Linh mục Mễn

https://www.linhmucmen.com


Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 27-B Bài 1-50 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 27-B Bài 1-50 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 27-B Bài 1-50 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 27-B Bài 1-50 Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly

----------------------------

TN 27-B1. TRUNG THÀNH VỚI LỜI GIAO ƯỚC HÔN NHÂN.. 2
TN 27-B2. Mối giây bất khả phân ly - Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi 4
TN 27-B3. Bà Mẹ Tên 'Hale' 6
TN 27-B4. SỐNG LỜI CHÚA - TRẺ THƠ.. 8
TN 27-B5. CSTM / 227- HÔN NHÂN.. 10
TN 27-B6. PV / 630- KHÔNG TỐT.. 12
TN 27-B7. PV / 633- CAM KẾT.. 13
TN 27-B8. PV / 635- TUỔI THƠ.. 15
TN 27-B9. SCĐ / 707- GIA ĐÌNH.. 16
TN 27-B10. SCĐ / 710- CHUNG THỦY.. 18
TN 27-B11. Tính sư phạm và nhân bản của Thiên Chúa trong việc lập luật và áp dụng luật – JKN.. 20
TN 27-B12. Sự bền vững của hôn nhân - Lm  Trần Thanh Sơn. 23
TN 27-B13. BẤT KHẢ PHÂN LY - Trần Quang Huy Khanh. 26
TN 27-B14. Sự Gì Thiên Chúa Đã Kết Hợp, Loài Người Không Phân Ly. 29
TN 27-B15. THÁNH HOÁ TRONG CHÂN LÝ.. 31
TN 27-B16. Hãy gìn giữ hạnh phúc - Lm. Vũ Xuân Hạnh. 34
TN 27-B17. Tính cách vĩnh viễn của hôn nhân. 36
TN 27-B18. GIA ĐÌNH LÀ NỀN TẢNG CỦA XÃ HỘI VÀ CỦA GIÁO HỘI 38
TN 27-B19. HAI HỒNG ÂN - Lm Phan Văn Lợi 40
TN 27-B20. TIN VUI TÌM LẠI ĐƯỢC CON MẮT THỨ BA.. 43
TN 27-B21. THIÊN CHÚA KẾT HỢP, LOÀI NGƯỜI PHÂN LY.. 44
TN 27-B22.  TÌM LẠI SỰ NGẠC NHIÊN.. 46
TN 27-B23. ĐỪNG CHIA CẮT NH”NG GÌ THIÊN CHÚA ĐÃ KẾT HỢP. 49
TN 27-B24. CẦU NGUYỆN VỚI NHAU-Ở VỚI NHAU.. 50
TN 27-B25. SỰ THÁI HOÀ CỦA THUỞ BAN ĐẦU.. 52
TN 27-B26. HÔN NHÂN BẤT KHẢ PHÂN LY.. 53
TN 27-B27. Nhìn lại gía trị hôn nhân khởi thủy. 63
TN 27-B28. Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp. 66
TN 27-B29. Vợ chồng bất khả phân ly. 68
TN 27-B30. Bền vững. 69
TN 27-B31. SNLC/841 – Đời đời 71
TN 27-B32. BỠ NGỠ  -  Chiara Lubich. 72
TN 27-B33. TƯƠNG QUAN NAM N”, TƯƠNG QUAN VỢ CHỒNG. 75
TN 27-B34. TÔN TRỌNG SỰ BÌNH ĐẲNG VÀ TRUNG TÍN TRONG HÔN NHÂN.. 78
TN 27-B35. Gia đình: trang Tin Mừng được viêt cho thời đại 82
TN 27-B36. Cả hai trở nên một xương một thịt! 87
TN 27-B37.  BẤT KHẢ PHÂN LY.. 91
TN 27-B38. HÔN NHÂN HAY NGÔN SỨ.. 93
TN 27-B39. GIAO ƯỚC TÌNH YÊU.. 97
TN 27-B40. CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN.. 99
TN 27-B41. Suy niệm của Lm. Nguyễn Cao Siêu. 101
TN 27-B42. Một tình yêu giống như tình yêu của Chúa Giêsu. 103
TN 27-B43. Đừng chia tay với người mình yêu. 105
TN 27-B44. Chú giải mục vụ của William Barclay. 108
TN 27-B45. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux. 112
TN 27-B46. Chú giải của Noel Quesson. 116
TN 27-B47. Chú giải của Fiches Dominicales. 120
TN 27-B48. Suy niệm của Guy Marin. 125
TN 27-B49. Hãy để trẻ nhỏ đến cùng thây. 127
TN 27-B50. CHUNG THUỶ.. 128

---------------------

 

TN 27-B1. TRUNG THÀNH VỚI LỜI GIAO ƯỚC HÔN NHÂN


- Lm Trần Bình Trọng

 

Theo thánh kinh thì mỗi cái liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người được gọi là một giao ước: TN 27-B1


Theo thánh kinh thì mỗi cái liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự cái giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả lại tình yêu đó. Không những Chúa thiết lập giao ước hàng dọc, nghĩa là giao ước giữa Thiên Chúa với loài người, Chúa còn thiết lập giao ước hàng ngang giữa người với ngưòi. Sách Sáng thế có ghi lại Chúa thiết lập giao ước hôn nhân hàng ngang bằng cách kêu gọi A-dong và E-và sống trung thành với nhau: Bởi thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ, mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt (St 2:24). Trong Phúc âm, Chúa trích dẫn cùng đoạn thánh kinh trong sách Sáng thế để nói lên tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (Mt 10:7).

Khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, Người đã nâng cái khế ước hôn nhân lên hàng bí tích. Vậy bí tích hôn nhân là việc hai người công giáo đã chịu phép Rửa tội thề hứa trung thành yêu thương và phục vụ lẫn nhau cũng như yêu thương và phục vụ con cái. Sự trung tín giữa vợ chồng là phản ảnh lòng trung tín giữa Chúa Ki-tô và Hội thánh. Chúa khẳng định tính cách bất khả phân ly của bí tích hôn nhân: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly (Mc 10:9). Ở xã Việt nam trước đây, hôn nhân được bảo vệ một cách tối đa. Hôn nhân được gia đình, tôn giáo và xã hội che chở. Hôn nhân còn được phong tục và lễ giáo ràng buộc. Đời sống vợ chồng được cha mẹ, anh chị em, bạn hữu và hàng xóm khuyến khích, nâng đỡ và ủi an. Sống trong xã hội hiện tại và hiện đại, hôn nhân bị tấn công bởi nhiều yếu tố như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và cả mạng tin. Luật pháp xã hội hiện tại và hiện đại cũng không bảo vệ hôn nhân bằng cách cho phép ly dị.

Nhận thức rằng, đám cưới chỉ kéo dài có một ngày, còn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống, Giáo hội đời nay thường đòi hỏi những cặp dự bị hôn nhân phải qua chương trình học hỏi và đợi chờ tối thiểu là sáu tháng. Thời gian học hỏi và đợi chờ nhằm giúp cho người dự bị hôn nhân tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau để xem có thể đi tới đời sống lứa đôi không? Có những cặp nam nữ sau thời gian tìm hiểu và đợi chờ thấy không hợp đã tự ý chia tay vĩnh viễn. Để cho hôn nhân có thể kéo dài suốt cả cuộc sống, người ta cần khám phá ra cái đẹp và sống cái đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân công giáo. Những cặp dự bị hôn nhân mà thực sự chú tâm học hỏi để sửa sọan bước vào đời sống hôn nhân thì cũng khiến cho các linh mục làm đám cưới hứng khởi.

Có vị linh mục kia không biết nói chơi hay thật cho rằng giả như trước đây nếu người đi tu biết được cái đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân thì chưa chắc đã đi tu.

Có người nói yêu nhau là cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích. Khi hai người cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích, họ sẽ giúp nhau hoàn thành ơn gọi của đời sống hôn nhân. Có lẽ người ta sẽ tìm thấy tình yêu đích thực trong hôn nhân nếu người ta tìm nó trong tình bạn hữu. Trong thời đại ta đang sống, người ta nói nhiều về tình yêu mà ít nói về tình bạn. Tình bạn trong đời sống hôn nhân rất là quan trọng trong việc phát triển tình yêu và đời sống hôn nhân. Nếu trước khi cưới, hai người chưa phải là bạn, họ cần tìm cách để trở thành bạn. Bạn hữu là những người có tính tình tập quán giống nhau, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau.. Nếu bạn hữu không muốn xa nhau thì tình bạn trong đời sống hôn nhân sẽ giúp người ta muốn sống bên nhau mãi mãi.

Mối liên hệ giữa vợ chồng thường được Chúa dùng để so sánh với mối liên hệ giữa Chúa với loài người. Trong Thánh kinh, Chúa ví Người như đức lang quân, còn Giáo hội được ví như là hiền thê. Thiên Chúa luôn trung thành với lời giao ước với loài người và muốn loài người cũng trung thành với giao ước mà người ta đã làm với Chúa qua các bí tích họ lãnh nhận. Hôm nay ta hãy cùng cầu nguyện để được sống trung thành với ơn gọi, không những trung thành trong đời sống hôn nhân, mà còn trung thành trong mối giao ước mà ta đã làm qua các bí tích ta lãnh nhận.

-------------------------------

 

TN 27-B2. Mối giây bất khả phân ly - Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

Phụng vụ Chúa nhật hôm nay đề cập tới một vấn đề căn bản, cốt yếu nhất của xã hội loài người: TN 27-B2


Phụng vụ Chúa nhật hôm nay đề cập tới một vấn đề căn bản, cốt yếu nhất của xã hội loài người:Gia đình. Tin Mừng Mc 10, 2-16 như muốn đưa nhân loại và mọi người về những trang đầu của sách khởi nguyên khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người có nam có nữ để họ sống với nhau trong mối giây ràng buộc, bất khả phân ly của đôi lứa. Đây là gia đình đầu tiên của lịch sử con người. Để trả lời vấn nạn của những người biệt phái: ”Người ta có được phép rẫy vợ không? “ Chúa Giêsu đã nại đến sự kiện này, Chúa Giêsu cách nào đó đã đề cập đến gia đình, đến giá trị và đòi hỏi của hôn nhân.

SỰ THÂM ĐỘC CỦA NH”NG NGƯỜI BIỆT PHÁI:

Các người biệt phái, luật sĩ là những người rất am tường về luật Môsê, họ hiểu tường tận từng điều luật, từng khoản luật trong vô số luật của Môsê, những điều nào đã được chấp nhận, những khoản nào chưa rõ, còn đang tranh cãi, bàn luận.

Về cách thức giải thích vấn đề ly dị vợ thì thuộc khoản thứ hai còn đang bàn bạc và tranh cãi. Các biệt phái đưa vấn đề ly dị ra để hỏi Chúa Giêsu không phải họ hỏi để am tường, để học hỏi thêm, mà để giăng bẫy hầu làm cho Chúa Giêsu bị sập vào âm mưu hoàn toàn tâm độc của họ. Biệt phái đã chọn lúc có đông đảo dân chúng đang xúm bao quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dậy và giới thiệu Nước Trời để hỏi Ngài về một vấn đề xem ra hết sức dị nghĩa có liên quan đến luật Môsê Chúa Giêsu phải hết sức tỉnh táo để trả lời câu hỏi của họ. Câu hỏi của biệt phái quả thực nham hiểm, ác độc. Trả lời được phép ly dị, được phép rẫy vợ, Chúa Giêsu sẽ đi ngược với lề luật của Ngài và trả lời rằng không được phép, Chúa Giêsu vi phạm tới luật Môsê vì Môsê cho phép ly dị Vợ. Đối với người biệt phái Chúa Giêsu khó mà tránh được câu vấn nạn của họ giăng ra. Đây là câu hỏi thâm độc và hoàn toàn ác ý, nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần bộ mặt xấu của những người biệt phái...

CHÚA GIÊSU VẠCH TRẦN ÂM MƯU CỦA NGƯỜI BIỆT PHÁI:

Chúa Giêsu đã đưa các người biệt phái về những điều Thiên Chúa muốn con người thực hiện. Đầu tiên, Chúa Giêsu gơi lại chương đầu của sách khởi nguyên:” Việc tạo dựng” con người. Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, trời đất biển khơi, cây cối, thú vật và sau cùng là con người. Thiên Chúa tạo dựng người nam theo hình ảnh của Ngài. Rồi Thiên Chúa lại tạo dựng nên người nữ bằng chính thịt xương của người nam và cho làm bạn với người nam, bình đẳng và cùng một giống nòi, cùng loài với người nam.Vì được nắn nên bằng chính thịt, xương và sự sống của người nam, nên người nam và nữ, vợ và chồng có môi giây liên hệ chặt chẽ với nhau, quan hệ xương máu, quan hệ mật thiết hơn người chồng người vợ đối với cả cha mẹ của mình nữa. Thiên Chúa đã tạo dựng con người, đã kết hợp con người để họ sống hạnh phúc, yêu thương trong một huyết nhục. Vì thế, điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân rẽ, chia lìa. Tuy nhiên, trong thực tế vì người Do Thái ích kỷ, thỏa mãn những dục vọng đê hèn, cứng lòng, nên Môsê đã cho phép người ta” làm giấy ly dị và cho ly dị”. Việc làm của Môsê chỉ để giải quyết những yếu đuối, cái cứng cỏi của người Do Thái. Đây chỉ là một giải pháp nhượng bộ của Môsê đối với sự ích kỷ đã đi đến phổ biến của người Do Thái trong thời của Môsê đang sống. Việc làm của Môsê cũng nhằm cho ta biết người phụ nữ lúc đó không được tôn trọng, không được bình đẳng với người nam, họ hầu như được coi như món đồ chơi giải trí và như thế làm mất đi nét đẹp của đời sống hôn nhân gia đình.Và để giáo dục, dậy dỗ các môn đệ và nhằm sửa đổi cái nhìn của con người về con người trong xã hội loài người mà Chúa Giêsu đã lưu ý các môn đệ về thái độ phải có đối với con trẻ:” Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào” hoặc Chúa có thái độ quyết liệt để bảo vệ trẻ nhỏ:” Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúa nói không được khinh khi trẻ nhỏ vì chúng có thái độ đón nhận nước Chúa với tất cả sự chân thành, đơn sơ và khiêm nhu.

THÁI ĐỘ CỦA CHÚA GIÊSU VỀ ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH:

Chúa Giêsu luôn đề cao giá trị của đời sống hôn nhân, đời sống gia đình. Chúa Giêsu xác định lại tính thánh thiêng của bậc vợ chồng. Ngài có thái độ thật dứt khoát đối với đời sống lứa đôi: một vợ một chồng, bất khả phân ly. Chúa Giêsu lên án gắt gao tội dâm bôn, ngoại tình, trăng gió vv... Ngài mạnh mẽ kết án việc rẫy vợ, ly dị, ngoại trừ nố gian dâm. Chúa Giêsu luôn đề cao giá trị của hôn nhân, vì thế câu nói của Chúa Giêsu:” Sự gì Thiên Chúa liên kết, con người không được phân ly” là nền tảng vững chắc cho đời sống hôn nhân gia đình. Vợ chồng trở nên một huyết nhục trong sự tôn trọng, yêu thương nhau, đặt mình nơi quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nâng bậc hôn nhân lên hàng Bí Tích và mặc lại cho hôn nhân vẻ đẹp ban đầu đã bị tội lỗi làm cho lu mờ, che khuất.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người biết bảo vệ đời sống hôn nhân gia đình Chúa đã biến nó trở Bí Tích.

GỢI Ý CHIA SẺ:

1. Bạn cảm nghiệm thế nào về đời sống hôn nhân gia đình ?
2. Bạn đã sống thế nào trong năm thánh hóa gia đình ?


-------------------------------

 

TN 27-B3. Bà Mẹ Tên 'Hale'

 

Lorraine Hale dừng xe khi đèn đỏ ở một ngã tư, bà nhìn thấy bên lề đường có một chị, dáng: TN 27-B3


Lorraine Hale dừng xe khi đèn đỏ ở một ngã tư, bà nhìn thấy bên lề đường có một chị, dáng như nghiền xì ke, đang bồng một đứa bé.

Sau khi đèn xanh nổi lên thì Lorraine đạp ga và bà lái tiếp. Nhưng một cái gì đó đã nói với bà là bà phải trở lại cái chỗ vừa rồi. Bà liền quay trở lại và nói với người đàn bà nghiền xì ke kia rằng:

"Này, chị đang có những vấn đề nan giải và chị cần sự giúp đỡ. Chị hãy mang baby của chị đến nhà mẹ của tôi. Bà ấy sẽ giúp chị."

Người đàn bà nghiện xì ke nhìn Lorraine một cách không hiểu. Loraine lập lại lời bà nói tới ba lần. Sau đó, bà đã viết địa chị nhà của mẹ bà và nhét vào tay người đàn bà nghiện xì ke.

Sáng hôm sau, người đàn bà nghiện xì ke đã đến trước cửa gia đình bà Hale. Đứa con bà đang bồng trên tay run cầm cập, xổ mũi, và còn bị tiêu chảy nữa. Đứa bé đang chịu sự giày vò của sự thiếu thuốc xì ke.

Các trẻ em của những người mẹ nghiện xì ke khi chào đời thì thường là những đứa bé nghiện xì ke. Chúng đã bị nghiện xì ke từ khi còn trong lòng người mẹ.

Mẹ của Lorraine thường được hàng xóm gọi là 'Mother Hale' (bà mẹ tên Hale) đã ẵm lấy đứa bé, chữa trị nó trong thời gian chờ cho nó cai nghiện thuốc.

'Mother Hale' đã không biết rằng nghĩa cử của bà đối với một người đàn bà nghiện xì ke đó đã biến đổi cuộc đời của bà.

Dần dần, lời đồn đã vang đi và các bà mẹ nghiện xì ke khác đã mang con mình đến cửa của 'Mother Hale'.

Có lúc, 'Mother Hale' đã có đến cả hơn 20 em bé nghiện xì ke trong nhà bà. Một đôi lúc, bà hết cả tiền bạc để mua thức ăn và quần áo cho chúng. Nhưng bà đã cố gắng để thu xếp cho ổn thỏa.

Trong vòng 16 năm, 'Mother Hale' đã giúp 600 em bé cai nghiện thuốc xì ke. 'Mother Hale' chia sẻ rằng: "Thường là khoảng thời gian bốn đến sáu tuần để cai nghiện. Những đứa bé khóc lóc rất thảm thương và mình chỉ có thể làm một điều là ẵm chúng và yêu thương chúng."

Tiếp theo đấy, một chuyện không ngờ đã xảy ra cho 'Mother Hale' và đã biến đổi cuộc đời của bà. Một người nào đó đã nói về 'Mother Hale' cho tổng thống Reagan. Tổng thống rất cảm động và ông đã nhắc đến trong cuộc diễn thuyết toàn quốc rất quan trọng trong năm là 'State of Union'. Sau đó, TV đã chiếu hình 'Mother Hale', một người đàn bà 81 tuổi đang chảy những giọt nước mắt trên gò má.

'Mother Hale' đã trở thành một nhân vật nổi tiếng qua một đêm. Các báo chí đã đăng tải các tin tức về bà. Đồng thời các chương trình TV đã mời bà đến để phỏng vấn và nói chuyện. Qua đó, 'Mother Hale' đã được các nơi gởi tiền về để giúp bà thành lập thành một trung tâm với tất cả những tiện nghi và người làm. Nhiều thành phố khác đã cố gắng gặp bà để xin bà cho biết ý kiến hầu cũng thành lập các trung tâm để giúp những đứa bé nghiện xì ke.

Câu truyện về 'Mother Hale' thật thích hợp với bài Phúc Âm hôm nay, khi các bà mẹ đã đem các con trẻ của họ đến gặp Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay chúc lành. Và Chúa Giêsu đã nói: "Hãy để cho các trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng bởi vì Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng." Chúa Giêsu đã "ôm chúng và chúc lành cho chúng" với tất cả tấm lòng yêu thương.

Và qua cách sống đó, chúng ta được truyền đạt để muốn làm một điều gì đó trong cuộc đời chúng ta.

Khi 'Mother Hale' giơ tay ra để bồng ẵm lấy đứa trẻ nghiện xì ke đầu tiên, bà đã không có một ý nghĩ gì về việc làm này của bà sẽ gây ảnh hưởng tới muôn triệu người do một hành vi tình yêu đó.

Bà đã không có một ý nghĩ gì về 16 năm trong tương lai điều bà làm sẽ trở nên một sự phản ứng để giúp đỡ cho muôn vàn trẻ em xấu số.

Bà đã không có một ý nghĩ gì về những hậu quả nối tiếp sẽ tiếp nối theo thành phố Harlem đến những thành phố khác.

Bà đã không có một ý nghĩ gì rằng Thiên Chúa sẽ dùng bà để bắt đầu một chương trình quan trọng mới hầu giúp ích cho những đứa trẻ đau thương trong thời đại chúng ta.

Trung Hoa có câu ngạn ngữ như sau: "Cuộc đời một đứa bé giống như một tờ giấy để các nét chữ được viết lên."

Dấu vết của 'Mother Hale' là một dấu vết tuyệt vời mà bà đã in trên cuộc đời của hàng ngàn đứa trẻ.

Điều đó thật là tuyệt vời và nó làm cho chúng ta cũng muốn để lại những dấu vết tương tự trên muôn ngàn con trẻ mà chúng ta gặp hằng ngày trong cuộc đời chúng ta, nhất là trên con cháu chúng ta. Chúng ta mong muốn để lại trên chúng dấu vết của Chúa Giêsu để chúng có thể sau này cũng sẽ để lại dấu vết ấy trên con cháu của chúng ta.

-------------------------------

 

TN 27-B4. SỐNG LỜI CHÚA - TRẺ THƠ

 

Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như những trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào đâu. Tục ngữ: TN 27-B4


Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như những trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào đâu.

Tục ngữ Ả Rập có câu:
 
- Hương thơm của tuổi thơ thì xuất phát tự thiên đàng.

Còn người Ấn Độ thì bảo:

- Thức uống làm cho người ta hết khát, đó là nước. Trái cây làm cho người ta được lại sức, đó là trẻ thơ.

Những ý tưởng này đã gợi lên phần nào những nét đẹp của tuổi thơ. Thực vậy, những người đã lớn, khi nghĩ về tuổi thơ, bao giờ cũng cảm thấy một cái gì dịu mát và êm đẹp. Bao giờ cũng hối tiếc vì nó đã vuột khỏi tầm tay của mình.

Người ta đã gọi tuổi thơ là tuổi thiên thần. Vẻ đẹp của tuổi thơ không phải chỉ ở  nơi mái tóc đen nhánh, ở nơi cặp mắt trong sáng hay ở nơi thái độ nhí nhảnh và nhõng nhẽo. Vẻ đẹp chính yếu của tuổi thơ là vẻ đẹp của tâm hồn. Nhờ vẻ đẹp này mà Chúa Giêsu luôn yêu thương, chúc lành cho các em, rồi đã lấy các em làm tiêu chuẩn, làm điều kiện, làm khuôn mẫu cho những ai muốn được vào Nước Trời:

- Ai không trở nên như trẻ nhỏ, thì chẳng được vào Nước Trời đâu.

Vậy vẻ đẹp tâm hồn của tuổi thơ là gì ?  Tôi xin thưa trước hết đó là sự đơn sơ.

Thực vậy, cặp mắt của tuổi thơ là cắp mắt của chim bồ câu, như lời Chúa đã so sánh:

- Hãy đơn sơ như chim bồ câu.

Nhìn vào cặp mắt đó, người ta sẽ thấy phản chiếu  lên một sự trong sáng. Tuổi thơ không tính toán cộng trừ nhân chia. Không âm mưu, không phức tạp nhưng trước sau như một, không nghi lễ kiểu cách, không bôi bác giả hình, không rào trước đón sau…Các em hoàn toàn tin tưởng vào những lời chỉ dạy của cha mẹ, của thày cô, không một chút nghi ngờ và thắt mắc.

Từ đó, tôm hồn các em mang một nét đẹp thứ hai, đó là sự thành thật. Tục ngữ Việt Nam đã nói:

- Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.

Trước khi lên đường đi phương xa, chúng ta thường phải hỏi ý kiến những người già cả vì họ đã từng trải và có thể chỉ dạy cho chúng ta những kinh nghiệm quí giá. Trái lại, khi trở về nhà, muốn biết những gì đã xảy ra trong thời gian vắng mặt, chúng ta cứ hỏi các em nhỏ. Chúng sẽ không ngần ngại kể lại tất cả đúng với sự thật mà chúng đã ghi nhận, cho dù sự thật ấy, người lớn nhiều khi rất muốn dấu diếm.

Thái độ thành thật này cũng là thái độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta:

- Có thì nói có, không thì nói không, thêm ra bớt vào là do ma quỉ.

Một ông bố muốn trốn chủ nợ, bèn sai con ra nói với người khách bất đắc dĩ rằng:

- Bố cháu đi vắng.

Đứa nhỏ mở cổng, rồi lễ phép nói với người khách:

- Thưa bác, bố cháu sai cháu ra nói với bác rằng bố cháu đi vắng.

Đơn sơ và thành thật mà thôi chưa đủ, đặc tính thứ ba nổi bật nơi tuổi thơ, đó là sự phó thác. Thực vậy, các em cảm thấy mình nhỏ bé trước mặt cha mẹ, vì các em chưa có nghề nghiệp để tự túc tự cường, chưa có tiền bạc để sinh sống, chưa có đủ sức mạnh để chống trả với những hiểm nguy.

Chẳng hạn một em nhỏ bị đứa bạn xử ức, em khóc và không thể làm gì được. Thế nhưng, biện pháp cuối cùng em có thể thực hiện, đó là chạy về méc bu. Hay khi gặp một con chó dữ từ đàng xa xông tới, em sẽ làm gì ? Chạy trốn thì không được mà chống cự thì cũng chẳng xong. Bấy giờ em sẽ không ngần ngại kêu ba, kêu má đến giúp dỡ. Đi bên ba má, em sẽ cảm thấy được an toàn.

Tuổi thơ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ, nơi người lớn mà chẳng cần biết đến lý do, mà không lo đến hậu quả. Đó cũng chính là thái độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta:

- Các con hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo cũng không gặt, thế mà chẳng con nào bị chết đói. Bộ các con không trọng hơn chim trời hay sao ?

Cho đến bây giờ, Chúa vẫn hằng yêu thương chúng ta, miễn là chúng ta luôn giữ được những nét đẹp của tâm hồn tuổi thơ: đó là thành thật, đơn sơ và phó thác cho tình thương của Ngài.

--------------------------

 

TN 27-B5. CSTM / 227- HÔN NHÂN

 

Bài Tin Mừng có hai phần: Phần thứ nhất là lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân: TN 27-B5


Bài Tin Mừng có hai phần: Phần thứ nhất là lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân. Phần thứ hai là thái độ của Chúa Giêsu đối với các trẻ em. Phần thứ nhất chính là đoạn Tin Mừng thường được đọc trong thánh lễ hôn phối, chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.

Đề tài của đoạn Tin Mừng này là vấn đề ly dị do những người Pharisêu đặt ra với ý đồ gài bẫy Chúa Giêsu. Chúng ta nên biết: các kinh sư Do thái thường tranh luận với nhau về những lý do cho phép ly dị chứ không tranh luận về chính việc được phép ly dị hay không. Và luật Do thái chỉ cho phép đàn ông bỏ vợ chứ không cho phép đàn bà bỏ chồng. Như vậy, chuyện những người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu: “Có được phép ly dị không ?” quả là khúc mắc, tế nhị và phức tạp. Họ muốn Chúa phải xác định lập trường rõ ràng trước mặt dân chúng và trước mặt họ. Luật đã cho phép ly dị, nếu Ngài bảo không được, tức là Ngài chống lại luật. Ngược lại, nếu Ngài bảo được, thì họ sẽ chống lại Ngài. Cho nên, rõ ràng những người Pharisêu có ý gài bẫy Chúa. Chúa trả lời thế nào ?

Chúa hỏi lại họ: “Ông Mô-sê truyền dạy thế nào ?”. Thật sự trong Cựu ước không có một chỗ nào ghi một mệnh lệnh tổng quát phải ly dị hay không được ly dị, cũng chẳng có chỗ nào trực tiếp chỉ thị muốn ly dị thì phải làm gì. Vậy những người Pharisêu trả lời câu hỏi của Chúa thế nào ? Họ trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, đoạn 24 câu 1 đến câu 4. Trong đoạn này, sách Đệ Nhị Luật cũng chỉ gián tiếp nói về việc làm giấy ly dị. Đó là trường hợp một người đàn bà đã bị chồng ly dị và có làm giấy ly dị đàng hoàng, nay đi lấy người khác, rồi lại bị ông chồng mới này ký giấy ly dị, thì người chồng thứ nhất, dù có vì tình xưa nghĩa cũ, muốn đoàn tụ với nàng, cũng không được phép. Vậy khoản luật này chỉ trực tiếp đề cập đến vấn đề người chồng cũ có quyền cưới lại người vợ mình đã ký giấy ly dị không ? Luật trả lời không được. Nhân vấn đề đó mà sách này cho chúng ta biết: luật gia đình của người Do thái cho phép chồng ly dị vợ.

Chúa Giêsu đã trả lời cho những người Pharisêu: sở dĩ ông Mô-sê đã ra luật đó, “vì lòng các ông chai đá”, nên đó chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu không có như vậy, và Chúa kết luận: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Như thế, Chúa Giêsu cho mọi người biết rõ lập trường của Ngài là không bao giờ được ly dị, nghĩa là một người nam và một người nữ đã kết hợp với nhau nên một trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng không ai có quyền phá vỡ cái nên một ấy.

Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ luật của Chúa và Giáo hội: sự nên một trong hôn nhân là một công trình tuyệt vời của Thiên Chúa, nên những ai đang sống trong sự nên một ấy phải tôn trọng và giữ nó cho thật đẹp và thật bền, và phải làm cho nó trọn vẹn hơn mãi, không những một thân xác mà một tâm hồn, một cuộc sống, một hạnh phúc. Chính do sự nên một ấy mà đứa con xuất hiện như một đóa hoa, một trái ngọt ngào và được nên người. Thánh Phaolô đã nêu cao giá trị của sự nên một ấy khi đem đối chiếu với sự nên một giữa Chúa Kitô và Giáo hội.

Còn những người chuẩn bị đi vào cuộc sống hôn nhân phải thận trọng và chuẩn bị kỹ lưỡng để sự nên một ấy có thể được thành tựu tốt đẹp. Nếu Chúa đã an bài con người có nam có nữ để rồi nam nữ thành một, thì Chúa vẫn dành cho con người quyền tự do để lựa chọn. Chuyện hôn nhân là chuyện của hai người trong cuộc. Những người khác dù là cha mẹ, vẫn phải tôn trọng, giúp cho người liên hệ chọn lựa, chứ không có quyền áp đặt. Cần dứt khoát với hủ tục ép buộc con lấy người này người khác. Người ta đã coi đó là lễ giáo, nhưng chắc chắn nó không phù hợp tinh thần Tin Mừng. Vì thế, Giáo hội không bao giờ chấp nhận sự cưỡng ép trong vấn đề hôn nhân.

Xin Chúa cho những ai đang sống đời hôn nhân luôn trung thành với nhau; và những ai sắp bước vào đời hôn nhân, chuẩn bị cẩn thận để bảo đảm trung thành luôn mãi.

--------------------------

 

TN 27-B6. PV / 630- KHÔNG TỐT

 

Khi chúng ta còn là trẻ nhỏ; để sống còn, chúng ta cần có những người khác. Và khi đến cuối: TN 27-B6


Khi chúng ta còn là trẻ nhỏ; để sống còn, chúng ta cần có những người khác. Và khi đến cuối cuộc đời, chúng ta cũng cần có những người khác để sống còn. Và đây là một bí quyết: khoảng giữa cuộc đời, chúng ta cần có những người khác.

Kinh thánh nói: “Người ta ở một mình không tốt”. Một đôi khi, ở một mình đối với chúng ta là điều tốt và cần thiết. Nhưng đây không phải là một điều kiện thường xuyên. Con người là con vật có tính xã hội. Chúng ta không tự mình mà hoàn chỉnh. Nhân tính không thể có được trong sự đơn độc. Chúng ta cần đến những người khác. Cảm thấy có nhu cầu này không phải là dấu chỉ của sự bệnh hoạn mà là dấu chỉ của sự lành mạnh. Sự không lành mạnh do đó được định nghĩa như là một điều kiện trong đó người ta không thể tiếp xúc với người khác.

Con sư tử nguy hiểm nhất không phải là một con sư tử sống thành bầy hoặc có tiếng gầm to nhất mà là một con sư tử bước đi một mình trong thinh lặng. Những kẻ giết người hàng loạt hầu như lúc nào cũng trở thành những người cô độc và giận dữ. Người phạm tội tự sát thường là những người rơi vào tình trạng hoàn toàn cô lập.

Sự cô lập là một hoàn cảnh đau khổ hơn hết. Nó làm cho người ta quay về với chính mình và có thể dẫn đến bạo lực và rượu chè. Sự sợ hãi, sỉ nhục, phạm tội làm cho người ta muốn ở lỳ mãi trong sự cô lập của họ.

Trước hết, Thiên Chúa đã cho Ađam các thú vật. Nhưng Ađam không tìm thấy trong các con vật ấy người phối ngẫu phù hợp với mình. Một bản nghiên cứu được thực hiện trong số những người già ở Mỹ. Khi được hỏi ai là người ở gần họ nhất ? Hai phần ba trong số người được hỏi đã trả lời đó là con chó hoặc con mèo cưng của họ. Thật đáng buồn.

Rồi Thiên Chúa đã cho Ađam một người phụ nữ, Evà. Và ngay khi Ađam nhìn thấy Eva, ông nhận ra bà là người đồng hành và là người phối ngẫu của ông. Bà được làm ra bởi cùng một vật liệu như ông, có cùng một nhân phẩm như ông và do đó bình đẳng với ông. Một cộng đoàn thật sự chỉ có thể được thiết lập giữa những người bình đẳng.

Trong hôn nhân, Thiên Chúa đáp ứng nhu cầu của con người về tình bạn, sự đồng hành, sự thân mật và ấm cúng – chúng ta thiết tha mong ước những điều đó nhưng tìm thấy rất khó. Những nhu cầu ấy cũng có thể được đáp ứng khi phụ thuộc vào một cộng đoàn. Và những người có quan hệ mật thiết với Thiên Chúa sẽ không bao giờ cô độc nữa.

Khi con người kết hôn họ đem đến với hôn nhân không chỉ sức mạnh của họ mà cả sự yếu đuối của họ. Tất cả chúng ta đều bị tội lỗi và lòng ích kỷ làm tổn thương. Đi vào hôn nhân là đi vào một trường học yêu thương, một trường học trong đó mọi người đều là những học sinh chậm chạp. Dây liên kết mà hai người cam kết trong ngày hôn lễ không được làm bằng vật liệu không hư hỏng, nhưng bằng vật liệu của con người và do đó có thể bị gãy đổ. Chỉ có một dây liên kết không gãy đổ là dây liên kết mà Thiên Chúa hình thành với chúng ta trong Đức Kitô.

Những điều gì làm cho dây liên kết hôn nhân bị yếu đi ? Thiếu sự tôn trọng, thiếu sự hiệp thông, tính ích kỷ và trên hết là sự không trung tín. Sự tôn trọng, hiệp thông, lòng vị tha và trung tín làm sự liên kết trở nên mạnh mẽ.

Những mối quan hệ phải được củng cố, xây dựng. Nếu thờ ơ, lãnh đạm chắc chắn chúng giống như một khu vườn không có người chăm sóc. Người ta không nên e sợ mà phải đi tìm sự giúp đỡ nếu mình cảm thấy khó khăn trong hôn nhân. Những mối quan hệ vượt qua dông bão trở nên sâu xa hơn. Các cặp vợ chồng phải cương quyết đặt hôn nhân của họ và con cái họ lên trên những thành công về kinh tế.

Chế độ hôn nhân một vợ một chồng không thể phân ly không phải là sự bày đặt của các giáo sĩ. Nó được chứng minh mạnh mẽ trong nhu cầu đặc biệt của con cái. Chúng phải được nuôi dưỡng và chăm sóc trong một thời kỳ lâu dài, dài hơn bất cứ một thành viên nào của các chủng loài động vật khác.

--------------------------

 

TN 27-B7. PV / 633- CAM KẾT

 

Harold Kushner một giáo trưởng người Mỹ kể lại câu chuyện một cặp vợ chồng trẻ đến tìm: TN 27-B7


Harold Kushner một giáo trưởng người Mỹ kể lại câu chuyện một cặp vợ chồng trẻ đến tìm ông vào một buổi tối nọ. Hôn lễ của họ sắp đến và ông là người làm lễ trong hôn lễ ấy. Anh thanh niên nói với ông về một vấn đề: “Thưa giáo trưởng, hẳn là giáo trưởng sẽ không phản đối nếu chúng con thay đổi chút ít trong nghi thức lễ cưới ? Thay vì tuyên bố chúng con là vợ chồng cho tới lúc cuối đời, liệu chúng con có thể tuyên bố chúng con là vợ chồng cho tới khi nào tình yêu còn tồn tại ? Chúng con đã nói với nhau về điều đó và chúng con cảm thấy rằng nếu một ngày nào đó chúng con không còn yêu nhau nữa thì về mặt tinh thần chúng con không gây cản trở cho nhau”.

Nhưng vị đạo trưởng đáp: “Tôi phản đối và tôi không thay đổi. Anh chị và tôi biết rằng có một điều như ly dị và chúng ta biết rằng nhiều cuộc hôn nhân ngày nay không kéo dài đến lúc một trong hai người qua đời. Nhưng anh chị hãy để cho tôi nói với anh chị một điều. Nếu anh chị đến với hôn nhân mà có thái độ “Nếu nó không êm xuôi thì chúng ta có thể chia tay”, tôi có thể bảo đảm với anh chị rằng vì suy nghĩ ấy của anh chị mà những việc đó sẽ không êm xuôi”.

“Tôi tán thưởng sự chân thật của anh chị. Nhưng anh chị phải hiểu rằng một cam kết hôn nhân không chỉ là ước muốn sống chung với nhau, nhưng là một lời cam kết chấp nhận những sự chán nản thất vọng vốn là một phần không thể tránh khỏi trong quan hệ của hai con người bất toàn. Ngay lúc bắt đầu cuộc hôn nhân việc chia sẻ cho nhau mọi việc đã là rất khó. Nhưng nếu chỉ đặt một phần của mình vào mối quan hệ ấy thì hầu như anh chị không có cơ may ?”

Kết quả là mối quan hệ mong manh, thử nghiệm chắc chắn sẽ thất bại. Có những người bước vào hôn nhân và mong đợi nó làm cho đời sống họ lúc nào cũng thích thú và khi gặp đau khổ, và xung đột họ chỉ muốn lìa bỏ nhau.

Khi hai người kết hôn đời sống họ được liên kết với nhau. Từ đó mà họ có một số phận chung. Họ đã cam kết với nhau và có trách nhiệm lẫn nhau. Như thế Thiên Chúa đóng dấu và chúc phúc mối quan hệ này. Tuy nhiên, mối liên kết ấy không được làm bởi vật liệu không thể gãy đổ. Nó do con người tạo ra, nên nó là vật liệu không hoàn hảo.

Thiên Chúa dựng nên chúng ta để yêu thương -  nhận và cho tình yêu. tuy nhiên, khả năng yêu thương không phải là một vật mà Người ban cho đôi lứa trong ngày hôn lễ cùng với mọi quà tặng khác. Tình yêu là một điều mà người ta phải học biết. Hành trình thật sự mà đôi vợ chồng mới cưới phải thực hiện, không còn là cuộc hành trình cô độc, mà là cuộc hành trình đi từ tính ích kỷ đến tình yêu.

Không có gì thách thức tình yêu bằng hôn nhân, cũng không có gì đem lại cho tình yêu cơ hội trưởng thành bằng hôn nhân. Nó đòi hỏi phải có nhiều sự trưởng thành. Những con cá vàng trong chậu hòa hợp với nhau dễ dàng. Nhưng bạn hãy đưa hai người đến sống chung thì ít lâu sau họ sẽ có vấn đề. Khi hai người kết hôn, họ đem đến hôn nhân sức mạnh và sự yếu đuối, tình yêu và thù hận, va chạm và tổn thương, hy vọng và sợ hãi.

Tuy nhiên, những khó khăn mà họ gặp có thể là những cơ hội để họ trưởng thành. Khi đã khắc phục được vài cơn bão tố thì mối tương quan trở nên sâu sắc.

--------------------------

 

TN 27-B8. PV / 635- TUỔI THƠ

 

Đức Giêsu nói với chúng ta: “Người nào không trở nên giống như trẻ nhỏ sẽ không vào được: TN 27-B8


Đức Giêsu nói với chúng ta: “Người nào không trở nên giống như trẻ nhỏ sẽ không vào được Nước Trời”. Chúng ta thường nhìn tuổi thơ như một giai đoạn từ đó mình phải lớn lên và hoàn toàn để lại phía sau như thể không có gì ở đó đáng để giữ lại.

Chúng ta phải phân biệt giữa giống như trẻ nhỏ và ấu trĩ. Au trĩ có nghĩa là không trưởng thành, hay hờn giận, ngớ ngẩn, thiếu trách nhiệm… Trẻ nhỏ không phải là những thiên thần. Chúng ta phải trưởng thành ra khỏi những điều đó. Tuy nhiên có những phẩm chất giống như trẻ nhỏ và đáng yêu mà chúng ta phải cố gắng giữ lấy như tính cởi mở, nhạy bén, cảm giác về điều kỳ diệu, khả năng sống trong hiện tại.

Khổ nỗi, chúng ta thường đánh mất một vài phẩm chất của trẻ nhỏ và giữ lại những điều xấu nhất. Chúng ta thôi không giống trẻ nhỏ nhưng vẫn tiếp tục ấu trĩ. Chúng ta đã đánh mất gì khi tuổi thơ của chúng ta qua đi ?

Óc tưởng tượng của tuổi thơ mạnh mẽ vô cùng. Mỗi đứa trẻ được ban cho một ý thức, một ý thức về điều kỳ diệu. Cái nhìn của chúng mới mẻ và rõ ràng. Words Worth đã nói rất hay: “Thiên đàng của chúng ta ở trong tuổi thơ”. Các trẻ nhỏ nhìn mỗi vật như thể đó là lần đầu tiên chúng trông thấy. Tham vọng của Picasso là vẽ tranh giống như một đứa trẻ. Ông nói rằng nghệ thuật nên đánh thức chúng ta để nhìn thế giới bằng một cái nhìn mới mẻ như cái nhìn của trẻ thơ. Trẻ thơ dạy chúng ta sống như thế nào. Chúng chưa sống theo những lối mòn xưa cũ, hoặc trở thành tù nhân của tập tục, thói quen và thành kiến. Chúng luôn luôn là chính chúng. Điều này làm cho chúng lôi cuốn và độc đáo.

Hạnh phúc là tình trạng tự nhiên của trẻ thơ. Chúng có khả năng rút ra sự thích thú từ những sự vật đơn giản. Một con búp bê cũ kỹ có thể làm cho tâm hồn một trẻ nhỏ vui sướng sáu tháng liền, còn người lớn thì không cần nhiều đến thế. Tại sao ? Bởi vì người lớn đã đánh mất tâm hồn của một trẻ nhỏ. Nhiệm vụ của Giáo hội là giữ cho tâm hồn trẻ thơ luôn sống động.

Không gì dễ hơn là để cho đời sống tiếp tục làm cho tâm hồn mình trở nên già cỗi, khô khan và trắng trợn, sỗ sàng và ích kỷ. Trẻ nhỏ để cho chúng ta tiếp xúc với sự hiền lành và ngây thơ của chúng, để chúng ta bỏ bớt cuộc đấu tranh quyết liệt để sinh tồn. Chúng làm sống lại trong chúng ta cảm thức về điều kỳ diệu và chính cảm thức này hơn bất cứ điều gì sẽ giữ cho chúng ta luôn được trẻ trung.

Khi Đức Giêsu nói với chúng ta: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ không vào được Nước Trời”. Người muốn nhắc lại tuổi thơ đã đánh mất của chúng ta để chúng ta được tái sinh trong tính cách ngây thơ cho dù thân xác chúng ta đã già yếu.

Đức Giêsu nói rằng chúng ta không thể vào Nước Trời nếu như chúng ta không đón nhận nó như một trẻ thơ. Nước Trời là một quà tặng. Trẻ nhỏ thích hợp với Nước Trời hơn bởi vì chúng biết phải nhận quà tặng như thế nào. Người nào không biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Nước Trời như một quà tặng, người ấy không thể vào được.

--------------------------

 

TN 27-B9. SCĐ / 707- GIA ĐÌNH

 

Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi: TN 27-B9


“Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, nhưng không ai biết…Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung độ khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại… chính tôi nữa !”

Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.

Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỷ lệ phân nửa: bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy !

Lý do người ta dựa vào, là “Đã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau”. Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót ba điểm sau đây:

1/ Thứ nhất là quá ích kỷ: chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu ? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.

2/ Thứ hai là phản trắc, lật lọng: những người ly dị là những kẻ phản trắc, lật lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì ? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không ?

Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân: bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Đó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cần phải trải qua khủng hoảng mới đi đến chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được ?

Đó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn… Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây:

1. Những người biệt phái dẫn chứng với Đức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Đức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Đức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẩn tránh trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.

2. Đức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của Thiên Chúa, con người không có quyền làm ngược lại “Điều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”. Nghĩa là Đức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có một trăm tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.

3. Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Đức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau ; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đọa khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.

--------------------------

 

TN 27-B10. SCĐ / 710- CHUNG THỦY

 

Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm: TN 27-B10


Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về đến gần nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.

Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.

Hồ Tử nói:

- Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân !

Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.

Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:

- Chàng đi làm quan năm năm mới về. Đáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quí được!

Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin Mừng hôm nay xác định lại. Đó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: “Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục “là giao ước tình yêu”. Hiệu quả của giao ước này là “hai người trở nên một”. Điều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.

Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: “Mình với ta tuy hai mà một”. Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.

Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.

Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Đavid chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như mồ côi.

Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Đó cũng là một ơn huệ của Bí tích Hôn nhân.

Hình ảnh “Đức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng” là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu “cơm không lành canh không ngọt”, muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp “đường ai nấy đi” thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu ? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.

Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: “Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn”.

--------------------------

 

TN 27-B11. Tính sư phạm và nhân bản của Thiên Chúa trong việc lập luật và áp dụng luật – JKN


Câu hỏi gợi ý:

 

Tại sao luật Môsê lại cho phép vợ chồng ly dị (x. Mt 5,31; Đnl 24,1) còn Đức Giêsu thì không: TN 27-B11


1. Tại sao luật Môsê lại cho phép vợ chồng ly dị (x. Mt 5,31; Đnl 24,1) còn Đức Giêsu thì không? Luật Môsê có phải là luật của Thiên Chúa không? Phải giải thích sao về sự mâu thuẫn giữa hai thứ luật đều cùng là luật của Thiên Chúa cả?

2. Thiên Chúa coi hạnh phúc của con người quan trọng hơn luật của Ngài, hay ngược lại? Ngài lập luật để con người hạnh phúc, hay dựng nên con người để tuân theo luật Ngài? Luật lệ và con người, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện?

3. Khi áp dụng luật Chúa cho người khác, ta nên có thái độ nào? cứng nhắc hay mềm dẻo? nên vì luật Chúa hay vì hạnh phúc con người hơn?

Suy tư gợi ý:

1. Bối cảnh của bài Tin Mừng

Các người Pharisêu hỏi Đức Giêsu về vấn đề ly dị không phải vì họ thắc mắc cần được giải đáp, mà vì muốn gài bẫy Ngài. Nếu Ngài đồng ý với việc ly dị, thì Ngài tỏ ra cùng lập trường với người Pharisêu. Và như vậy người Pharisêu có thêm một đồng minh rất có uy tín về vấn đề này để chống lại chủ trương đối lập. Còn nếu Ngài không đồng ý, thì nhiều người trong đám đông không chấp nhận. Quan trọng hơn nữa, Ngài sẽ bị vua Hêrốt thù ghét, vì Ngài tỏ ra cùng phe với Gioan Tẩy giả, là người lên án ông về tội ngoại tình và đã bị ông giết chết (Mc 6,17-28). Đây cũng là điều mà bọn Pharisêu mong muốn cho Ngài. Vì thế, Ngài trả lời thế nào cũng đều có lợi cho họ.

Nhưng Đức Giêsu đã lợi dụng cái bẫy này để mặc khải nền tảng của hôn nhân theo kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa là vợ chồng phải «nhất phu nhất phụ», đồng thời chỉ ra sự sai trái trong chủ trương của người Pharisêu. Người Pharisêu dựa vào câu Kinh Thánh sau đây để biện minh cho sự ly dị: «Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà» (Đnl 24,1). Đức Giêsu đã nhắc đến luật này trong Cựu Ước và đưa ra luật mới ngược lại: «Luật (Môsê) dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình» (Mt 5,31-32).

2. Bài học về tính sư phạm của Thiên Chúa

Ngài chủ trương khác với Môsê, nhưng Ngài không đả kích hay chê bai Môsê, mà cho rằng Môsê đã thích ứng với sự yếu đuối của con người: «Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông». Vì: nếu ra luật mà người ta yếu đuối quá không thể giữ được, thì lúc đó luật chỉ gây nên mặc cảm tội lỗi. Như vậy, thay vì luật nâng đỡ con người, thì lại đạp họ xuống. Nghĩa là luật trở nên gánh nặng không thể vác nổi cho con người, khiến họ thất vọng đối với sự công chính và quay về hướng tội lỗi. Vì thế, trong trường hợp đó, tốt hơn là luật chưa nên đòi hỏi đúng mức. Do đó, luật Môsê đã tỏ ra nhân nhượng với sự yếu đuối của con người. Thánh Phaolô chủ trương: «Nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội» (Rm 5,13); và «tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật» (1Cr 15,56). Bởi luật được lập nên vì con người, chứ không ngược lại (x. Mc 2,27). Đó là quan niệm rất nhân bản về lề luật. Nhưng khi con người đạt được một trình độ tâm linh cao hơn, thì Đức Giêsu đã nâng cấp lề luật lên một bậc để đưa con người lên mức độ thánh thiện và hoàn hảo cao hơn, hợp lý hơn, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa hơn.

Điều này cho chúng ta thấy tính sư phạm của Thiên Chúa. Lề luật, giao ước, mặc khải hay những điều Thiên Chúa dạy dỗ con người không thể là những gì bất biến, mặc dù Thiên Chúa thì bất biến. Tất cả những thứ ấy không phải vì Thiên Chúa nhưng vì con người, mà con người thì biến đổi, nên chúng phải thích ứng sao cho phù hợp với con người. Khi trình độ hay hoàn cảnh của con người thay đổi, thì lề luật, cũng như những mặc khải hay những điều dạy dỗ của Thiên Chúa đã có trước đó lâu năm sẽ phải thay đổi cho thích ứng với con người thời đại, đồng thời phù hợp với «đạo» là nguyên lý không thay đổi của Thiên Chúa hơn. Không thể lấy lề luật cũ áp dụng cho con người mới được: lề luật cũ, mặc khải cũ, giao ước cũ phù hợp với con người cũ (thời xưa) chứ không phù hợp với con người mới (thời nay). Vì thế, cần phải có lề luật mới, mặc khải mới, giao ước mới để phù hợp với con người mới.

Thánh Phaolô có nói đến sự lỗi thời của các giao ước, khi đã có một giao ước mới đến thay thế: «Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sẽ tan biến đi» (Dt 8,13). Bất kỳ giao ước nào, lề luật nào, mặc khải nào đang hiện hành đều được coi là tuyệt đối, bất biến, muôn đời không thay đổi. Có như thế con người mới đủ xác tín để thực hành. Nhưng khi có giao ước, lề luật, mặc khải mới, thì những thứ cũ đều bị coi là lỗi thời, không phải theo nữa. Cụ thể là luật Môsê mà người Do Thái xưa coi là tuyệt đối và bất biến, đã trở nên lỗi thời và được thay thế bởi luật của Đức Giêsu. Và đương nhiên luật của Đức Giêsu cũng là luật cho con người chứ không phải cho Thiên Chúa.

3. Hãy «vì con người, chứ không phải vì lề luật»

Đức Giêsu đã cho thấy kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa là: «Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly». Đấy là nguyên lý của Thiên Chúa cho hạnh phúc con người, ai sống theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc. Thật vậy, trong đời sống vợ chồng, tình yêu và sự hòa hợp là hai yếu tố quan trọng để đời sống hôn nhân được hạnh phúc. Tình yêu cũng là một yếu tố thuận lợi cho sự hòa hợp và ngược lại. Tuy nhiên, thiếu một trong hai thì đời sống hôn nhân không thể hạnh phúc. Dẫu vậy, tình yêu là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng chỉ có tình yêu đích thực mới đem lại hạnh phúc, mà tình yêu chân thực tất yếu phải là tình yêu duy nhất và chung thủy. Một nhà tâm lý nói: «Đã yêu rồi, lại còn yêu người khác nữa, thì không phải là tình yêu chân thật. Đã yêu, nhưng sau đó lại không yêu nữa, cũng không phải là tình yêu chân thật». Vì thế, hôn nhân Kitô giáo đòi hỏi hai phối ngẫu một tình yêu đích thực, nghĩa là tình yêu duy nhất và trọn đời. Điều đó thật hợp lý và phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Và Giáo Hội không chấp nhận ly dị là điều hợp lý.

Tuy nhiên, việc áp dụng luật của Thiên Chúa cũng như luật Giáo Hội thiết tưởng không nên cứng ngắc. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy: chính Thiên Chúa - qua luật Môsê - cũng đã nhân nhượng sự yếu đuối của con người. Từ nguyên thủy, Thiên Chúa chỉ dựng nên có một người nam và một người nữ, nghĩa là ngay từ đầu, trong kế hoạch của Thiên Chúa, đã có luật «nhất phu nhất phụ» rồi. Nhưng trong luật Môsê, Ngài đã tạm thời chấp nhận việc ly dị, chỉ vì tâm linh của con người còn quá thấp kém, không thể giữ nổi: «Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông». Như thế ta thấy mặc dù Thiên Chúa là Thiên Chúa, nhưng Ngài cũng rất là nhân bản, Ngài thông cảm với những yếu đuối của con người, và Ngài đã tỏ ra chú trọng đến hạnh phúc của con người nhiều hơn cả việc đòi hỏi con người phải theo đúng kế hoạch của Ngài. Ngài đặt nặng hạnh phúc của con người hơn cả lề luật của Ngài: bởi lề luật được lập nên vì con người, chứ không phải con người được dựng nên vì lề luật (x. Mc 2,27). Lề luật dù có thánh thiêng tới đâu cũng là vì con người, nhằm phục vụ cho lợi ích hay hạnh phúc của con người, chứ không ngược lại. Lề luật là phương tiện, nhưng con người mới là mục đích. Con người thánh thiêng hơn các lề luật rất nhiều, cho dù lề luật có do chính Thiên Chúa lập nên đi nữa, vì «con người là hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26.27; 9,6), chứ lề luật không phải là hình ảnh của Ngài, dù là luật do chính Ngài thiết lập.

Vì thế, các mục tử, khi áp dụng luật Chúa cho giáo dân của mình, thiết tưởng cũng phải biết sử dụng quyền mà Chúa trao: «Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy» (Mt 16,19; 18,18). Chúa trao cho mình cả hai quyền, nhưng nhiều khi mình chỉ chuyên sử dụng có một quyền, chỉ biết «cầm buộc» mà không biết «tháo cởi». Tội nghiệp cho giáo dân ngu dốt của mình! Xin hãy cân nhắc một cách sáng suốt giữa hai sức nặng cần phải tôn trọng: hạnh phúc của con người và luật của Thiên Chúa. Có những trường hợp phải hy sinh luật Chúa cho hạnh phúc của con người! Trong ngôn ngữ dân gian có câu: «Nếu đất không chịu trời, thì trời nhiều khi đành phải chịu đất». Đó cũng là sự mềm dẻo trong việc áp dụng luật cho người khác, một đặc tính phải có của tình thương. Thiên Chúa còn mềm dẻo và nhân nhượng trong việc áp dụng luật đối với con người, tại sao con người lại quá hà khắc với nhau?

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng con người thánh thiêng hơn lề luật, và lề luật được lập nên vì hạnh phúc của con người. Lề luật chỉ là phương tiện, con người mới là mục đích. Xin đừng để con quá «vị luật» đến nỗi lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh con người cho việc áp dụng lề luật. Xin cho con biết nhân ái và bao dung khi áp dụng luật Chúa cho tha nhân.

--------------------------

 

TN 27-B12. Sự bền vững của hôn nhân - Lm  Trần Thanh Sơn

 

Gia đình chính là tế bào, là đơn vị căn bản và là nền tảng để làm nên một xã hội. Do đó, để có: TN 27-B12


Gia đình chính là tế bào, là đơn vị căn bản và là nền tảng để làm nên một xã hội. Do đó, để có một xã hội phát triển và ổn định, người ta thường phải bắt đầu bằng việc xây dựng một con người và một gia đình đạo đức. Xác tín điều đó, cha ông chúng ta vẫn dạy con cháu: “Tu thân, tề gia” trước khi “trị quốc, bình thiên hạ”.

Thế nhưng, nhìn chung vào xã hội hôm nay, các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình đang dần bị mai một. Tình trạng nam nữ chung sống ngoài hôn nhân ngày càng nhiều, đến nỗi đã có một diễn đàn tranh luận sôi nổi trên báo chí về đề tài “Sống thử”. Việc ly dị cũng không còn là một vấn đề cần giữ kín. Tất cả những điều đó dẫn đến hậu quả là nhiều gia đình bị tan vỡ, con cái bơ vơ không nơi nương tựa, không người chăm sóc. Đó cũng là lý do khiến cho tình trạng phạm pháp của các thanh thiếu niên ngày càng gia tăng.

Do đó, trong giờ chia sẻ này, chúng ta cùng nhìn lại và cố gắng sống các giá trị của hôn nhân theo sự hướng dẫn của Lời Chúa hôm nay. Nhờ đó, chúng ta có thể xây dựng một xã hội yên vui, hạnh phúc như ý muốn của Thiên Chúa.

1. Gia đình đầu tiên:

Trước hết, bài đọc một được trích đọc từ sách Sáng Thế chương 2, 18-24, thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng nên gia đình đầu tiên. Chắc hẳn khi viết lên đoạn sách nói về cuộc sáng tạo này của Thiên Chúa, vị thánh ký đã không hề có ý muốn làm một bài phóng sự, tường thuật tại chỗ về quá trình tạo dựng của Thiên Chúá. Tuy nhiên, dưới sự linh hứng của Thánh Thần, tác giả thánh đã kể lại cho chúng ta một câu chuyện tuyệt vời, nói về nguồn gốc và mối liên hệ chặt chẽ giữa người nam và người nữ trong gia đình đầu tiên theo chương trình yêu thương của Thiên Chúa. Thánh ký cho biết, sau khi đã lấy bùn đất tạo dựng nên con người đầu tiên trong vũ trụ, một người đàn ông, Thiên Chúa đã nhận ra rằng: “Đàn ông ở một mình không tốt”. Do đó, Ngài đã quyết định: “Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó”. Thiên Chúa đã muốn làm cho Ađam một người bạn. Và thế là muôn loài, muôn vật, trên trời dưới nước và trên mặt đất, mỗi loài một vẻ đã được dựng nên, để Ađam có thể tìm trong số đó một sinh vật làm bạn với mình.

Thế nhưng, giữa muôn loài sinh vật trên trời dưới đất do Thiên Chúa vừa tạo dựng, “Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình”. Ađam đã không tìm được một sinh vật nào có thể cùng ông chia vui, sẻ buồn. Ông không tìm được một loài nào để ông có thể trao trọn tâm tư và con tim của ông. Ông vẫn cảm thấy cô đơn và bơ vơ giữa muôn loài, không có một sinh vật nào có thể lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn ông.

Thế rồi trong lúc Ađam ngủ mê: “Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến cho Ađam”. Tỉnh giấc dậy, thấy người đàn bà bên cạnh, Ađam như tìm thấy được “một nửa” của mình, và chẳng chờ Thiên Chúa giới thiệu, Ađam đã nhận ra ngay đây là người mà ông cần, đây là người mà ông hằng trông đợi, ông sung sướng thốt lên: “Đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi”. Và chúng ta cũng có thể nói thêm mà không sợ sai rằng: ngay lúc đó, Ađam đã chạy tới ôm chặt lấy, như sợ mất đi người phụ nữ đầu tiên này, vì điều mà ông khao khát bấy lâu, nay đã thành hiện thực. Thế là gia đình đầu tiên đã xuất hiện. Gia đình ấy đã được Thiên Chúa chúc phúc. Trong gia đình ấy giờ đây “tuy hai mà một ” như lời Thiên Chúa phán: “Vì thế người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể ”. Người này là một nửa của người kia. Hay nói theo cách nói của cha ông chúng ta, người này chính là “mình ” của người kia và ngược lại. Chồng gọi vợ là “mình ”, mà vợ gọi chồng cũng một tiếng “mình ơi! ”.

Như thế, qua một trình thuật thật sống động, tác giả sách Sáng Thế đã cho chúng ta thấy rằng: trong gia đình đầu tiên, chỉ có một nam và một nữ, và cả hai đều có một phẩm giá như nhau trước mặt Thiên Chúa, vì cả hai “cùng một thân thể ”. Đồng thời, chúng ta còn thấy rằng: chính Thiên Chúa là nguồn gốc của sự kết hợp này. Chính Ngài đã dựng nên con người cả nam lẫn nữ và đã chúc phúc cho sự kết hợp của họ trong đời sống gia đình, hay nói theo cách nói của tác giả thư Do thái trong bài đọc hai: “Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật”

Thế nhưng, qua dòng thời gian, kể từ khi con người quay lưng lại với Thiên Chúa, vẻ đẹp bền vững của gia đình cũng dần dần bị tan vỡ. Do đó, Đức Giêsu đã đến để dẫn đưa con người trở về với ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa.

2. Tính bền vững của hôn nhân:

Để trả lời cho những chất vấn của người biệt phái về vấn đề ly dị, Đức Giêsu đã nhắc lại cho họ về ý định ngay từ thuở tạo dựng của Thiên Chúa khi tạo dựng nên con người: “Khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ … Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Ngài nhắc lại cho họ biết rằng, tính bền vững của hôn nhân, không phải là do ý muốn của con người hay của đôi vợ chồng, nhưng trước hết và trên hết đó là do ý định của Thiên Chúa. Đồng thời, nhân cơ hội này, Đức Giêsu còn muốn khẳng định một chân lý nữa, đó là trong gia đình chỉ có một vợ, một chồng, bởi lẽ ngay từ ban đầu Thiên Chúa chỉ dựng nên một người nam và một người nữ.

Sự chung thuỷ, bền vững trong hôn nhân không những là ý muốn của Thiên Chúa, nhưng còn là một trong những điều kiện để con người được hạnh phúc, bởi lẽ, gia đình là trường học đầu tiên để đào tạo những con người trở nên người. Thật vậy, chính trong một gia đình bền vững, vợ chồng trung tín và chung thuỷ với nhau, con cái sẽ học được những bài học về sự nhường nhịn và chia sẻ, bài học về yêu thương và tha thứ. Cũng chính từ nơi đó, từng người sẽ học được bài học về sự khiêm tốn, biết nhận ra sự giới hạn của mình, để sẵn sàng đón nhận sự hướng dẫn của người khác, đồng thời cũng biết nâng đỡ những người chung quanh.

Do đó, để có một gia đình hạnh phúc, từng người chúng ta phải biết vun đắp cho cuộc sống chung trong gia đình, bằng cách quên mình, dẹp đi những tự ái cá nhân theo mẫu gương của Đức Giêsu, Đấng đã tự hạ mình “kém các thiên thần” và “chịu chết thay cho mọi người”. Nhờ đó, Ngài “đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang” như chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai.

Tóm lại, gia đình chính là cộng đoàn cơ bản để xây dựng một xã hội. Sự ổn định và phát triển của xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào sự ổn định và đạo đức của từng gia đình. Nhưng để có được một gia đình an bình và hạnh phúc, thì điều quan trọng không thể thiếu đó là sự trung tín và thuỷ chung của đôi bạn trong đời sống hôn nhân. Hơn nữa, dưới cái nhìn của đức tin, sự trung tín và bền vững của hôn nhân còn có một giá trị đặc biệt, bởi lẽ đó còn là ý muốn từ muôn thuở của Thiên Chúa.

Cuối cùng, Thánh Thể là nguồn trợ lực không thể thiếu để duy trì sự bền vững của gia đình. Vì nếu tất cả mọi người trong gia đình đều lãnh nhận chung một tấm bánh, thì nói theo cách nói của thánh Phaolô, chúng ta sẽ trở nên một (x. 1 Cr 10, 17). Ý thức điều đó, giờ đây, xin cộng đoàn cùng hiệp ý chuẩn bị tâm hồn sốt sắng để tham dự phần phụng vụ Thánh Thể. Amen.

--------------------------

 

TN 27-B13. BẤT KHẢ PHÂN LY - Trần Quang Huy Khanh

 

Trong một tuần phòng nọ. Khi các linh mục đang ngồi thảo luận và trao đổi với nhau về kinh: TN 27-B13


Trong một tuần phòng nọ. Khi các linh mục đang ngồi thảo luận và trao đổi với nhau về kinh nghiệm mục vụ, một vị lớn tuổi đã chậm dãi phát biểu: “Tôi không biết các cha trẻ nghĩ thế nào, riêng tôi, tôi thấy làm lạ là nhiều cặp chúng nó mới hôm nào đưa nhau lên trước bàn thờ thề thốt yêu nhau, vậy mà quay đi, quay lại đã thấy chúng nó lên nữa, mà lần này với một đứa khác. Tôi đã tò mò hỏi một vài đứa thì chúng nó nói rằng: Tại vì cha quản nhiệm chúng con trẻ, nên làm đám cưới mát tay”.

Gọi ly dị là căn bệnh thời đại, vì trải qua mọi thời đại, ly dị vẫn là một vấn nạn nhức nhối và không thuốc chữa; đặc biệt, đối với con người của thời đại chúng ta đang sống. Một thời điểm mà theo Đức Piô XII, con người đang mất dần đi ý thức tội lỗi. Hoặc theo Đức Gioan Phaolô II, thế giới đang bị ảnh hưởng của một nền văn hóa sự chết. Trong xã hội hôm nay, dưới ảnh hưởng của nền văn hóa này, nền móng gia đình và hạnh phục hôn nhân đang bị đảo lộn tận gốc rễ. Qua đó, nền tảng xã hội cũng đang bị lung lay. Hơn 50% các cặp hôn nhân đã kết thúc bằng ly dị. Nhiều người ly dị sau chỉ mới 3 tuần lễ cưới nhau. Một số lớn chừng 3 hay 10 năm sau khi cưới. Và một số khác sau 30 năm chung sống    với nhau. Như vậy, căn bệnh thời đại này không dừng lại ở thành phần tuổi tác, