 5-C4. CSTM/120- TÌNH THƯƠNG

 

Tất cả chúng ta đều biết: Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm Tuần: PS 5-C4


Tất cả chúng ta đều biết: Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm Tuần Thánh, quen gọi là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều quí giá. Những lời này được coi là những lời trăn trối đầy thân tình. Đây là những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. Chúa nhắc đi nhắc lại với các môn đệ: Ngài yêu thương họ lắm, Ngài yêu thương họ vô cùng, và Ngài bảo họ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi “yêu thương nhau” là điều răn mới ? Mới ở chỗ nào và mới như thế nào ?

Tình yêu thương thì xưa như trái đất. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi đây là điều răn mới ? Đúng thế, khi bắt đầu có con người là có tình yêu thương, và cũng từ đó bắt đầu có lời dạy: hãy yêu thương nhau. Kinh thánh Cựu ước cũng dạy yêu người, nhưng tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Chúa Giêsu đến để hoàn tất Cựu ước. Ngài đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người dám nghĩ tới. Chúa Giêsu tuyên bố đây là điều răn mới, trước hết, vì là điều răn của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu của Ngài để chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người. Và Chúa còn đưa ra một lý do mới nữa, đó là tiêu chuẩn hay kiểu mẫu yêu thương. Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”, nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy.

Tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Còn Chúa Giêsu dạy: phải yêu thương nhau như chình Ngài đã yêu thương chúng ta. Cách Ngài yêu thương vượt hẳn tiêu chuẩn của Cựu ước, Ngài yêu thương chúng ta hơn chính Ngài. Như vậy, tiêu chuẩn và kiểu mẫu cho chúng ta yêu thương nhau, chính là tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta, và tình yêu thương của Ngài là động lực thúc đẩy chúng ta yêu thương nhau. “Yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu” nghĩa là: nếu Chúa đã hiến mạng sống mình vì ta, thì ta cũng phải hiến mạng sống mình vì anh em. Nếu Chúa vốn là Thiên Chúa nhưng đã không dành cho mình chức trọng quyền cao mà đã hiến thân làm người để phục vụ loài người, thì họ cũng phải biết quên mình phục vụ nhau. Nếu Chúa là Thầy và là Chúa mà còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, thì đến lượt các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Nói cách khác, Chúa Giêsu Đấng mà các môn đệ đã nhận ra là Chúa sau Phục sinh phải là khuôn mẫu cho cuộc sống của họ. Họ phải sống như Ngài đã sống, phải yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài là qui luật hành động của người môn đệ. Vì vậy, “yêu như Chúa đã yêu” còn có nghĩa là yêu vì đã được Chúa yêu.

Thực vậy, Chúa Giêsu chính là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Trọn cuộc đời Ngài, từ khi làm người cho đến khi chết trên thập giá, là yêu thương. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Người môn đệ sẽ nối bước theo Thầy trên chính con đường Thầy đã đi và vạch ra cho họ thấy.  Khi Chúa Giêsu còn sống trên trần thế thì không cần có dấu chỉ mới nhận ra được ai là môn đệ của Ngài. Chỉ cần thấy họ nghe và đi theo Ngài là đủ. Nhưng khi Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình giữa họ nữa, thì làm thế nào mà những người không tin có thể nhận ra họ là người môn đệ của Chúa ? Theo thánh Gioan, chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là lối sống được xây dựng trên tình yêu huynh đệ, một tình yêu thực sự bằng việc làm chứ không phải nơi đầu môi chót lưỡi. Một cộng đoàn Kitô hữu nếu muốn được nhận ra là một cộng đoàn của Chúa, thì phải chứng minh bằng đời sống thấm nhuần tình yêu thương nhau. Không có một dấu chỉ nào khác có thể thay thế dấu chỉ ấy, dầu là nghi lễ, lề luật hay những biểu thức đức tin. Nhìn vào dòng lịch sử, chúng ta thấy yêu thương nhau vẫn là một nét tiêu biểu của các tín hữu buổi sơ khai. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy: họ coi mọi sự như là của chung. Họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân. Ông Tetulianô đã ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu thời sơ khai như sau: “Dân chúng nhìn họ, tức các Kitô hữu, và nói về họ rằng: “Hãy xem họ yêu thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào”. Những người ở ngoài gọi họ là Kitô hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là anh em”. Đó là cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở Giêrusalem. Gần chúng ta hơn, ở Việt Nam, cha Gaspar d’Amaral đã ghi nhận về cộng đoàn tín hữu đầu tiên ở Thăng Long, Việt Nam chúng ta sau năm năm truyền giáo đầu tiên như sau: “Giáo hữu ở đây có chừng hơn một ngàn. Họ yêu thương nhau đến nỗi những người ngoại ở chung quanh, vì không biết gọi tên đạo mới là gì, nên căn cứ vào cách sống của họ mà gọi họ là “Những người theo đạo yêu nhau”.

Là con cháu của thế hệ Kitô hữu theo đạo yêu nhau ấy, chúng ta hãy tự hỏi: những người chung quanh hôm nay nhìn vào cách sống của chúng ta họ có nhận ra chúng ta là những người theo “đạo yêu nhau” không ? Thiết tưởng không có gì phản chứng hơn trước mặt mọi người, khi các Kitô hữu bất hòa, chia rẽ nhau, thậm chí bài xích và loại trừ nhau. Rất có thể người ta thấy chúng ta chuyên cần nghe giảng, siêng năng đi lễ và cầu nguyện, nhưng lại không có sự hiệp thông huynh đệ, đồng tâm nhất trí với nhau. Điều đó đã và đang xảy ra nơi mỗi người chúng ta, gia đình chúng ta và cộng đoàn chúng ta chăng ? Thiên Chúa là tình yêu, đạo Thiên Chúa đạo là tình yêu. Chúng ta hôm nay cũng phải tiếp tục làm chứng cho mọi người thấy đạo Thiên Chúa là đạo yêu nhau. Trong những năm gần đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường đề cập đến một nền văn minh tình thương. Thực vậy, con người chỉ được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi biết sống yêu thương và nhìn nhận kẻ khác cũng là người như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, màu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương đó là bổn phận cấp bách của người kitô hữu hôm nay. Và đó cũng là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói  với chúng ta: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau”.

--------------------------------------------

 

PS 5-C5. PV/269- YÊU THƯƠNG

 

Viết về kinh nghiệm của mình ở Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho: PS 5-C5


Viết về kinh nghiệm của mình ở Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ nhắm đến các nhu cầu của mình hoặc họ phải chết. Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày lẫn đêm. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Những người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống sót, trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh em, một lý tưởng đã có cơ may tốt hơn để được sống còn. Người ta sống nhờ những gì người ta cho đi.Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó hạn chế chúng ta. Nó dựng lên các rào cản, cả những bức tường giữa chúng ta và những người khác. Điều giải phóng chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mối tình cảm sâu sắc, quan tropng đối với những người khác. Trở nên bạn hữu, anh em và chị em, người yêu là điều sẽ mở cửa nhà tù. Tình yêu thương giải phóng chúng ta khỏi tù ngục của tính ích kỷ. Brian Keenan trải qua bốn năm bị giữ làm con tin ở Libăng. Sau đó, ông đã viết: “Chỉ khi chúng ta vượt qua chính mình để cưu mang, hiểu biết và sau cùng khắc phục nỗi đau của người khác mà chúng ta trở thành chúng ta trọn vẹn. Chúng ta trở nên cởi mở và phong phú khi nhận ra nỗi đau của người khác và tiến đến để cảm nhận và cưu mang”.

Tình yêu luôn luôn đòi hỏi điều tốt nhất của chúng ta và thể hiện điều tốt nhất trong chúng ta. Được yêu thương cho người ta một lòng can đảm và năng lực lạ lùng. Khi yêu cũng thế, người ta nói: tình yêu và năng lực sẽ được ban cho họ, ở đâu có tình yêu lớn, ở đó luôn có phép lạ. “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm linh hồn chúng ta, đem lại năng lực cho tinh thần và cung cấp đam mê cho đời sống chúng ta. Nó là sự liên kết của chúng ta với Thiên Chúa và người khác”. Nếu không có tình yêu thương, người ta sẽ là gì ? Những người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo nàn. Nhưng những người sống yêu thương, có một đời sống phong phú và hiệu quả. Mục đích của đời sống là gì nếu không phải là yêu thương ? “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học tỏa sáng tình yêu thương”. Giải thoát khỏi tính ích kỷ và có khả năng yêu thương người khác – đó là ý nghĩa của đời sống. Một bác sĩ, được ưu tiên chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất của nhiều cuộc đời nói rằng, con người đối diện với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã thu được, hoặc họ nắm giữ những địa vị nào, hoặc đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối cùng, điều thật sự quan trọng là bạn đã yêu thương ai và ai đã yêu thương bạn. Những người chọn lựa yêu thương mở rộng tâm hồn mình cho những hạnh phúc lớn hơn những người không bao giờ biết đến yêu thương. Yêu thương là hạnh phúc. Nó làm chúng ta sung mãn. Từ chối yêu là bắt đầu chết. Yêu thương là bắt đầu sống. Trong lúc đức tin làm cho mọi sự thành có thể, tình yêu làm cho mọi sự được dễ dàng. Yêu thương chữa lành mọi người – cả kẻ cho lẫn người nhận.

--------------------------------------------

 

PS 5-C6. SCĐ/287- YÊU THƯƠNG

 

Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: PS 5-C6


Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo: Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết  Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đã đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ái ân. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó alexandre ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.

Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình: tình của Alexandre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn,: còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexander là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Goretti là thứ tình yêu kiểu mới.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới. Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới ? Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét,: thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn: đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa: không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất. Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào ? Có vài chi tiết trong bài Phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa:

Chi tiết thứ nhất là câu “Khi Giuđa đi rồi”: Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.

Chi tiết thứ hai là câu “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”: nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.

Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa. Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexander là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexander chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính,  của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới: yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexander. Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn “Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.

Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao ? Có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài Phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau là làm hòa với những kẻ ghét mình, là cầu nguyện cho kẻ ghét mình, là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.

 Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

--------------------------------------------

 

PS 5-C7. SCĐ/290- ĐÃ YÊU

 

Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố: PS 5-C7 chuyên FB


Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết và bị thương. Trong cái tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.

Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.

Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ: Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy Chị đáp: Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói, vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy  miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. sau đó, tôi không còn biết gì nữa ? Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao ? Tôi không hề nghĩ đến cái chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cách nào cho con tôi được sống.

--------------------------

Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay:

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

- Yêu như Thầy đã yêu,

 chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.

- Yêu như Thầy đã yêu,

chính là yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết và chết trên thập giá.

Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới. Mới ở đây, chính là yêu như Thầy đã yêu.

- Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu,

khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.

- Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu,

khi chúng ta dám quên mình, bắt chước Thầy, cúi xuống trước anh em.

- Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu,

khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng mức độ như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.

- Như vậy, yêu như Thầy đã yêu

không phải là tình yêu vị kỷ (Eros): yêu người khác, nhưng chỉ để lợi dụng, để chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.

- Yêu như Thầy đã yêu,

chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.

Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô:

“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau”.

--------------------------------------------

 

PS 5-C8. SCĐ/296- NHẬN BIẾT

 

Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây này nhỏ xíu, tưởng như mất hút: PS 5-C8


Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây này nhỏ xíu, tưởng như mất hút trong khu rừng giữa những cây to lớn. Nhưng nó hết sức cố gắng vươn lên nên một thời gian sau nó cũng cao và cũng lớn không thua kém gì các cây khác. Một hôm ông chủ của nó vào rừng thăm nó. Ông rất ngạc nhiên thấy nó cao lớn như thế. Ông trầm trồ khen ngợi: Thật không ngờ mi lớn nhanh như thế. Tuyệt vời quá! Nhưng cái cây khiêm tốn đáp lại: Chưa tuyệt vời đâu thưa ông chủ. Tôi thấy mình còn rất nhiều khuyết điểm. Thân tôi còn nhiều chỗ xù xì, lồi lõm…Nhưng những cái đó không quan trọng. Ta chẳng quan tâm. Chỉ có điều này khiến ta chưa vừa lòng. Thưa ông chủ, tôi không hiểu. Tôi đã lớn lên, chẳng kém gì những cây thông, cây sồi. Ông chủ giải thích: Nhưng mi không phải là loại cây cần có lá có cành thật lớn. Mi là cây ăn trái. Trái chính là điểm đặc biệt quí giá nơi mi. Thế mà mi chưa sinh ra được trái nào cả ! Người ta sẽ nhận biết cây nào thuộc loại cây ăn trái nếu người ta thấy nó có trái.

Cũng thế, người ta sẽ nhận biết ai là môn đệ Chúa Giêsu nếu người ta thấy họ yêu thương nhau. Nhiều Kitô hữu cố gắng làm đủ mọi chuyện, chỉ trừ chuyện yêu thương nhau! Nhìn thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy mình, một nhà báo nói: “ Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả cho tôi một triệu đôla”. Mẹ Têrêxa đáp: “Chính tôi cũng không làm nổi việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa”.

--------------------------------------------

 

PS 5-C9. SCĐ/299- TÌNH YÊU

 

Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp của bản tính loài người, và về: PS 5-C9


Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp của bản tính loài người, và về những động cơ khác nhau đàng sau những việc chúng ta làm. Yêu thương chẳng hạn: Thật không đơn giản, mà có tới ít ra 5 loại:

- Thứ nhất là tình yêu vụ lợi: ta yêu thương người nào đó vì người đó có lợi cho ta. Nhưng đây không phải là tình yêu mà là vị kỷ. Tôi yêu điều gì đó nơi bạn chứ tôi không yêu bạn.

- Thứ hai là tình yêu lãng mạn: chúng ta có tình cảm với người nào đó bởi vì người ấy làm cho mình thích. Đây cũng không phải là tình yêu mà chỉ là đam mê. Ta tưởng mình yêu người đó nhưng thực chất là ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu lãng mạn không bền vững. Bởi đó nhiều cặp vợ chồng bị thất bại.

 - Thứ ba là tình yêu dân chủ, dựa trên sự bình đẳng trước pháp luật. Ta tôn trọng người khác vì họ cũng là công dân như ta. Ta nhìn nhận những quyền tự do của họ để họ cũng nhìn nhận những quyền tự do của ta. Sở dĩ ta làm điều gì tốt cho họ là vì để họ cũng làm điều tốt cho ta. 

- Thứ tư là tình yêu nhân bản: đây là yêu người cách chung. Điểm yếu của loại tình yêu này là trừu tượng chứ ít khi cụ thể: tôi yêu người, nhưng tôi không gắn bó với người nào cả.

- Thứ năm là tình yêu Kitô, nghĩa là yêu như Đức Kitô đã yêu. Đây là tình yêu vô vị lợi, yêu khi chẳng có gì lợi cho mình. Tình yêu này tồn tại vững bền bất chấp thù nghịch và bắt bớ. Tình yêu này thể hiện qua phục vụ và hy sinh. Chúng ta chỉ có thể yêu đến mức độ thứ năm này nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

Ta thường hiểu yêu theo nghĩa thụ động hơn là chủ động. Nói cách khác, ta mong “được người yêu” hơn là “yêu người”. Vì nghĩ thế nên ta dồn mọi cố gắng để thành công, để giàu có, để có sức quyến rũ… Kết quả là chẳng được tình yêu thực sự nào cả, vì người khác chỉ yêu cái thành công, cái giàu có và cái quyến rũ của ta chứ không phải yêu ta. Trái lại nếu ta “yêu người” thì người sẽ yêu ta vì chính con người của ta. Có ba tình trạng yêu thương: (1) Không yêu và không được yêu: tình trạng này giống như hỏa ngục ngay ở đời này ; (2) Yêu mà không được yêu lại: tình trạng này tuy đau khổ nhưng khá hơn tình trạng thứ nhất ; (3) Yêu và được yêu: Đây chính là tình trạng hạnh phúc của Chúa Giêsu: “Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con”. Tình yêu là một sự chọn lựa, vì không ai ép được tình yêu. Nhưng từ chối không yêu tức là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong các điều tồi tệ là một cuộc sống lạnh lẽo vô tình.

--------------------------------------------

 

PS 5-C10. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành


Chi Tiết Hay

 

Đoạn văn hôm nay là một phần của lời giã biệt Đức Giêsu nói với các môn đệ trong bữa tiệc: PS 5-C10


Đoạn văn hôm nay là một phần của lời giã biệt Đức Giêsu nói với các môn đệ trong bữa tiệc ly. Giuđa đã ra đi vào màn đêm đen tối (13:30), còn Đức Giêsu thì bắt đầu cuộc hành trình vinh quang về với Cha của Người.

(c.31) "Giờ đây" - Đức Giêsu thấy đây là giờ Người được tôn vinh, bắt đầu ngay từ lúc Giuđa ra đi để phản bội Người.

(c.33) "những người con bé nhỏ" - Đây là lời của Cha nói với các con. Và đúng như vậy, khi Đức Giêsu nói thì chính là Chúa Cha nói qua miệng của Người, vì Người và Cha là một (10:30).

(c.34) "điều răn mới" - Yêu thương cũng là một giới luật trong sách Cựu Ước, tuy nhiên chỉ bắt buộc yêu thương những người cùng tín ngưỡng với mình mà thôi. Yêu thương theo điều răn mới của Đức Giêsu thì không trừ một ai. Tình yêu tha nhân phải tức thời, không tính toán, không kỳ thị những người tội lỗi và bất xứng.

Một Điểm Chính

Chúng ta phải yêu thương vì Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.

Suy Niệm

Các môn đệ của Đức Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của họ cho những người ngoại giáo bằng cách chấp nhận các cực hình và ngay cả hiến mạng sống của mình để rao giảng Tin Mừng. Còn tôi, tình yêu của tôi đã được thử thách chưa?

Đức Giêsu muốn tôi phải yêu thương ai? và yêu thương như thế nào?

Cộng đoàn (hay Nhóm) của bạn có rõ ràng là một cộng đoàn tình thương trong Đức Giêsu chăng?

--------------------------------------------

 

PS 5-C11. Điều răn mới


Suy Niệm

 

GANDHI được coi là bậc đại thánh của dân Ấn Độ. Ông say mê Kinh Thánh, nhất là bài giảng: PS 5-C11


GANDHI được coi là bậc đại thánh của dân Ấn Độ. Ông say mê Kinh Thánh, nhất là bài giảng trên núi. Ông nghĩ rằng Kitô giáo sẽ là câu trả lời thích đáng cho những xung đột giữa các giai cấp ở Ấn. Một ngày nọ ông đến dự lễ tại một nhà thờ. Nhưng người giữ cửa ngăn ông lại, và bảo ông nên đến dự lễ ở một nhà thờ khác dành cho người da đen. Ông đã bỏ đi và không bao giờ quay trở lại.

Có thể chúng ta đã mất một Kitô hữu tốt như Gandhi chỉ vì có sự phân biệt màu da nơi nhà thờ.

Biết đâu thế giới này lại chẳng có nhiều Gandhi, họ sống tinh thần Đức Kitô còn hơn cả các Kitô hữu.

"Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em."

Lời trăn trối của Đức Giêsu vẫn làm chúng ta nhức nhối.

Ở đây Ngài không nhắc chúng ta yêu thương người ngoài, nhưng Ngài đòi buộc các môn đệ Ngài yêu thương nhau.

Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, mới vì Ngài đòi họ phải yêu nhau như Ngài đã yêu họ.

Vấn đề cốt lõi là cảm nhận được tình yêu của Ngài.

Trước khi công bố điều răn mới này, Đức Giêsu đã rửa chân cho môn đệ, trong đó có Giuđa. Ngài cúi xuống bên chân Giuđa để bày tỏ một tình yêu. Sau đó Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa như đưa ra một vẫy gọi thân thương cuối cùng. (x. Ga 13,26)

Nhưng vô ích, Giuđa không đổi ý. Anh vẫn ra đi để làm điều mình muốn (x. Ga 13,31). Đức Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình. Ngài sẽ yêu đến cùng bằng việc hiến mạng trên thập giá.

Đức Giêsu đã yêu trước khi truyền cho ta yêu nhau.

Nếu ta không cảm nhận được tình yêu Ngài dành cho ta, thì ta cũng chẳng thể yêu nhau như Ngài muốn.

Có nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu: đeo thánh giá nơi cổ, làm dấu thánh giá trước khi ăn... Nhưng theo Đức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của nhóm môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau: cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại...

Giữa các môn đệ, có bao dị biệt, bao hàng rào. Nếu không vượt qua được những hàng rào dị biệt này thì coi như việc truyền giáo bị đổ vỡ.

Tiếc thay, vẫn chưa có sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu khác màu da, khác văn hoá, khác quan điểm chính trị... Có bất đồng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo ở Nga, giữa người Công Giáo và người Tin Lành ở Bắc Ailen. Đến bao giờ mọi Kitô hữu có thể đọc chung kinh Lạy Cha, mừng chung với nhau lễ Phục Sinh trong một ngày, cử hành chung với nhau một phụng vụ.

Thế giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu. Ước gì thế giới Kitô trở thành một ốc đảo xanh tươi mời mọi người đặt chân tới.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương lẫn nhau? Có những dấu hiệu nào để nhận ra tình yêu thương đó?

Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, cộng đoàn của bạn có làm chứng đủ về tình yêu thương nhau trước mặt mọi người chưa?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng và thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

--------------------------------------------

 

PS 5-C12. TRỜI MỚI ĐẤT MỚI- Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm

 

Thiên Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời để can: PS 5-C12


Thiên Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời để can thiệp và cứu độ con người trong những tình huống khác nhau. Ngài vẫn tiếp tục làm mới tất cả và đặc biệt con người.

Này đây Ta làm mới tất cả

 “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?

Núi bao nhiêu tuổi, vẫn là núi non!”

Một đồ vật, cũ theo thời gian. Một cái máy, không làm cái gì “mới” vì người ta biết cái gì sẽ xảy ra. Làm một cách “máy móc”, nghĩa là người ta có thể biết những hành động tiếp sau.

Con vật không có tự do, thế nên người ta có thể kiểm soát và chi phối chúng, bắt chúng làm theo ý người ta; chẳng hạn những con vật được dùng để làm xiếc. Khi một người nô lệ tiền bạc, người khác có thể dùng tiền bạc để chi phối hay điều khiển họ. Một người ham sắc, có thể bị điều khiển bởi người nữ. Chuyện Bao Tự- Kỷ vương là một thí dụ. Những người như vậy, tuy tự do mà chẳng tự do. Ai mà không thể cưỡng lại điều gì, e rằng người đó không còn tự do nữa.

Con người luôn luôn mới vì con người luôn tự do. Con người, có thể thay đổi. Đổi thành tuyệt hơn hoặc tệ hơn. Tốt hơn và tuyệt hơn, không phải là chuyện “đã qua”, nhưng luôn là chuyện “hiện tại”. Vấn đề không là “quá khứ tôi tốt”, nhưng chính yếu là “lúc này tôi có tốt không?” Vấn đề không là “hôm qua nó xấu”, nhưng chính yếu là “bây giờ người đó thế nào?” Con người, luôn luôn có thể mới. Không ai biết được! Những lần trước, họ như vậy, nhưng không có nghĩa họ như vậy lần này. 999 lần trước, họ như vậy, nhưng lần này, có thể họ khác. Con người có thể mới, con người luôn luôn có thể mới.

Con người có tự do, không ai bắt họ “đổi” được. Cha mẹ, anh em, những người thân, muốn điều tốt cho họ, thế nhưng tất cả đều bất lực. “May ra Thiên Chúa có thể làm gì được chăng!” Thiên Chúa có thể làm được, nhưng Ngài lại cho con người “tự do”, nên dường như Ngài cũng “bất lực”!

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người mà con người vẫn tự do. Thiên Chúa có thể làm điều đó, vì Ngài yêu con người vô cùng. Ngài có cách làm con người biến đổi. Dường như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm con người biến đổi, vì “dường như” chỉ Thiên Chúa mới yêu thương “ai đó” vô cùng! Tình yêu có sức biến đổi con người mà con người vẫn tự do.

Thiên Chúa vẫn đang làm mới tất cả, qua Đức Yêsu chết và phục sinh.

Yêu nhau như Thầy yêu anh em

“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.

Luật Cựu Ước dạy: “yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv.19, 18). Chúa Yêsu dạy: “yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu thương chúng ta”. Chúa đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống, và Ngài mời gọi mỗi người hãy yêu thương người khác như Ngài yêu họ.

Yêu thương người khác như chính mình, đã là một điều khó; phương chi bây giờ Ngài mời gọi yêu thương đến hiến mạng sống cho tha nhân. Ai dám nói yêu thương là điều dễ? Yêu, phải hy sinh quên mình, và làm tất cả những gì là tốt lành cho người mình yêu.

Dấu chỉ để nhận ra một người là môn đệ Chúa, không là “được rửa tội”, không là “có đi lễ Chúa Nhật”, cũng không là “mặc áo dòng”, mà là “yêu thương nhau”! Không yêu thương nhau mà nhận mình là người theo Chúa, là phản chứng. Không yêu thương mà nói mình biết Thiên Chúa, là nói dối; vì “ai yêu thương thì biết Thiên Chúa; ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 7-8). Cái biết ở đây, không là biết nói “như con vẹt”, nhưng là biết bằng hành động, bằng con tim, bằng cảm nhận.

Thiên Chúa đang làm mới tất cả qua những trung gian

Thánh Thần Thiên Chúa đã dùng các ki-tô hữu sai gởi Phao-lô và Barnaba đi rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa đã dùng Phao-lô và Barnaba để rao giảng và củng cố đức tin của các tín hữu.

Thiên Chúa vẫn đang dùng những con người hôm nay, những ki-tô hữu, để làm con người đương thời tin vào Tin Mừng, tin vào Thiên Chúa, tin vào con người. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa con người và Thiên Chúa qua các chứng nhân rao giảng Tin Mừng, qua thừa tác viên bí tích hoà giải. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa người với người qua việc làm con người tin vào nhau, khi Thiên Chúa làm cho con người biến đổi, khi Thiên Chúa làm cho con người tin vào Thiên Chúa để có thể tin vào nhau.

Thiên Chúa vẫn đang làm mới con người, trái đất này, vũ trụ này qua những trung gian và phương tiện khác nhau. Khi tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành con người mới, tạo vật mới.

Tạ ơn Chúa, và cám ơn tất cả mọi người- những trung gian của Chúa cho tôi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có thấy ai chán nản và tuyệt vọng không? Đâu là nguyên do làm con người tuyệt vọng?

2. Con người luôn có thể không trung tín, vậy tại sao con người có thể tin vào nhau? (chẳng hạn vợ chồng, bạn bè)

3. Bạn có kinh nghiệm được Thiên Chúa dùng như trung gian để làm mới ai đó không? Nếu được xin bạn chia sẻ.

--------------------------------------------

 

PS 5-C13. THẦY BAN CHO CÁC CON ĐIỀU RĂN MỚI,


LÀ CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU-Lm. Thu Băng

 

Năm 1977 một tai nạn xe hơi khủng khiếp xẩy ra tại Michigan cho một chàng thanh niên. Xe lật: PS 5-C13


Năm 1977 một tai nạn xe hơi khủng khiếp xẩy ra tại Michigan cho một chàng thanh niên. Xe lật mấy vòng, Anh Nguyễn Peter 22 tuổi bị kẹt ở trong xe phải cưa xe mới lấy anh ra được. Anh bị nặng nhất là đầu, chân và hai tay và bị hôn mê bất tỉnh. Cô Nguyễn ngọc Hồng Bích vị hôn thê sắp cưới của anh được hung tin, cô hốt hoảng chạy đến nhà thương săn sóc anh. Sau một thời gian, anh phải cắt đi một cánh tay trái, một chân phải. Đêm ngày cô thường ngồi trực cạnh giường của anh vừa vỗ về vừa khích lệ anh: "Hồng Bích đây, Hồng Bích vẫn ở bên anh đây" trong khi đó anh Peter vẫn hôn mê không hay biết gì về sự hiện diện của cô. Thế rồi đêm nọ Hồng Bích nhìn thấy Peter cử động cánh tay phải và anh đã tỉnh lại. Ít lâu sau anh được rời bệnh viện. Ngọc Bích xin nghỉ việc để ở nhà săn sóc chàng. Sau ba tháng trời săn sóc, Peter cầm tay Ngọc Bích thều thào nói: "Cám ơn em, không có em thì anh chết mất. Em nói với ba má cho phép anh được cưới em". Ba Hồng Bích tỏ ra ái ngại về cuộc hôn nhân què quặt này. Nhưng Hồng Bích nhất định với bất cứ giá nào cũng cưới cho được chàng. Ông chiều ý con nên nói: "Thì ba bằng lòng, nhưng cho tới khi nào thằng Peter có thể đi đứng đàng hoàng từ cuối nhà thờ, trong lễ cưới". Được tin vui, cô cậu cố ráng chăm sóc cho nhau và ra công luyện tập. Hai năm sau, họ vui vẻ bước vào nhà thờ làm hôn lễ giữa niềm vui của họ hàng và bạn thân.

Câu chuyện tình trên cũng nói lên được lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay "Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau".

"Thiên Chúa lau khô giọt lệ của họ" (Rev.21:1).

"Các con hãy yêu thương nhau" (Jn.13:31-35).

THIÊN CHÚA LAU SẠCH GIỌT LỆ:

Người thất vọng nhìn cuộc đời cái gì cũng thấy đen tối. Đời đối với họ là một bể khổ, là lọc lừa, là cạm bẫy.

Người yêu đời nhìn cái gì trong cuộc đời cũng được kết bằng hoa hồng thắm tươi. Nhưng trong thực tế, cuộc đời pha trộn cả buồn lẫn vui, cả khổ lẫn sướng, cả hạnh phúc lẫn sầu đau.

Con người không thể sống mà không có niềm vui. Nếu cuộc đời chỉ nối tiếp bằng những đám tang mà thiếu vắng đám cưới; nếu cuộc đời chỉ có công việc mà không có giải trí... Thì gánh nặng cuộc đời sẽ làm cho rất nhiều người ngã qụy. Trái lại mong chờ quá nhiều vui sướng trong cưộc đời lại là một điều rất nguy hiểm, bởi vì mong chờ như thế sẽ dễ dàng thất vọng.

Bạn bè nói với ta rằng: Cần phải xem cuốn phim mới, vì nó hay lắm. Lòng mong mỏi chờ đợi xem cuốn phim sẽ làm cho ta như nuốt được hạnh phúc. Nhưng thường khi xem xong ta chép miệng: "Biết vậy không xem thì tốt hơn. Phim chẳng có gì hấp dẫn". Một hình ảnh tương tự: Ngày cưới của con gái, người Mẹ thường trào lệ vì vui, nhưng rồi giọt lệ trào ra cũng lại là giọt lệ buồn khi người con gái từ giã gia đình lên xe hoa về nhà chồng.

Người Kitô hữu có nhiều lý do để sống vui, nhưng chúng ta cũng không thể quên rằng: Nước Thiên Chúa mới chỉ bắt đầu nơi chúng ta. Sự hoàn thành viên mãn của nước Chúa sẽ đến sau. Ở bên này nấm mồ chúng ta còn phải sống căng thẳng giữa điều thực hiện và điều chưa thực hiện. Giữa điều thiện và điều ác. Sau bên kia nấm mồ mới thấy rõ triều thiên vinh thắng của mình trong mọi trận chiến ở trần gian.

Bài trích sách Khải huyền hôm nay diễn tả niềm an ủi của những ai đang phải trải qua nhiều thử thách đau thương. Người xưa thường quan niệm: "Biển gây giông tố là do quỉ tặc gây ra. Vì thế biển luôn luôn là sự đe dọa hiểm nghèo". Nói biển không còn nữa là nói đau khổ đã hết. Tất cả niềm hạnh phúc mới được bắt đầu trong cuộc sống của người Kitô hữu, nhưng sẽ chỉ hoàn tất đầy đủ ở cưộc sống mai sau.

CÁC CON HÃY YÊU THƯƠNG NHAU:

Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con, nghĩa là con phải yêu thương anh chị em con với tất cả con người của mình, phải quên mình cho người khác và đem sự lành của con cho họ, vì Chúa đến cửu tất cả chúng con và muốn thấy mọi người xử tốt với nhau.

Chúa ơi, Phải chăng Chúa làm cho cuộc đời con thêm phức tạp, vì con phải yêu thương tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi lúc?

Đôi khi con nghĩ con đã làm như Chúa đã dạy và nhiều người cũng nghĩ con tốt lành thánh thiện và luôn sẵn sàng như thế. Nhưng lúc đó Chúa lại nói với con rằng "Chưa đủ" và cũng có thể Chúa nói "Con làm sai" nữa, vì có pha tính ích kỷ, tìm lợi lộc cho riêng con.

Thực khó mà thương được những người con thấy hàng ngày, còn cả những người con không thấy, không biết. Lạy Chúa, con đang đi trên đường về Jêricô, trên con đường nhỏ của chính con mà con đang đi, nhưng còn đường này dài hơn con tưởng tượng, dài tới tận cùng trái đất, cho tới khi hết mọi người nằm xuống. Xin Chúa giúp con, để một tay con thương yêu phục vụ anh chị em này thì tay kia con cũng thương yêu phục vụ người anh chị em khác. Ý Chúa lớn lao quá mà tim con lại nhỏ bé quá. Con khó mà thương hết mọi người. Chớ gì con luôn hân hoan nói lên được rằng: Con là dụng cụ để anh chị em xử dụng. Tôi đây, hỡi anh chị em.

--------------------------------------------

 

PS 5-C14. MỘT LỜI TRỐI TRĂN- Lm. Bùi Mạnh Tín

 

Những lời khuyên bảo về tình đoàn kết yêu thương không bao giờ dư thừa, trái lại luôn cần: PS 5-C14


Những lời khuyên bảo về tình đoàn kết yêu thương không bao giờ dư thừa, trái lại luôn cần thiết trong mọi hoàn cảnh và cho mọi người. Lời khuyên đó càng đáng trân trọng và quan tâm hơn, khi nó xuất phát từ tấm lòng của một người cha trước giờ vĩnh biệt con cái. Những lời ấy cần phải được con cái ghi nhớ như một lời trối trăn quan trọng và được thi hành nghiêm chỉnh như một bổn phận trong tinh thần hiếu thảo. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ cảm nghiệm được phần nào những tâm tình tha thiết của Chúa Giêsu khi ban bố giới luật yêu thương cho các môn đệ.

Khi đọc những lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu trong khung cảnh Phòng Tiệc Ly, nhiều người có thể nhớ lại một câu truyện quen thuộc: Một người cha trước khi qua đời, đã gọi các con lại và dạy chúng bài học đoàn kết yêu thương. Để minh chứng sự đoàn kết có một sức mạnh lớn lao, ông trao cho người con cả một bó đũa và xin cậu lần lượt bẻ gẫy từng cái. Cậu đã bẻ gẫy rất dễ dàng. Sau đó, ông lại trao cho cậu một bó đũa khác nhưng được bó chặt lại với nhau và xin cậu bẻ gẫy tất cả một lượt, nhưng cậu không tài nào bẻ được. Lúc đó người cha âu yếm mỉm cười nhìn các con và nói: "Chúng con biết đó, khi chúng con đoàn kết gắn bó với nhau, chúng con sẽ tạo được một sức mạnh lớn lao để thắng vượt mọi thử thách và đương đầu trước mọi gian nguy. Nhưng khi chúng con chia rẽ, chúng con sẽ mất đi tất cả sức mạnh cần thiết và chúng con sẽ gục ngã."

Người cha trên giường bệnh đó có thể được ví như Đức Kitô trong bữa tiệc ly; con cái của ông chính là các môn đệ và tất cả chúng ta, những người đã tin theo Chúa Kitô và trở thành môn đệ của Ngài. Thật vậy, chính trong căn phòng ấm cúng này, vào buổi tối trước giờ vĩnh biệt, Chúa đã kêu gọi các môn đệ phải thương yêu nhau. Đây là một lời trối trăn quan trọng và cũng là một giới răn riêng của Ngài mà Ngài muốn các môn đệ luôn ghi nhớ và thực hành. Khi nói: "Thầy còn nhiều điều phải nói với chúng con...", Chúa cho các môn đệ và chúng ta thấy rằng, "nhiều điều phải nói" đó, có thể "tạm gác lại", nhưng vấn đề yêu thương đoàn kết thì không thể bỏ qua, vì nó hết sức quan trọng ngay trong hàng ngũ hiện tại của các môn đệ cũng như tương lai của Giáo Hội sau này. Thật vậy, ơn cứu độ có được tiếp tục rao giảng và lãnh nhận hay không, người ta có tiếp tục nhận biết Thiên Chúa và trở thành môn đệ Đức Kitô hay không, tất cả tùy thuộc ở giới răn bác ái này. Nhưng làm cách nào để chu toàn giới răn? Chúa trả lời gọn ghẽ: "Anh em cứ yêu thương nhau theo đúng như cách thức Thày đã thương yêu anh em", có nghĩa là cứ nhìn vào cách sống của Chúa mà bắt chước. Cảm nghiệm được tâm tư của Thày mình, ý thức được tầm quan trọng trong lời trối trăn, và chắc hẳn đã có những kinh nghiệm trong việc thực thi giới răn bác ái, Thánh Gioan mạnh dạn tuyên bố: "Nếu chúng ta thương yêu nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta" (1 Gio 4,12b), và: "Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa" (1 Gio 4,8), bởi vì "Ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em mình mà họ trông thấy, làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng họ không trông thấy" (1 Gio 4,20). Cho nên: "Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình" (1 Gio 4,21). Thánh Phaolô tóm tắt: "Ai yêu thương, người đó chu toàn luật Chúa." (Rom 13, 9b).

Là những người Công Giáo, chúng ta cố gắng chu toàn việc tham đự thánh lễ Chúa Nhật, xưng tội rước lễ mùa Phục Sinh, lâu lâu đóng góp chút thời giờ và tiền bạc cho gíao xứ; và chúng ta cho như vậy là đủ. Cũng qua những công việc đó, chúng ta biết ai là Công Giáo, ai không, đánh gía ai "ngoan đạo, ai khô khan"... Nhưng hôm nay, qua những lời tuyên bố của Chúa, chúng ta có một cái nhìn mới mẻ hơn, chính xác hơn, biết rằng các công việc đó là cần thiết và có thể là những dấu chỉ tốt của một Kitô hữu, nhưng chúng không phải là những điều cốt yếu và căn bản. Tình bác ái mới thực sự là căn bản cốt yếu. Chính tình bác ái được thực hiện theo cách thức và tâm tình của Chúa Kitô mới biến đổi chúng ta thành môm đệ Đức Kitô.

--------------------------------------------

 

PS 5-C15. THẾ GIỚI VẮNG BÓNG TÌNH YÊU - Lm Augustine, SJ


Ga 13,31-33a.34-35

 

Tình yêu là đề tài muôn thuở. Nhất là vào thời bây giờ, tình yêu là một mặt hàng đắt khách: PS 5-C15


Tình yêu là đề tài muôn thuở. Nhất là vào thời bây giờ, tình yêu là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện ở sách vở, báo chí, phim ảnh, và mọi ngành nghệ thuật. Những bản tình ca, những tạp chí chuyên đề về tình yêu, vẫn thu hút mọi người. Có vẻ như tình yêu hiện diện ở khắp nơi và chi phối đời sống nhân loại. Thế nhưng sự thật lại khác hẳn. Thế giới chúng ta đang sống lại là một thế giới bị xâu xé bởi hận thù, người ta tưởng khi cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ kết thúc, thế giới sẽ được sống trong hoà bình. Nhưng từ đó đến nay, thế giới vẫn không ngừng sôi sục vì chiến tranh và xung đột. Xung đột giữa các quốc gia vốn là anh em với nhau, xung đột giữa các bộ tộc trong cùng một đất nước, xung đột giữa các tín đồ của những tôn giáo khác nhau. Người ta giết nhau không nương tay, không chút nhân hậu. Thế giới bị đe dọa bởi chính con người. Cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc đã chọn năm 1995 là năm cổ võ lòng khoan dung, bởi lẽ chỉ có lòng khoan dung mới cứu được thế giới khỏi thảm hoạ diệt vong bởi chính sự cứng cỏi của nó.

Gần đây, Đức Thánh Cha thường nói đến một "nền văn minh tình thương". Con người chỉ được coi là văn minh khi nó bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi nó biết sống yêu thương và nhìn nhận người khác cũng như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, màu da, tôn giáo, quan điểm chính trị hay xã hội… Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương, đó là bổn phận cấp bách của người Kitô hữu hôm nay.

Một điều răn mới


Hai câu cuối của bài Tin Mừng trên đây là lời Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ yêu dấu. Đó cũng là lời Ngài nói với mọi Kitô hữu hôm nay. "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy thương yêu nhau". Điều răn "cũ" nằm ở trong sách Lêvi 19, 18: "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Đức Giêsu đã từng giải thích lại ý niệm về "người thân cận". Người thân cận không phải chỉ là đồng bào ruột thịt, mà là bất cứ ai mang tư cách là người. Khi tôi giúp đỡ ai, tôi làm cho người đó trở thành "người thân cận" của tôi (Lc 10, 29.36). Điều răn cũ này vẫn là điều răn quan trọng bậc nhất; người Kitô hữu vẫn phải giữ khi sống với tha nhân (Rm 13, 8; Cl 3,14).

Ở đây Đức Giêsu đưa ra một điều răn "mới", xét về nhiều phương diện. Trước hết, điều răn này có một phạm vi nhỏ hơn. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ yêu thương nhau. Đó là tình yêu thương giữa những người Kitô hữu, những người đồng đạo. Đức Giêsu không phủ nhận điều răn phải yêu thương mọi người (agapê), nhưng ở đây Ngài nói đến một điều răn mới, đó là tình huynh đệ giữa những kẻ có cùng niềm tin vào Ngài (philadelphia).

Kế đến, điều răn này có tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn. Kitô hữu phải yêu mọi người như chính mình, nhưng họ phải yêu thương các Kitô hữu khác như Đức Giêsu đã yêu thương họ, nghĩa là hiến mình phục vụ cho đến chết.

Cuối cùng, điều răn này được coi là mới vì nó gắn liền với Giao Ước Mới, Giao Ước đã được thiết lập trong máu Đức Giêsu (Lc 22, 20; 1C 11, 25). Đây không phải là điều răn được khắc trên bia đá (Xh 24, 12), nhưng là điều răn được ghi tạc vào tâm hồn các Kitô hữu do tác động của Thánh Thần (x. Gr 31, 31-34; Ed 36, 25-28).

Thánh Giêrônimô có kể lại một chuyện về thánh Gioan tông đồ. Lúc vị tông đồ đã về già, ngài vẫn không ngừng nhắc nhở các Kitô hữu trong cộng đoàn là hãy yêu thương nhau. Người ta phát chán vì thấy ngài cứ nói mãi điều ấy, nên mới hỏi ngài lý do. Ngài trả lời: "Bởi vì đó là điều răn của Chúa. Chỉ cần giữ điều răn này là đủ."

Đức Giêsu đã coi tình yêu thương giữa các Kitô hữu là một dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đích thực của Ngài. Nói cách khác, có thể định nghĩa môn đệ là những người biết yêu thương nhau. Yêu thương nhau vốn là nét đặc trưng của các tín hữu buổi đầu. Sách Công Vụ cho thấy "mọi người tín hữu đều coi mọi sự như của chung" (2, 44), họ "đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền Thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân." (2, 46). Tình yêu thương giữa các Kitô hữu đã khiến dân ngoại phải thốt lên: "Xem kìa, họ yêu thương nhau biết chừng nào, họ dám sẵn sàng chết cho nhau!" Những Kitô hữu đầu tiên ở Việt Nam cũng đã được gọi là những người theo "đạo yêu thương", không có tình yêu thương, chẳng ai nhận ra chúng ta là môn đệ Đức Giêsu, Đấng đã yêu thương và yêu thương đến cùng.

Bản chất của người môn đệ là yêu thương. Nhưng trong thực tế các Kitô hữu ngày nay vẫn chưa sống trọn vẹn điều răn mới này. Có biết bao tranh chấp, đã và đang xảy ra trên thế giới, giữa những anh chị em Kitô hữu. Gần đây, ở Phi Châu (Rwanda), hai bộ tộc Hutu và Tutsi đã tàn sát lẫn nhau không thương tiếc. Mà cả hai phần lớn đều là những người công giáo, vốn là anh em với nhau. Phải chăng dấu ấn Kitô hữu chưa thực sự thấm nhuần vào đời sống chúng ta, đưa chúng ta vượt lên trên những bất đồng và dị biệt về nhiều mặt.

"Anh chị em hãy yêu thương nhau". Chúa Giêsu phục sinh vẫn muốn nhắc lại mãi điều răn này cho từng Kitô hữu. Tình yêu không chỉ vắng bóng trên thế giới, mà đôi khi còn vắng bóng cả nơi các tập thể Kitô hữu. Gia đình, giáo xứ, dòng tu, các hội đoàn, các hội thánh Kitô giáo trên khắp thế giới, được mời gọi yêu thương như lời chứng cho nhân loại hôm nay về Chúa Giêsu. Giữa một thế giới bị phân hoá và đỗ vỡ, tình yêu nơi những Kitô hữu cho thấy sức mạnh hiệp nhất của Chúa Phục Sinh. Yêu thương chính là làm việc tông đồ truyền giáo rồi vậy.

Những khuôn mặt của tình yêu

Khi nhìn ngắm Đức Giêsu, chúng ta thấy một số nét nổi bật nơi cách bày tỏ tình yêu của Ngài. Chúng ta ao ước mình có thể yêu NHƯ Đức Giêsu, chẳng những đối với anh chị em đồng đạo, mà cả đối với mọi người.

Một tình yêu đi bước trước. Đức Giêsu không chờ người khác đến với mình. Chính Ngài mời gọi ông Lêvi làm môn đệ, xin đến ở trọ nhà ông Dakêu làm nghề thu thuế; chính Ngài đã trở nên bạn đồng hành của hai môn đệ chán nản trở về Emmau; đã hiện ra để thỏa mãn những đòi hỏi của ông Tôma cứng lòng. Chẳng ai bắt Ngài làm thế. Chỉ tình yêu mới cho Ngài sự bạo dạn để đến với con người, đặc biệt những người tội lỗi. Ngài cũng mời chúng ta để lễ vật lại mà đi làm hoà với người gây chuyện xích mích với ta (Mt 5, 23-25).

Một tình yêu khiêm tốn. Cần nhìn ngắm Con Thiên Chúa mới sinh ở Bêlem để hiểu thế nào là khiêm tốn. Đức Giêsu sống khiêm tốn suốt một đời. Ngài không làm ai bị choáng ngợp bởi quyền uy hay sự thánh thiện. Phụ nữ, trẻ em, người bị xã hội ruồng bỏ, ai cũng có thể đến với Ngài. Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11, 29). Tình yêu khiêm tốn là tình yêu cúi xuống. Tình yêu này khiến ta ngửa tay xin ngay cả một người nghèo khó nhất.

Một tình yêu phục vụ. Đức Giêsu ý thức về sứ mạng phục vụ của mình. Con Người đến là để phục vụ và hiến mạng cho muôn người (Mc 10, 45). Ngài đã rao giảng Tin Mừng xoa dịu vết thương của người đau khổ. Ngài mời chúng ta rửa chân cho nhau, nghĩa là phục vụ trong khiêm hạ (Ga 13, 13). Chính Ngài cũng tự nhận mình chỉ là người hầu bàn cho các khách dự tiệc (Lc 22, 27). Thập giá là đỉnh cao của tình yêu phục vụ. Tình yêu có thể bị khước từ, lăng nhục, nhưng cuối cùng tình yêu sẽ thắng. Thập giá là nơi Đức Giêsu được tôn vinh và là nơi tình yêu của Chúa Cha được bày tỏ trọn vẹn cho nhân loại.

Một số câu hỏi gợi ý
1. Thật là một thánh giá khi phải chung sống và chịu đựng một người trong gia đình hay trong cộng đoàn. Bạn có cách làm cho thánh giá đó nhẹ bớt phần nào không?
2. Bạn nghĩ gì về bầu khí yêu thương nơi các tập thể bạn đang sống? Bạn có thể làm gì để mọi người trong gia đình, trong nhóm, trong xứ đạo, thông cảm và đón nhận nhau hơn?

(Vietnamese Missionaries in Taiwan )


--------------------------------------------

 

PS 5-C16. NHỮNG LỜI CÁO BIỆT - Lm JK


Ga 13,31-33a.34-35

 

Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giêsu nói: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được: PS 5-C16


Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giêsu nói: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.»

Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau.»

Suy niệm

Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao sắp tới lúc chịu tử nạn, Đức Giê-su lại nói rằng sắp tới giờ Ngài được tôn vinh? Tử nạn và tôn vinh có phải là một sự kiện duy nhất không?


2. Tại sao khi Đức Giê-su được tôn vinh, thì Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người? Có gì tương tự như thế giữa Thiên Chúa và chúng ta như nơi Đức Giê-su không?

Tại sao sự yêu thương nhau lại là dấu chứng của các môn đệ Chúa? Thế còn việc làm dấu thánh giá có phải là dấu chứng không?

Suy tư gợi ý:

1. Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Giê-su và qua Đức Giê-su


a) Hai mặt đối nghịch nhau của mầu nhiệm vượt qua

«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giê-su nói điều này ngay trước khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà Ngài lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho thấy «tử nạn» và «được tôn vinh» là hai mặt khác nhau của cùng một sự việc. Nói cách khác, tử nạn và phục sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược lại nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một tờ giấy duy nhất.

Đó là chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu khó nhọc học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh phận gì.

Ý thức được thực tế của mầu nhiệm vượt qua, người kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh phúc mà không phải qua đau khổ, hay có được vinh quang mà không phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục sinh mà không cần tử nạn. Qui luật thực tế của đời sống không cho phép như thế. Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn vinh quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà không cần tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả mọi người, vì những ước muốn đó thường dẫn đến tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi xảy ra trên đời đều xuất phát từ ước muốn không thực tế đó. Kẻ trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người, gian dâm, v.v… đều là những kẻ muốn hạnh phúc mà không phải khó nhọc, vất vả. Tới đây, ta nên nhớ lại lời của Đức Giê-su: «Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy» (Mt 7,13-14).

b) Trong Đức Giê-su, Thiên Chúa và con người là một


«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giê-su và Thiên Chúa đều được tôn vinh trong cùng một con người (là chính Đức Giê-su), và trong cùng một sự việc (là cuộc tử nạn). Điều này cho thấy Đức Giê-su và Thiên Chúa liên quan với nhau mật thiết đến mức có thể nói Đức Giê-su và Thiên Chúa là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất: con người Đức Giê-su. Có thể nói Đức Giê-su, một mặt là một con người yếu đuối, bị hạn chế đủ mọi mặt, mặt khác lại chính là một Thiên Chúa mạnh mẽ, vô hạn đủ mọi mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau thành một con người duy nhất.

Đức Giê-su chính là mô hình gương mẫu của chúng ta, của mọi người kitô-hữu. Cũng tương tự như Đức Giê-su, một mặt ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu đuối, dễ trở nên tội lỗi, một mặt ta chính là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn, mạnh mẽ, thánh thiện, «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Tính chất thần linh trong bản thân của đa số chúng ta có thể còn ở dạng mầm, chưa phát triển. Bổn phận và sứ mạng của người kitô-hữu là phải làm sao để cái mầm thần linh ấy ngày càng phát triển lớn mạnh lên. Ta càng ý thức được tính chất thần linh của mình, và cố gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.

Khi mầm thần linh ấy phát triển trong ta, khiến ta sống, hành động và xử sự như Đức Giê-su, thì ta có thể nói được như Ngài: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Thiên Chúa chỉ được tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm thần linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm thần linh ấy chính là Nước Trời ở trong ta. Đức Giê-su đã từng nói: «Nước Thiên Chúa ở trong anh em» (Lc 17,21). Và trong bản thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy, giống như một hạt cải, «là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất. Nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được» (Mt 13,32). Nhưng mầm thần linh ấy chỉ phát triển khi «cái tôi đáng ghét» của ta thật sự nhỏ đi: «Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga2. Yêu thương là điều kiện phát triển tính thần linh trong ta.

Mầm thần linh ấy không thể phát triển được trong một con người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển hình ảnh của Thiên Chúa trong ta và sự trương phình bản ngã của ta là hai sự việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Càng coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt nặng cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át tính chất thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt, nhỏ bé đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ tội lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng tội». Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự hủy cái tôi của mình đi. Đức Giê-su đã từng nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái.

Yêu thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu. «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm thần linh ấy không thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của mình quá lớn.

Chính vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để chịu tử nạn và về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su cho các môn đệ biết cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể căn cứ vào đó mà biết được ai là môn đệ đích thực của Ngài, đó là tình yêu thương đối với mọi người, và nhất là đối với nhau. «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau». Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ… chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫn có thể giả mạo. Còn sự yêu thương – được thể hiện cụ thể bằng hành động – mới là dấu chứng thật sự của người kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội, thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà rhôi (xem Rm 2,12-24).

Cầu nguyện


Lạy Chúa, xin biến cải lòng con thành «trời mới đất mới», thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa – là tình yêu – ở trong con.

--------------------------------------------

 

PS 5-C17. THẬT TUYỆT VỜI CÁI GIỚI RĂN... - Lm Phêrô Phan Văn Lợi

 

Ngày nọ, một linh mục nghe một thanh niên 16 tuổi nói với mình: “Thật tuyệt: PS 5-C17


Ngày nọ, một linh mục nghe một thanh niên 16 tuổi nói với mình: “Thật tuyệt vời cái tôn giáo chỉ đòi hỏi một chuyện là yêu mến. Đức Giêsu thật tuyệt vời khi cho chúng ta một giới răn duy nhất là mến yêu!” Một thoáng im lặng rồi cậu dán mắt vào vị linh mục: “Phần cha, cha có thực hành giới răn của Đức Giêsu không?” Vị linh mục đã trả lời như mọi kitô hữu, nếu không khó chiu, có lẽ sẽ trả lời: “Tôi đang cố gắng!”

1. Yêu thương như Thầy...

Đúng thế, lòng yêu mến gần như làm nên linh hồn, ý lực cho các diễn từ thời danh của Đức Giêsu trong bữa Tiệc ly được Gioan ghi chép và được đoản văn Tin Mừng hôm nay lấy lại. Ngỏ lời với môn đệ, Đức Giêsu đề nghị với họ “giới răn mới của Người”. Nó “mới” vì là điều khoản căn bản và độc nhất của “giao ước mới” đã được Giêrêmia loan báo (31,31-34) và được cuộc Vượt qua của Đức Kitô khai mạc.
Đó là một tình yêu hỗ tương (“yêu nhau”) nhờ đó không ai ở trên người khác và tất cả đều cần tình thương của tha nhân. Đó là một tình yêu nghịch lý, ngược đời: thôi yêu người thân cận như chính mình, như Cựu Ước đã dạy (x. Lv 19,18) và chính Đức Giêsu cũng đã dạy (x. Mt 22,39), nhưng yêu thương “như Thầy đã thương yêu anh em”, với chính sự hiến thân toàn diện và vô biên của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.


Nhiều kẻ coi chữ “như” này tựa một liên từ so sánh: các môn đệ được kêu gọi bắt chước lối xử thế của Thầy mình. Thật ra, không chỉ biểu thị sự so sánh, liên từ đó còn biểu thị nguồn gốc của tình yêu mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ. Thành ra có thể diễn dịch: “Anh em hãy yêu thương nhau... vì Thầy đã thương yêu anh em, để anh em yêu thương nhau như Thầy” hoặc “Anh em hãy thương yêu nhau bằng tình yêu mà Thầy đã dùng để yêu thương anh em”. Nghĩa là “tình yêu của Chúa Con đối với các môn đệ làm phát sinh lòng bác ái nơi các môn đệ. Chính tình yêu của Người lưu chuyển đến họ, làm cho họ yêu mến anh em và được anh em yêu mến. Tình yêu của Đức Giêsu triển nở nơi các tín hữu mang dấu ấn tình yêu Chúa Cha” (X. Léon-Dufour)

Cuối cùng, đó là một tình yêu phải trở nên tấm thẻ độc nhất cho biết mình thuộc về cộng đoàn của Đức Kitô, trở nên bằng chứng sống động nhất cho thấy ta đã tin vào Người. Chính vì thế mà chân dung đẹp nhất của Giáo Hội mọi thời là chân dung được Luca vẽ ra trong sách Công vụ: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (4,32).

Và như để minh họa cho giáo huấn tối hậu ấy trong giờ phút tối hậu ấy, có hai nhân vật và hai câu nói hết sức thảng thốt của Đức Giêsu: “Một kẻ trong anh em sẽ nộp Thầy!” Và “Gà chưa gáy, anh đã ba phen chối Thầy”. Hai thảm kịch này của tình bạn, của tình yêu làm sáng lên những gì Đức Giêsu vừa dạy cho cả nhóm. Giuđa đã lao vào đêm tối (“ra khỏi phòng tiệc ly”) và y đã không thể trồi lên lại. Y đã thất vọng, y là hình ảnh khủng khiếp của tuyệt vọng: tất cả chấm dứt với tôi rồi. Phêrô cũng sẽ lường được lỗi lầm mình, nhưng ông sẽ vẫn ở lại trong tình yêu. Ông chắc chắn mình còn được yêu mến và còn có thể yêu mến. Chính cái “còn” này giúp ông không chìm vào thất vọng, như thánh ca mùa chay hay nhất hát lên: “Không đêm tối nào mà chẳng hy vọng ánh sáng. Không gì chấm dứt với Thiên Chúa cả”.
Khi nghĩ rằng Thiên Chúa không thể tha thứ cho mình, chúng ta trở thành Giuđa. Trong khi chúng ta luôn có thể trở thành Phêrô và nghe được lời làm cho chúng ta sống lại: “Con có yêu mến Thầy không?”. Chính cái đó mới đáng kể: “Con có yêu mến Thầy không?”

2. Yêu thương ngay cả...

Nghe những giáo huấn ấy, nhìn những tấm gương ấy, những tấm gương còn kéo dài qua lịch sử Giáo Hội, trong đời sống các kitô hữu đích thực, thậm chí trong đời sống của biết bao người lành ngoại đạo, tất cả chúng ta có lẽ đều nuôi dưỡng ước mơ thầm kín là một ngày nào đó, rốt cục chúng ta sẽ thật sự đặt cược đời mình trên tình huynh đệ. Ta sẽ yêu thương ngay cả X... đúng như bản chất anh ấy, ngay cả Y... sau những gì chị ấy đã làm cho ta. Chúng ta cảm thấy rõ ràng chọn lựa của tình yêu là như thế, không chùn lại khi điều đó trở nên khó khăn. Đi cho đến cùng một chọn lựa cứng rắn: bằng bất cứ giá nào, tôi vẫn muốn yêu thương, tôi sẽ chẳng để cho quyết định thương yêu của mình cao bay xa chạy.


Chúng ta sẽ chẳng luôn luôn đạt tới đó, nhưng có thể đạt tới chỗ chẳng bao giờ cho mình những lý do để bỏ cuộc, chẳng bao giờ quyết định rằng trong một hoàn cảnh nào đó, đối với một ai đó, chúng ta không có bổn phận yêu thương. Chính tính vô điều kiện ấy của tình yêu xét như quy luật sống tuyệt đối bất khả xâm phạm mới biến ta thành kitô hữu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. Ở điểm duy nhất này. Không có ba mươi sáu điểm, không có hàng trăm điểm!

Đúng! cho tới khi xảy ra với X... hay với Y... một cái gì đó khiến chúng ta nói: “Đến đây thì không thể yêu thương nổi, Thiên Chúa không thể đòi tôi một chuyện như vậy”. Người đòi hỏi đấy! Nếu chúng ta chẳng tin rằng mình là những kẻ được gọi làm điều không thể, thì hãy khép sách Tin Mừng lại đi! Bí quyết lớn lao của Tin Mừng, đó chẳng phải là dạy ta “hãy yêu thương”, nhưng là bảo rằng ta có thể làm điều ấy vì ta là những kẻ đã được cứu chuộc. Được cứu chuộc bởi Đức Giêsu Kitô, điều đó muốn nói ta có thể yêu thương như Người: “Với Đấng đã chiến thắng sự chết, bạn có thể làm những điều bất khả” (Chiara Lubich). Và thành thử là yêu thương ngay cả X... ngay cả Y... Thay vì lải nhải: “Chúng ta hãy thương yêu nhau”, hãy dám can đảm đương đầu với khó khăn hiện thời của mình: “Tại sao tôi đang căm ghét X..., oán hận Y...?”

Chúng ta biết rõ mình đôi khi có những lý do mạnh mẽ để bỏ rơi hay căm ghét một ai đó. Nhưng chọn lựa yêu thương của ta phải đi đến chỗ điên rồ cuối cùng, điên rồ lớn nhất của Tin Mừng: yêu thương ngay cả trong một cuộc tranh chấp, đi đến chỗ chẳng nói xấu chút nào kẻ thù của ta, không cầu mong điều dữ song là điều lành cho đương sự, cho dẫu phải chống lại đương sự.

Vì không có chuyện chạy trốn trước một xung đột khả dĩ. Các kitô hữu chẳng chống lại gì trong thế giới chúng ta như hiện thời đều là những kẻ ích kỷ và có lẽ là những kẻ hèn nhát, chứ chẳng phải là môn đệ của Đức Kitô. Chúng ta được mời gọi yêu thương trong các cuộc xung đột và điều đó có thể dẫn tới chỗ gây ra một xung đột nhân danh công lý, vì công lý là một trong những khuôn mặt cao cả của tình yêu. Bác ái không thể định nghĩa được bằng ngôn từ “cảm tính” hay “sủng mộ”. Olivier Clément viết: bác ái “đâu phải là đường, nó là muối!” Ngôn từ của bác ái “không bạc nhược, nhưng là dũng cảm”. Bác ái đích thực không tránh né bạo lực, mà là chuyển đổi nó thành việc tranh đấu trong cuộc sống, là tạo lập Công bình và Lẽ phải. Trước những áp bức bạo hành đang nhan nhản, những dối trá lừa lọc đang tung hoành, những bất công kỳ thị đang giáng xuống những kẻ yếu thế, kitô hữu không thể nhân danh bác ái để chỉ nở nụ cười xuề xòa, đưa bàn tay thỏa hiệp, giữ im lặng đồng lõa, nói những ngôn từ hết sức mang tính “ngoại giao”. Họ phải lên tiếng và hành động giải thoát các nạn nhân để đồng thời giải cứu các đao phủ!

Chúng ta cũng được mời gọi yêu thương những kẻ lắm chuyện, hay gây phiền nhiễu, những kẻ chúng ta phê phán là không thể chịu nổi và đó có lẽ là thật, nhưng điều ấy chẳng xóa bỏ yêu cầu của Đức Giêsu: Hãy thương yêu! Chính trên yêu cầu này mà trong vài lúc nào đó chúng ta định đoạt cuộc đời chúng ta. Nếu ai đó, đọc thấy điều này, hiểu rằng mình được yêu cầu làm một bước kinh khủng, hết sức điên rồ, đương sự hãy cầu nguyện và tiến tới, lê mình tới: đương sự sẽ chẳng bao giờ gần gũi Đức Kitô như vậy đâu.

Suy Niệm của (Việt Nam)

--------------------------------------------

 

PS 5-C18. BA CHI TIẾT ĐÁNG LƯU Ý


A. Hạt giống... - Lm Trọng Hương

Ga 13,31-33a.34-35

 

Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 3 chi tiết đáng lưu ý 1. Giây phút Giuđa: PS 5-C18


Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 3 chi tiết đáng lưu ý:

1. Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự khi được thực hiện ý muốn Chúa Cha.
2. Trước lúc bước vào con đường thập giá, Đức Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài: "Chúng con hãy yêu thương nhau... Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau".

B.... nẩy mầm.

1. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thi hành ý muốn Chúa Cha. Do tình yêu, người ta cũng lấy làm vinh dự được chiều ý người mình yêu. Thánh Phaolô nói "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô". Các tông đồ sau khi bị bắt nhốt trong tù và bị đánh đòn, đã "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5,41). Nếu ta không lấy làm vinh dự làm theo ý Chúa và chịu khổ vì Chúa, đó là dấu ta chưa yêu Chúa.


2. "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau": Yêu thương nhau là điều răn của Chúa. Chúng ta yêu thương nhau là tâm huyết của Chúa. Như thế, khi chúng ta không yêu thương nhau thì không phải là chúng ta chỉ lỗi phạm đến nhau mà là xúc phạm đến chính Chúa, xúc phạm đến điều quan trọng nhất trong Đạo Chúa.

3. "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau": Tại sao người ta không tin vào Giáo Hội? Tại sao người ta không đánh giá cao cộng đoàn của chúng ta? Đức Giêsu đã trả lời trước từ lâu rồi: tại vì chúng ta không yêu thương nhau.

4. Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông:

Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ.

Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo: "Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình." Và ông giải thích: "Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Ngài."

Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (Trích "Món quà giáng sinh")

Tài Liệu Riêng Của Người Tín Hữu


--------------------------------------------

 

PS 5-C19. MỌI NGƯỜI SẼ NHẬN BIẾT ANH EM LÀ MÔN ĐỆ CỦA THẦY


Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu

Cv 14,20b-26; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-35

 

Thánh Gioan đã mở ra một tương lai vô cùng tươi đẹp cho toàn thể nhân loại trong Bài đọc hai: PS 5-C19


Thánh Gioan đã mở ra một tương lai vô cùng tươi đẹp cho toàn thể nhân loại trong Bài đọc hai trích trong chương áp cuối của sách Khải Huyền (21,2-5a): Sẽ có một trời mới đất mới, một thành thánh Giêrusalem mới. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa. Vì "họ sẽ là dân của Người, còn chính
Người sẽ là Thiên-Chúa-ơ-cùng-họ. Ngài sẽ lau sạch nước mắt họ.

Nhưng trong thời gian lữ hành tại thế, các tín hữu cũng như toàn thể Hội Thánh phải chịu nhiều gian lao thử thách: Bài đọc một thuật lại cuộc viếng thăm của hai tông đồ Phaolô và Barnaba tại các giáo đoàn Lystra, Iconiô và Antiokia. Hai vị Tông đồ khuyên nhủ các tín hữu giữ vững đức tin mặc dù những gian lao thử thách: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa".

Tâm điểm của Lời Chúa trong Chúa Nhật 5 Phục Sinh, năm Phụng Vụ C, chính là giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu ban bố và trăng trối cho các môn đệ trước khi Người ra đi chịu chết: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".

Giới luật yêu thương của Cựu Ước "Ngươi không được để lòng ghét anh em. Ngươi không được trả thù, không được oán hận. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lêvi 19,17-18) đã được Chúa Giêsu hoàn tất và ban bố như là luât tối thượng của Giao ước mới, của Luật mới:"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy" (Mt 22,37-40).

Luật yêu thương này là cốt tủy của Đạo Chúa và cũng là nền tảng của mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, cũng như giữa con người với nhau. Mến Chúa Yêu Người đi song đôi với nhau: Ai yêu Thiên Chúa thì cũng yêu tha nhân. Và tình yêu tha nhân là "thước đo" tình yêu Thiên Chúa.

Tình yêu Thiên Chúa là mẫu mực để tình yêu con người trở nên hoàn thiện. Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, để mỗi người noi theo: "Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tọi cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau" (1Ga 4,10-11).

Yêu bằng cả con tim và bằng hy sinh cả mạng sống. Chứ không chỉ yêu bằng môi miệng. Tình yêu bao giờ cũng minh chứng bằng việc làm, bằng hành động.
Luật yêu thương còn là điểm nồng cốt để chứng tỏ chúng ta là môn đệ của đức Giêsu. Đây cũng là dấu chỉ để người khác nhận ra chúng ta là các kitô hữu. Và đây cũng là chứng tá của các môn đệ Chúa Kitô cho thế giới đầy bất hoà hôm nay: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng thương yêu nhau".

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi tín hữu Chúa Kitô, những người môn đệ của Chúa hôm nay hay xây dựng "Trời mới đất mới" bằng chính lòng tin sắt đá và tình yêu vàng ròng. Hãy kiểm điểm lại cách ăn nết ở của mình, của gia đình mình, của cộng đoàn hay giáo xứ, của tổ chức mình… xem đã nhập tâm giới luật yêu thương của Chúa đến đâu? Bao lâu còn bất hòa, chưa sẵn lòng tha thứ, còn để bụng thù oán… bấy lâu mình chưa là môn đệ của Chúa Kitô.


--------------------------------------------

 

PS 5-C20. BÍ QUYẾT HẠNH PHÚC HỌC NƠI ĐỨC KITÔ


 Sr. Joane H. Huệ, OP

Jn 13:31-33, 34-35

 

Bài Phúc Âm hôm nay gợi nhớ lại một hình ảnh cảm động nhất cho những ai đã từng kề bên: PS 5-C20


Bài Phúc Âm hôm nay gợi nhớ lại một hình ảnh cảm động nhất cho những ai đã từng kề bên giường bệnh của người thân thương để đón nhận những lời cuối cùng. Trong thổn thức lo âu cho người ở lại, Chúa Giêsu đã trăn trối bí quyết sống hạnh phúc cho các môn đệ trước cuộc tử nạn của Ngài, rằng:

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau' anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.

Theo kinh nghiệm thường tình, ai sống hạnh phúc là sống yêu thương vì con người ai cũng muốn yêu và được yêu' và yêu như Chúa yêu thì cũng thật là khó. Nhà bác học Einstein có nói một câu rất hợp với ý Chúa Kitô. Ông bảo: "Chỉ có sống cho kẻ khác mới đáng sống." Và chúng ta đã biết không ai sống trọn vẹn cho kẻ khác bằng Thiên Chúa- làm người, chịu con người lên án cho đến chết và chết nhục nhã. Hành động chủ yếu của tình yêu trưởng thành phải chăng là trao ban mà không đòi được đáp trả? Chúa Giêsu hay tất cả những ai yêu thật có lẽ đều thú vị cảm nhận được chuyện "cho thì có phúc hơn nhận" (Tông đồ công vụ 21:30). Theo Mẹ Theresa Calcutta, mẫu gương sống động của Đức ái Kitô Giáo, khi chúng ta cho đi một điều gì mà mình yêu quý nhất thì chính là lúc chúng ta nhận lãnh nhiều hơn những gì mà chúng ta đã trao ban. Một ví dụ điển hình mà Mẹ thường xuyên làm đó là chôn cất kẻ chết. Chôn cất hay đi dự lễ an táng có lẽ là để cầu nguyện và chia buồn với người mất mát. Nhưng trên thực tế, nhìn vào quan tài, chúng ta được Chúa nhắc nhở và cảm nhận được sự chóng qua của thân phận làm người để rồi nhắm đến cùng đích tối hậu mà sống. Niềm vui căn bản chính là đây: có Chúa và được Chúa hướng dẫn!

Trong thực hành yêu thương, đôi khi chúng ta cũng có những kinh nghiệm "luẩn quẩn." Đó là yêu không trật tự như lời thánh Phaolô đã từng khuyến cáo (I Cor. 14:40). Nói theo kiểu Đông Phương, một người phải "tu thân, tích đức, tề gia, trị quốc, rồi mới bình thiên hạ" chứ không thể ngược lại. Một thực tại phũ phàng mà chúng ta thường vấp phải chính là ta hay bỏ quên người gần nhất hoặc là yêu người ở xa và lánh người kề cận. Nếu ta không yêu người thân cận thì cũng khó mà chứng minh được mình có khả năng yêu người ở xa vì tình yêu hệ ở việc làm không phải lời nói xuông. Cũng thế, chúng ta không yêu tha nhân như lời Chúa kêu mời thì làm sao chúng ta có thể chứng tỏ mình yêu Chúa và là môn đệ Chúa?

Lời mời "hãy yêu như Thầy đã yêu" quả thật là một thách đố lớn cho chúng ta là những môn đệ của Ngài. Yêu đến tận cùng và yêu tất cả mọi người trong trật tự như Chúa đã làm sẽ giúp chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi làm người và làm môn đệ của Chúa. Bí quyết hạnh phúc là sống yêu thương' và chỉ có yêu thương như Lời Chúa truyền mới thật sự đem lại hạnh phúc và mới bộc lộ được căn tính làm người môn đệ của Chúa.

Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ban cho chúng con bí quyết hạnh phúc. Chúng con xin lỗi Chúa vì nhiều khi đã bám víu vào những của tạm bợ đời này mà không để lòng mở rộng đón nhận tình yêu Chúa và trao ban một cách quảng đại như Chúa đã làm. Xin Chúa tiếp tục giúp chúng con nhận ra được ơn gọi làm môn đệ Chúa qua Bí Tích Thánh Tẩy là một hồng ân và cảm nghiệm được hạnh phúc thật khi yêu Chúa và yêu tha nhân.

--------------------------------------------

 

PS 5-C21. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG

 

Thày ban cho các con một điều răn mới, …….. Thiên Chúa là Tình yêu, mà con người được:PS 5-C21


Thày ban cho các con một điều răn mói, là các con hãy yêu thương nhau.

Thiên Chúa là Tình yêu, mà con người được dựng nên giống hình ảnh Ngài, vì thế tự bản chất con người đã là tình yêu và trong trái tim của họ bao giờ cũng leo loét một ngọn lửa thương yêu. Thực vậy, chúng ta có thể xác quyết:

- Con người được dựng nên là để yêu thương.

Mục đích của cuộc sống không phải là lao động mà chính là yêu thương. Bởi đó, có người đã bảo:

- Yêu hay là chết.

Hẳn chúng ta còn nhớ ngày kia một tiến sĩ luật đã hỏi Chúa Giêsu:

- Thưa Ngài, giới răn nào là giới răn quan trọng nhất.

Và Chúa đã trả lời:

- Giới răn quan trọng nhất, đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình. Hai giới răn này gồm tóm mọi lề luật và lời các tiên tri.

Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy: hai giới răn này không đặt trọng tâm vào trí khôn, nhưng vào con tim. Hai giới răn này thật quan trọng vì từ chúng xuất phát ra mọi giới răn khác và chi phối toàn bộ cuộc sống đạo đức, luân lý và xã hội của chúng ta. Tất cả lề luật được gồm tóm trong bốn chữ vắn gọn, đó là MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Hay chỉ trong hai chữ mà thôi, đó là YÊU THƯƠNG, như lời thánh Augustinô đã nói:

- Hãy yêu rồi làm điều mình muốn.

Và Chúa Giêsu trong lời trăn trối sau cùng trước khi ra đi chịu chết cũng đã nói:

- Thày ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau…Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con hãy yêu thương nhau.

Thế nhưng, con người thời nay lại không hiểu rằng tình yêu chính là mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Thử nhìn vào chương trình học vấn của mọi quốc gia, chúng ta sẽ thấy những chương trình ấy chú trọng đến chữ hiểu và chữ nhớ hơn là chữ yêu. Những chương trình ấy cố gắng sản xuất ra những chuyên viên, chứ không phải ra những người biết sống cuộc đời mình một cách trọn vẹn. Vì thế, chúng ta có thể chạy đến các lớp học, giật lấy những cuốn vở và nói với các em nhỏ  rằng:

- Mục đích của đời sống không phải là học biết nhưng là yêu thương. Học để hiểu biết là điều cần thiết và tốt đẹp, tuy nhiên điếu cần thiết và tốt đẹp hơn, đó là học để yêu thương.

Trước hết, hãy tập yêu thích thiên nhiên: những bông hoa tươi thắm, những cánh chim tung bay, những làn gió nhẹ, những tiếng mưa rơi…Rồi từ đó khám phá ra sự hiện diện đầy quyền năng và yêu thương của Thiên Chúa.

Tiếp đến, hãy tập yêu thương anh em. Đừng làm hại ai nhưng sẵn sàng giúp đỡ mọi người, kể cả những kẻ thù địch, nhất là những người đau khổ và kém may mắn. Chính những hành động bác ái này mới thực sự có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.

Sau cùng, hãy tập yêu kính Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ rằng: sở dĩ chúng ta có là vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Đừng chần chừ, nhưng phải bắt đầu ngay từ ngày hôm nay bởi vì Đức Kitô đã chết vì chúng ta và cửa trời đang mở rộng để chờ đón chúng ta.

Tình yêu sẽ làm cho cuộc đời thêm ý vị và đáng sống. Chẳng hạn người mẹ vì yêu thương đã thức bao nhieu đêm dài bên cạnh chiếc nôi để chăm sóc cho đứa con đau yếu. Chẳng hạn người cha vì yêu thương đã chấp nhận những công việc nặng nhọc để đem lại chén cơm manh áo nuôi sống gia đình. Chẳng hạn các tu sĩ vì yêu thương đã từ bỏ một nếp sống tiện nghi để ra đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh mà giúp đỡ các bệnh nhân và những người xấu số.

Và như vậy, tình yêu đã trở thành một cái gì quí giá nhất như lời thánh Phaolô đã dạy:

- Nếu tôi nói được mọi thứ tiếng của loài người…mà không có đức ái, thì tôi cũng chỉ là não bạt ầm vang mà thôi.

Hơn thế nữa, chúng ta không sống cô độc lẻ loi như một pháo đài biệt lập, hay như một hòn đảo giữa biển khơi. Trái lại, chúng ta sống là sống với, sống cùng. Đúng thế, chúng ta sống với thiên nhiên, sống với người khác và sống với Thiên Chúa. Sợi giây liên kết chúng ta lại với thiên nhiên, với người khác và với Thiên Chúa chính là tình yêu. Tình yêu đã tạo thành một chiếc cầu nối kết con người với thiên nhiên, với nhau và với Thiên Chúa. Chúng ta chỉ gắn bó với cái chúng ta yêu thích, chứ không phải với cái chúng ta hiểu biết.

Tình yêu đã nối kết con người lại với nhau, cũng như mối kêt con người lại với Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta phải mến Chúa và yêu người.

Điều sai lầm tệ hại nhất của nền văn minh hiện tại là đã quá chú trọng đến việc phát triển trí tuệ, mà sao lãng việc phát triển con tim. Cái ưu tiên trong con người chúng ta phải là tình yêu.

Chính vì thế, thánh Gioan đã không định nghĩa Thiên Chúa là hiểu biết, là lao động…nhưng đã định nghĩa Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi đó, khi yêu thương, chúng ta trở nên giống Thiên Chúa. Khi yêu thương, chúng ta ở trong Thiên Chúa.

Thế nhưng, yêu thương là cho đi. Cho đi như Chúa Giêsu đã thực hiện trên thập giá. Cho đi tới giọt máu cuối cùng. Công bằng thì có giới hạn, còn yêu thương thì chẳng bao giờ có giới hạn. Chúng ta cứ phải yêu mãi, yêu hoài. Vì chính tình yêu sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc sống và sẽ chứ rỗi bản thân chúng ta.

Để kết luận, chúng ta cùng nhau khắc ghi tư tưởng sau đây của thánh Gioan Thánh giá:

- Khi cuộc sống này chấm dứt, chúng ta sẽ bị xét xử theo những hành động bác ái và chính tình yêu sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.

--------------------------------------------

 

PS 5-C22. YÊU THƯƠNG NHAU - ASTY/121

 

Bài tin mừng hôm nay trích từ chương XIII của phúc âm thánh Gioan, nhắc lại những lời từ biệt: PS 5-C22


 Bài tin mừng hôm nay trích từ chương XIII của phúc âm thánh Gioan, nhắc lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi Ngài chịu khổ nạn, và sau khi Giuđa kẻ phản bội Chúa đã bỏ bàn tiệc đi thực hiện ý đồ phản bội Ngài.

Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ rằng: “Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Và điều quan trọng là chúng ta có thi hành lệnh truyền này hay không ? Từ đó nảy sinh những hậu quả nghiêm trọng, đó là hậu quả của sự sống và sự chết.

Thánh Gioan tông đồ nơi thư thứ nhất có đoạn: “Nếu chúng ta yêu thương anh em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại, kẻ không yêu thương anh em thì ở trong sự chết, vì phàm ai ghét anh em mình đều là kẻ sát nhân”. Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu Ước. Quan niệm của luật cũ là: “Yêu thương anh em như chính mình ngươi”, được Chúa Giêsu đổi lại trong luật mới là: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Như vậy tình yêu mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chuẩn nhưng phải phát xuất từ chính Thiên Chúa, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy. Giới răn mới của Chúa được đồng hóa với tình yêu của Thiên Chúa như lời kinh thánh đã chép: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình thì là kẻ nói dối, vì ai yêu mến Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình”. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của con cái Thiên Chúa, làm cho chúng ta thuộc về Chúa, trở nên môn đệ Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”

Giữa những bài giáo lý mà chúng ta đã học từ nhỏ, những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta đều hiểu được như vậy và nói được: “Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Nhưng nếu chúng ta sống thực với những điều này mới là việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ: “Các con hãy nên trọn lành như Cha chúng con trên trời là Đấng trọn lành”. “Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”. Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Ngài từ giã các tông đồ, trước khi Ngài hoàn tất sứ mệnh cứu rỗi là chấp nhận chết trên thập tự. Và Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, Chúa đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng một hành động cao cả là hy sinh chính mạng sống của mình để minh thức tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa Cha và với mỗi người chúng ta.

Chúng ta không không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người nhìn thấy, nhưng chính nhưng hy sinh nhỏ nhặt hằng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm để chúng ta có thể sống tình thương thực sự, sống cách thiết thực đối với anh chị em, chúng ta có thể phục vụ anh chị em trong những công việc nhỏ nhặt hằng ngày, những điều đó không ai trông thấy, những điều đó chúng ta cần thực hiện hằng ngày để tôn vinh Thiên Chúa.

Trong dịp nói chuyện với một người vô thần, anh này thốt lên: “Nếu những người Côn Giáo sống đức tin của mình, sống những gì mà mình nói thì thật là một điều hết sực tốt đẹp và có thể chúng tôi cũng sẽ tin theo”.

--------------------------------------------

 

PS 5-C23. YÊU NGƯỜI - NMS/74

 

Có hai người bạn đi vào tham quan bên trong một tiệm bán đồ nữ trang. Khi đã chiêm ngắm nhiều: PS 5-C23


Có hai người bạn đi vào tham quan bên trong một tiệm bán đồ nữ trang. Khi đã chiêm ngắm nhiều viên đá quí, họ để ý và lấy làm lạ là có một viên ngọc sần sùi, không óng ánh bóng loáng như những viên ngọc khác. Vì thế, một người bạn lên tiếng bình phẩm: “Nếu viên đá này không có vẻ gì quí cả, tại làm sao người ta lại trưng bày nó ra đây ?”. Nghe vậy người chủ tiệm kim hoàn bèn cầm lấy viên ngọc và nắm chặt trong lòng bàn tay mình. Một lát sau viên đá mờ đục không bóng loáng đó, trở nên lấp lánh muôn màu sắc hết sức kỳ diệu. Thấy lạ, một người bạn hỏi ông chủ tiệm: “Làm sao mà kỳ là vậy ?”. Người chủ trả lời: ‘’Đây là viên ngọc mắt mèo, được mệnh danh là viên đá thiện cảm, nghĩa là nó cần có đụng chạm với hơi nóng ấm của bàn tay, tức khắc nó sẽ phát ra những tia sáng óng ánh muôn màu sắc là thế”.

Có lẽ, không ai trong chúng ta đã từng thấy tận mắt thứ ngọc kỳ lạ trên, nhưng cách thức phát quang của nó vừa bí ẩn vừa mang ý nghĩa rất hay khi so sánh với cung các cư xử của con người với nhau. Thật vậy, ở đời mọi người chung quanh chúng ta, nhất là những anh em nghèo khổ, hẩm hiu, bị bỏ rơi, bị khinh thường như viên đá mắt mèo, nếu có hơi nóng của bàn tay thương yêu chúng ta sưởi ấm : đó là một lời nói ngọt ngào thân ái, một nụ cười dễ thương, một cái nhìn trìu mến thông cảm và một tí trợ giúp vật chất thì cuộc đời của họ, ánh mắt của họ sẽ bừng sáng lên đầy tươi vui biết ơn.

Đây là một việc làm bình thường trong cuộc sống chung giữa người với người, nhưng lại là một điều kiện căn bản của đời sống đạo đức làm người. Vì điều luật yêu thương nhau là một điều luật quan trọng đến nỗi không những luân thường đạo lý của bất cứ xã hội, dân tộc nào cũng truyền dạy, mà nhất là giáo lý của bất cứ đạo nào cũng đều lấy nó làm căn cốt để xây dựng và rao giảng đạo. Chẳng hạn đạo Lão thì dạy hiền hòa vô vi, đạo Khổng thì dạy sống quân tử, độ lượng, trừ tiểu nhân nhỏ nhen, đạo Phật thì dạy chúng sinh luôn từ bi hỉ xả, còn đạo Công giáo thì dạy công bằng bác ái…

Như thế đã đủ cho chúng ta thấy rằng luân thường đạo lý nói chung và giáo lý các tôn giáo nói riêng đều lấy thương yêu nhau làm căn bản sinh hoạt vì nó cần thiết cho đời sống chung và giúp con người thu tâm dưỡng tính, an hòa vui sống. Nhưng khi đề cập đến lòng yêu thương nhau của đạo hay đời thường được nhấn mạnh như là một sự cần thiết cho đời sống nhân bản ở trần thế hơn là một yếu tố của đời sống vĩnh hằng.

Do đó, việc yêu thương nhau trong đạo Công giáo không những chỉ là một đòi hỏi bức thiết của đạo lý nhân bản ở đời làm hay không tùy ý, mà còn là một điều kiện tiên quyết, một trách nhiệm bổn phận, một điều luật bó buộc phải thi hành cho bằng được. Chính vì thế, Chúa mới truyền dạy cho các Tông đồ và cả chúng ta rằng luật yêu thương nhau là một điều răn mới. Nó mới không phải vì xưa nay chưa có nó, nhưng nó mới là vì giờ đây nó được Chúa mặc cho những ý nghĩa mới mà con người chưa bao giờ nghĩ tới.

Trước hết, luật yêu thương trở nên mới mẻ, khác với quan niệm thông thường xưa nay, là vì đối với những ai tin theo Chúa nó thành một đòi hỏi thiết yếu, một điều kiện quan trọng để được đón nhận vào Nước trời. Như thế, luật yêu thương của đạo Công giáo không chỉ là một biểu lột tình cảm, một giá trị đạo đức nhân bản, mà còn mang ý nghĩa siêu nhiên, giá trị cứu rỗi đời đời. Do đó, người Công giáo chúng ta khi sống đạo ở đời đừng cố tình theo quan điểm lầm lẫn cho rằng bác sĩ thương người là một đòi hỏi không bắt buộc, chẳng quan trọng mấy, trái lại phải thâm tín rằng bác ái yêu thương, dù khó khăn đến đâu, cũng cần cố sức thực hiện cho bằng được vì nó liên quan chặt chẽ đến phần rỗi của mỗi người. Tránh né hay bất cần nó là nắm chắc mất phần rỗi.

Thứ đến, luật yêu thương mới mẻ vì không phải khi thực hiện nó cốt để được an thân, đỡ phiền phức hay để thỏa mãn lòng khoe khoang mà người ta thương người khác, trái lại khi yêu thương nhau như lời Chúa dạy thì phải lấy tinh thần khiêm tốn, tế nhị làm gốc và coi việc phục vụ hết mình làm tiêu chuẩn. Vì nếu khi ta thực hiện bác ái mà có tính toán, đặt điều kiện giới hạn, khoe mẻ thì nó chẳng khác chi bao việc tầm thường khác. Còn bác ái thương người thật tình thì bao giờ cũng giấu mặt ẩn mình càng nhiều càng tốt và hết lòng làm đến nơi đến chốn cho dù phải hy sinh cả tính mạng.

Bác ái thương người quan trọng như thế và đã được nhắc bảo không biết bao nhiêu lần trong đời, tại sao chúng ta lại ít quan tâm ? Và nếu có thực hiện, tại sao chúng ta cảm thấy ngại ngùng khó khăn ? Phải chăng chúng ta cứ cố tình sống giả điếc làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa và nỗi khổ của anh em ?

--------------------------------------------

 

PS 5-C24. SỨC MẠNH - SNTMCN/93

 

Cụ Giáp ốm nặng đã mấy hôm nay. Cụ không ăn uống gì mà chỉ nằm rên hư hử. Cụ bà và các con: PS 5-C24


Cụ Giáp ốm nặng đã mấy hôm nay. Cụ không ăn uống gì mà chỉ nằm rên hư hử. Cụ bà và các con mời cha xứ đến để ông lãnh các bí tích bệnh nhân. Nhưng vừa trông thấy cha xứ vào phòng, ông ngồi nhỏm dậy giơ tay chỉ ra cửa, ra dấu mời cha xứ ra về. Hôm sau cha phó đến, cũng cùng chung số phận. Cụ Giáp không phải là người xấu ! nhưng cụ chỉ hơi khô đạo thôi. Thấy bệnh tình mỗi ngày mỗi trầm trọng, người nhà chở cụ vào nhà thương “Saint Paul”, do các sơ dòng thánh Phaolô trông coi. Hằng ngày, cụ Giáp thấy các nữ tu dịu hiền, tận tình chăm sóc ông và các bệnh nhân khác, từ sáng sớm cho tới canh khuya, chẳng hề quản giờ giấc. Tuy bận rộn với các công việc nặng nhọc và vất vả, nhưng lúc nào các nữ tu cũng tươi cười và ăn nói từ tốn, nhỏ nhẹ.

Một hôm, cụ Giáp nhắn người nhà đến mời cha xứ vào để ông xưng tội và lãnh các bí tích bệnh nhân. Sau khi ban bí tích cho ông, cha xứ hỏi cho biết điều gì xảy ra khiến ông đổi thái độ, thì cụ Giáp trả lời: “Thưa cha, trong mấy tuần nằm đây, con có nhiều giờ suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời, và hằng ngày quan sát thái độ yêu thương xả kỷ của các nữ tu, con nhận ra được sự hiện diện và tình yêu thương của Chúa”. Nói đến đây cụ Giáp giơ tay quệt hai giòng lệ lăn trên gò má nhăn nheo…

Trong Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu nhắn nhủ mỗi người chúng ta sống giới luật yêu thương của   Chúa: Yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương chúng ta, nghĩa là đến độ dám liều cả mạng sống mình vì người khác. Yêu thương còn là dấu chỉ chúng ta là môn đệ Chúa: “Cứ dấu này người ta biết chúng con là môn đệ Thầy: chúng con hãy yêu thương nhau”.

Trong thế giới nhiều bạo lực, bất công, hận thù và đấu tranh máu lửa như thế giới ngày nay, yêu thương là khí cụ duy nhất có sức mạnh biến cải tấm lòng và đổi mới bộ mặt cuộc sống con người. Như thế, chính những cử chỉ, lời nói và tâm tình yêu thương mỗi ngày, chúng ta sẽ làm chứng cho tin mừng yêu thương của Chúa một cách hữu hiệu, và xây dựng một mảnh trời mới, đất mới, ngay trong lòng cuộc sống trần gian.

Mùa Phục Sinh mời gọi tín hữu sống cuộc sống mới, cuộc sống mang nặng tình thương của Thiên Chúa trong quả tim bằng thịt với khả năng nhỏ bé của chúng ta.

Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.

--------------------------------------------

 

PS 5-C25. MÔN ĐỆ - CS/66

 

Thông thường khi vào một nhà nào, nếu thấy có treo ảnh tượng Chúa, ta nghĩ ngay rằng đây là: PS 5-C25


Thông thường khi vào một nhà nào, nếu thấy có treo ảnh tượng Chúa, ta nghĩ ngay rằng đây là một gia đình Công Giáo. Khi đến một nơi xa lạ, nếu thấy bóng giáo đường ta cũng nghĩ ngay rằng ở đây có người Công Giáo. Nhưng khi thiết lập Hội thánh, khi quy tụ những con người thành cộng đoàn môn đệ của mình, Chúa Giêsu không bảo: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con đeo ảnh tượng trên mình, là các con treo ảnh tượng trong nhà, là các con xây dựng những giáo đường…” Trái lại, Người đã bảo: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau”.

Như vậy, ở đâu có giáo đường, có treo ảnh tượng Chúa mà không có tình yêu thương thì sẽ không có những môn đệ đích của  Chúa. Còn ở đâu có tình yêu thương thì dù không có giáo đường, không treo ảnh tượng trên mình hay trong nhà thì ở đó vẫn có những người môn đệ Chúa Kitô.

Điều răn yêu thương đã có từ rất lâu trong Cựu Ước, nhưng Chúa Giêsu lại gọi đó là điều răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã thương yêu anh em”. Nếu yêu thương là điều răn đã có từ lâu trong Cựu Ước mà Chúa Giêsu lại bảo đó là điều răn mới thì mới ở chỗ nào ?

- Mới ở chỗ Chúa Giêsu mở rộng đối tượng cần được yêu thương: Trong Cựu Ước, luật chỉ buộc phải yêu thương những người đồng đạo, đồng chủng hay đồng nghiệp. Còn Chúa Giêsu lại muốn các môn đệ của Người yêu thương tất cả mọi người không trừ ai, kể cả kẻ thù.

- Mới ở chỗ Chúa Giêsu liên kết việc yêu Chúa và yêu người thành một điều răn duy nhất không thể tách biệt. Chỉ yêu Chúa mà không yêu người hay chỉ yêu người mà không yêu Chúa là không yêu thương ai hết. Thánh Gioan đã diễn tã điều này như sau: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa, đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Ngài”. Người cũng bảo: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghé anh em mình, tì người ấy là kẻ nói dối”. Chúa Giêsu còn cho thấy trong dụ ngôn “Cuộc phán xét chung” rằng: yêu hay ghét anh em là yêu hay ghét chính Thiên Chúa.

- Mới ở chỗ là phải yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương. Trong Cựu Ước chỉ đòi buộc người ta yêu thương anh em như yêu thương chính mình. Còn Chúa Giêsu lại muốn người ta yêu thương nhau như chính Người đã yêu thương.

Nhưng yêu thương như Chúa yêu thương là thế    nào ?

- Là yêu đến quên mình: Thường thì tình yêu của ta dành cho tha nhân luôn hàm chứa một chút gì đó là vị kỷ. Ta yêu người này vì họ làm ơn cho ta. Ta yêu người kia vì họ mang lại lợi nhuận vật chất hay tinh thần cho ta…Còn khi yêu ta, Chúa không bao giờ nghĩ tới Người mà chỉ nghĩ đến ta. Người hy sinh hạnh phúc của chính Người để lo cho hạnh phúc của ta.

- Là yêu cho đến cùng: Khi yêu ta, Chúa không tính toán, so đo hơn thiệt, không đặt bất cứ điều kiện nào, không định mức độ để yêu thương. Người không tiếc rẻ điều gì với ta, không giữ lại chút gì cho riêng mình. Người cho tất cả, hy sinh tất cả vì ta, kẻ cả mạng sống. Thánh Gioan đã viết: “Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng”.

Chúa Giêsu đã yêu thương như thế đó. Cõ lẽ ta sẽ bất lực để yêu thương như Người. Chính vì thế, lời kêu gọi yêu thương cũng là lời nhắc nhở ta cầu xin ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Bởi Người là Đấng sẽ để vào lòng ta tình yêu của Thiên Chúa để ta có thể yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương.

--------------------------------------------

 

PS 5-C26. VINH QUANG - TMCN/324

 

Sự căng thẳng đã qua đi, mọi ghi ngờ còn lại đều được dẹp bỏ. Giuđa đã ra đi: PS 5-C26


Sự căng thẳng đã qua đi, mọi ghi ngờ còn lại đều được dẹp bỏ. Giuđa đã ra đi và thập giá chắc chắn phải đến. Vinh quang của Chúa Giêsu là thập giá. Vinh quang rạng rỡ nhất trong đời sống là vinh quang đến từ sự hy sinh.

Có hai thanh niên rất yêu thích hội họa. Họ kết thân với nhau, vừa làm việc vừa học vẽ. Một thời gian sau, không có đủ tiền cho cả hai cùng học, họ quyết định một người lao động để nuôi người kia học ho tới khi thành tài, rồi đến lượt người này đi học. An-béc-sơ học trước, qua bao năm tháng miệt mài, khổ công, An-béc-sơ trở thành một họa sĩ nổi danh và anh đem bán những bức tranh lấy tiền nuôi bạn học vẽ, nhưng dầu đã cố công hết sức, anh ban của An-bec-sơ không sao vẽ nổi. Đôi bàn tay anh lao động đã trở nên thô cứng, không thể điều khiển bút vẽ được nữa. Khi biết sự thật ấy, An-béc-sơ khóc, ôm bạn nói: “Đôi bàn tay chai sần của anh đã giúp phần nào những bức vẽ của tôi. Nếu không có đôi bàn tay anh, những bức tranh này không bao giờ thành hình cả. Hãy cho phép tôi họa lại đôi bàn tay của anh”.

Bức tranh ấy, với một đôi bà tay lao động, đã trở thành tác phẩm nổi tiếng của nền hội họa thế giới, hiện nay đang được trưng bày tại một viện bảo tàng ở Mỹ.

Trong y học, người ta không nhớ những thầy thuốc làm giàu do nghề nghiệp, nhưng nhớ những người đã hy sinh mạng sống để chữa lành nỗi đau đớn của con người. Tại một hội nghị chuyên về bệnh cùi được tổ chức tại Cai-rô, thủ đô Ai-cập, có một y sĩ trẻ người thành Alexandria được người ta để ý, anh chăm chú nghe các bài thuyết trình của các chuyên gia, nhưng có một điều lạ là anh luôn ngồi tách rời với đám đông, trong một góc nhỏ. Không ai biết anh dùng bữa ở đâu. Anh cũng không giao thiếp với bất cứ một thành viên nào của hội nghị. Vào phiên họp cuối cùng anh lên tiếng. Khi anh tóm kết bài tham luận, một sự im lặng như chết bao trùm cả phòng họp: nhiều người bật tiếng khóc. Anh nói gì ? Anh tuyên bố rằng anh đã tự nguyện để nhiễm cùi hầu có thể tự quan sát diễn biến của căn bệnh kinh khủng này. Anh cho thấy những vết trắng và nâu ở cánh tay anh, một triệu chứng không thể chối cãi của sự nhiễm trùng, và rồi anh mô tả tất cả những gì anh đã cảm thấy, cùng hiệu quả tất cả các thuốc anh đã dùng. Anh biết rằng anh không thể tránh được cái chết từ từ và đau đớn, nhưng anh sẵn sàng chịu đựng tất cả để giúp phần nào sự tiến bộ của khoa học, hầu đầy lui những hiểm nguy cho các người mắc bệnh. Loài người chỉ biết cúi đầu khâm phục trước sự hy sinh của những người tự nguyện chấp nhận cái chết để cứu đồng loại.

Trong cuộc chiến tranh, vinh quang tuyệt đỉnh không thuộc về nhưng người sống sót mà thuộc về những người đã bỏ thân nơi chiến trường. Bài học đơn giản của lịch sử là những người chịu hy sinh lớn thì nhận được vinh quang cao cả. Nhân loại quên đi những người thành công nhưng chẳng bao giờ quên ơn những người dám hy sinh. Họ bước đi theo dấu chân của Đức Kitô.

Chính sự vâng phục của Chúa Giêsu đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Chỉ có một cách để chứng minh lòng kính yêu, ngưỡng mỗ và tin cậy một lãnh tụ là vâng phục vị lãnh tự ấy, vâng phục cho đến cùng, dầu phải nếm mùi đắng cay. Cách thức duy nhất để một người con có thể đem lại vinh dự cho cha mẹ ấy là vâng phục cha mẹ. Chúa Giêsu đã đem vinh quang tối cao cho Thiên Chúa, vì Ngài tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa, dầu phải đi đến núi Sọ.

--------------------------------------------

 

PS 5-C27. CON GIÁN - Dòng Đồng Công

 

Đây là câu chuyện của Franz Kafka, người Tiệp Khắc, viết về một người tên là Gregor: PS 5-C27


Đây là câu chuyện của Franz Kafka, người Tiệp Khắc, viết về một người tên là Gregor.

Gregor sống với cha mẹ ông và một người em gái. Ông là một nhân viên bán hàng trong một cửa hàng nọ. Bên ngoài, Gregor rất niềm nở với các khách hàng, nhưng bên trong, ông đầy những nỗi đau khổ bởi vì cha mẹ ông và cả những khách hàng đều coi ông như một con bọ. Dần dần, ông bắt đầu có những ác mộng về sự hiện hữu của những con người quái vật.

Rồi một buổi sáng nọ, khi thức dậy, ông nhận thấy mình đã trở thành một con côn trùng rất to như ông thường cảm thấy trong lòng. Ông đã trở thành một con gián to lớn.

Nếu Gregor muốn trở lại thành một con người thì anh phải được người khác yêu mến, đặc biệt là gia đình của anh.

Thay vì được yêu thương, anh lại càng bị người nhà ruồng bỏ bởi vì cái vẻ bên ngoài rất ghê tởm của anh. Gregor rất đau khổ và làm đủ mọi cách, mong rằng anh sẽ chiếm được một chút tình cảm nơi gia đình, nhưng anh đều thất vọng.

Cuối cùng là anh đã bỏ cuộc và chết. Gregor đã không được ai yêu mến và hôn anh, nên anh đã  phải mang cái lốt con bọ cho đến chết.

Câu chuyện về Gregor mà Kafka đã kể cho chúng ta diễn lại cái tâm trạng đau khổ của anh, và đó cũng là một lối mở đề rất thích hợp với những lời Chúa Giê-su đã phán trong Tin mừng hôm nay.

“Hỡi các con yêu quý, Thầy truyền cho các con một điều răn mới làcác con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”.

Câu chuyện của Kafka về Gregor nói lên một tấn bi kịch. Đó cũng chính là điều mà nhiều lúc chúng ta hay bị sa ngã không thi hành mệnh lệnh yêu thương mà Chúa Giê-su đã truyền buộc, nhất là những người trong gia đình của chúng ta. Chúng ta không biết bày tỏ tình thương với người khác một cách thực tế.

Tại sao chúng ta thường hay quên không thi hành mệnh lệnh yêu thương của Chúa trong mỗi gia đình của chúng ta? Đôi lúc có lẽ là bởi vì chúng ta cảm thấy những người thân trong gia đình chúng ta có vẻ lạnh lùng như Gregor đã từng cảm nghiệm về gia đình của anh. Nhiều lúc khác, lý do là vì chúng ta cứ yên trí như vậy. Một người kia nói rằng: “Tôi đã biết rằng gia đình tôi yêu tôi, và tôi yêu gia đình tôi, như vậy là đủ rồi”. Nhưng anh ta không biết rằng đó chính là đầu mối sinh ra các sự rắc rối bởi vì anh không bao giờ làm bất cứ chuyện gì cho gia đình của anh.

Chúa Giê-su nhấn mạnh về đức yêu thương là bởi vì nhờ đó mà con người có thể được ơn hoán cải. Tình thương có sức mạnh làm biến đổi một con người tội lỗi trở nên một vị thánh. Đúng thế, nó có sức mạnh để làm cho một con gián trở nên một người anh em và một người con trong gia đình.

Nếu chúng ta chỉ ngồi một chỗ và chờ cho người ta trở nên dễ thương rồi mới yêu thương họ, thì chúng ta sẽ ngồi đó suốt cuộc đời chúng ta. Trong tiến trình yêu thương kẻ khác, chúng ta sẽ nhận thấy người khác trở nên dễ thương.

Đây là sứ điệp chứa đựng trong bài Tin mừng hôm nay. Đây là một tin mừng mà Chúa Giê-su đã đem đến thế giới bằng lời nói và việc làm.

--------------------------------------------

 

PS 5-C28. ĐIỀU RĂN MỚI – VIKINI


“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

 

Người ta cho rằng: yêu thương phát xuất từ con tim. Người ta còn nói: Tình yêu xưa như trái đất: PS 5-C28


Người ta cho rằng: yêu thương phát xuất từ con tim. Người ta còn nói: Tình yêu xưa như trái đất, nghĩa là tình yêu có từ khi có trái đất hay trái đất xưa bao nhiêu thì tình yêu lâu đời bấy nhiêu. Như thế, tình yêu cũ kỹ lắm rồi ! Ở đấy, Đức Giêsu không nói đến thời gian có tình yêu. Người chỉ nói phải đổi mới tình yêu.

Tình yêu đã bị hủ hoá, tha hóa vì nó chứa quá nhiều các thứ trần tục, nó bị ô nhiễm bởi tội tổ tông, làm mất giá trị cao quý của con người siêu việt là con Thiên Chúa.

Nó nghiền những thứ: nghiền rượu, nghiền thuốc, nghiền ma túy, mê tiền, mê của, say đắm tình dục xác thịt. Nó bị lôi cuốn, đắm chìm, nô lệ cho những thứ đồ vật. Nó bị sai khiến bởi vật chất, vật chất đã làm chủ con người. Nó hạ giá con người xuống dưới hàng vô tri vô giác. Trong khi đó giá trị con người hơn: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì ?”

Dầu yêu người khác như chính mình, như yêu quê hương, yêu tổ chức, yêu đồng bào, yêu nhân loại, thường được diễn tả bằng những câu ca dao như:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người chung một nước phải thương nhau cùng”

Ngay thời kỳ Vua Nghiêu, Vua Thuấn đã đề cao:

“Tứ hải giai huyng đệ”: Bốn bể đều là anh em.
“Lấy dân làm gốc”: Dân là quý, xã hội là thứ yếu.

Hay câu: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: Mình không muốn cho mình, thì đừng làm cho người. Luật Cựu Ước cũng dậy: “Ngươi sẽ không báo oán, không căm thù với con cái dân ngươi, nhưng ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình” (Lev. 19, 18). Tất cả những điều hô hào như thế đều là điều răn cũ, vì một là ta yêu đồ vật thì giá trị con người của ta bị đánh giá bằng đồ vật, hai là ta yêu người thì ta ngang hàng với người mà thôi.

Đồ vật và loài người chỉ có giá trị tạm thời, chóng tàn. Còn Đức Giêsu, Người ban cho ta điều răn mới là để nâng cao con người lên bậc con Thiên Chúa,  một giá trị siêu việt trường tồn vinh quang. Cho nên, Người kêu gọi: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy yêu thương anh em”.

Yêu như Thầy yêu anh em: Thầy là Ngôi hai Thiên Chúa nhập thể làm người, sống hòa mình với mọi người, nhất là những người đau khổ. Thầy là Đấng Cứu thế, đến phục vụ và cứu chữa những người bệnh tật, tội lỗi, trộm cướp và quỷ ám. Thầy là Đấng thượng phẩm đời đời, đến hiến mạng sống chịu chết làm lễ vật hy sinh tế lễ giao hoà loài người với Thiên Chúa. Thầy là Đấng hằng sống đã sống lại, để cho người ta được sống đời đời. Thầy là Con Thiên Chúa để cho con người được làm con Thiên Chúa vinh phúc muôn đời. Đó là tình yêu của Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau như vậy. Chính vì hiểu như thế, Thánh Augustinô đã giải thích: “Sau khi lột bỏ con người cũ, nó mặc cho ta con người mới… Kẻ vâng theo giới răn mới này được canh tân, không phải nhờ một thứ tình yêu nào, nhưng chỉ nhờ tình yêu mà Chúa đã phân biệt với tình yêu xác thịt khi Người nói thêm rằng: “Như Thầy đã yêu chúng con”. Tình yêu ấy đổi mới chúng ta, những kẻ hát khúc ca mới. Tình yêu ấy đã canh tân tất cả những người công chính ngày xưa, các thánh tổ phụ, các tiên tri thời trước, cũng như đã đổi mới các dân tộc và toàn thể nhân loại sống rải rác khắp mặt địa cầu. Nó đang kết hợp lại thành một dân mới, làm thành thân thể người bạn trăm năm mới của con Thiên Chúa (Bài đọc II, thứ năm sau Chúa nhật hai Phục sinh: Kinh nguyện).

Hội Thánh là bạn trăm năm của Đức Kitô đặt lệnh truyền điều răn mới này vào những ngày Đức Kitô chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết và đang chuẩn bị khải hoàn về trời.

Trong hoàn cảnh này, điều răn mới có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là trong những lúc càng nhiều nguy biến, gặp nhiều âm mưu hãm hại, càng phải triệt để thương yêu nhau để chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết thì mới được khải hoàn về trời với Đức Kitô Phục sinh vinh hiển.

Thương yêu nhau là dấu chắc chắn chiến thắng. Chúng ta chiến thắng không phải bằng tiêu diệt kẻ thù, mà bằng làm cho kẻ thù được trở về với tình yêu của Chúa: “Cứ dấu này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng thương yêu nhau”. Họ nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa tức là họ đã nhận biết Chúa, nhận biết tình yêu cứu độ của Chúa. Họ phục thiẹn, tất nhiên họ đã trở về với Thiên Chúa rồi đó.

Họ trở về với Thiên Chúa là ta đã làm Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Kitô, làm Thiên Chúa được tôn vinh chính là thực hiện công cuộc cứu thế của Đức Giêsu.

Khi chúng ta thực hiện  điều răn mới của Chúa, chúng ta sẽ được, như Thánh Gioan, thấy trời cũ đất cũ biến thành trời mới đất mới, thấy thành Giêrusalem cũ biến thành Giêrusalem mới, thấy mọi người mọi nơi, như đồi Canvê biến thành nơi sáng láng vinh hiển như núi Tabor, sẽ thấy mọi nơi mọi lúc có Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, sẽ không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa vì những điều cũ đã biến mất ! (Bài đọc II)

Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim sắt đá của con nên trái tim thương yêu, thông cảm. Xin đổi mới con tim thịt máu xác phàm nên trái tim giống Thánh Tâm chan hoà tình thương yêu Chúa, để con biết thực thi điều răn mới của Chúa và làm cho thế giới khô cằn trở thành Nước Trời xanh tốt phì nhiêu.

--------------------------------------------

 

PS 5-C29. CHÚA MỞ LÒNG TRÍ NHIỀU DÂN  NGOẠI


CVTĐ 14,25-26 - Đức Cha G.B. Bùi Tuần

Chúa Giêsu mở lòng trí các môn đệ Lc 24, 45-46

 

Khi Chúa Giêsu sắp về trời, các tông đồ xem ra vẫn còn non yếu trong lãnh vực hiểu biết mầu: PS 5-C29


Khi Chúa Giêsu sắp về trời, các tông đồ xem ra vẫn còn non yếu trong lãnh vực hiểu biết mầu nhiệm con đường cứu độ. Chắc là các ngài cũng có hiểu phần nào. Nhưng hiểu chưa sâu, chưa thấu triệt. Vì thế thánh sử Luca, trong phần cuối Phúc Âm, đã thuật lại sự việc cuối cùng của Chúa Giêsu như sau:

“Bấy giờ Người mở lòng trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24, 45-46).

Cần được mở lòng trí ra

Sự việc Chúa Giêsu làm trên đây cho thấy: Để hiểu con đường cứu độ của Chúa, và để chấp nhận đi theo con đường đó, chúng ta không những cần phải đọc Lời Chúa, học hỏi suy gẫm Lời Chúa, mà còn phải được Chúa mở lòng trí chúng ta ra.

Được Chúa mở lòng trí ra, đó là điều tôi cho là rất cần thiết, khi chúng ta muốn tìm hiểu Lời Chúa, đặc biệt là muốn tìm hiểu con đường cứu độ của Chúa.

Điều khó hiểu nhất và khó chấp nhận nhất, đó là: Để cứu độ nhân loại, Đấng Kitô phải chịu khổ hình, và chúng ta đi theo Ngài, cũng phải chia sẻ khổ hình của Ngài, kế hoạch cứu độ của Ngài.

Để cứu độ nhân loại, Đức Kitô phải chịu khổ hình, đây là một mầu nhiệm lớn lao sâu thẳm. Nhưng, trước khi được Chúa mở lòng trí để đưa ta vào mầu nhiệm đó, chúng ta thử mon men đi tới với những cái nhìn khiêm tốn. Tôi cố nhìn xem đầu mối của sự Đức Kitô phải chịu khổ hình. Tôi thấy đầu mối chính là tình yêu của Ngài.

Tình yêu bị khổ hình.

Ngài là tình yêu, cam chịu mọi đớn đau gây nên do những người chối từ tình yêu của Ngài. Tôi như nghe Ngài nói: “Cha vẫn thương yêu mọi người, Cha không ngừng yêu thương mọi người. Nếu có người bị hư đi, thì chính vì họ đã đóng đinh tình yêu Cha vào thập giá và cố chấp chối từ tình yêu Cha”.

Ngài là tình yêu, dù chịu đóng đinh, vẫn một mực tuân phục Chúa Cha, và vẫn một mực xót thương mọi người. Ngài xin Chúa Cha tha thứ cho những ai xúc phạm đến tình yêu Ngài, nhất là những người, kết án, loại trừ tình yêu của Ngài.

Đứng trước Chúa chịu đóng đinh, chúng ta thấy Chúa không phải như một Đấng ban bố lề luật, cũng không phải như một Đấng phán xét, nhưng như một Đấng là tình yêu ban tặng chính mình để cứu độ ta.

Ngài là tình yêu cứu độ, muốn đi vào cuộc sống ta, để cuộc sống ta được đổi mới. Nên Ngài đành chấp nhận chịu mọi khổ hình thánh giá. Ngài coi thập giá như con đường hy vọng. Mong một lúc nào đó, chúng ta nhìn vào thánh giá, sẽ hiểu được một chút tình yêu của Ngài.

Riêng tôi, tôi luôn nhìn Ngài là tình yêu cứu độ vô cùng tha thiết. Bởi vì Ngài muốn ở giữa những người hèn mọn. Ngài muốn đồng hành với những người yếu đuối. Ngài đến để tìm những người thất vọng. Ngài muốn chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng. Ngài tự ý để mình chịu đau khổ và bị đóng đinh. Để những người đó như tôi khi nhìn vào Ngài, sẽ tìm được tình yêu cứu độ đầy an ủi.

Nhìn lên Chúa là tình yêu chịu đóng đinh trên thánh giá, tôi thấy: Nếu chúng ta mến Ngài, thì trước tiên chúng ta hãy biết bảo vệ Ngài khỏi những vô tâm, ác tâm, dã tâm của con người, của chính chúng ta. Đừng quên điều này: Khi chúng ta vô tâm, ác tâm, dã tâm đối với bất cứ ai, thì Chúa cũng kể như chúng ta đối xử như vậy đối với chính Ngài.

Cái nhìn chân thành này sẽ cho chúng ta thấy: Những người đóng đinh Chúa tình yêu không ở xa đâu. Rất có thể là chính chúng ta. Đó là điều chúng ta thường lẩn trốn, không muốn nhìn nhận. Nguyên do chính là sự nguội lạnh tình yêu và tính kiêu căng.

Những người được Chúa thương mở lòng trí.

Đã có vô số người được Chúa thương mở lòng trí, để họ hiểu mầu nhiệm con đường cứu độ. Họ thuộc loại khiêm nhường.

Họ khiêm nhường tin rằng: Chúa tình yêu có thể rút sự lành ra từ sự dữ.

Họ khiêm nhường tin rằng: Chúa tình yêu có thể vượt qua sự dữ để tiến đến sự tốt lành.

Họ khiêm nhường tin rằng: Chúa tình yêu có thể dùng sự lành để thắng đuổi sự dữ.

Họ khiêm nhường tin rằng: Chúa tình yêu có thể biến đổi kẻ tội lỗi thành người thánh.

Con đường cứu độ đầy gian khổ của Chúa Giêsu đã chứng minh những điều đó. Đặc biệt là những ngày Chúa chịu khổ hình đớn đau nhục nhã.

Thành công của con đường này hệ tại ở tình yêu trung thành của Chúa Giêsu. Trung thành phó thác tuyệt đối vào Chúa Cha, mặc dù thánh ý Chúa Cha là chén đắng. Trung thành yêu thương con người. Trung thành trong các liên đới với mọi người, cho dù đầy cay đắng.

Tình yêu kết bởi các dây liên đới. Liên đới với Chúa Cha. Liên đới với mọi người. Chúa duy trì mọi liên đới. Nhưng khi ai tự cắt liên đới với Ngài, chối từ và loại trừ liên đới với Ngài, thì tình yêu Ngài kể như bị đóng đinh. Lúc đó, không ai sẽ kết án họ, ngoài chính họ mà thôi.

Tóm lại mến Chúa hết lòng và trên hết mọi sự, cũng như yêu người như Chúa yêu ta, tóm tắt đạo tình yêu chỉ là những liên đới đó. Khiêm tốn đón nhận đạo tình yêu đơn sơ đó là đón nhận Nước Trời. Nhưng nên nhớ rằng: Tình yêu không hy sinh là tình yêu giả, và hy sinh không tình yêu là hy sinh thừa. Để hiểu đúng và hiểu rõ, chúng ta rất cần ơn Chúa mở lòng trí chúng ta. Muốn được Chúa mở lòng trí, để hiểu con đường cứu độ, chúng ta hãy thực sự khiêm nhường.

Bởi vì “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Giacôbê 4,6). Khiêm nhường như ông bạn trộm lành bị đóng đinh bên hữu Chúa. Khiêm nhường như tông đồ Phêrô khi trót chối Chúa. Cả hai người khiêm nhường này đã được Chúa mở lòng mở trí. Chỉ do một cái nhìn thương xót của Chúa. Cái nhìn đó đã mở lòng trí các ngài. Các ngài đã hiểu được con đường cứu độ. Con đường đó là con đường tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin đoái nhìn con. Can khát khao cái nhìn xót thương của Chúa. Để cái nhìn của Chúa mở lòng trí con, cho con nhận ra con đường cứu độ nhiệm mầu của Chúa.

Long Xuyên, ngày 11 tháng 5 năm 2001
Đức Cha G.B. Bùi Tuần


--------------------------------------------

 

PS 5-C30. Chúa Giêsu là đường 


Ga 14,1-12

A. Hạt giống...

 

Bài Tin Mừng chứa hai mặc khải: 1. Chúa Giêsu là đường: Trong khung cảnh bữa tiệc ly: PS 5-C30


Bài Tin Mừng chứa hai mặc khải:

1. Chúa Giêsu là đường: Trong khung cảnh bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đang nói cho các môn đệ những lời rất thân tình, tha thiết. Ngài báo cho họ biết Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi mà họ rất lạ. Nhưng Ngài hứa sẽ trở lại đón họ để cũng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi ?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nghĩa là: mục tiêu cuộc hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha ; Chúa Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa Ngài chính là con đường dẫn ta đến đó.

2. Chúa Giêsu là mặc khải của Chúa Cha: Philipphê xin: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu đáp: “Ai Thấy Thầy là xem thấy Cha”

B.... nẩy mầm.

1. “Sinh ký, tử quy”, sống là gởi, chết là về. Đời này không phải là quê hương mà chỉ là nơi chúng ta gởi thân trong một khoảng thời gian nào đó. Khi chết, chúng ta sẽ về quê hương thật. Đó là chân lý. Nhưng nhiều người quên hẳn chân lý đó, họ sống ở trần gian như là đang ở quê hương vĩnh viễn, không hề nghĩ tới lúc phải rời bỏ cái “ký túc xá” này, không hề nghĩ tới nơi mình sẽ về.

2. Một người nói chuyện với bạn là một Kitô-hữu già cả: “Tôi sợ rằng anh gần đất xa trời rồi !” Người kia nhẹ nhàng đáp: “Tôi biết chứ, nhưng nhân danh Chúa, tôi không sợ, mà tôi còn đặt hi vọng vào đó.” (Góp nhặt)

3. Sống là hành trình. Mà hành trình thì phải hướng đến một điểm tới. Trong cuộc hành trình tới một nơi tôi chưa từng biết, nếu tôi tự hướng dẫn thì dễ lạc đường ; tôi đi theo sự hướng dẫn của người khác thì có thể khá hơn ; nhưng không gì bảo đảm bằng hành trình theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu: “Không ai lên trời được ngoại trừ Con Người Đấng đã từ trời xuống” (Ga 1,13)

4. Lạy Chúa, nhiều khi con lo lắng về tương lai, không biết đời con sẽ về đâu. Chúa bảo “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tương lai, hãy để Chúa dẫn dắt. Chúa dẫn con dần đến cái chết, không, đúng hơn là Chúa dẫn con ngày càng tới gần với Chúa Cha. Chúa dạy con hằng ngày sống như Con của Cha và như anh em của mọi người. Đó là con đường mà nếu con đi thì chắc chắn con sẽ đến Nhà Cha trên trời.

5. Một Kitô-hữu già cả sắp chết. Một người đến nói :

- Con đọc cho cụ nghe một câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé  !
- Vâng.
- “Trong nhà Cha có nhiều chỗ... Ta đi dọn chỗ cho các con”
- Không, đó không phải là câu ngọt ngào nhất. Đọc tiếp đi
- "...Ta sẽ trở lại để Ta ở đâu các con cũng ở đó với Ta"
- Đó mới là câu ngọt ngào nhất. Điều tôi cần, không phải là một chỗ, mà là chính Chúa. (Góp nhặt)

6. Được biết Thiên Chúa và được thấy Ngài, đó là ước muốn rất chính đáng và rất sâu xa của mọi tín hữu. Chúa Giêsu đáp ứng ước vọng đó: “Ai Thấy Thầy là xem thấy Cha”. Nhìn Chúa Giêsu, ta có thể biết Chúa Cha như thế nào: nhân từ, hiền hậu, gần gũi với những người đau khổ, khoan dung với kẻ tội lỗi... Thiên Chúa mà chúng ta thờ là như thế đó.

7. “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”. Chúa Giêsu nói tới sức mạnh và năng lực kỳ diệu Ngài sẽ ban cho kẻ tin vào Ngài. Các vị Thánh đã tin và đã làm được những phép lạ như Chúa Giêsu. Tôi có tin không ?

8. “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy. Chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10)

Có một vị ẩn sĩ sống rất khiêm tốn và khó nghèo. Ngày kia, một thiên thần đến nói với Ngài: “Chúa sai tôi đến gặp ngài, ngài có thể xin bất cứ điều gì ngài muốn. Vậy, ngài có muốn được ơn chữa bệnh không ?” Vị ẩn sĩ trả lời: “Không thà để chính Chúa chữa trị thì tốt hơn”. Thiên thần lại đề nghị: “Hay ngài có muốn trở thành mẫu gương để người khác nhìn vào mà sống tốt hơn không ?”. Ẩn sĩ khiêm tốn nói: “Không, bởi như thế, tôi sẽ trở thành trung tâm của sự chú ý”

Cuối cùng thiên thần nói: “Ít nhất ngài nên xin một điều gì đó, vì Chúa muốn thế” - “Vâng, tôi xin điều này: xin cho mọi việc thiện được thực hiện qua tôi mà tôi không hề hay biết”. Thế là lời ước của ẩn sĩ thành sự thật, Thiên Chúa ban cho cái bóng của ngài có được mọi thứ quyền năng. Nơi nào có bóng ngài đi qua người bệnh được khỏi, niềm vui thay cho sầu khổ và đất đai trở nên phì nhiêu. Nhưng ẩn sĩ không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chỉ chú ý tới cái bóng đến độ quên hẳn ngài.

Xin cho biết sống như Thánh Gioan Tẩy Giả “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. (Epphata)

9. Mầm khác:

--------------------------------------------

 

PS 5-C31. GIỚI RĂN MỚI: “CÁC CON HÃY YÊU THƯƠNG NHAU


 NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG CÁC CON".

 (Gian 13. 31-35)

I. VÀI DIỀM CHÚ GIẢI:

1.Tiếng hô thắng trận.

 

Nằm ở giữa việc Đức Giêsu rửa chân và điền từ sau tiệc ly, trong đó, nhiều ý tường lớn được: PS 5-C31


Nằm ở giữa việc Đức Giêsu rửa chân và điền từ sau tiệc ly, trong đó, nhiều ý tường lớn được Đức Giêsu đề cập đến, đoạn tin Mừng này bắt đầu, ngay khi Giuđa vừa đi khỏi, bằng tiếng hô thắng trận của Đức Giêsu: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người”  X. Léon-Dufour chú giải: ." Từ lúc này trở đi, Đức Giêsu thấy cái chết đã theo ngay sau Người, Người cảm thấy được Thiên Chúa tôn vinh. Độc giả cũng phải sống viễn cảnh ấy và lắng nghe . Đức Kitô vinh quang lên tiếng”.

Tác giả đoạn chú giải vừa rồi viết tiếp:Từ “giờ đây” đánh dấu một thời điểm. Nó diễn tả một xác tín thuở đầu. Phục sinh xác định một giai đoạn mới. Vượt qua cái chết, "giờ đây” , Đức Giêsu bước vào một khúc rẽ nhiệm mầu, bỏ lại sau những điều kiện bình thường của con người bị lệ thuộc vào thời gian, nghĩa: là hiện tại chỉ phát xuất từ một quá khứ và hướng tới một tương lai mờ mịt. Từ giờ trở đi, hiện tại của Đức Giêsu là một hiện diện vĩnh cửu trong vinh quang Thiên Chúa”. (“Lecture de Evangile selon saint Jean, quyển III, Seuil, trg 50-51)

2. Từ “như” chỉ một cội nguồn.

Người ta thường trích lời Đức Giêsu: "Các con hãy thương yêu nhau ", nhưng lại hay bỏ nửa sau "như Thầy đã yêu thương các con”. Và nhiều người coi từ "như" này như một liên từ so sánh: các môn đệ được kêu gọi để bắt chước sự xử thế của Thầy mình.

Nhưng, liên từ "như" này của bản văn Tin Mừng không chỉ biểu thị sự so sánh, mà còn biểu thị nguồn gốc của tình yêu mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ mình, có thể di dịch: " Các con hãy yêu thương nhau, theo như Thầy đã yêu thương các con”, hoặc ... “Các con hãy yêu thương nhau...vì Thầy đã yêu thương các con để các con yêu thương nhau như Thầy". Hoặc "Các con hãy thương yêu nhau bằng tình yêu mà Thầy đã yêu thương các con”. X. Léon-Dufour chú giải: "tình yêu của Chúa Con đối với các môn đệ làm phát sinh lòng bác ái nơi các ông. Chính tình yêu của Người lưu chuyển đến họ làm cho họ yêu thương anh em, và họ được mến yêu. Tình yêu của Đức Giêsu triển nở nơi các tín hữu mang dấu ấn tình yêu Chúa Cha". (Sđd, trg 82-83).

3. Tính cách mới mẻ của giới luật yêu thương.

Yêu đồng loại. Cựu ước đã biết đến đòi hỏi này. Các triết gia ngoại giáo trước Đức Giêsu đã rao giảng tình yêu tha nhân, cả đến tình yêu đối với thù địch.

Thế thì, tính cách mới mẻ trong giới răn yêu thương huynh đệ của Đức Giêsu là gì? Điều mới mẻ này chính là nơi bản chất của tình yêu huynh đệ mà các môn đệ Đức Giêsu thể hiện: đó là tình yêu của chính Đức  Giêsu thể hiện nơi họ. X.Léon-dufour kết luận: "Một kỷ nguyên mới đã khởi đầu. Qua các môn đệ của Chúa Con mà tình yêu mạc khải từ nay hiện diện trong nhân loại... tình yêu nhau giữa các môn đệ sẽ tỏ bày cho mọi người, - nghĩa là cho cả những người lân cận chưa tin - họ thuộc về Đức Kitô và nhờ Người mà nhân loại vượt qua cái chết để tới sự sống. " (Sđd, trg 84-85).

II. BÀI ĐỌC THÊM:

1.Hãy làm cho giới luật yêu thương sáng lên

(L. sintas, trong “parole de Dieu pour la méditation et I’homélie", Médiaspaul, Trg 57).

Từ nay, qua việc chăm sóc người bất hạnh, người nghèo, Giáo Hội và các cộng đoàn tỏ bày tình thương của Thiên Chúa đối với con người và đồng thời tỏ bày ý hướng cứu rỗi họ. Phải, Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mệnh đem vào hiện hữu và lịch sử con người một luật có khả năng làm sống động nhân loại bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Luật ấy là thế này: Hãy thương yêu nhau như Thầy đã vêu thương các con. Thiên Chúa biết thời đại chúng ta đang kêu gào lớn tiếng một luật sống khác với luật sống của máu lửa, sắt thép đang huỷ diệt khắp chốn. Hãy biết khiêm tốn để làm sáng lên trong đời chúng ta, trong nhiệm vụ của  chúng ta, trong gia đình, cơ quan, nơi vui chơi giải trí, trong lãnh vực kinh tế, chính trị, một chút gì đó của giới luật yêu thương.

2. Tình yêu bác ái, lời giảng đầu tiên của việc Phúc âm hóa

 (F. Deleclos, "Prends et mange chaque dimanche la parole” Centurion-duculot, trg 208-209)

Chỉ vương quyền bác ái mới có thể thay đổi thế giới, mới biến hận thù thành yêu thương, chiến tranh thành hòa bình

Chỉ "hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu các con” mới có thể tạo lập một mẫu người và xã hội huynh đệ. Bác ái không thể định nghĩa được bằng ngôn từ cảm tính hay sùng mộ. Olivier Clément viết: Bác ái “không phải là đường mà là muối". Ngôn từ của bác ái "không phải là bạc nhược, nhưng là tự chủ và dũng cảm ". Thế giới này nghĩ bác ái là điều khó và thậm chí không thể thực hiện được. Bác ái đích thực không tránh né bạo lực, mà là chuyển đổi nó thành sự phấn đấu trong cuộc sống, là tạo lập công bình và Thẩm Mỹ.

Tình yêu-bác ái là công trình của lòng tin, là dấu chỉ hữu hình và cần thiết để chứng tỏ sự thuộc về Đức Kitô Phục Sinh. Nó là lời giảng đầu tiên của việc Phúc âm hóa, là sự hiện diện trước tiên có thể cảm nhận được của Đức Kitô.

Nền văn minh tình yêu là một mầm cây được trồng nơi thửa đất gọi là Giáo Hội, là đầu cầu dẫn vào vương quốc, với điều kiện là trước hết, các Kitô hữu phải tập và có kinh nghiệm yêu thương nhau, rồi mới có thể yêu thương mọi người.

Tình yêu bác ái là năng lực vô song làm cho con người và xã hội có được sức sống mới. Cuộc viếng thăm một hội đường Do Thái ở Rôma của Đức Giáo Hoàng đã nhắc nhở chúng ta điều này. Công cuộc giải phóng của Kitô giáo phải hoàn toàn được hướng dẫn bởi tính năng động của giới luật yêu thương vĩ đại này.

--------------------------------------------

 

PS 5-C32.  “ĐIỀU RĂN MỚI”


Ga 13,31-33a.34-35

 

Khi Giuda ra khỏi nhà tiệc ly, có lẽ sau lúc rửa chân và trước khi thiết lập phép Thánh thể, Chúa: PS 5-C32 


1. Khi Giuda ra khỏi nhà tiệc ly, có lẽ sau lúc rửa chân và trước khi thiết lập phép Thánh thể, Chúa Giêsu nói: “Bây giờ con người đã được tôn vinh và TC đã được tôn vinh nơi Ngài”. Thốt lên những lời tuyên bố buồn bã về một người trong nhóm 12 sẽ phản bội, câu nói ấy, đối với các tông đồ, vang lên như một bài ca khải hoàn. “Bây giờ” là lúc cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và satan, mà Giuda là dụng cụ (x.13,37), vừa thực sự bùng nổ qua việc tên phản bội quyết tâm ra đi thi hành dự tính của mình; “bây giờ” là lúc Chúa Giêsu đối diện với “giờ” của Ngài, Giờ mà vì đó Ngài đã đến trong thế gian và không ai có quyền cho xảy ra sớm hơn hay trễ hơn (7,30; 8,20; 12, 23-27; 13,1; Dt 10,3-7; Lc 13,3-33). Cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một chuẩn bị, “bây giờ” mới bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.

Nghĩ đến ơn cứu rỗi loài người và vinh quang Cha Ngài (3,15.17; 8,49-50; 10,10; 12,47), tâm hồn Chúa Giêsu cảm thấy hài lòng đến nỗi - coi cuộc khổ nạn như một thoáng qua và Thập giá như chiếc ngai vàng. Ngài đã nhiều lần chơi chữ khi dùng từ ngữ: giương cao” (exalter, hupsoun) vừa có ý nghĩa “nâng lên” (élever) và “tôn vinh” (glorifier), để cho thấy Ngài sẽ bước lên thập giá chúng ta tư thế một kẻ chinh phục (3,14; 8,28; 12,32-34; 12,23.24). Ngài thâm tín sẽ tìm thấy sự sống trong cái chết và vinh quang trong ô nhục đến nỗi nói về sự vinh hiển của Ngài như là một điều gì đã hoàn tất: “Con người sẽ được tôn vinh ”. Thì quá khứ này, để diễn tả một việc sẽ xảy ra, có thể giải thích dễ dàng nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối của Đức Kitô vào hiệu quả chương trình của Chúa Cha hơn là nhờ các hậu kết bất khả kháng gây ra do việc Giuda phản bội.

Có lẽ đừng nghĩ đến các chứng tá Chúa Cha đã ban cho Con Ngài thì đặt trong viễn cảnh đó thì câu nói đến việc Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách chu toàn bổn phận khi còn sống (4,34; 17,4), bằng việc mạc khải Chúa Cha (17,6) và vinh quang của Người (2,11; 11,4.40; 17,4), qua lời nói (1,18; 3,32-34; 5,24.38.47; 6,45.63; 7,16; 8,38.40-47.55...) và hành động (3,21; 5,19-20.30.36; 8,28; 9,3.4; 10,25.32.37.38; 14,10-11; 15,24). Nhưng chữ “bây giờ” bắt đầu câu 31 cho thấy một cái gì mới mẻ vừa khởi phát với việc Giuda bội phản: cuộc khổ nạn - phục sinh của Chúa Giêsu được xem như sự tôn vinh tuyệt hảo nhất, và sự tôn vinh tột bực này một cách nào đó đã được chiêm ngắm trong ý nghĩa thần học của nó. Như thể đã được thực hiện trong mầm mống qua việc phản bội của Giuda. Để xác quyết điều này, chỉ cần nhớ lại chứng tá Chúa Cha vài ngày trước đó: “Ta đã tôn vinh danh Ta và Ta sẽ còn tôn vinh danh Ta nữa” (12,28). Trong trường hợp này, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh; hiển nhiên đây là lời tiên báo trực tiếp vào cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu và vinh quang Ngài sắp lãnh nhận (12,23-25).

Chính Chúa Giêsu ở đây đã có ý tự xưng là “Con Người”. Mặc dù vẫn có nghĩa thiên sai như trong các phúc âm tước hiệu này dưới ngòi bút của Gioan, mang một ý nghĩa chính xác hơn. Trong mười đoản văn mà chúng ta gặp nó luôn luôn trên miệng Đức Kitô, tước hiệu “Con Người” đã ám chỉ đến vinh quang đang chờ đợi Ngôi lời nhập thể, để đáp lại việc Ngài hạ cố làm thân phận con người, dù là con người tuyệt hảo hơn hết. Và trong 4 lần, tước hiệu này trực tiếp ám chỉ đến sự vinh hiển nhờ thập giá (1,51; 3,13.14; 5,27; 6,27; 6,54.63; 8,28; 12,23; 13,31).

Nếu Đức Kitô đã được tôn vinh, chính là vì “TC đã được tôn vinh nơi Ngài”. Mọi việc con người phụng sự TC sẽ trở lại với con người dưới dạng thức vinh quang. Đó là luật, luật này trước tiên liên hệ đến Đức Kitô, và vì thế “TC cũng sẽ tôn vinh Ngài (ĐKT) trong chính mình Người (TC)”. Nghĩa là gì ? Nghĩa là Ngài sẽ ban vinh quang thuộc về Ngài, khi đón nhận Ngài “trong chính Người”. Con Người sẽ được thông phần vào các đặc quyền của sự sống thần linh, các đặc quyền mà Ngài sẽ nhắc tới trong lời nguyện: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất, đã chu toàn công việc Cha giao phó cho Con làm. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha trước khi có thế gian” (17,4-5). Ở đây có sự đối chiếu giữa tình trạng của Đức Kitô lúc còn ở “dưới đất” và tình trạng “trên trời” mà Ngài xin cho được. Từ đó ta hiểu tại sao nói “Con Người” và “TC” thay vì nói Con và Cha. Đúng ra Chúa Con đã bao giờ mất vinh quang đã có ở Chúa Cha ngay trước khi tạo dựng vũ trụ; nhưng nhờ sự vinh hiển mà Đức Kitô đạt được cho nhân tính mình, TC đã nâng con người lên chính Ngai của TC. Chính đấy là nơi mà từ nay các tín hữu đầy lòng tin và đạo đức sẽ tìm đến gặp Ngài. Chính từ đó mà Ngài đã mạc khải cho vị tử đạo tiên khởi của Ngài. Vị này nói khi chết: “Tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu TC” (Cv 7,56).

Khi loan báo “TC sắp tôn vinh Ngài”, Chúa Giêsu ám chỉ đến chứng tá hùng hồn Chúa Cha ban cho Ngài khi cho Ngài phục sinh từ cõi chết. Ngoài ra, việc phục sinh này đối với Ngài chỉ là bước đầu tiên trong cuộc sống hiển vinh mà cuộc khổ nạn sắp đưa Ngài vào.

2. Trước khi từ giã các môn đệ, Đức Kitô đã cho họ biết ý muốn tối thượng của Ngài: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới là hãy yêu mến nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (c.34). Ngài nói trong tư thế một sư phụ trăn trối những lời cuối cùng trước khi ra đi (x.Mt 24,45.51), và trong tư thế một người cha hằng lo bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp giã từ. Nếu được chấp hành tốt, điều răn này sẽ đền bù cho các môn đệ, trong mức độ có thể, sự mất mát không còn thấy Thầy cách khả giác, và sẽ làm họ xứng đáng gặp lại Ngài. Giới luật bác ái huynh đệ mà ở đây Chúa Giêsu gọi là giới luật “mới” ít lúc nữa sẽ được Ngài gọi là “giới luật của Ngài” (15,12).

Chính nhờ giới luật mới, nên Đức Kitô mới có thể tuyên bố là của Ngài. Luật tự nhiên dạy đừng làm cho ai điều ta không muốn họ làm cho mình. Luật Môisen đã thừa nhận khoản luật tự nhiên đó, khi dạy phải yêu tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng đối với ai người Do thái, tha nhân là anh em, đồng bào, bạn hữu mà họ cần phải sống an hòa với, không thì sẽ bất an khi cùng đi đường. Luật trực tiếp liên hệ đến người Do thái, nhưng không gạt bỏ ngoại kiều (Mt 5,43. Trong các điều kiện trên, tình yêu tha nhân có tính cách tiêu cực nhiều: tránh tất cả những gì có thể gây thù oán, báo phục. Nếu tình yêu được thể hiện cách tích cực bằng hành động, thì cũng không kém vụ lợi; tựu trung, qui tắc là yêu chính bản thân mình. Chính giáo sĩ Hiller, nhà luân lý Do thái nhân bản nhất đã hiểu như thế: “Điều chi ngươi ghét, ngươi chớ làm cho tha nhân. Chính đó là tất cả lề luật, các điều khác chỉ là lời chú giải” (Chabbath, f.31).

Để xác quyết, Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc lại luật căn bản của mọi tương giao xã hội (Mt 7,12; 19,19; 22,39-40), nhưng Ngài đã vượt qua luật đó, hay ít ra, đã đưa nó về lại nội dung ban đầu, khi tố giác lối chú giải hẹp hòi và cứng nhắc mà các thày ký lục đã đề ra (Mt 5,43). Không phải chỉ yêu thương bạn hữu, mà còn phải muốn điều lành cho mọi người, kể cả kẻ thù mình; bằng không, không phải là Kitô hữu (Mt 5,46-48).

Với “giới luật mới”, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi buộc của tình bác ái huynh đệ; yêu tha nhân như chính mình chưa đủ người kitô hữu phải yêu tha nhân như Đức Kitô đã yêu họ (c.34). Mà tình yêu Đức Kitô đối với chúng ta là ân cần, vô vụ lợi, tận tâm (Ga 13,13-16; 15,16.19; Rm 15,13). Ngài đã hiến mình cho loài người đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính do điều này mà ta nhận ra được lòng yêu mến: là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng vì chúng ta; nên ta cũng thí mạnh vì anh em mình” (1Ga 3,16).

Giao ước mới đã được đóng ấn với máu của tác giả giao ước (1Co 11,25). Điều trong trình thuật rửa chân trước đó được giới thiệu như một việc “phục vụ”, ở đây được gọi là “tình yêu”; nhưng tựu trung chỉ có một vấn đề: hiến thân hoàn toàn, không hạn chế. Tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu thần linh, không chỉ vì Ngài là TC, vì Ngài yêu chúng ta như là tạo vật và Con TC (Ga 17,6.9.10); nhưng còn vì Ngài mô phỏng theo tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài: “Như Cha yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các ngươi” (Ga 15,9). Nói tóm lại có nghĩa là: “Hãy yêu thương nhau, như Ta đã yêu thương các ngươi, cho đến hy sinh mạng sống; hãy yêu thương nhau như chính TC đã yêu Ta”.

Một khi được hiểu và thực hành như vậy, tình bác ái huynh đệ phải tạo ra giữa loài người mối hiệp nhất theo gương TC: “Để hết thảy chúng được nên một, cũng như, Lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Mà Đấng cầu nguyện như thế cũng đã nói: “Cha và Ta là một” (10,30).

Ngoài ra, Đức Kitô của Thánh Gioan ở đây không dạy điều gì khác các điều chúng ta đã học trong các phúc âm nhất lãm. Bài diễn từ trên núi tóm tắt toàn bộ lý tưởng Kitô hữu: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Đoạn này cũng nói yêu kẻ thù là dấu chỉ phân biệt người Kitô hữu (Mt 5,46-48). Để yêu người như Chúa Giêsu muốn, phải yêu TC trên hết mọi sự. Vì thế vị tôn sư đã đặt tình yêu TC và tình yêu tha nhân một cách nào đó ngang hàng với nhau (Mt 22,39). Gioan và Phaolô, hai môn đệ Ngài, đã nhất trí dạy rằng: người yêu tha nhân là giữ trọn lề luật (1Ga 2,7-11; 3,10-11.14-16; Rm 13,9-10).

“Chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra là các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (c.35). Bác ái giữa người Kitô hữu với nhau phải hiện thực và rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ Chúa Giêsu, ngay cả đến những người không biết gì về Kitô giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 4,02-21). Tình yêu được truyền dạy ở đây chỉ có thể được hiện hữu giữa những người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Một lần nữa, giới luật là giới luật “mới".

Lịch sử Giáo hội sơ khai là lời chú giải tuyệt hảo nhất về câu nói đó. Luật bác ái đã được hiểu rất sớm và đã phát sinh ra nhiều hoa quả xây dựng mà Chúa mong chờ. Tác giả sách công vụ đã nói lên đặc điểm của nhóm Kitô hữu đầu tiên: “Các kẻ tin hết thảy đều coi mọi sự như của chung” (Cv 2,44). Theo chứng từ của Tertullien, người ta đã nói về họ: “Hãy xem họ thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào” (Apolog.39; Pl 1,53a). Sau này, những người ở ngoài sẽ gọi họ là Kitô hữu, còn họ vẫn gọi nhau là “anh em” (Cv 11,26.29). Họ ý thức việc họ được bác ái liên kết, đến nỗi đã dùng chữ “Agapê” (tình yêu) để đặt tên cho bữa ăn chung, được đó họ ăn và uống Mình, Máu Chúa (Giuda 12; Ignatiô, thơ gởi tín hữu Rm 7).

KẾT LUẬN

Trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã ban luật sống mới cho môn đệ mình. Đây là một luật mới vì đặt cơ sở trên một biến cố mới, bất ngờ và điên đảo: cái chết của Chúa, và vì trong cộng đoàn nhân loại không có chi tương tự như thế. Do đó, luật sống này là đặc điểm của cộng đoàn môn đệ vừa thành lập: “chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra các ngươi là môn đệ Ta”. Và các chứng tá trong Giáo hội sơ khai chứng nhận rằng luật tình yêu này, thực sự đã được chấp hành tốt.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Sau khi Giuda ra đi, Chúa Giêsu liền công bố, như thể cuộc ra đi của Giuda là dấu hiệu của một điều gì quan trọng: “Bây giờ Con Người đã được tôn vinh và TC đã được tôn vinh nơi Ngài”. Hãy biết rằng, trong thánh kinh, vinh quang của TC hay vinh quang của một người nào đó không cùng ngôn ngữ như trong ngôn ngữ chúng ta. Trong ngôn ngữ chúng ta, vinh quang có nghĩa: nổi danh, đắc nhân tâm và được tiếng tốt. Trong Thánh kinh, vinh quang chỉ phẩm cách, thế lực, ảnh hưởng hiện diện và quyền năng của nhân vật. Với ý nghĩ đó, vinh quang cao cả, cơ sở của mọi vinh quang khác, chỉ thuộc về TC, Đấng thông ban vinh quang như ý Ngài muốn. Trong mức độ thực hiện chương trình TC, mỗi người nhận được giá trị và thế lực, và lớn lên trong vinh quang.

2. Việc tìm hiểu các tự nguyện đó giúp chúng ta quán triệt ý gnhĩa các lời nói của Đức Kitô. Chúa Giêsu đã được tôn vinh. Ngài chấp nhận điều Giuda phải làm. Từ đó, Ngài được vinh hiển, vì hoàn toàn chấp nhận cuộc Vượt qua bằng cái chết. Việc Ngài vâng phục thánh ý Chúa Cha làm cho Ngài được “vinh quang” và nói lên việc Người nhiệt tâm yêu mến TC. Đồng thời khi minh chứng mức độ tình yêu Ngài đối với loài người bằng việc trao ban Chúa Con, Chúa Cha cũng “đã được tôn vinh” trong con người Chúa Giêsu.

3. Việc phúc âm và phụng vụ nhấn mạnh đến tính cách mới mẻ của luật bác ái huynh đệ đòi buộc chúng ta xét mình xem chúng ta thực thi Luật đó đến mức nào và bằng cách nào. Nó giả thiết đức ái này tiếp nối tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta ("như thày đã yêu mến các con") và tiếp nối tình yêu chúng ta đối với Chúa Giêsu (vì chính trong điều đó mà người ta nhận ra các con là môn đệ Thày...). Lòng thương cảm tự nhiên khác xa tình yêu anh em siêu nhiên mà chúng ta phải có. Yêu thương họ vì họ (trong môi trường và điều kiện sống họ đang sống) không ngăn cản việc yêu thương họ trong TC và trong Đức Kitô. Và ngược lại, yêu thương họ như thế không giảm bớt lòng kính trọng và tình cảm tự nhiên. Yêu cách siêu nhiên không có nghĩa là yêu cách nhạt nhẽo, hững hờ, “để được Chúa thưởng”. Nhưng là yêu người khác hết lòng, không phải vì họ dễ thương, xinh đẹp, tốt lành... nhưng là vì họ là chi thể quí giá của Chúa Giêsu, là công dân Gierusalem thiên quốc. Vì các đặc điểm trên có giá trị cho mọi người, nên phải yêu mọi người với tình yêu siêu nhiên.

4. Trong thế giới ích kỷ, bạo tàn, ham mê tiền bạc, bóc lột nghèo, người Kitô hữu phải làm sáng rực như ánh lửa, tình yêu họ đối với tha nhân, niềm cảm thông với người cùng khổ, lòng dịu và tha thứ cho kẻ nghịch thù. Nếu làm như vậy, Kitô hữu sẽ nổi bật lên giữa bao người khác. Một khi cảm nghiệm cách cụ thể tình yêu đó, thiên hạ sẽ nhận ra người Kitô hữu là môn đệ đích thật của Đức Kitô, sức nóng của tình yêu, họ sẽ được đưa dẫn về với Đức Kitô. Chỉ tình yêu mới có thể xây dựng đô thành huynh đệ loài người hằng mơ ước.

--------------------------------------------

 

PS 5-C33. Sắp tới giờ Ngài được tôn vinh - Lm JK


Đọc Lời Chúa

· Cv 14,21b-27: «Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa”»


· Kh 21,1-5a: Bấy giờ, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa

· TIN MỪNG: Ga 13,31-33a.34-35

Những lời cáo biệt

Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giêsu nói: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.»


Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau.»

Suy niệm

Câu hỏi gợi ý:


 

Tại sao sắp tới lúc chịu tử nạn, Đức Giê-su lại nói rằng sắp tới giờ Ngài được tôn vinh? Tử nạn: PS 5-C33


1. Tại sao sắp tới lúc chịu tử nạn, Đức Giê-su lại nói rằng sắp tới giờ Ngài được tôn vinh? Tử nạn và tôn vinh có phải là một sự kiện duy nhất không?

2. Tại sao khi Đức Giê-su được tôn vinh, thì Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người? Có gì tương tự như thế giữa Thiên Chúa và chúng ta như nơi Đức Giê-su không?

Tại sao sự yêu thương nhau lại là dấu chứng của các môn đệ Chúa? Thế còn việc làm dấu thánh giá có phải là dấu chứng không?

Suy tư gợi ý:

1. Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Giê-su và qua Đức Giê-su


a) Hai mặt đối nghịch nhau của mầu nhiệm vượt qua

«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giê-su nói điều này ngay trước khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà Ngài lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho thấy «tử nạn» và «được tôn vinh» là hai mặt khác nhau của cùng một sự việc. Nói cách khác, tử nạn và phục sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược lại nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một tờ giấy duy nhất.

Đó là chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu khó nhọc học hành không thể đổ đạt hay làm nên danh phận gì.

Ý thức được thực tế của mầu nhiệm vượt qua, người kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh phúc mà không phải qua đau khổ, hay có được vinh quang mà không phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục sinh mà không cần tử nạn. Qui luật thực tế của đời sống không cho phép như thế. Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn vinh quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà không cần tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả mọi người, vì những ước muốn đó thường dẫn đến tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi xảy ra trên đời đều xuất phát từ ước muốn không thực tế đó. Kẻ trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người, gian dâm, v.v… đều là những kẻ muốn hạnh phúc mà không phải khó nhọc, vất vả. Tới đây, ta nên nhớ lại lời của Đức Giê-su: «Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy» (Mt 7,13-14).

b) Trong Đức Giê-su, Thiên Chúa và con người là một


«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giê-su và Thiên Chúa đều được tôn vinh trong cùng một con người (là chính Đức Giê-su), và trong cùng một sự việc (là cuộc tử nạn). Điều này cho thấy Đức Giê-su và Thiên Chúa liên quan với nhau mật thiết đến mức có thể nói Đức Giê-su và Thiên Chúa là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất: con người Đức Giê-su. Có thể nói Đức Giê-su, một mặt là một con người yếu đuối, bị hạn chế đủ mọi mặt, mặt khác lại chính là một Thiên Chúa mạnh mẽ, vô hạn đủ mọi mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau thành một con người duy nhất.

Đức Giê-su chính là mô hình gương mẫucủa chúng ta, của mọi người kitô-hữu. Cũng tương tự như Đức Giê-su, một mặt ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu đuối, dễ trở nên tội lỗi, một mặt ta chính là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn, mạnh mẽ, thánh thiện, «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Tính chất thần linh trong bản thân của đa số chúng ta có thể còn ở dạng mầm, chưa phát triển. Bổn phận và sứ mạng của người kitô-hữu là phải làm sao để cái mầm thần linh ấy ngày càng phát triển lớn mạnh lên. Ta càng ý thức được tính chất thần linh của mình, và cố gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.

Khi mầm thần linh ấy phát triển trong ta, khiến ta sống, hành động và xử sự như Đức Giê-su, thì ta có thể nói được như Ngài: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Thiên Chúa chỉ được tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm thần linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm thần linh ấy chính là Nước Trời ở trong ta. Đức Giê-su đã từng nói: «Nước Thiên Chúa ở trong anh em» (Lc 17,21). Và trong bản thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy, giống như một hạt cải, «là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất. Nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được» (Mt 13,32). Nhưng mầm thần linh ấy chỉ phát triển khi «cái tôi đáng ghét» của ta thật sự nhỏ đi: «Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga2. Yêu thương là điều kiện phát triển tính thần linh trong ta

Mầm thần linh ấy không thể phát triển được trong một con người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển hình ảnh của Thiên Chúa trong ta và sự trương phình bản ngả của ta là hai sự việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Càng coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt nặng cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át tính chất thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt, nhỏ bé đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ tội lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng tội». Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự hủy cái tôi của mình đi. Đức Giê-su đã từng nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi, nó vẫnchỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái.

Yêu thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu. «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm thần linh ấy không thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của mình quá lớn.

Chính vì thế, trước khi từ giả các môn đệ để chịu tử nạn và về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su cho các môn đệ biết cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể căn cứ vào đó mà biết được ai là môn đệ đích thực của Ngài, đó là tình yêu thương đối với mọi người, và nhất là đối với nhau. «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau». Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ… chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫncó thể giả mạo. Còn sự yêu thương – được thể hiện cụ thể bằng hành động – mới là dấu chứng thật sự của người kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội, thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà rhôi (xem Rm 2,12-24).

Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin biến cải lòng con thành «trời mới đất mới», thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa – là tình yêu – ở trong con.


--------------------------------------------

 

PS 5-C34. Sự thành công của việc phúc âm hóa dân ngoại

 

Hôm nay, thoạt tiên, dường như bài sách Tông đồ công vụ và bài Tin mừng thánh Gioan nói về: PS 5-C34


Hôm nay, thoạt tiên, dường như bài sách Tông đồ công vụ và bài Tin mừng thánh Gioan nói về vinh quang.

Sau chuyến đi truyền giáo đầu tiên, thánh Phoalô và Banaba kể lại cho cộng đoàn Antiôkia sự thành công của việc phúc âm hóa dân ngoại. Và trong diễn từ sau tiệc ly, Chúa Giêsu nói về việc Chúa Cha tôn vinh Ngài. Tuy nhiên vinh quang của các tông đồ cũng như vinh quang của Chúa Kitô chỉ có thể hiểu được khi đặt nó vào bối cảnh nơi nó được biểu lộ. Ta hãy nhắc lại các biến cố đã được trình thuật ngay trước các bản văn của Chúa nhật này.

Kinh nghiệm của Thánh Phaolô và Banaba

Trong sứ vụ đầu tiên tại Tiểu A , Phaolô và Banaba thường gặp sự chống đối, thất vọng hoặc không được thông cảm. Chúng ta hãy nhớ lại:

Tại đảo Sýp, bà phù thủy Êlimac đã chống lài hai ông. Gioan biệt hiệu Maccô (sau này là tác giả Tin mừng) đã bỏ hai ông vì những lý do bí mật. Phaolô cần nhiều thời gian mới tha thứ được cho ông về chuyện này. Banaba vì có họ với Maccô nên dễ tha thứ hơn.

Nhưng điều làm cho hai vị thừa sai đau đờn là nhìn thấy các anh em đồng bào trong đức tin Do thái chối bỏ giáo huấn của các ông. Cuối cùng việc rao giảng mà các ông muốn là yếu tố hợp nhất lại chia rẽ dân chúng Iconium một số người thậm chí còn xem các ông là những vị thần trong lúc những kẻ khác bách hại các ông.

Kinh nghiệm cưa Chúa Giêsu.

Trường hợp về vinh quang của Chúa Giêsu cũng thế. Đoạn Tin mừng Gioan ngay trước đoạn được trích đọc hôm nay kể lại việc Giuđa phản bội. Vinh quang của Chúa Giêsu phải trải qua những đau khổ và cái chết nhưng trước đó Chúa Kitô đã bị những kẻ thuộc về Ngài phủ nhận: Các ký lục, những người biệt phái, hội đồng tư tế, các thủ lãnh chính trị, nhưng ngay cả  điều này còn đau đớn cho Ngài hơn - những kẻ Ngài đã chọn, Giuđa, cả Phêrô và những môn đệ khác nữa. Chỉ trừ Đức Maria và Gioan.

Vậy Phoalô và Banaba, cũng như chính Chúa Giêsu và những kẻ được sai đi, sau khi hoàn tất sứ vụ, họ muốn giúp các môn đệ thuộc mọi thời bền đỗ trong đức tin. Kinh nghiệm sẽ giống nhau cả: "Phải trải qua nhiều thử thách mới vào được nước Thiên Chúa".

Yêu thương theo cách của Chúa Giêsu.

Nắm được những điều vừa trình bày chúng ta sẽ hiểu rõ hơn một chút, tình yêu mà các môn đệ Chúa Kitô phải sống, thứ tình yêu sẽ làm cho họ được nhìn nhận là chứng nhân thực sự của Ngài. Từ ít lâu nay người ta có khuynh hướng thú gọn luân lý Kitô vào một tình yêu ít dấn thân và ít đòi hỏi.

Vì hiểu sai câu nói của thánh Âu tinh: "Hãy yêu đi rồi làm gì cũng được", người ta thường nghĩ rằng chỉ cần yêu thương để sống như Chúa Giêsu, mà quên rằng phải tập sống theo cách Chúa Giêsu đã sống.

Tình yêu mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi những ai bước theo Ngài là một tình yêu đẫn đến việc hiến dâng mạng sống: Ta dừng quên rằng. Tin mừng Chúa nhật hôm nay nằm trong diễn từ của Chúa Giêsu tại bữa tiệc ly, khi mà chính Ngài sắp hiến dâng mạng sống vì thế gian. Chúa Giêsu muốn ta phải có một tình yêu mà sự chống đối, thất vọng, sự thiếu thông cảm không thể thắng được. Một tình yêu không ngã  lòng, một tình yêu có khả năng tha thứ. Chúa Giêsu đã tha thứ cho Phêrô, Phoalô và Banaba đã tha thứ cho Maccô.

Yêu thương theo cách Chúa Giêsu không phải là điều tự nhiên. Chỉ với Ngài mới yêu được như thế. Người Kitô hữu không thể bằng lòng chỉ thuộc về "nhóm tốt" mà thôi. Họ còn phải săn sàng leo lên núi Sọ con đường duy nhất đi tới phục sinh. Hiệp thông với Chúa Kitô trong Thánh Thể cũng phải giúp chúng ta hiệp thông với Ngài trong tình yêu để xả thân ngày này qua ngày khác nữa.

Như vậy theo gót Chúa Kitô, hợp nhất với tất cả các thành viên khác của dân Ngài, mỗi người trong chúng ta sẽ có thể đóng góp vào việc thực hiện dự định của Thiên Chúa, dự định mà Ngài đã cho chúng ta thoáng thấy trong bài đọc sách Khải huyền Chúa nhật hôm nay: "Này ta đổi mới mọi sự".

JEAN-PIERRE CAMBRLAIN

--------------------------------------------

 

PS 5-C35. ĐỨC ÁI XÂY DỰNG HỘI THÁNH.

 

Đức ái Kitô giáo là gì, mà Đức Kitô xác định riêng với các môn đệ của Ngài: "Điều răn mới: PS 5-C35


Đức ái Kitô giáo là gì, mà Đức Kitô xác định riêng với các môn đệ của Ngài: "Điều răn mới của Thầy"?

Nếu "Đức ái" chỉ là "Tình yêu" giữa hai sinh vật, thì quá thông thường và xưa như trái đất, làm sao Chúa lại cho là mới được? Chắc chắn phạm trù yêu Đức Kitô ban tặng cho Hội thánh phải có nội dung đặc thù, mà người ta không thể tìm đâu nơi người đời, cho nên Thánh Gioan mới quả quyết: Chỉ mình Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8).

Ta hãy tìm hiểu nét đặt thù giới răn của Đức Kitô truyền, và cụ thể sống đức ái Kitô giáo.

I/ Nét đặt thù luật yêu của Đức Kitô:

1/ Đức ái làm cho người bằng Chúa:
"Chúng con hãy yêu nhau như Thầy yêu chúng con" (Xem Ga 13,34). Từ giới luật này, ta viết thành công thức tác động:


                             TÔI       yêu                    ANH   =  CHÚA             yêu              TÔI                

Nhận định: Công thứ này đọc ngược, đọc xuôi đều được: Chúa và con người trong trái tim tôi yêu.

Đọc xuôi: "Tôi yêu anh (em) như Chúa yêu tôi".

a/ Chúa phải cho tôi biết Chúa yêu tôi làm sao, để tôi lấy Ngài làm mẫu mà yêu đồng loại, vì thế, Ngài đã xuống thế làm người, để dạy con người sống yêu như Ngài  đã sống.

b/ Tôi đáp lại lòng Chúa yêu tôi bằng cách tôi lấy Ngài làm mẫu để yêu đồng loại. Vì thế tôi phải liên hiệp với Chúa nhờ Bí Tích thánh thể, để tôi nên giống Ngài, tôi mới có khả năng yêu đồng loại như Chúa được.

Đọc ngược: "Tôi yêu Chúa như anh (em) yêu tôi".

Thiên Chúa tôi không thấy bao giờ, tôi chỉ yêu Ngài qua cách anh yêu tôi. Vì thế, anh phải sống như Giêsu đã sống, đặt biệt nhờ Bí Tích Thánh Tẩy và Thánh Thể. Nói tắt: Anh là người trong Hội thánh.

2/ Đức ái vừa cho vừa nhận:

Nhìn vào "công thức yêu", Ba chủ đề: Chúa, Anh, Tôi; cùng một lúc vừa làm chủ của động từ yêu, vừa là túc từ của động từ yêu.

Khi nào chủ từ đứng trước động từ yêu, thì chủ thể ấy cho đi; khi nào túc từ đứng sau động từ yêu, thì chủ thể ấy lãnh nhận. Vì thế, kể cả Thiên Chúa cũng muốn lãnh nhận hoa trái do tình yêu con người, Đức Giêsu nói: "Nơi điều này Cha Thầy được vinh hiển là hệ tại chúng con sai hoa kết quả và trở nên môn đệ của Ta" (Ga 15,8).
Như thế, đức ái còn có thể viết theo "công thức chuyển lưu":
 
TÔI
YÊU
YÊU
NHƯ
ANH
 
CHÚA

 
 
 

                                                         
                                                         

         



Vậy:

a/ Trong đức ái vừa biết cho đi, vừa biết lãnh nhận: Kẻ chỉ biết nhận là ích kỷ, kẻ chỉ biết cho là kiêu ngạo. Hai tội kiêu ngạo và ích kỷ đều nghịch lại với đức ái. Bởi vậy, ông Phêrô là tôi tớ phải phục vụ Thầy, nhưng trong Bữa Tiệc Ly, nếu ông không để cho Thầy rửa chân cho (Ông không muốn nhận) thì ông không là môn đệ của Thầy được! (xem Ga 13).

b/ Trong đức ái, tình yêu, sự sống được chuyển lưu giữa ba chủ đề: Chúa, Tôi và Anh. Để ba chủ đề trở nên làm hữu thể yêu là Thiên Chúa.

Chân lý này được thể hiện cách cụ thể trong mầu nhiệm Thánh Thể, Ngài nói:

"Như Cha, Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, nó cũng sống nhờ Ta" (Ga 6,57): cùng một sự sống lưu chuyển trong ba chủ thể.

"Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các ngươi, các ngươi cũng lưu lại trong lòng yêu mến của Ta" (Ga 15,9): Cùng một tình yêu lưu chuyển trong ba chủ thể.

II/ Cụ thể sống đức ái:

Nhận thức về giới răn yêu thương như trên, ta thấy đức ái được thể hiện cách cụ thể trong đời sống Hội thánh, trong mầu nhiệm Thánh Thể, vì thế cả ba bài đọc hôm nay đều minh họa cụ thể về màu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm Hội thánh:

1/ Bài Phúc Âm:

Chúa Giêsu ban giới luật yêu thương trong Bữa Tiệc Ly cho 11 môn đệ, những kẻ biết nghe lời Ngài, còn Giuđa đã tự ý ra đi tách khỏi cộng đoàn, bởi hắn không nghe lời Thầy", không rước lễ! (Ga 13,31).

Những kẻ còn ngồi lại để dự tiệc Thánh Thể Ngài ban, Ngài gọi họ là "Các con thơ bé" (Ga 13,33a). Cộng đoàn các con thơ bé chính là cộng đoàn Hội thánh. Do đó Thánh Gioan hay dùng từ "các con thơ bé" trong các thư ông viết để giáo dục các Kitô hữu! (Xem 1 Ga 2,12.14.28...)

Đức Giêsu ban giới luật yêu thương này trước khi Ngài nộp mình chịu chết để quy nộp muôn dân vào đoàn chiên là Hội thánh của Ngài. Hội thánh là kết quả tình yêu của Ngài, trở thành lễ vật Ngài dâng lên Chúa Cha trong hy lễ của Ngài, cho nên không phải mọi cái chết đều là hy tế tình yêu. Giuđa cũng ra đi và đi đến cái chết, không phải chết vì yêu Người, mà chết vì tiền, một cái chết mù quáng như con thiêu thân!

2/ Bài đọc 1:

Phaolô và Barnaba sống giới luật yêu thương Chúa truyền dạy, họ ý thức: "Chúng ta phải trải qua nhiều gian khổ (Như Chúa Giêsu hiến tế) mới vào được nước Thiên Chúa (Vào Hội thánh: được cứu độ) (xem Cv 14,22). Cho nên họ bất chấp mọi gian khổ: bị tù, bị đánh đập, bị đói khát... không làm gì cản bước đường giảng Tin Mừng để quy tụ muôn dân vào Hội thánh. Cụ thể, mỗi cộng đoàn quy tụ nhờ Tin Mừng, họ đặt hàng niên trưởng để chăm sóc, và họ cầu nguyện, họ phó dâng Hội thánh cho Chúa, để rồi tiếp tục lên đường đi làm việc các ông vừa hoàn thành! (Cv 14,23-26).

Dù các ông tận tuỵ với công việc như Chúa Giêsu đã sống, các ông cũng không quên phải còn được hiệp thông với thủ lãnh trong Hội thánh, với các môn đệ. (câu 27).

3/ Bài đọc 3:

Kết quả của hành động yêu xuất phát từ Đức Giêsu, thể hiện qua các môn đệ, cũng như tất cả những ai đã tin vào Chúa cho đến tận thế, để đưa cả nhân loại vào một trời mới và đất mới:

Không có biển: không còn sự dữ.

Thành Giêrusalem mới: Phục vụ từ nơi Thiên Chúa đến.

Kitô hữu như Tân nương, chờ đón Đức Kitô như một Tân Lang.

Họ là dân của Thiên Chúa: Ngài lau sạch nước mắt họ, không còn phiền muộn, không còn đau khổ, không còn chết chóc!

Thánh lễ chúng ta tham dự hôm nay cũng là đang thể hiện những giá trị của sách Khải Huyền trên. Do đó, lời cầu nguyện của chúng ta trong Thánh lễ này, chính là lời ca tụng của các thánh trong bàn tiệc Thiên Quốc.

"Chúa là Đấng từ bi và Nhân hậu, Người châm giận và giàu tình thương. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng lên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiểu trung phải chúc tụng Ngài!" (Đáp ca).

--------------------------------------------

 

PS 5-C36. VINH QUANG CỦA ĐAU KHỔ

 

Một cha sở ở mạn nam California đến thăm một bà già trong giáo xứ bị bệnh phong thấp. Khi: PS 5-C36


Một cha sở ở mạn nam California đến thăm một bà già trong giáo xứ bị bệnh phong thấp. Khi hỏi bà cảm thấy thế nào, bà kể ra mọi nỗi đau đớn. Rồi bà mỉm cười nói: “Nhưng, thưa cha, con dâng tất cả để tôn vinh và làm sáng danh Chúa hơn”. Cha sở nói tiếp: “Bà Maria, làm sao bà nghĩ rằng những đau khổ của bà làm tăng sự tôn vinh và vinh hiển của Chúa ? Bà cắt nghĩa: “Vâng, thưa cha. Những đau khổ của con là một phần trong chương trình của Chúa cho con. Khi con dâng đau khổ của con cho Chúa, con thuận theo chương trình của Người”.

Điều người phụ nữ vừa nói rất trúng với điều công giáo nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “Bấy giờ con người được vinh hiển và trong Người Thiên Chúa được vinh hiển”.

Chúa Giêsu muốn nói gì ? Chúa nói những lời này trong bữa tiệc ly ngay trước khi Người bắt đầu chịu đau khổ. Những đau khổ ấy kết thúc bằng cái chết và dẫn đến sự sống lại. Chúa Giêsu biết rằng: sự sống lại tôn vinh Cha Người và tôn vinh chính Người nữa. Chúng ta có thể  hiểu điều đó. Nhưng Chúa Giêsu cũng biết rằng: những khổ hình Người chịu từ thứ năm đến chiều thứ sáu là tôn vinh Chúa Cha và Chúa Con, vì đau khổ là một phần trong chương trình cứu rỗi loài người. Chúa Giêsu không chết hoàn toàn trong nhục nhã và rồi sống lại trong vinh quang. Người chịu đau khổ và chết trong vinh quang. Người chịu đau khổ và chết trong vinh quang vì người thực hiện chương trình của Cha người. Như Người cầu nguyện trong vườn: “Không phải ý con, chương trình của con. Nhưng ý Cha. Chương trình của Cha được thực hiện”. Người không phải đợi tới sáng phục sinh mới được vinh hiển. Người đã được vinh hiển trong khi chịu khổ hình và trong sự đóng đinh trên thập giá.

Những ai chịu đau khổ phải ý thức chân lý này, Người phụ nữ phong thấp trong câu chuyện biết rằng: đau khổ của bà là một phần trong chương trình của Thiên Chúa dành cho bà để bà thực hiện chương trình đó, là phương cách bà làm tôn vinh Thiên Chúa.

Nhiều người trong chúng ta dâng kinh sáng như sau: “Lạy Chúa, con dâng Chúa mọi tư tưởng, lời nói và việc làm để tôn vinh Chúa, hợp với những đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu”. Bạn hãy nhìn đau khổ, mệt mỏi, chán nản bằng cặp mắt của Chúa Giêsu, như một phần phương thế để làm vinh danh Cha trên trời.

Ví dụ: các bà mẹ biết rằng: những khổ cực khi cưu mang, chăm sóc, giáo dục con cái là phần chính yếu trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng, là một phần vinh quang của chức vụ làm mẹ, là một phần niềm vui đã sinh ra cho trần gian một con người.

Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng chỉ có những gì khó khăn, đau khổ mới đáng giá trước mặt Chúa. Những giây phút hạnh phúc, vui vẻ, những thú vui hợp pháp cũng là một phần chương trình của Thiên Chúa cho chúng ta. Chúng ta dâng lên cho Người.

Trong thánh lễ này, chúng ta dâng lên những đau khổ của chúng ta với đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu. Thực tế, chúng ta dâng mọi tư tưởng, lời nói, việc làm và đau khổ để ca tụng Chúa. Hãy hợp ý cùng linh mục khi Ngài nâng của lễ Mình Máu Thánh và đọc: “Mọi chúc tụng và vinh quang là của Chúa, Cha toàn năng”.

Xin Chúa chúc lành  bạn. Amen.

--------------------------------------------

 

PS 5-C37. Sự vấp ngã trong tình yêu mến


Dẫn vào Thánh lễ và sám hối

"Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em."

 

Trong tất cả lề luật Chúa Kitô đã ban cho chúng ta, đây là điều quan trọng nhất. Vấp ngã duy: PS 5-C37


Trong tất cả lề luật Chúa Kitô đã ban cho chúng ta, đây là điều quan trọng nhất. Vấp ngã duy nhất trong đời người Kitô hữu đó là vấp ngã trong tình yêu mến. Chúng ta hãy nghĩ đến những người mà chúng ta thấy khó mà đặt họ vào trái tim của ta, và xin Chúa giúp chúng ta yêu mến họ nhiều hơn.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng hảo tâm và giàu lòng thương xót
Chúa là Đấng chậm bất bình và tràn đầy tình yêu thương.
Chúa không xử chúng con theo tội của chúng con,
không trả báo theo lỗi lầm của chúng con.

Dẫn vào các bài đọc

Bài đọc 1: Cv 14,21-27

Phaolô và Banaba trở lại những nơi các ngài đã đi qua, khích lệ những cộng đoàn Kitô hữu các ngài đã gầy dựng.

Bài đọc 2: Kh 21,1-5

Trích từ chương cuối của sách Khải Huyền, bài đọc mở ra viễn cảnh của một thế giới mới, một trật tự mới được mở đầu bởi Đức Kitô. '

Tin Mừng: Ga 1 3 ,3 1 -35

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu trao cho các môn đệ một điều răn mới "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em."

Bài giảng 3

Ở ĐIỂM NÀY, MỌI NGƯƠI SẼ NHẬN BIẾT ...

Ngày xưa, có một người trồng một cây ăn trái trong khu rừng. Thoạt đầu, cây còn nhỏ, dường như nó bị mất dạng giữa đám cây lớn. Hình dáng của những cây hết sức to lớn khác đã khiến nó cảm thấy mình thật vô nghĩa: chúng cao, mạnh mẽ và hữu ích ; còn nó thì quá bé nhỏ, mỏng manh và vô ích. Vì thế nó phải làm gì bây giờ ? Nó xác định vị trí và chỗ đứng phải đạt được cho chính mình trong khu rừng.

Thật khó mà thực hiện cũng như chẳng dễ gì thành công! Cuối cùng ngọn của nó cũng vươn được lên bầu trời để có thể chuyện trò với những cây cao nhất của khu rừng. Cành của nó trải rộng bốn phía như một cái dù khổng lồ, đòi hỏi ngày một nhiều khoảng không gian cho chúng. Thân của nó trở nên to mập và rắn chắc đến độ nó có thể cười những cón giông bão mà đôi lúc chúng gào thét xuyên qua cánh rừng.

Nhưng rồi một ngày nọ, người đã trồng nó thình lình xuất hiện ở khu rừng. Nhìn cây mình đã trồng, ông nói: "Mày lớn nhanh thật ! Sao mày lại có những nhánh tuyệt vời đến thế, mà tao chưa hề bao giờ trông thấy. Còn thân mày như bức tường thành."

“Nhưng tôi vẫn còn có những điều sai lỗi", cây nhún nhường mường tượng nói "Cứ nhìn vào tất cả những vết lõm, khe nứt, và những cái mắt gỗ trên thân tôi. Giả như tốt nhất, tôi có thể lấy chúng ra khỏi tôi, tôi còn đẹp hơn nhiều. Nhưng tôi còn phải chịu đựng chúng."

"Ta không quan tâm đến những lỗi này. Thật ra, ta cũng chưa từng xem chúng như là những điều lỗi", Người trồng cây trả lời. Nghe câu này, cây ăn trái bắt đầu rạo rực với niềm kiêu hãnh. Nhưng sau đó, người trồng cây thêm vào: "Tuy nhiên, có một điều khiến ta chẳng hài lòng."

"Ô sao ông lại chẳng hài lòng về tôi", cây ăn trái trả lời, phòng thủ bất ngờ. "Tôi không hiểu. Ông cứ nghĩ lại mà xem, tôi đã phát triển sung sức như thế nào. Tôi có thể tự hào với cây sồi, cây du. Tôi nghĩ ông phải hãnh diện vì tôi chứ. Tôi đã làm việc cật lực để chiếm được vị trí mà giờ đây tôi vui sướng ở giữa rừng cây."

"Ta không nghi ngờ một chút nào về việc làm cật lực của mi", người trồng cây nói.

“Thế thì ông còn muốn gì nơi tôi ?"

“Điều mà ta hy vọng thấy nơi mi, mi lại quên mất", ông trả lời. “Mi đã xao lãng điều quan trọng nhất trên tất cả chỉ có một điều quan trọng."

"Điều đó là gì ? , Cây ăn trái thất vọng hỏi.

“Trái. Mi không phải là thông, chẳng phải sồi, chẳng phải du. Mi là loại cây rất quý, rất hiếm. Mi là một cây ăn trái. Ta đã trông mong vào mi để cung cấp những trái ngon lành cho những người chết đói lang thang trong rừng có được một chút gì ăn. Nhưng mi đã chẳng làm được những việc đó, bởi vì mi đã quên mi là loại cây gì. Mi chỉ trở nên như những thứ cây khác ở trong rừng."

Lệnh truyền mà Chúa Giêsu ban cho ta phải thực hiện đó là yêu mến nhau. Đây là điều luật mới chỉ vì trong ý nghĩa nó đã xác lập một chuẩn mực mới: "như Thầy đã yêu thương anh em". Thông thường các Kitô hữu tìm cách đạt được những thành công thuộc thế giản, và nhiều trường hợp đã đạt được Nhưng khi sống như thế, họ đã quên một điều mà Chúa Giêsu mong đợi nơi họ, ấy là tình yêu. "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau, (Ga 13,35). .

Tình yêu làm cho chúng ta nên công cụ của thánh ý Thiên Chúa trong đời sống với anh em. Tình yêu của chúng ta trở nên máng chuyển đến anh em, qua đó họ có đúc kinh nghiệm tình yêu Thiên Chúa. Một ký giả Mỹ, khi chiêm ngắm Mẹ Têrêsa dang chăm sóc cho một người dàn ông mắc bệnh hoại tử, đã phê bình: "Tôi chẳng thèm làm công việc đó cho dù có cho tôi một triệu đô la đi nữa."

Mẹ Têrêsa trả lời: "Ngay cả tôi, tôi cũng chẳng thèm làm với số tiền đó. Tuy nhiên tôi làm điều này vì tình yêu Chúa."

Bài giảng 3

ĐIỀU TÌNH YÊU LÀM

Elie Wiesel viết về kinh nghiệm của ông ở Auschwitz cho rằng những người Đức cố để những người trong tù quên đi bà con thân thuộc, bạn bè, để rồi chỉ nghĩ về chính họ, và chỉ phục vụ cho những nhu cầu của chính họ, hoặc những điều khác họ sẽ diệt vong. Vì lẽ đó mà người ta cứ nói đến chúng suốt ngày đêm. Nhưng Wiesel nói rằng điều xảy ra thì trái ngược. Những người mà sống cho chính họ, ít có cơ hội sống sót ; trong khi những người sống vì cha mẹ, anh em, bạn hữu, lý tường đã có cơ hội tốt hơn để giành lấy sự sống.

Ích kỷ khiến chúng ta khép kín, nó giam hãm ta. Nó dựng nên những rào chắn, ngay cả những bức tường giữa ta với anh em. Điều giải phóng ta khỏi những tình trạng giam cầm này là lòng yêu thương chân thành, thâm sâu với anh em. Hãy là những ngói bạn, là anh chị em, tình yêu phá mở những nhà tù. Tình yêu giải phóng ta khỏi những tù ngục của ích kỷ.

Brian Keenan bị bắt làm con tin trong suốt bốn năm trời tại Lebanon. Sau đó anh đã viết:

"Chỉ khi chúng ta vươn ra khỏi chính ta để ôm lấy, để hiểu và cuối cùng để tìm cách vượt thắng những đau khổ nơi những người anh em, khi ấy chúng ta mới trở nên trọn vẹn nơi chính ta. Chúng ta được mở rộng và phong phú khi những đau khổ của anh em được bộc lộ cho ta, như là chính ta, và chúng ta vươn tới để tiếp xúc và ôm ấp chúng."

Tình yêu luôn đòi hỏi và mang đến những điều tốt nhất cho ta. Dược yêu thương sẽ mang đến cho người đó một sự can đảm và nghị lực đầy kinh ngạc. Cũng vậy đối với người yêu thương. Người ta nói: Tình yêu và nghị lực sẽ được ban cho bạn. Nơi đâu có một tình yêu mãnh liệt thì nơi đó luôn luôn là một huyền nhiệm. "Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn ta, tiếp thêm nghị lực cho tinh thần ta, và cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống của ta, đó chính là mối tương quan của ta với Thiên Chúa và với anh em". (Elizabeth Kubler-ross).

Tù nhân Oscar Wilde nói tiếp: "Bằng mọi giá tôi phải giữ tình yêu trong trái tim mình. Nếu tôi vào tù mà không có tình yêu, tâm hồn tôi sẽ trở thành cái gì ?"

Nếu không có tình yêu người ta sẽ ra sao ? Những kẻ không chút yêu thương sống một cuộc đời thật đáng thương. Còn những ai biết sống yêu thương, họ có một cuộc sống rất phong phú và sinh nhiều lợi ích. Mục đích của cuộc sống là gì, nếu không phải đó chính là tình yêu ? "Chúng ta được đặt trên trái đất một khoảng thời gian ngắn để chúng ta học cách sinh ra những hoa trái của tình yêu' (William Blake). Thoát khỏi những ích kỷ và có khả năng để yêu thương anh em, đó chính là mục đích của cuộc sống. .

Một bác sĩ, người đã từng vinh dự chia sẻ khoảnh khắc thâm sâu nhất trong đời sống của con người, nói rằng khi người ta đối diện với cái chết, người ta không nghĩ gì đến những bằng cấp đã đạt được, hoặc những địa vị đã nắm giữ, hoặc sự giàu có đã tích luỹ được. Giây phút cuối cùng, điều thật sự có ý nghĩa đó là bạn yêu mến ai, và ai yêu mến bạn.

Những người mà chọn sống yêu thương mở ra cho chính họ tới tiềm năng hạnh phúc vô biên mà họ chưa từng nghĩ tưởng đến. Yêu là một tình trạng hạnh phúc. Tình yêu khiến chúng ta sinh hoa kết trái. Từ chối tình yêu là bắt đầu chết. Khởi đầu yêu thương là khởi đầu sự sống. Khi tin tường, mọi sự đều khả thể, tình yêu làm cho mọi sự dễ dàng. Tình yêu chữa lành mọi người - cả người nhận lãnh cũng như người trao ban.

Bài giảng 3

TÌNH YÊU MUÔN MÀU

Ngày nay chúng ta hiểu rõ hơn trước đây về sự phức tạp của nhân tính, và những động cơ hỗn tạp ẩn sau những gì chúng ta làm. Ít là có năm loại tình yêu.

Trước hết đó là tình yêu thực dụng. Chúng ta yêu ai bởi vì người ấy có lợi cho ta. Nó tựa như sự ích kỷ chứ không như là tình yêu. Tôi muốn điều gì đó nơi bạn chứ tôi không muốn bạn.

Thứ đến là loại tình yêu lãng mạn. Đây là thứ tình cảm chúng ta hướng về người khác bởi vì sự khoái lạc mà người khác ban tặng cho ta. Chúng ta mê đắm họ. Nhưng đó không phải là tình yêu. Chúng ta có thể nghĩ đó là người mà ta yêu thương, nhưng sự thật chúng ta chỉ yêu chính bản thân ta. Thường thì điều này không bền, đó là lý do tại sao có những đôi hôn nhân mau tan vỡ.

Loại thứ ba đó là tình yêu dân chủ, tình yêu này được xây dựng trên nền tảng sự bình đẳng của luật pháp. Chúng ta kính trọng ngưỡng mộ người khác bởi vì họ cùng là những công dân đồng hội đồng thuyền. Chúng ta nhìn nhận sự tự do của họ cũng là của ta, và ngược lại. Lý do góp phần để làm những điều tốt cho người khác chính là sự trông mong nhận được lại những điều tốt như thế.

Loại tình yêu thứ tư đó là tình người. Đó là tình yêu thương con người phổ quát. Khuyết điểm của loại tình yêu này đó là tình yêu trong lý thuyết, hơn là trong cụ thể. "Tôi yêu mến nhân loại, nhưng chẳng dính dáng đến ai."

Loại tình yêu thứ năm đó chính là tình yêu của các Kitô hữu, tóm tắt trong lệnh truyền của Chúa Giêsu: "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." Ở đây chúng ta đang nói về một tình yêu không vụ lợi, yêu thương ngay cả khi không còn gì cho ta. Tình yêu này bền bỉ bất chấp thái độ thù địch và ngược đãi. Nó không phải là thứ hăng hái bất thường, nhưng là mối tương quan vĩnh viễn. Nó diễn tả qua việc phục vụ, lòng yêu mến và hy sinh quên mình. Tình yêu này chỉ đạt được nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

Có thể nói rằng nếu bạn làm một hành động tốt, nhưng có một động cơ tiềm ấn trong đó, tốt hơn bạn đừng làm. Chỉ trừ ra đức ái. Ngay cả mặc dù khi chúng ta hành động với một mục đích trong sáng xem chừng không tốt bằng đi nữa, thì nó vẫn là một hành động tốt, và sinh ích cho người khác, không có vấn đề động cơ của bạn là nhằm vào điều gì. Bên cạnh dó, thực tế là sự ích kỷ và sự khoan dung cùng tồn tại trong chính mỗi người chúng ta, sẽ làm cho điều tốt mà chúng ta thực hiện hoàn toàn đáng ca ngợi hơn. Nó thoát ra từ một cuộc đấu tranh.

Người ta thường hướng nhìn về những vấn đề của tình yêu như là chính tình yêu hơn là yêu thương chính một con người. Do đó, tất cả những nỗ lực của họ thường nhắm đến làm cho chính họ trở nên đáng yêu qua sự thành công, những vẻ đẹp quyến rũ, hoặc quyền lực, hoặc giàu có ... và để rồi họ đi đến tình trạng không có tình yêu, vì họ được yêu mến, không phải chính bản thân họ, nhưng họ được yêu vì nhúng gì họ sở hữu hoặc đã đạt được. Ngược lại, nếu họ trở nên yêu thương con người, họ sẽ được yêu mến, được yêu chính con người họ. Và tóm lại, tất cả chúng ta ai cũng muốn được yêu thương, được yêu chính bản thân chúng ta.

Có ba tình trạng: (1) không yêu và cũng không được yêu điều này xem chừng giống như địa ngục trên trái đất. (2) yêu nhưng không được yêu lại - điều này, mặc dù đau thương nhưng còn tốt hơn tình trạng thứ nhất. (3) yêu và được yêu - đây là tình trạng hạnh phúc mà Chúa Giêsu hưởng nếm: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em."

Tình yêu mang đến những điều tốt nhất cho những người yêu thương. Người ta đạt đến tình trạng tốt nhất và rực rỡ nhất khi người ta yêu thương. Họ như một ánh sao rực rỡ. Tình yêu là một sự lựa chọn, thứ không phải là một cảm xúc. Khi từ chối tình yêu là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong tất cả đó là thái độ dửng dưng lạnh giá.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Bằng tình yêu thương chúng ta dành cho anh chị em, mọi người sẽ nhận biết chúng ta là những môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu nguyện cho ân huệ tình yêu.

Xướng: Cầu cho tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu: để tình yêu của họ nơi anh chị em là tình yêu chân thật và rộng lượng.

Xướng: Xin cho những người phong lưu rộng tay chia sẻ cho những người nghcò khó.

Xướng: Xin cho những người chưa biết Đức Kitô: để họ thấy và gặp gỡ Ngài nơi những người Kitô hữu.

Xướng: Cầu cho cộng đoàn họ đạo: để chúng ta có khả năng vượt lên trên những hận thù, ghen ghét và bủn xỉn là những cản trở chúng ta yêu thương người khác.
Xướng: Cầu cho những ai đang hiện diện nơi đây: để chúng ta không giới hạn tình yêu thương nơi bạn hữu, nhưng phải cố gắng yêu thương tất cả mọi người. .

Chủ tế: Lạy Cha trên trời, Con yêu dấu của Cha là Đức Giêsu đã cho chúng con một gương mẫu tuyệt hảo về tình yêu Xin ban cho chúng con, khi đón nhận Người nơi bí tích Thánh Thể, chúng con bước theo con đường tình yêu của Người trong cuộc sống mỗi ngày của chúng con. Chúng con cầu xin ..

-----------------------------

 

PS 5-C38. Lời từ biệt của Chúa Giêsu

 

Bài Phúc âm hôm nay trích từ chương 13 của thánh Gioan, trích những lời từ biệt của Chúa: PS 5-C38


Bài Phúc âm hôm nay trích từ chương 13 của thánh Gioan, trích những lời từ biệt của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn và sau khi Giuđa phản bội Chúa, đã bỏ bàn tiệc đi thực hiện ý đồ phản bội Ngài.

Chúa Giêsu đã căn dặn các đồ đệ: "Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy thương yêu nhau" ' Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hảy yêu thương nhau" "Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con chúng phải thương yêu nhau". Vậy có thi hành những lời truyền này hay không, vì có những hậu quả thật nghiêm trọng, hậu quả của sự sống hay sự chết? Thánh Gioan tông đồ ngay thư thứ nhất đã viết: “Nếu chúng ta yêu thương anh em thì chúng ta trải qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại kẻ không yêu thưong anh em thì ở trong sự chết vì phàm ai ghét anh chị em mình là kẻ sát nhân".

Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu ước là "Ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình" (Lê vi 19,18) thành: " Yêu thương nhau như Ta yêu thương chúng con". "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là các con hãy yêu thương thau như Thầy yêu thương các con "

Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chủ, mà là anh yêu chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Giới răn mới của Chúa được  đồng hoá với tình yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta và tình yêu thương của Thiên Chúa. Như thế, nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Ai yêu mến Chúa thì cũng yêu thương anh em mình. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của những người thuộc về Chúa, là môn đệ Chúa. "Với dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau” .

Nói lên những lời nầy, chắc rằng mỗi người chúng ta đều có thể nói được như vậy và mỗi người chúng ta cũng có thể hiểu được như vậy. Với những bài giáo lý mà chúng ta đã học được từ nhỏ, với những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta hiểu được như vậy và nói được như vậy. Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu chúng ta, nhưng sống thực được những điều này mới là một việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ hằng ngày. "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là đấng trọn lành ". "Chúng con hãy làm những việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt lành đó mà ngợi khen Cha chúng con, Đấng tốt lành ở trên trời ". Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Chúa từ giã các ngài, trước khi Chúa thực hiện một hành động yêu thương cuối cong là chết trên thánh giá. Và Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, Chúa đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng một hành động cao cả là hy sinh chính mạng sống Chúa, để chứng tỏ tình yêu thương tột cong của Chúa đối với Thiên Chúa Cha và đối với mỗi người chúng ta.

Vì thế, trước khi từ giã các môn đồ Chúa Giêsu đã khuyên: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Con Người". Thiên Chúa Cha được vinh hiển qua hành động hy sinh vì tình yêu của Chúa Giêsu và Chúa Giêsu muốn cho chúng ta cũng được sống như thế để làm vinh hiển Thiên Chúa, sống giới răn yêu thương. Liền sau đó, Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương thau như Thầy đã yêu thương các con". Chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người khác nhìn thấy. Nhưng những hy sinh nhỏ nhặt hàng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm, để chúng ta có thể sống tình thương thật sự thiết thực đối với anh chị em, có thể phục vụ anh chị em trong những việc nhỏ nhặt hàng ngày. Những điều đó không ai trông thấy, nhưng vì những điều đó mà chúng ta cần thực hiện hằng ngày để tôn vinh Thiên Chúa. Trong dịp nói chuyện với một người ngoại giáo thì anh này đã nói: “Nếu những người Cống giao sống đức tin của mình, sống những gì là mình nói thì thật là một điều hết sức tốt đẹp, có thế chúng tôi cũng sẽ tin theo”.

Câu nói này nói lên trách nhiệm của chúng ta. Nếu chúng ta sống điều chúng ta tin, nếu chúng ta sống điều chúng ta nói. Và hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta có thể nói: Chúa dạy mình yêu thương Chúa và yêu thương anh em như chính Chúa đã làm gương. Vậy thì chúng ta sẽ cố gắng sống hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chỉ em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi họ được hướng dẫn tin nhận Chúa là Cha và tin Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, và gia nhập Cong với chúng ta trong một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội của Chúa, cộng đoàn của những người tin Chúa đã thương anh chị em, cộng đoàn của những người sống tết lành, sống tử tế để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho xã hội.

-----------------------------

 

PS 5-C39. Sự hiệp nhất giữa những người tin Chúa

 

Mùa Phục sinh sắp chấm dứt với lễ Chúa Giêsu về trời và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống: PS 5-C39


Mùa Phục sinh sắp chấm dứt với lễ Chúa Giêsu về trời và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Các bài đọc trong Phụng vụ hôm nay kêu gọi sự hiệp nhất giữa những người tin Chúa và tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai. Với tất cả ý nghĩa của các bài đọc hôm nay, hãy để một dịp nữa cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu, và đó là những lời trăn trối tha thiết của Chúa Giêsu trước khi Ngài lìa bỏ trần gian này một cách hữu hình qua bán tính nhân loại của Ngài.

Bài đọc thứ nhất tranh luận gắt gao ngay từ khởi thuỷ của Giáo Hội, đó là việc cắt bì. Người Do Thái theo luật Môisê phải cắt bì, trong khi đó những dân tộc khác bất đầu tin vào Chúa và chịu phép rửa, vậy họ có cần phải chịu phép cắt bì không? Một số người tin rằng đó là dấu chỉ cần thiết cứu rỗi, nhưng Phaolô và Barnaba thì cho là không cần thiết. Bấy giờ họ sai người đến Giêrusalem để thánh ý các tông đồ và các kỳ lão. Vì thế, các tông đồ và các kỳ lão cong toàn thể Hội Thánh gởi sứ giả từ Giêrusalem đến gặp Phao lô và Barnaba, để nói rằng không cần thiết, không phải đặt thêm gánh nặng cho người mới tin Chúa và xin vào đạo. Và điều quan trọng là các ngài nại đến chỉ có một Thánh Thần là Đấng thánh hoá và là nguyên lý hợp nhất của Giáo Hội, chứ không phải là lề luật bên ngoài. Các ngài chỉ khuyên mọi người hãy ăn ở tử tế, xứng đáng là những người.

Sang bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền đưa ra những nguyên lý của sự hợp nhất. Trước tiên Thiên Chúa đã đổi mới mọi sự, đổi mới đó tượng trưng bằng hình ảnh thành thánh Giêrusalem mới từ trời, nơi Thiên Chúa mà đến. Mọi chia rẽ, mọi đau buồn, mọi chiến tranh sát hại khấc nghiệt đã qua, người người đều sống trong sự hiệp nhất của thành bao la duy nhất được xây dựng trên 12 móng khắc tên 12 tông đồ, các cổng thành có 12 thiên thần và khắc tên 12 tổ phụ Israel. Đó là hình ảnh các dân tộc trên thế giới, từ Cựu ước đến Tân ước đều thống nhất với nhau nên một và nhất là, từ đó không ai còn nói đây là nhà thờ của tôi, của tôn giáo tôi nữa. Không còn đền thờ vật chất nữa, mà Thiên Chúa và Con Chiên là Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế, ở cong chúng ta. Tất cả vũ trụ chính là đền thờ Thiên Chúa ngự và sống với con cái loài người. Mọi tối tăm sẽ không còn nữa, vinh quang của Thiên Chúa soi sáng thành thánh Giêrusalem mới đó và Con Chiên chính là đèn hướng dẫn tất cả mọi người. Sẽ không còn ai nói phải thờ Chúa chỗ này chỗ nọ nữa, sẽ không còn ai cấm ai đến nơi thờ phụng không thuộc cong niềm tin nữa. Vì sự hiện diện của Thiên Chúa do tất cả quay về cong một Đấng Tối cao đó, hiển trị trong vinh quang rực rỡ.

Nơi bài Phúc âm, Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta không phải chờ đến ngày nào đó, tự nhiên thành thánh Giêrusalem mới từ trời rơi xuống, nhưng mỗi người phải làm một viên đá sống động xây dựng thành thánh đó. Câu chứng minh hong hồn nhất cho điều Người dạy chính là câu của bài Phúc âm: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ tên và ở trong người ấy". Vậy ta hãy yêu mến Chúa và giữ lời Chúa dạy, chính người đó trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự.

Chúa Giêsu dầu có ra đi một cách hữu hình nhưng Người hứa ban bình yên cho chúng ta: "Thầ để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con". Bao lâu có Chúa ở cong chúng ta, bấy lâu chúng ta có sự bình an, bình an trong tâm hồn và bình an hoà thuận với nhau nữa. Dầu vậy, Chúa Giêsu vẫn biết sức con người chúng ta yếu đuối, giới hạn và Thiên Chúa cũng không đòi hội sự hoàn hảo nơi chúng ta, loài thụ tạo bất toàn. Nhưng điều quan trọng là Người hứa ban Chúa Thánh Thần, Đấng pho trợ. Chính Chúa Thánh Thần sẽ dạy chúng ta mọi điều và sẽ nhắc nhở chúng ta những gì Chúa Giêsu đã dạy. Vậy sức mạnh của con người là nơi Chúa Thánh Thần, niềm tự hào của con người là nơi Chúa Thánh Thần, như thánh Phaolô nói: Nếu có ai tự hào, hãy tự hào trong Chúa và Chúa Thánh Thần chính là nguồn gốc ơn hiệp nhất nên một.

Với tinh thần Phụng vụ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhân loại biết sống chung hoà bình với nhau, biến thế giới này thành một thành duy nhất. Nơi đó con người sống biết nghĩ đến nhau, biết yêu thương nhau trong bình an và trật tự, sẵn sàng biết ơn của Chúa Thánh Thần luôn luôn tác động để đi đến hoàn hảo. Lúc đó lời hứa của Chúa được thực hiện và con người sống nên một với sự hướng dẫn của Chúa và Con Chiên.

Để có việc làm cụ thể trong việc xây dựng thành thánh Giêrusalem mới, trong tuần này tôi cố gắng ý thức rằng là người tin Chúa, tôi có bổn phận tìm đủ cách truyền bá việc lành và tiêu diệt sự xấu, sự dữ trong bất cứ hoàn cảnh nào tôi đang sống. Và luôn ý thức rằng cái gì tốt là tốt, cái gì xấu là xấu chứ không có việc hoà giải với sự xấu, đối thoại với sự xấu.

-----------------------------

 

PS 5-C40. Điều Răn Mới: Yêu Thương


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH C

Ga 13,31-33a.34-35


 

Luật lệ như cái biển chỉ đường giúp người ta đi đúng và được an toàn trên xa lộ. Từ khi thành: PS 5-C40


Luật lệ như cái biển chỉ đường giúp người ta đi đúng và được an toàn trên xa lộ. Từ khi thành lập dân It-ra-en, dân Chúa được hướng dẫn bởi các luật lệ. Từ các Điều Răn của Chúa, các luật sĩ Do thái giải thích ra và cho thêm vào nhiều điều luật; các điều luật này được quy định cách chi tiết. Mà dân Ít-ra-en phải giữ, nên việc giữ luật của họ thành ra rất nặng nề. Khi Chúa Giê-su đến, Ngài không huỷ bỏ những điều luật của tiền nhân nhưng Ngài đổi mới nó bằng cách đưa tinh thần mới vào luật cũ. Tinh thần đó chính là điều răn mới. Cái cốt lõi của điều răn mới là Tình Yêu.

Bài Phúc Âm hôm nay là bản đúc kết những điều khoản của Điều Răn mới: " Anh em hãy yêu thương nhau". Chúa Giê-su nói điều này với các môn đệ đồng thời Ngài cũng nói với mỗi người chúng ta. Yêu thương là việc làm rất cần thiết trong cuộc sống của mỗi người. Gồm có được yêu và yêu. Được yêu thì dễ, như thế ai mà chẳng muốn mình được mọi người yêu mến. Yêu thì khó hơn nhiều, bởi con người thường có xu hướng ích kỷ - mình chỉ biết yêu mình. Đây là cách yêu của trẻ con hay của những người có mức trưởng thành chưa cao. Con người trưởng thành, đặc biệt là các Ki-tô hữu thì mức yêu thương phải đạt tới mức trưởng thành, như Đức Giê-su đòi hỏi nơi người môn đệ của Ngài. Tại sao Đức Giê-su lại đòi hỏi người môn đệ phải biết yêu thương ? Ta thấy yêu thương là yếu tố quan trọng trong cuộc sống con người như thánh Gio-an đã viết: “ Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm”(1Ga 2,10). Một em bé vì sợ mẹ đánh đòn mà quét nhà thì không giá trị bằng em làm vì yêu thương mẹ. Cũng vậy, chúng ta đi dự lễ ngày Chúa nhật vì sợ tội thì không giá trị bằng đi vì lòng mến Chúa, mặc dù lối nào cũng đi. Những công việc mà làm với đầy ắp tình yêu thương thì giá trị biết bao. Làm mọi việc vì lòng yêu mến, nhất là lại làm vì lòng yêu mến Chúa nữa thì những công việc đó còn có giá trị là tôn vinh Thiên Chúa và cứu độ con người. Ta thử tưởng tượng xem, nếu trên đời này, mọi người đều yêu thương nhau, thì điều gì sẽ xảy ra? Thế giới sẽ không còn tranh giành, ghen tị, khủng bố, chiến tranh … tắt một lời là không còn điều xấu nữa. Lúc đó thì bao nhiêu vũ khí sẽ “ế” hết và “họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is 2,4).

Nói yêu thương thì mới nói chung chung, hơn nữa, Đức Giê-su còn đưa ra mức độ của yêu thương là: yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em . Yêu như Chúa yêu. Chúa có trừ ai đâu, Chúa yêu thương hết mọi người, người lành cũng như kẻ dữ, người hạnh phúc cũng như người bất hạnh. “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Mỗi ngày chúng ta thở bao nhiêu lít không khí, cả đời chúng ta thở bao nhiêu mét khối không khí, thế mà Chúa có tính tiền ta đâu ! Còn hơn nữa, loài người đã phạm tội, Thiên Chúa không để mặc con người sa ngã mà vì yêu thương, Thiên Chúa đã cứu chuộc con người bằng chính mạng sống của Con Một Ngài: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” ( Ga 4,10). Tình yêu của Thiên Chúa là tuyệt đối. Chúa Giê-su cũng đòi chúng ta phải yêu thương như thế. Có nghĩa là không bao giờ chúng ta dám nói rằng, tôi đã yêu thương đủ, vì chúng ta là thụ tạo hữu hạn, nên không bao giờ có thể đạt đến mức tuyệt đối như Thiên Chúa. Nên ta chỉ còn biết cố gắng luôn luôn cố gắng cả đời cũng không bao giờ cùng. Tuy nhiên giá trị là ở sự cố gắng của chúng ta.

Yêu thương còn là tiêu chuẩn duy nhất để lượng định ta có phải là Ki-tô hữu đích thực hay không. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Ki-tô hữu là môn đệ của Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta có yêu thương mọi người như Chúa Giê-su yêu thương họ không? Câu hỏi này tôi phải đặt ra cho mình mỗi ngày để tôi cố gắng sống xứng đáng là con cái của Chúa. Ki-tô hữu là chứng nhân của Chúa Ki-tô giữa trần gian này. Nhưng ta có thể làm gì để làm chứng cho Chúa ? Ra đường ra chợ để rao giảng Tin mừng cho người ngoại đạo ư ? Điều này là vô duyên, không khéo còn bị cảnh sát đưa vào nhà thương điên ! Có lẽ không gì có thể hơn cho việc làm chứng cho Chúa bằng đời sống yêu thương bác ái. Xung quanh nhà chúng ta ở, sở chúng ta làm có biết bao nhiêu người chưa tin Chúa Ki-tô. Liệu đời sống của ta có đủ hấp dẫn để họ có thể để ý đến niềm tin tôn giáo của ta không. Tôi có quen một người, khi họ biết tôi là người theo đạo Chúa, mới nói rằng: anh hiền lành thế mà lại theo đạo Chúa ư ? Hỏi ra mới biết nơi anh ở có rất ít người Công giáo. Gần nhà anh ta có mấy người theo đạo Chúa nhưng sống phi nhân, phi nghĩa, nên họ có ấn tượng xấu với những người theo Chúa. Đó là những phản chứng, hy vọng có it trường hợp như vậy để đỡ tủi cho Chúa Ki-tô. Tất nhiên còn có nhiều tấm gương sáng để cho trần gian noi theo. Tôi có một người bạn hay đi làm công tác xã hội; anh ấy hay đi giúp cho các trại cùi và trại mồ côi. Khi làm những việc ấy, anh không nói gì về Chúa hay về tôn giáo của mình. Nhưng những người được giúp đỡ nói rằng chắc chú là thầy hay là cha hay chí ít cũng là người có đạo. Bởi vì chỉ có các người đó mới đến với chúng tôi ! Sau đó không ít người tự đi tìm hiểu và theo đạo Chúa. Đúng như lời đức giáo hoàng: ngày nay người ta dễ tin vào các chứng nhân hơn các thầy dạy.

Mến Chúa yêu người là điều tóm kết của mọi điều răn. Điều răn này xem ra có vẻ ngắn gọn nhưng bao hàm toàn bộ mọi khía cạnh của đời sống con người. Điều răn này làm cho đời sống chúng ta trở nên nhẹ nhàng biết bao, nếu ta sống đúng những gì mà điều răn này đòi hỏi.

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã ban cho chúng con điều răn mới. Xin cho con sống xứng đáng là môn đệ của Chúa là luôn biết yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng con. Amen.


Têphanô Mai Bình An

-----------------------------

 

PS 5-C41 : Yêu thương là dấu chứng của các Kitô hữu là môn đệ Chúa Giêsu


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH C

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ LỜI CHÚA


 

Trong cuộc tọa đàm về chủ đề: “SỐNG ĐẠO THEO CUNG CÁCH VIỆT NAM - CHỨNG: PS 5-C41


Trong cuộc tọa đàm về chủ đề: “SỐNG ĐẠO THEO CUNG CÁCH VIỆT NAM - CHỨNG TỪ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN” do Ủy ban Giám mục về Giáo dân của Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám Mục Huế phối hợp tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo phận Huế, trong ba ngày 20-22.4.2004, Linh mục Đỗ Quang Chính, Dòng Tên, đã nhắc đến bản báo cáo của linh mục Gaspar d’Amaral viết từ kinh đô Thăng Long ngày 31.12.1632 gửi linh mục Anrê Palmeiro ở Macao, Dòng Tên. Cha Chính có trích dẫn một câu ngắn cho biết cha ông chúng ta ở đầu thế kỷ XVII đã sống như thế nào: “Người lương gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau” Nếu đối chiếu với lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, thì chúng ta có thể khẳng định rằng: cha ông chúng ta đã hiểu và đã thực hiện cách xuất sắc giáo huấn của Chúa Giêsu về yêu thương. Còn chúng ta ngày nay?

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA

2.1 Bài đọc 1: Cv 14, 21b-27: (a) ”Sách Công vụ là cuốn thứ hai của tác giả Luca, trình bày sự hình thành của cộng đoàn chứng nhân và con đường lớn mạnh của Lời ân sủng dưới tác động của Thánh Thần. Cũng như bước đường của Chúa Giêsu, không gì ngăn cản được, kể cả cái chết cũng trở thành lời chứng. Thánh Phaolô đến trung tâm của đế quốc Roma trong xiềng xích và tại đó, vẫn mang xiềng xích, “ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giêsu Kitô một cách mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào (Cv 28,31). Sách Công vụ cho chúng ta biết thế hệ ban đầu đã thực hành Lời Chúa và thi hành sứ mạng làm chứng như thế nào. Do đó sách này có thể giúp chúng ta nhận biết cách thực hành Lời Chúa và thi hành sứ mạng hôm nay” (Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn Nhập Tân Ước, trang 1841).

(b) Cv 14,21b-27: là tường thuật của Luca về hoạt động truyền giáo của hai ông Phaolô và Baraba tại nhiều nơi như Đécbê, Lýtra, Icôniô, Pécghê, Attalia và Antiôkhia. Công việc của các ngài là giúp dân ngoại tin nhận Chúa, củng cố tinh thần các môn đệ, chỉ định kỳ mục cho các cộng đoàn, tập họp cộng đoàn và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã làm với và qua các ngài.

2.2 Bài đọc 2: Kh 21,1-5a (a) Sách Khải huyền là cuốn sách cuối cùng của Tân Ước, được Thánh Gioan viết ra là nhằm “khích lệ các Kitô hữu đang trải qua những cơn bách hại khốc liệt vào cuối thế kỷ thứ nhất. Lời an ủi dựa trên sự khẳng định quyền làm Chúa của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã làm Con Chiên Vượt Qua mới, chiến thắng tử thần để giải thoát Dân Mới, đang nắm quyền điều khiển lịch sử và nhất định sẽ toàn thắng để đưa Hội Thánh đến với Người trong Trời Mới Đất Mới.” (Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn Nhập Tân Ước”, trang 1842).

(b) Kh 21,1-5a: Thánh Gioan Tông đồ kể lại thị kiến của mình về sự biến đổi trời đất do Thiên Chúa thực hiện: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất. Đấng ngự trên ngai phán: Này đây Ta đổi mới mọi sự”

c) Trong đoạn sách Khải huyền trên chúng ta thấy nổi bật những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện cho những người được Chúa thương: Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.

2.3 Bài Tin Mừng: Ga 13,31-33a.34-35: Là một đoạn văn hết sức quan trọng của Tin Mừng Gioan nói riêng và của Sách Phúc Am nói chung, vì chứa đựng điều cốt yếu nhất của Kitô giáo: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”

III. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA

3.1 Thiên Chúa là Tình Yêu: Nếu trong Cựu ước Thiên Chúa mạc khải cho dân Ítraen biết Người là Đấng tự hữu thì trong Tân ước Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu (xem 1 Ga 4,8). Nhờ Tình yêu ấy mà con người được Thiên Chúa thứ tha và cứu chuộc nhờ cuộc sống trần thế và cái chết thập giá của Đức Giêsu, Con Một yêu dấu của Thiên Chúa: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thề này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1 Ga 4,9).

3.2 Giới răn trọng nhất của Kitô giáo, luật của Phúc âm, điều răn mới và giới răn riêng của Chúa Giêsu là “anh em hãy yêu thương nhau”: Chính vì Thiên Chúa là Tình Yêu, Đức Giêsu xuống thế vì yêu thương mà giới răn trọng nhất của Kitô giáo, luật của Phúc âm, điều răn mới và giới răn riêng của Chúa Giêsu là “anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em.” Yêu thương là cốt lõi của Kitô giáo. Nên chúng ta có thể khẳng định có yêu thương là có tất cả, không có yêu thương thì chẳng có gì cả. Trong thư gửi tín hữu Côrintô Thánh Phaolô đã diễn giải điều ấy một cách đầy thuyết phục: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chụm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi rời non mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hay nộp cả thân xác tôi chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1 Cr 13,1-3).

3.3 Những đặc điểm của Đức Ái Kitô giáo: Cũng trong thư gửi tín hữu Côrintô Thánh Phaolô đã trình bày cặn kẽ các đặc điểm của Đức Ai: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hỵ vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).

3.4 Thương người có 14 mối: Để dạy người bổn đạo Việt Nam xưa sống bác ái yêu thương, các bậc tiền bối của chúng ta đã soạn ra kinh thương người có 14 mối, thương linh hồn 7 mối và thương xác 7 mối. Tuy lời văn có cổ, nhưng ý nghĩa thì chẳng cổ tí nào:

* Thương linh hồn 7 mối: Thứ nhất: lấy lời lành mà khuyên người; Thứ hai: mở dạy kẻ mê muội; Thứ ba: an ủi kẻ âu lo; Thứ bốn: răn bảo kẻ có tội; Thứ năm: tha kẻ dể ta; Thứ sáu: nhịn kẻ mất lòng ta; Thứ bẩy: cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

* và thương xác 7 mối: Thứ nhất: cho kẻ đói ăn; Thứ hai: cho kẻ khát uống; Thứ ba: cho kẻ rách rưới ăn mặc; Thứ bốn: viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; Thứ năm: cho khách đỗ nhà; Thứ sáu: chuộc kẻ làm tôi; Thứ bẩy: chôn xác kẻ chết.

Vì loài người đã tiến bộ rất nhiều qua các thế kỷ nên ngày nay, thương người không chỉ thuộc phạm vi cá nhân mà còn thuộc phạm vi cộng đồng, quốc gia và thế giới. Ngày nay thương người cũng không chỉ nhằm giải quyết cái ngọn của các hoàn cảnh đau khổ, đói kém, bất công, chiến tranh, suy đồi phong hóa hay sa sút đạo đức, mà còn nhắm giải quyết tận gốc rễ các tình trạng kể trên. Vì thế thương người ngày hôm nay là kiến tạo hòa bình, hòa giải, là đấu tranh cho công lý và phẩm gía con người, nhất là của người nghèo, phụ nữ và trẻ em là những hạng người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội vừa duy vật thực dụng vừa sa sút đạo đức.

3.4 Muốn thương người thì phải bỏ mình: Đó là qui luật cơ bản nhất của đời sống tâm linh. Chính Thiên Chúa đã thực hành và truyền dạy cho con người qui luật ấy. Bằng chứng hùng hồn nhất là việc Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ tất cả để thể hiện lòng yêu thương đối với nhân loại. Chúa Giêsu đã chấp nhận hủy mình ra không, chịu mọi bất công, thiệt thòi đến nỗi phải chết oan uổng và tủi hổ trên thập giá cũng chỉ để nói cho mọi người biết Thiên Chúa yêu thương họ như thế nào, đến độ nào! Qui luật tâm linh ấy các thánh nam nữ của mọi thời đại đều tuân giữ một cách trung thành và quảng đại. Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng không có con đường nào khác mà đi, nếu chúng ta muốn yêu thương tha nhân như chính mình, yêu thương anh chị em như Thầy Giêsu đã yêu thương.

3.5 Quyết tâm: Mỗi ngày hy sinh một điều gì đó để thương người.

IV. CẦU NGUYỆN




Lạy Chúa Giêsu, ở đâu có yêu thương ở đấy có Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Xin Chúa ban cho con ƠN CẢM NHẬN được Tình Yêu của Chúa trong cuộc đời đầy gian nan, trắc trở để con sống tin tưởng, phó thác và lạc quan. Xin Chúa cũng ban cho con ƠN DŨNG CẢM và LÒNG QUẢNG ĐẠI dám hy sinh, bỏ mình để yêu thương và phục vụ người khác là anh chị em của con, bắt đầu từ những người gần gũi thân thiết nhất trong gia đình, bạn bè, đoàn thể, giáo xứ cho đến những người sống trong xã hội không cùng ngôn ngữ, dân tộc, tín ngưỡng và quan điểm chính trị với con.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

-----------------------------

 

PS 5-C42.: Tình yêu đúng nghia


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH C

Gioan 13:31-33,34-35


 

Trong những giây phút ngắn ngủi sau cùng, trước khi giã biệt các môn đệ, Chúa dạy một điều:  PS 5-C42


Trong những giây phút ngắn ngủi sau cùng, trước khi giã biệt các môn đệ, Chúa dạy một điều răn mới, nó tâm huyết, vì nói theo thế gian đây là lời trăn trối của người sắp chết. Nó quan trọng vì đây là nền tảng, cốt lõi của Kitô giáo. Tôn giáo này chỉ có thể tồn tại khi giới luật này còn được duy trì, hiện hữu. Mặc dù thực hiện được giới răn này không đơn giản tí nào, không muốn nói là không thể thực hiện được, nếu như Vị sáng lập không ban ơn trợ sức cho môn đệ mình.

Một buổi tối nọ, trước khi ngôi sao âm nhạc nổi tiếng của Broadway, Mary Martin lên sân khấu trình bày vở nhạc kịch lừng danh South Pacific (vở nhạc kịch này đoạt giải hay nhất năm 1950). Người ta đưa cho Mary Martin một mảnh giấy của Oscar Hammerstein, tác giả của vở kịch này, hiện đang nằm trên giường bệnh, sắp chết. Không biết trong mảnh giấy viết gì, chỉ biết rằng sau buổi trình diễn hôm đó, người ta ùn ùn chạy ra hậu trường, khóc lóc, nói rằng: “Mary, điều gì đã xảy đến với cô tối nay vậy ? Chúng tôi chưa bao giờ thấy cô diễn xuất như vậy cả”. Vừa chớp mắt đôi mắt ướt đẫm, Mary đọc bức thư ngắn ngủi của Oscar Hammerstein, nội dung như sau:

“Mary mến, Một cái chuông không phải là chuông cho đến khi cô rung nó. Một bản nhạc không phải là bản nhạc cho đến khi cô hát nó. Tình yêu trong trái tim của cô đừng để nó nằm yên tại đó. Tình yêu không phải là tình yêu cho đến khi cô cho đi”. Rồi cô ta nói:”Tối nay, tôi đã cho đi tình yêu của mình”.

Thiên Chúa là tình yêu, và Ngài đã chứng minh điều đó một cách tuyệt vời. Chính lúc cho đi mạng sống mình trên thập giá, tình yêu của Ngài mới thật sự lên ngôi, tình yêu ấy mới bắt đầu chiếm hữu tâm hồn nhân loại. Chúa đã báo trước điều Ngài sẽ kéo nhân loại đến với mình, khi Ngài được dương lên. Hôm nay Chúa dạy chúng ta một bài học cụ thể, nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp, đó là một thách đố triền miên: phải thực hiện sự cho đi của mình, phải thể hiện một cách rõ ràng bằng hành động, phải làm cho thiên hạ thấy được sự yêu thương nhau trong cư xử, của những người anh em trong một thân thể duy nhất là Hội Thánh, trước khi lan tỏa đến những người ngoài Giáo Hội.

Không phải cuộc khổ nạn của Thiên Chúa tạo nên tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, nhưng chính tình yêu của Ngài là nguyên nhân gây nên cuộc khổ nạn, là kết quả của cuộc khỗ nạn đó. Ngài muốn môn đệ Ngài cũng phản ánh được tình yêu của Ngài. Nói cách khác khi nhân loại nhìn vào môn đệ Chúa, nhưng không nhận diện được sự hiện hữu của tình yêu, thì hoặc là người đó không phải là môn đệ thật sự của Chúa, hoặc đau lòng mà nói, Thiên Chúa không phài là tình yêu.

Tóm lại, Thiên Chúa tỏ lộ sự hiện diện của Ngài cho thế gian bằng nhiều cách: khi chịu chết đau đớn, nhục nhã trên thập giá, Ngài cho chúng ta thấy trái tim yêu thương của Ngài. Khi Ngài quan phòng đến con cái mình, Ngài cho chúng ta thấy hai bàn tay của Ngài. Và chính khi chúng ta yêu thương nhau cũng như trải rộng tình yêu đó với tha nhân, là lúc mọi người có thể nhìn thấy khuôn mặt nhân ái của Ngài. Nhân loại không thể hiều được, hoặc nhận ra tình yêu của Chúa trên thế gian này, nên chúng ta là phương tiện duy nhất để làm thay cho Ngài, cũng như Giáo hội là phương thế duy nhất để trực tiếp ban phát ân sủng của Ngài. Là con cái Chúa, chúng ta luôn cố học tập để có thể giống Chúa. Dĩ nhiên khi tín thác vào Ngài, thì Ngài sẽ ban sức mạnh để chúng ta có thể biến thành những đứa con ngoan ngoãn của Thiên Chúa. Ước gì mọi thành phần trong Giáo Hội đều ý thức được những điều Chúa dạy phải sống yêu thương, hòa thuận, biết hy sinh, và phẫm trật càng cao thì cường độ yêu thương phải càng nhiều.


Phaolô Ngô Suốt

-----------------------------

 

PS 5-C43. Điều răn mới


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH C
Ga 13,31-33a.34-35

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA


 

Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài Từ Biệt của Đức Giêsu khi Người ăn: PS 5-C43


1) Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài Từ Biệt của Đức Giêsu khi Người ăn bữa Tiệc Ly với các môn đệ. Khi Giu-đa rời khỏi bàn tiệc lao mình vào bóng tối thì Đức Giêsu tuyên bố đã khởi đầu Giờ Người được tôn vinh qua việc Tử Nạn và Phục Sinh đúng theo ý định của Chúa Cha. Sau đó Đức Giêsu ban cho các môn đệ một điều răn mới là “Anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu ấy chính là dấu chỉ để người ngoài nhận biết ai mới thực là môn đệ của Người.

2) CHÚ THÍCH:

- Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giêsu nói: Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người (Ga 13,31-32):

+ Khi Giu-đa đi rồi: Có lẽ Giu-đa ra khỏi phòng tiệc sau khi Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ, và trước lúc Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Từ giờ phút này, Người mới nói về số phận của Người và trăn trối những điều quan trọng cho các môn đệ.

+ Giờ đây Con Người được tôn vinh: Cuộc thương khó kể như đã bắt đầu, vì Giu-đa đã đi ra để tiến hành âm mưu phản nộp Người cho kẻ thù. Đức Giêsu mừng vì cuộc chiến thắng như một điều chắc chắn sắp hoàn thành, nên Người diễn tả biến cố tương lai ấy như đang xảy ra trong hiện tại.

+ Và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người: Thiên Chúa cũng được vinh hiển nhờ việc Đức Giêsu “Vâng lời cho đến chết trên cây thập giá” (x. Pl 2,8). Nhờ đó, Người đã hoàn tất công trình cứu thế mà Chúa Cha đã trao cho (x. Ga 4,34; 17,4).

+ Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình: Nếu Đức Giêsu làm cho Chúa Cha được vinh hiển nhờ cái chết của Người trên thập giá. Đáp lại, Chúa Cha sẽ ban cho Đức Giêsu được vinh hiển bằng cách cho Người được tham phần bản tính của Thiên Chúa là sự sống lại vinh quang.

+ Và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người: Thiên Chúa Cha sắp thực hiện điều ấy qua công cuộc chết và sống lại của Đức Giêsu.

- Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy. Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13,33a.34-35):

+ Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy: Đức Giêsu dùng kiểu nói rất thân thiết như người cha trăn trối cho con cái trước khi từ giã họ mà đi chịu chết.

+ Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi: Chỉ còn một chút thời gian ngắn ngủi Đức Giêsu hiện diện bên các môn đệ mà thôi.

+ Thầy ban cho anh một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau: Trong hoàn cảnh sắp từ giã ra đi, Đức Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn về lòng yêu thương đối với nhau, để họ sống và cư xử với nhau theo ý Người muốn, trong lúc Người vắng mặt. Đó là điều răn mới vượt qua luật tự nhiên mà Môsê đã dạy “Phải yêu đồng loại như chính thân mình” (x. Lv 19,18).

+ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em: Điều răn này mới ở chỗ thay vì lấy bản thân làm mẫu để yêu người khác như luật cũ dạy, Đức Giêsu đòi môn đệ phải yêu thương nhau theo mẫu người đã yêu thương họ. Lòng yêu thương đó được biểu lộ qua sự hy sinh mạng sống vì họ. Thánh Gioan viết: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được tình yêu là gì: Đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta” (1 Ga 3,16).

+ Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy…: Tình yêu theo kiểu mẫu của Đức Giêsu là hy sinh chịu chết vì người mình yêu. Đó là thứ tình yêu mới và trở thành dấu chỉ để mọi người nhận biết người nào mới thực là môn đệ của Đức Giêsu.

II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:

1) LỜI CHÚA: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

2) CÂU CHUYỆN:

- SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH YÊU:

Cách đây ít lâu, truyền hình Thành Phố đã chiếu bộ phim giáo dục rất hay mang tựa đề là “Giai điệu hạnh phúc” (La Mélodie du bonheur - The Sound of Music ), kể về một nữ tu tên là Marie làm nghề gia sư cho mấy đứa con trong gia đình của một viên đại úy góa vợ. Nhờ sự vui tươi và tài năng, nhất là nhờ tình thương cảm thông mà cô đã dần dần cảm hóa được các đứa con của viên đại úy. Chúng đang từ những đứa trẻ bướng bỉnh ngỗ nghịch đã trở thành những em tài giỏi ngoan ngoãn dễ thương. Chính nhờ biết tìm hiểu tính nết, biết rõ tâm tư và cả những khát vọng của mỗi em để cảm thông và đáp ứng mà cô Marie đã thành công tốt đẹp.

- MẸ HY SINH CHO CON:

Vào năm 1995, một trân động đất với cường độ rất mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. Hầu như mọi nhà cửa đều bị sụp đổ biến thành những đóng gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của lên đến con số khủng khiếp. Các đội cứu hộ làm việc khẩn trương ngày đêm để lôi ra từ đống gạch vụn rất nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng từ tai họa này, người ta khám phá ra một câu chuyện rất cảm động như sau: đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, từ dưới một tòa nhà đổ nát người ta đào lên được hai mẹ con còn sống. Đứa con nhỏ mới vài tháng tuổi vẫn đang nằm ngủ trong lòng mẹ, đang khi bà mẹ của em thì hôn mê bất tỉnh. Sau khi được cứu qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia ?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may là chúng tôi đươc một cái đà che chắn nên không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi đói bắt đầu khóc oe oe đòi ăn đang khi hai bầu sữa của tôi lại chẳng còn một giọt nào. Tôi quờ quạng trong bóng tối đề tìm xem có cái gì bỏ vào bụng cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi đụng phải một con dao sắc trong giỏ nằm bên. Tôi cầm lấy con dao và rạch một đường ở ngón tay cái cho chảy máu, rồi ấn ngón tay chỗ bị cắt đó vào miệng cho cháu bú thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay tôi được mươi phút, cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền lấy dao rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay và đưa vào miệng cháu. Sau đó tôi bị ngất đi lúc nào không biết, cho tới khi được người ta cứu sống “. Nhà báo hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng khi làm như thế thì chị sẽ mất hết máu và sẽ bị chết hay sao ?” Chị ta trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ gì đến bản thân mình, mà chỉ lo sao cho con tôi có bất cứ cái gì bú để được sống là đủ !”.

- YÊU THƯƠNG LÀ QUÊN MÌNH ĐỂ NGHĨ ĐẾN NGƯỜI KHÁC:

Một ông lão đang đào đất gieo trồng mấy hột đào. Cháu trai của ông thấy vậy liền thắc mắc hỏi: “Ong ơi, theo cháu nghĩ thì chắc gì ông sẽ sống tới ngày được ăn trái đào. Vậy tại sao ông lại phải vất vả trồng nó làm chi ?”. Bấy giờ ông lão âu yếm đặt tay lên vai đứa cháu, vừa cười vừa nói: “Này cháu, trái đào chúng ta ăn bây giờ chẳng phải là do người trước đã trồng đó sao ? Chúng ta ăn trái đào do người trước trồng, thì tại sao ta lại không trồng cho người sau được hưởng hả cháu ? Còn nếu ai cũng nghĩ rằng: chỉ khi nào được ăn mới trồng, thì làm sao bây giờ chúng ta có được trái đào mà ăn hả cháu ?”.

- HÃY CHO THÌ SẼ ĐƯỢC CHO LẠI:

Một sinh viên nghèo nọ theo học ngành mỹ thuật, ngày kia ghé thăm phòng vẽ của một danh họa Pháp. Bấy giờ trong phòng thật vắng lặng. Sau đó cậu ta mới thấy một lão hành khất đang ngồi ở một góc tối chờ để làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Thấy bộ dạng tiều tụy đáng thương của người hành khất, cậu sinh viên động lòng trắc ẩn. Cậu mở bóp ra tìm mãi mới thấy còn một quan tiền và cậu lấy ra tặng ông lão. Khi họa sĩ đến làm việc, người hành khất kia mới hỏi để biết cậu sinh viên có lòng quảng đại kia là ai. Dựa theo lời của người hành khất, họa sĩ trả lời: “Thưa đó là sinh viên nghèo nhưng hiếu học.

Chiều hôm đó, cậu sinh viên kia đã nhận được một món quà gói kín, với tên người gửi là “Nam Tước Jacques De Rothschild”. Khi mở ra, cậu rất vui khi thấy đó là một số tiền rất lớn là 10 ngàn quan kèm theo một bức thư nội dung như sau: “Đây là số tiền lời do một quan mà cậu đã bố thí cho người nghèo vào sáng hôm nay !”

Thì ra người hành khất ngồi chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ chính là một Nam Tước ham thích hội họa, giàu có và rất tốt bụng.

3) SUY NIỆM:

- THẾ NÀO LÀ MỘT TÌNH YÊU ĐÚNG NGHĨA:


Yêu thương không chỉ dừng lại ở những biểu hiện bên ngoài như: Mắt nhìn đắm đuối, lời nói dịu dàng, cử chỉ âu yếm, con tim đập nhanh…Tình yêu đúng nghĩa còn được biểu hiện bằng những hoạt động tinh thần như: Năng quan tâm nhớ đến và ước muốn điều tốt cho người mình yêu, sẵn sàng quên mình hy sinh cho người yêu, chiều theo ý người yêu để làm cho họ được vui, quảng đại trao tặng tiền bạc vật chất và ân cần phục vụ, luôn xét đoán tốt và hay khen tặng người yêu, không chấp nhất những lầm lỗi nhỏ bé và hay bào chữa lỗi cho người yêu. Tình yêu sẽ lên đến tột đỉnh khi sẵn sàng hy sinh tính mạng vì người mình yêu.

- YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY GIÊSU:


“Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đức Giêsu đòi các môn đệ thực hành giới răn mới yêu thương. Đây là một thứ tình đặc biệt: Cúi xuống rửa chân hầu hạ người dưới; cảm thông chia sẻ với môn đệ như với “bạn hữu thân tình”. “yêu cho đến cùng” bằng việc hiến thân làm của ăn cho môn đệ và hy sinh chịu chết để đền tội cho họ. Các tín hữu chúng ta hôm nay cũng được Chúa mời gọi: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu”. Chúng ta chỉ có thể thực hành được giới răn mới này khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thầy, ý thức giới hạn của mình để xin Thầy ban ơn trợ giúp, noi gương Thầy phục vụ anh em, luôn quên mình và hy sinh ngay cả mạng sống của mình cho tha nhân. Tóm lại, tình yêu “như Thầy đã yêu” không phải là thứ tình yêu vị kỷ, chiếm đoạt, lợi dụng người yêu để phục vụ cho mình, nhưng là tình yêu không phân biệt bạn thù, tình yêu quảng đại, vị tha, sẵn sàng hiến dâng và luôn hy sinh cho người mình yêu.

- YÊU THƯƠNG LÀ MỘT PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HỮU HIỆU:


Có nhiều dấu hiệu để giúp người khác nhận ra mình là Kitô hữu như: đeo ảnh, làm dấu thánh giá, treo ảnh thánh trong gia đình…Nhưng dấu hiệu mà Đức Giêsu dạy hôm nay là sự thực hành giới răn mới yêu thương. Đây là một phương thế truyền giáo hữu hiệu như Lời Chúa phán: “Anh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Sự cảm thông, tha thứ, hy sinh, chia sẻ, đối thoại và hợp tác…chính là dấu chỉ của tình yêu đích thực mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Những dị biệt về đức tin, những thành kiến và sự chống đối lẫn nhau…là một trở ngại lớn cho công cuộc truyền giáo. Tiếc thay, hiện nay vẫn còn những bất đồng giữa những người cùng tin thờ Thiên Chúa và cùng tin nhận Đức Giêsu, nhưng lại không hiệp thông với nhau như Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo, Tin Lành…Thậm chí còn có những mối hận thù và giết hại lẫn nhau giữa những người con Chúa như hai công đồng Công Giáo và Tin Lành ở Bắc Ai-len, hai bộ tộc Hu-tu và Tú-si ở Ru-ăng-đa. Biết đến bao giờ mọi Kitô hữu mới hiệp nhất nên một đoàn chiên dưới quyền một chủ chăn ? Biết đến khi nào mọi tín hữu cùng nhau đọc chung một kinh Tin Kính, cùng mừng các đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh một ngày, cùng cử hành một lễ nghi phụng vụ ? Thế giới hiện nay giống như một sa mạc khô khan cằn cỗi vì thiếu tình yêu. Ước chi các cộng đoàn Kitô sẽ trở thành những ốc đảo, có cỏ xanh tươi và suối nước trong, cuốn hút mọi con chiên lạc quay về sống chung thành một đại gia đình, trong đó có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, như ước nguyện của Đức Giêsu: “Xin cho chúng nên một”.

4) THẢO LUẬN:


a) Bạn hãy kể ra những dấu chứng nào cho thấy một gia đình, xứ đạo hay cộng đoàn tu viện có tình yêu như Đức Giêsu đã dạy ?

b) Bạn thích câu chuyện nào nhất trong các chuyện trên và rút được bài học nào về tình yêu từ câu chuyện đó ?

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU

1) Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu thương hợp tác trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, nhưng luôn tin tưởng nhau. Khi làm việc chung, xin cho chúng con nhìn thấy Chúa ở giữa chúng con để chúng con dễ dàng vượt qua những tự ái ích kỷ nhỏ nhen và thành kiến về người khác.

Lạy Chúa, Ước chi chúng con dám từ bỏ mình để đến với tha nhân. Xin cho chúng con đón nhận được ơn Thánh Thần để chúng con mở tai lắng nghe người khác, mở lòng yêu thương tha nhân và mở tay nối vòng tay lớn. Xin cho Thánh Ý Chúa sớm được thực hiện nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ Chúa, xây dựng một trời mới đất mới công bình và yêu thương, bắt đầu từ gia đình, cộng đoàn đến xứ đạo và các dân tộc trên thế giới.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

2) Lạy Mẹ Maria, Tin Mừng hôm nay dạy chúng con phải yêu thương anh em bằng thứ tình yêu vị tha noi gương Chúa Giêsu con yêu của Mẹ. Tình yêu đó là sự hạ mình rửa chân cho người dưới, là chia sẻ thân mình làm của ăn nuôi dưỡng con cái. Tình yêu đó còn là sẵn sàng hiến thân chịu chết đền tội thay cho loài người như Chúa Giêsu đã làm.

Lạy Mẹ, nhiều khi chúng con đã yêu anh em vì ích lợi cho con hơn là cho họ. Xin Mẹ dạy chúng con biết yêu thương như Chúa Giêsu, nghĩa là yêu kẻ khác vì hạnh phúc của họ. Chỉ khi nào chúng con biết yêu anh em giống như Chúa đã yêu chúng con, thì bấy giờ chúng con mới hy vọng chu toàn được sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa, chiếu sáng đức tin giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

Trích Hiệp sống Lời Chúa


Lm Đan Vinh

-----------------------------

 

PS 5-C44. HÃY THUƠNG YÊU NHAU


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH C: /5th Sunday of Easter

Lời Chúa cho hôm nay: HÃY THUƠNG YÊU NHAU

* Love one Another *


 

Thánh Phaolô và Banaba tập họp Hội thánh và kể tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông: PS 5-C44


* BÀI ĐỌC 1: Công vụ 14, 21-27= Thánh Phaolô và Banaba tập họp Hội thánh và kể tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông./ Paul and Banabah called the Church together and reported what God had done with them.

* BÀI ĐỌC 2: Khải huyền 21, 1-5= Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa vì những điều cũ đã biến mất./ There shall be no more death or mourning, crying out or pain, for the former…passed away.

* TIN MỪNG (Gospel): Gioan 13, 31-33; 34-35=Mọi người nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau./ This is how all will know you for my disciples: you love for one another.

A- Bạn và tôi cùng Cảm- Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )

1/ Bài Tin Mừng hôm nay nói về những lời cáo biệt của Đức Giêsu như sau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.” Khi bước vào cuộc tử nạn, Ngài muốn ban cho chúng ta một điều răn là lòng thương yêu, mà Ngài sẽ làm một cách cụ thể trong sự hy sinh tính mạng của Ngài. Mẹ Têrêsa là người đã thực hành khi đem một thanh niên mắc bệnh AIDS ở Nữu ứơc về nhà săn sóc, Mẹ cho là quà củaChúa. Kể việc yêu thương tôi làm cụ thể cho Gia đình và xã hội?(Hành đaọ)

“I give you a new commandment: love one another. ” ( Ga 13, 34 )

2/ Đức Giêsu tha thiết nhắn nhủ môn đệ: “Ở điểm này mọi người nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau.” Nhưng phù hiệu mà bạn đeo trên ngực có thực sự diễn tả được mình là môn đệ của Chúa không, nếu không thực hiện điều Chúa dạy. Cái nhãn hiệu ấy chính là việc làm bác ái cho anh em sống bên mình. Trong đời sống bình thường người đáng tin là người có lòng từ bi, nhân hậu, biết giúp ích cho kẻ khác. Chia sẻ những gì đã giúp bạn Sống giống Chúa ? (Sùng đạo)

“This is how all will know that you are my disciples. If you have love for one another.” (Ga 13, 35)

3/ Trong sách Tông đồ Công vụ hôm nay nói tới việc làm của các môn đệ như sau: “hai ông tập họp Hội thánh và kể lại tất cả những gì…và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại.” Đó là tránh gây phiền hà cho anh em lương dân như không đặt ách lề luật lên cổ họ, tránh gây chia rẽ, hòa giải giữa Do Thái và lương dân. Đây chính là truyền giáo hôm nay, đem Tin vui yêu thương đến với mọi người để họ nhận thấy việc làm của tôi mà tin theo Chúa. Tư cách của người truyền giáo hôm nay là gì? (Học đạo)

“They called the Church together and reported... how He had opened the door of faith to the Gentiles.” (Cv 14, 27)

4/ Thánh Gioan đã được thị kiến cảnh Giêrusalem trên trời hoàn hảo như sau: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa.” Đây là nguồn hy vọng và cậy trông của các Tín hữu đang sống thực hành giới răn yêu thương, đời sống chứng nhân của Ngài. Thời cánh chung Đức Kitô đã biến đổi vũ trụ để họ được mãi mãi chiêm ngưỡng tôn nhan Ngài trong Hội thánh là Vương quốc đích thực trên trời. C ảm nghiệm niềm vui Nước Trời của bạn hiện tại?(Sống đạo)

“Then I saw a new heaven and…the former heaven and the former earth had passed away.”

B- Câu Kinh Thánh tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần naỳ: (The Best God’s Word )

MỌI NGƯỜI NHẬN BIẾT ANH EM LÀ MÔN ĐỆ THẦY LÀ.. CÓ LÒNG THƯƠNG NHAU

This is how all will know that you are my disciples, if you have love for one another.” (Ga 13, 35)C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để yêu thương: (For Action)

Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gơị ý Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành vào đời sống.

D- Tôi cầu nguyện với Lời Chúa và Sống cầu nguyện: (I pray and practice/ Pray in Action)

Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em có lòng thương nhau. Xin cho con được thực hành yêu thương anh em bằng các việc làm cụ thể cho thể xác và tinh thần.


Hoa thơm cỏ lạ: BAN CHO, LÀ THƯỚC ĐO ĐÚNG CỦA TÌNH THƯƠNG
Giving is the true measure of love


Ptế Nguyễn Định

-----------------------------

 

PS 5-C45. Giới luật yêu thương


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH C

Ga 13, 31-33a.34-35


 

Đạo của Chúa là đạo tình thương. Khi nói như thế, con người ngụ ý rằng cốt lõi của Kitô giáo là tình: PS 5-C45


Đạo của Chúa là đạo tình thương. Khi nói như thế, con người ngụ ý rằng cốt lõi của Kitô giáo là tình thương. Người ta quả dễ yêu thương những người yêu thương, hay hờ hững với họ hơn là yêu thương kẻ làm hại, ghen ghét, hờn căm họ. Chúa Giêsu lại dậy khác:” yêu thương cả kẻ thù “.

YÊU THƯƠNG LÀ GIỚI RĂN MỚI CỦA CHÚA GIÊSU:

Thiên Chúa là tình yêu, thánh Gioan đã viết như thế, mà quả thực Chúa đã dậy:” Dấu chỉ để mọi người biết ai là môn đệ Thầy, ấy là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 35 ). Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, đã trăn trối những lời thật tâm huyết:” Thầy truyền cho các con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau”( Ga 13, 14 ). Chúa Giêsu đã làm cho luật của sách Lêvi trong Cựu Ước được nên hoàn hảo, đoạn sách này viết:” Ngươi không được để lòng ghét anh em. Ngươi không được trả thù, không được oán hận. Ngươi phải yeu thương đồng loại như chính mình”( Lêvi 19, 17-18 ). Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài ban bố lề luật mới:” Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân như chính mình”. Đây là cái tinh túy của luật mới, một giới luật vượt lên tất cả mọi giới luật. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình là cốt lõi của luật mới. Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, Người yêu chúng ta trước, Ngài mời gọi chúng ta cũng phải noi gương bắt chước Người trong việc yêu thương. Tình yêu của Chúa là tình yêu hy sinh, xả kỷ, từ bỏ, tất cả hướng về người mình yêu và vì hạnh phúc của người khác. Chúa đã dậy cho nhân loại một bài học hết sức cụ thể, Người yêu người khác không chỉ trên môi miệng, nhưng Người đã yêu con người, đã yêu nhân loại với tất cả con tim, với tất cả mạng sống của mình để mang lại hạnh phúc và ơn cứu rỗi cho nhân loại. Chúa đã sống, đã thực hiện sứ mạng cao cả của mình bằng chính cả mạng sống của mình:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ) hay “ Anh em hãy có lòng từ bi, như Cha anh em là Đấng từ bi “( Lc 6, 36 ).

LỜI CHÚA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI:

Các bài đọc trong phụng vụ Chúa Nhật V phục sinh hôm nay mời gọi nhân loại, mời gọi mọi Kitô hữu hãy đổi mới, hãy cải thiện lối sống, hãy quay trở về với Chúa. Chúa muốn con người phải có cái nhìn mới, suy nghĩ mới, lối sống mới để thực thi giới luật yêu thương mà Chúa đã ban cho nhân loại, cho con người. Thực thi luật bác ái là đối chiếu con người của mình với đoạn Tin Mừng Mt 25, 31-46 nói về cuộc phán xét chung thẩm. Thái độ, cử chỉ và lối sống bác ái, yêu thương đối với đồng loại là thước đo lòng yêu thương của mỗi người đối với Thiên Chúa và nhân loại. Chúa muốn con người phải yêu thương nhau như Chúa yêu thương con người. Yêu thương đến hy sinh cả mạng sống của mình cho người khác. Một Phanxicô khó nghèo, một Maximilianô Kolbê, một Têrêsa Calcutta, một Gioan Vianney, cha sở họ Ars và biết bao vị thánh khác đã hết mình vì Chúa và vì tha nhân. Chúa dậy chúng ta hãy thực thi đoạn Tin Mừng Mt 25, 31-46 với tất cả lòng tin sâu đậm và với tất cả lòng nhiệt thành, quảng đại của mỗi người. Sống được như thế là chúng ta đã thực hiện tốt đẹp giới luật yêu thương của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có con tim quảng đại, con tim nhậy cảm, con tim biết nói để chúng con yêu mọi người như lời Chúa đã dậy.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Tại sao Chúa lại nói:” các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con “ ?

2. Luật mới của Chúa có khác với luật thời Cựu Ước không ? Tại sao ?

3. Tại sao Chúa nói:” yêu thương kẻ thù “ ?


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

-----------------------------

 

PS 5-C46: Giới răn mới


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – C

Bài đọc 1: Cv 14, 20b-26
Bài đọc 2: Kh 21, 1-5a
Tin mừng: Ga 13, 31-33a. 34-35


 

Cách đây 470 năm khi Tin mừng được rao giảng lần đầu tiên tại Việt Nam, thì lúc bấy giờ, ở nước: PS 5-C46


Cách đây 470 năm khi Tin mừng được rao giảng lần đầu tiên tại Việt Nam, thì lúc bấy giờ, ở nước ta đang thịnh hành ba tôn giáo lớn là: Khổng - Lão - Phật, còn đạo mới mà các cha Thừa Sai rao giảng, mọi người không biết tên là đạo gì. Do đó, họ chỉ còn có một cách là “xem mặt đặt tên”, nghĩa là nhìn vào cách sống của những người theo đạo để đặt tên cho đạo mới này. Và sau một thời gian quan sát đời sống của các kitô hữu, anh chị em lương dân đã đặt cho đạo chúng ta một tên gọi thật dễ thương: “Đạo yêu nhau” (1).

Như thế, ngay từ thuở ban đầu, tinh thần bác ái, chia sẻ của các tín hữu là một dấu chỉ quan trọng để mọi người nhận ra họ là môn đệ của Đức Kitô. Và đây cũng chính là giới răn mới mà Đức Giêsu để lại cho mỗi người chúng ta.

1. GIỚI RĂN MỚI:

Để thấy rõ hơn đặc điểm của giới răn mới mà Đức Giêsu vừa để lại cho chúng ta, chúng ta cần xem lại bối cảnh của bài Tin mừng hôm nay. Bài Tin mừng này được viết trước cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, tiếp liền sau bữa tiệc cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Lúc đó, Đức Giêsu biết là sắp tới giờ Ngài phải ra đi để hoàn tất chương trình cứu độ của Chúa Cha, nên sau bữa ăn tối, Ngài đã cởi áo, ngồi xuống rửa chân cho từng môn đệ. Sau khi đã rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu nói với các ông: “Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau”.

Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ và qua các tông đồ, Đức Giêsu đã ban cho chúng ta một giới răn yêu thương mà Ngài gọi là giới răn mới. Thế nhưng, tình yêu, một điều thật là quen thuộc với tất cả chúng ta, người ta vẫn hay nói tới tình yêu, và nhiều tôn giáo, nhiều vĩ nhân cũng dạy cho môn đệ của mình yêu thương nhau. Thế thì đâu là điểm mới trong giới răn của Đức Giêsu?

Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy điểm mới mà Đức Giêsu muốn nói đến không nằm ở chữ “yêu”, vì Ngài đã từng nói: “nếu các ngươi mến yêu những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao?” (Mt 5, 46), nhưng cái mới ở đây nằm ở chữ “như”, Đức Giêsu nói: “Như Thầy đã yêu thương các con, các con cũng hãy yêu thương nhau”.

Yêu như Đức Giêsu đã yêu, trước hết là một tình yêu rộng mở cho hết mọi người, kể cả kẻ thù, như cảm nghiệm của thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay lúc chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5, 8b). Đức Kitô đã chết cho chúng ta ngay lúc chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là ngay lúc chúng ta đang ở trong tình trạng thù địch với Thiên Chúa, Đức Giêsu đã hạ mình đi bước trước đến để giao hoà chúng ta với Thiên Chúa.

Yêu như Đức Giêsu đã yêu, còn là một tình yêu dám hy sinh tính mạng mình vì người mình yêu. Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng ta biết rằng trước khi ban cho các môn đệ giới răn mới này, thì trước đó, ngay trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể để lại chính Mình và Máu Người làm của ăn cho chúng ta. Kế đó, Ngài lại còn dùng chính Máu của mình để lập nên một giao ước mới thanh tẩy tất cả tội lỗi của chúng ta. Mặc dù là thân vô tội, nhưng vì yêu thương chúng ta, Đức Giêsu đã chấp nhận trở nên con chiên hiền lành bị đem đi sát tế vì tất cả tội lỗi của chúng ta (x. Ga 1, 29). Cảm nghiệm được tình yêu nhưng không, hải hà đó của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, mượn lời tác giả Thánh vịnh, Giáo Hội đã cất tiếng ngợi ca: “Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa”.

Tắt một lời, cái mới trong giới răn yêu thương của Đức Giêsu không nằm ở nguyên một chữ “yêu”, nhưng nằm ở chữ “như”. Yêu như Ngài đã yêu chúng ta, đó là một tình yêu dành cho hết mọi người, hoàn toàn vị tha, luôn hướng về người mình yêu, một tình yêu không tính toán thiệt hơn, một tình yêu chỉ có cho đi mà không hề đòi lại, một tình yêu không hề có giới hạn.

Và cùng với việc ban cho chúng ta giới răn mới, Đức Giêsu còn khẳng định: “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”. Như thế, việc chúng ta sống yêu thương như Chúa đã yêu, không còn là một giới răn, chúng ta muốn tuân giữ hay không tuỳ ý, nhưng đã trở nên một dấu chỉ cho mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu.

2. SỐNG GIỚI RĂN MỚI:

Xác tín rằng: yêu theo mẫu gương của Đức Giêsu là dấu chứng của người môn đệ, nên các tông đồ và các tín hữu thuở ban đầu đã nhiệt thành sống yêu thương nhau. Sách Công vụ tông đồ thuật lại: “Ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng hân hoan, dạ đơn thành, trong lời ngợi ken Thiên Chúa, trong sự mến phục của toàn dân”. Nhờ đó “số những kẻ được cứu rỗi cứ mỗi ngày được Chúa ban thêm mà nên một cùng nhau” (Cv 2, 46-47). Cũng chính tình yêu đó thúc đẩy bước chân của các tông đồ lên đường đến với anh chị em của mình. Các ngài đã không quản ngại mọi khó khăn, vất vả, nhọc nhằn, nhưng quên mình để đem Tin mừng Phục Sinh đến cho tất cả mọi người. Bài sách Công vụ tông đồ chúng ta vừa nghe cho biết, hai thánh Phaolô và Barnaba đã chẳng quản đường xá xa xôi, cùng với các mối nguy hiểm rình chờ, các ngài đã ngược xuôi từ Lystra, Icôniô, Antiôkia, rồi lại sang Pisiđia, đến Pamphylia, rồi lại trở về Antiôkia để rao giảng và củng cố niềm tin cho cộng đoàn các tín hữu.

Như thế, yêu như Chúa Giêsu đã yêu không phải là một điều dễ dàng đối với bản tính nhân loại ích kỷ đã bị dục vọng của tội lỗi khống chế của từng người chúng ta. Do đó, thánh Phaolô và Barnaba đã nhắc bảo chúng ta rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa”. Vâng, tình yêu như Đức Giêsu đã yêu, đòi mỗi người chúng ta một sự hy sinh, trả giá, đó là những hy sinh không chỉ về vật chất, nhưng còn cả thời gian quý báu, thậm chí cả mạng sống của chúng ta nữa.

Nhưng cho dù nó có khó đến đâu đi chăng nữa, thì đó cũng phải là đích điểm mà mỗi người chúng ta cần nhắm tới, để rồi một khi mỗi người chúng ta sống yêu thương như thế, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ chúng ta sẽ thay đổi, như lời thánh Gioan tiên báo trong sách Khải huyền: “Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa”. Thật vậy, bất cứ ở đâu, nếu trong một gia đình, hay một cộng đoàn mà mỗi người đều yêu thương nhau bằng tình yêu của Đức Giêsu, thì chính nơi đó sẽ có sự hiện diện của chính Thiên Chúa, như lời sách Khải huyền mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Đây là nơi Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ”. Vâng, có tình yêu của Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ không còn khóc lóc, không còn kêu la, không còn đau khổ và nhất là không còn phải sợ hãi sự chết nữa.

Chớ gì mỗi người chúng ta luôn biết sống yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, để rồi nhờ cuộc sống yêu thương ấy, ngày hôm nay mọi người lại có thể một lần nữa, gọi đạo của chúng ta là “Đạo yêu nhau”. Amen.

CHÚ THÍCH

1. Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Lịch sử Giáo Hội Việt Nam, tập 2, Đại Chủng Viện thánh Giuse, 1994, trang 268.


Lm Phêrô Trần Thanh Sơn

-----------------------------

 

PS 5-C47. Yêu như Thầy đã yêu


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH C

Ga 13, 31-35


 

Trong bữa ăn cuối cùng, sau khi rửa chân cho các môn đệ và sau khi Giuđa ra đi để thực hiện ý định: PS 5-C47


Trong bữa ăn cuối cùng, sau khi rửa chân cho các môn đệ và sau khi Giuđa ra đi để thực hiện ý định bán Thầy, khi còn lại các môn đệ yêu dấu, Chúa Giêsu khai mở diễn từ cáo biệt để chuẩn bị bước vào cuộc Khổ nạn. Tin mừng hôm nay là phần dẫn nhập trong diễn từ đó.

Từ sau khi Giuđa ra khỏi phòng Tiệc ly thì cũng chính là lúc cuộc Thương khó của Chúa Giêsu bắt đầu, giờ Con Người tôn vinh được khởi sự. Tiếng hô lớn “Giờ đây” làm cho chúng ta cảm nhận một điều gì đó xảy đến với Chúa rất quan trọng và, dường như đó cũng là cách Chúa Giêsu biểu lộ trước sự vui mừng cuộc vinh thắng trong tương lai mà Người sẽ được Chúa Cha tôn vinh sau khi hoàn tất chương trình cứu rỗi nhân loại. Chính vì sắp bước vào cuộc Thương khó và như thế sắp phải rời xa các môn đệ dấu yêu, trong hoàn cảnh đó, chúng ta có thể xem diễn từ cáo biệt của Chúa là những lời trối trăn gửi đến các môn đệ và lời trăn trối quan trọng nhất Chúa muốn để lại chính là lời yêu thương- một điều răn mới.

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Điều răn mới Chúa Giêsu muốn gửi trao cho các môn đệ xoay quanh hai tiếng “yêu thương”. Lời yêu thương đó rất chân tình, rất cụ thể và dễ hiểu. Bởi Chúa Giêsu không cần viện dẫn một tình yêu nào khác ngoài tình yêu mà Chúa Cha đã yêu thương Người cũng như tình yêu mà chính Người đã trao ban cho nhân loại.

Yêu như Thầy đã yêu là gì? Thật ra liên từ “như” ở đây không chỉ là sự so sánh mà đó còn là sự thể hiện cội nguồn của tình yêu xuất phát từ chính Chúa. Chúa Giêsu muốn các môn đệ yêu thương nhau không phải bằng một tình yêu “đầu môi chót lưỡi”, “trên mây trên gió”, lãng mạn, xa rời thực tế mà là một tình yêu được kín múc trong tình yêu của Chúa. Chính Chúa đã đi bước trước để thể hiện tình yêu đối với nhân loại và Người muốn các môn đệ hãy làm phát sinh hoa trái tình yêu đó nơi anh em mình. Tình yêu của Người được diễn tả cách sống động và cụ thể. Chúng ta có thể thấy cuộc đời của Chúa Giêsu chính là một cuộc hành trình ra khơi, đi đến với người nghèo khó, bệnh hoạn và tội lỗi. Từng bước chân trên hành trình ra khơi đó chính là để mày mò, kiếm tìm “con chiên lạc”, “đồng bạc bị mất” hầu quy tụ tất cả trong một tình yêu duy nhất. Đối với các môn đệ, tình yêu đó còn được thể hiện trong cử chỉ rửa chân - một cử chỉ độc nhất vô nhị mà Chúa đã thực hiện để các ông noi theo. Chưa dừng lại ở đó, đỉnh cao của tình yêu đó chính là thập giá, là sự hy sinh tính mạng của Người để cứu rỗi nhân loại. Yêu thương nhân loại đến độ phải tự huỷ chính mình, chấp nhận những đắng cay, khổ nhục, những gièm pha, phỉ báng, nhạo cười của đồng loại mà không một lời ca thán thì chắn chắc đó phải là một tình yêu không từ dưới đất mọc lên mà chính là từ trời đưa xuống. Chúa Giêsu chính là tình yêu, là quà tặng của Chúa Cha trao ban cho nhân loại và giờ đây, Người cũng muốn các môn đệ Người lưu truyền cho nhau tình yêu và quà tặng ấy cho hết mọi người.

Đối với Chúa Giêsu, tình yêu vô vị lợi chính là bí quyết, là chìa khoá để mở rộng tâm hồn đến với mọi người. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” phải được xem là kim ngôn cho hết thảy chúng ta. Hơn lúc nào hết, thế giới này đang cần đến những chứng nhân tình yêu của chúng ta biết chứng nào. Bổn phận của chúng ta - những Kytô hữu, là biến thế giới này trở nên hoà bình hơn, an vui và dạt dào tình thân hơn. Xin Chúa cho chúng ta biết thể hiện tình yêu đó nơi đồng loại và không ngừng lôi kéo tình yêu từ trời xuống cho hết mọi người.


Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

-----------------------------

 

PS 5-C48. Yêu thương nhau theo giới răn mới


CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH, C

Cv 14:21b-27; Kh 21:1-5a; Ga 13:31-33a, 34-35


 

Kitô giáo vừa là đạo mới vừa là đạo cũ. Cũ là vì đạo đã có từ thời tổ phụ Ápraham. Mới là vì Đức: PS 5-C48


Kitô giáo vừa là đạo mới vừa là đạo cũ. Cũ là vì đạo đã có từ thời tổ phụ Ápraham. Mới là vì Đức Kitô đến đổi mới lại đạo cũ. Đấng cứu thế đến thiết lập đạo Kitô giáo dựa trên Do thái giáo. Người đến thiết lập một giao ước mới không phải phê chuẩn bằng máu chiên bò, nhưng bằng chính máu của Người đổ ra trên thập giá. Qua cái chết cho tội lỗi và phục sinh của Người, ta được hưởng nhờ sự sống mới và trở nên tạo vật mới. Phép rửa tội đem lại cho ta đời sống mới, đời sống vượt lên trên những sự vật trần thế, một đời sống hứa hẹn cho ta việc chia sẻ vào cái vinh quang phục sinh của Người. Vì thế thánh Phaolô nhắc nhở cho ta phải bỏ qua một bên cái 1ối sống cũ, và mặc lấy đời sống mới trong Đức Kitô. Trong phúc âm, Người truyền dạy ta: Thày ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em (Ga 13:34).

Thực sự thì đó không phải là giới răn mới theo nghĩa Chúa Giêsu là người đầu tiên ban bố. Dân Chúa trong cựu ước đã nghe biết về giới răn yêu thương. Và giới răn yêu thương đã được viết trong sách Lêvi: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình (Lv 19:18). Vậy tại sao Chúa Giêsu lại gọi giới răn yêu thương là giới răn mới? Chúa thấy rõ trong bản tính loài người có tính ích kỉ, làm ngăn trở lòng yêu mến. Vì thế giới răn yêu mến mang ý nghĩa mới ở chỗ là luôn phải được làm mới lại. Vậy Chúa đã yêu thương ta như thế nào? Tình yêu của Chúa đối với loài người là một thứ tình vô vị lợi. Còn tình yêu loài người là thứ tình đòi được đáp trả, một thứ tình yêu đổi chác: ăn miếng trả miếng hay có đi có lại mới toại lòng nhau. Ngoài ra tình yêu của Chúa Kitô còn bao hàm việc hi sinh thánh giá. Chúa yêu đến nỗi đã chịu chết trên thập giá vì nhân loại tội lỗi. Tình yêu của Chúa còn bao hàm việc tha thứ. Thánh Phêrô đã chối Chúa, các tông đồ đã bỏ Chúa chạy trốn trong lúc Chúa cần họ ở bên cạnh, nhưng Chúa vẫn tha thứ.

Khi ta yêu như Chúa yêu, tức là ta làm mới lại trong tâm hồn: một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu bao hàm hi sinh và tha thứ. Do đó khi ta yêu như Chúa yêu, tức là ta trở nên tạo vật mới. Vì thế mà Chúa bảo giới răn yêu thương của Người là giới răn mới, nghĩa là không vụ lợi, không ích kỉ. Ta có thể cho rằng làm sao loài người có thể yêu như Chúa yêu vì Chúa là Chúa còn loài người là thụ tạo. Ta biết trong con người Chúa Giêsu có hai bản tính: một bản tính Thiên Chúa và một bản tính loài người. Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là loài người, nhưng không phải là năm mươi phần trăm Chúa và năm mươi phần trăm người cộng lại. Nơi Chúa Giêsu là một trăm phần trăm bản tính Thiên Chúa và một trăm phần trăm bản tính loài người. Khi Chúa dạy ta yêu như Chúa yêu không có nghĩa là ta có thể noi gương Chúa theo bản tính Thiên Chúa. Ta không thể noi gương những việc làm của Chúa theo bản tính Thiên Chúa mà chỉ có thể noi gương những việc làm của Chúa theo bản tính loài người nơi Chúa mà thôi. Theo phương diện loài người, Chúa đã hi sinh, hãm mình, vâng lời vác thánh giá theo thánh ý Chúa Cha thì ta cũng phải noi gương những nhân đức phát xuất từ bản tính loài người nơi Chúa.

Cái tình yêu mà Chúa đòi ta dành cho người khác không phải là cảm tình hay cảm giác bồng một nhất thời. Nếu tình yêu chỉ là cảm giác nhất thời thì tình yêu chỉ có tính cách hời hợt. Tình yêu trung thực phải là việc quyết định của lý trí, chứ không tuỳ thuộc vào cảm giác. Vì thế ta có thể không có cảm tình với người nọ người kia, nhưng Chúa đòi ta phải làm quyết định không được ghét bỏ họ, mà còn phải muốn sự lành cho họ và cầu nguyện cho họ được hưởng nhờ ơn cứu độ.

NS Dân Chúa Mỹ Châu
Lm Trần Bình Trọng, USA


-----------------------------

 

PS 5-C49. ĐIỀU RĂN MỚI


Ga 13,31-33a.34 – 35

 

Chúa phán: “ Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh.... Ngày 16.08.1987, một chuyến máy: PS 5-C49


Chúa phán: “ Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như chính Thầy đã yêu thương anh em…” (Gn 13, 34)

Ngày 16.08.1987, một chuyến máy bay của Mỹ bị rơi ngay sau khi vừa cất cánh gần phi trường Detroit. Có 155 người thiệt mạng; một người duy nhất sống sót là một bé gái tên Cêcilia, 4 tuổi. Em sống sót được chính là nhờ sự hi sinh của mẹ em, bà Paula Chican. Khi máy bay đang rơi, bà đã lấy thân mình cuộn tròn lấy em bé, che chở cho em khỏi tai nạn. Đây là một hành động nói lên tình yêu vô cùng cao quý! Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cũng muốn trình bày cho chúng ta chính đề tài: điều răn mới của Đức Kitô: Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương…

a. Trước hết có mấy điều cần chú thích:

* điều răn mới: Luật yêu thương này đã có trong Cựu Ước (Lv 19, 18); luật cũng dạy: yêu đồng loại như chính mình. Tuy nhiên, sau này, nhất là thời Chúa Giêsu, người ta đã bóp méo lề luật đó theo ý mình, cho dễ giữ…Chúa Giêsu đã giải thích rộng điều răn mới này trong ch. 15, 1-17. Chính Chúa đã trở thành mẫu gương sáng ngời cho một Tình Yêu chân thành, Tình yêu hiến tế qua cái chết của Ngài trên Thập giá.

* dấu chỉ là môn đệ của Chúa: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: Tín hiệu cho mọi người nhận biết ai là môn đệ Chúa Kitô: đó là Tình Yêu. Yêu như Chúa, yêu đến mức sẵn sàng tha thứ cho chính kẻ thù. Từ căn bản điểm này, người ta gọi Kitô giáo là đạo yêu thương…

b. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa nói với các môn đệ: các con hãy yêu thương nhau… Mới nghe qua, các ông nghĩ yêu thương nhau có gì là khó, nhất là vì cùng là môn đệ Chúa thì làm sao người ta phải từ chối mà không yêu thương nhau. Chúa lại nói tiếp: hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương…. Rồi Chúa còn nói mạnh hơn: đây là lệnh truyền của Thầy: hãy yêu thương nhau… Chúa còn gọi đó là điều răn mới. Lúc đó các môn đệ rất mù mờ về chuyện này; chỉ sau khi Thánh Thần ngự xuống, các ông mới hiểu rõ mà thôi…

Có thể nói, ngày hôm nay chúng ta hiểu rõ điều răn yêu thương này hơn thời của Chúa Giêsu; nhưng liệu chúng ta có yêu thương hay sống luật yêu thương như Chúa không? Thầy ban cho các con một điều răn mới. Đó là lệnh truyền, không phải là một lời đề nghị. Vậy yêu thương không phải là hành động của tình cảm mà là của ý chí. Có người nói với tôi: thưa cha, cha có cách nào làm cho con đừng nghĩ xấu, đừng oán ghét chồng con không? Tôi trả lời: tôi không có cách nào cả…Nhưng chúng ta nên xem lại: chúng ta có nghĩ rằng mình phải yêu thương chồng mình vì Chúa dạy, vì là lệnh truyền của Chúa, dù chồng mình chẳng đáng ưa chút nào không?

Điểm thứ 2: Hãy yêu thương như Thầy yêu thương, bằng một tình yêu hi sinh,tha thứ vô điều kiện: Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết… Trở lại câu chuyện người chồng không đáng thương chút nào cả. Khi người chồng lầm lỗi chị nọ có sẵn sàng tha thứ? khi người chiống đáng ghét chi có sẵn sàng yêu thương ? Những lúc đó chúng ta hãy nhìn Thiên Chúa Ngài là mẫu gương yêu thương, tha thứ

c. Gợi ý sống và chia sẻ:

Chúa Giêsu yêu nhân loại chúng ta bằng tình yêu hi sinh, tha thứ vô điều kiện, vì thế Người là mẫu gương sáng ngời về yêu thương tha thứ. Ta có sẵn sàng yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương ta không?

-----------------------------

 

PS 5-C50. MỖI TÌNH TUYỆT VỜI CỦA LINDA VÀ PETER


Mark Link S.J.

Bài đọc:Cv 14: 21-27;Kh 21 ; 1-5 ; Ga 13: 31-33, 34-35

Chủ đề: Người Kitô hữu chúng ta có sứ mệnh giúp cho thế giới này tái khám phá ra sức mạnh của Tình yêu như lời Chúa Giêsu dạy.

 

Năm 1976 một tai nạn xe hơi khủng khiếp đã xé toạc da đầu của chàng Peter, một thanh niên: PS 5-C50


Năm 1976 một tai nạn xe hơi khủng khiếp đã xé toạc da đầu của chàng Peter, một thanh niên 21 tuổi người Chicago. Vết thương chạm vào não bộ khiến anh bị hoàn toàn hôn mê. Các bác sĩ  đã nói với gia đình và bạn bè anh là có lẽ anh không thể sống được, mà nếu có sống thì cũng vẫn thường xuyên ở trong tình trạng hôn mê. Một trong những kẻ phải đón nhận lời báo tin khủng khiếp là cô Linda, vị hôn thê sắp cưới của chàng. Những ngày sầu thảm tiếp sau đó, Linda dành tất cả thời giờ rảnh rỗi để vào bệnh viện chăm sóc cho Peter. Hết đêm này sang đêm kia. Cô ngồi thường trực bên cạnh giường của anh, vừa vỗ vỗ đôi gò má, xoa xoa cặp lông mày cô vừa thầm thì với anh: “Chúng ta vẫn bên nhau mãi mãi như ngày nào”, đang khi đó Peter vẫn trong tình trạng hôn mê nào có hay biết gì về sự hiện diện trìu mến của Linda. Ròng rã suốt ba tháng rưỡi trời, đêm nào Linda cũng ngồi cạnh giường Peter, thốt lên những lời khích lệ anh dù anh hình như chẳng có dấu hiệu gì nghe được những lời cô nói.

Thế rồi một đêm nọ, Linda nhìn thấy đôi mi anh chớp chớp. Cô chỉ cần có thế và bất chấp lời khuyên can của các bác sĩ, cô xin nghỉ việc để được thường trực bầu bạn với anh. Cô miệt mài nắn bóp bàn tay bàn chân cho anh. Cuối cùng cô sắp xếp đem anh về nhà và lấy tất cả số tiền dành dụm được xây một hồ bơi với hy vọng ánh sáng mặt trời và nước sẽ làm cho tay chân bất động của Peter được hồi phục sức sống. Và thế rồi đến cái ngày đầu tiên kể từ khi Peter gặp tai nạn, cô nghe Peter thốt ra một tiếng kêu. Đúng ra đây chỉ là một tiếng làu bàu thôi, nhưng Linda hiểu được ý nghĩa của nó. Dần dà nhờ Linda giúp Peter không còn phát ra những tiếng làu bàu nữa là những câu nói hẳn hoi, rành mạch. Cuối cùng là đến ngày Peter có thể yêu cầu bố của Linda cho phép anh cưới cô, bố Linda trả lời;”Khi nào cậu có thể bước đi giữa các hàng ghế trong nhà thờ thì con gái tôi sẽ thuộc về cậu”. Thế là hai năm sau đó, Peter đã bước xuống được các dãy ghế trong nhà thờ Đức Bà Pompei ở Chicago. Trước đó anh cần dùng đến đôi nạng nhưng lúc này anh có thể bước một mình. Tất cả các đài truyền hình ở Chicago đều tường thuật lại đám cưới này. Báo chí trong nước đều đăng hình đôi tân hôn Peter và Linda. Không biết bao nhiêu người gọi điện đến chúc mừng họ, có cả những người ở tận Úc Châu cũng gởi thơ qua chúc mừng họ. Các gia đình có thân nhân đang bị hôn mê yêu cầu họ giúp cho những lời chỉ dẫn.

Hiện nay, Peter đang sống một đời sống bình thường. Anh nói năng tuy hơi chậm nhưng rạch ròi. Anh bước bộ tuy hơi chậm nhưng chẳng cần nhờ đến đôi nạng. Ngoài ra anh và Linda còn có được một đứa con kháu khỉnh dễ thương nữa.!

Câu chuyện tình của Linda và Peter là lời giải thích tuyệt hảo cho những gì Chúa Giêsu nhắn nhủ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ta ban cho các con một điều rằn mới: Là hãy yêu thương nhau. Như Ta đã yêu thương các con thế nào, các con cũng hãy yêu thương nhau như vậy. Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Ta nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13: 34-35)

Điều cần thiết duy nhất mà chúng ta phải làm ngày hôm nay đó là khám phá lại năng lực của tình yêu, loại tình yêu mà Đức Giêsu đã truyền giảng. Câu chuyện tình giữa Linda và Peter làm nổi bật sức mạnh khủng khiếp và diệu kỳ mà loại tình yêu này mang lại cho chúng ta. Tình yêu ấy có khả năng vực con người dậy từ bờ cõi chết, có khả năng giúp con người hoàn toàn bình phục khỏi căn bệnh thập tử nhất sinh. Tình yêu ấy nâng con người lên một thế giới cao hơn, mang cho họ niềm hy vọng mới, cũng như tình yêu của Linda đã làm cho Peter bình phục. Một người Ấn giáo đã nêu thắc mắc nho nhỏ sau đây với một thừa sai Kitô giáo: “Nếu Kitô hữu các ngài sống đúng như lời Kinh Thánh của các ngài dạy (nghĩa là biết yêu thương như lời Thánh Kinh dạy) thì chỉ trong vòng 5 năm thôi, các ngài sẽ chinh phục được cả Ấn Độ”

Đầu thập niên 1980, trong nước Mỹ có chiếu rộng rãi một bộ phim dị thường mang tựa đề “Săn tìm lửa” (Quest for Fire) Nhà sản xuất bộ phim người Pháp cho rằng bộ phim này đã hoàn tất được giấc mơ lâu dài của ông là đưa lên màn ảnh lễ hội mừng sự khám phá ra lửa. vì cách đây 80.000 năm trước chính là Trái Đất này khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn nhờ khám phá ra lửa, họ đã làm được các dụng cụ để tồn sinh và bảo vệ họ chống lại cơn rét. Ngày nay mọi người trên hành tinh này bắt đầu lo âu rằng thế giới chúng ta đang sống trên bờ vực thẳm tai hoạ. Lần này hiểm nguy không đến từ một yếu tố nền tảng như thiếu lửa, nhưng đến từ một yếu tố còn quan trọng hơn nhiều đó là sự thiếu thốn tình người, thiếu thốn loại tình yêu mà Chúa Giêsu đã từng truyền dạy, thứ tình yêu mà Linda đã dành cho Peter. Điều này hẳn làm cho chúng ta ngạc nhiên, vì nó đặt ra cho chúng ta một câu hỏi khiến chúng ta phải sợ hãi. Có thể nào 80.000 năm sau sẽ có người nào đó dựng nên một cúôn phim chúc mừng sự tái khám phá tình yêu vào hai thập niên 1980 và 1990 này chăng? Có thể nào 80.000 năm sau sẽ có người làm cuốn phim chúc mừng sự tuôn trào tình yêu làm thay đổi bộ mặt thế giới từ cộng đồng người Kitô hữu trong thập niên 1980 và 1990 chăng?

Tương lai và các cộng đồng Kitô hữu sẽ trả lời cho câu hỏi ấy: Bạn, tôi và hàng triệu người Kitô hữu anh em chúng ta có bổn phận đào sâu trong tâm hồn mình để tìm ra ở đó câu trả lời cho vấn nạn ấy. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng để xét xem chúng ta đã trả lời cho câu hỏi trên như thế nào qua chính cuộc sống yêu thương của mình, đặc biệt ngay giữa lòng gia đình mình, bởi vì nếu chúng ta không thay đổi được bầu khí gia đình  mình thì chúng ta cũng không thể thay đổi được gì ở nơi khác cả.

Để kết thúc bài giảng hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện bằng tâm tình sau đây của Teilhard de Chardin, là một linh mục cũng là một khoa học gia nổi tiếng:

“Một ngày kia, sau khi đã chế ngự được sóng, gió, thủy triều và trọng lực, chúng ta sẽ dồn mọi năng lực của tình yêu vào Thiên Chúa. Và lúc đó có thể nói một cách ví von rằng: Con người đã khám phá ra lửa lần thứ hai trong lịch sử thế giới”.

-----------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây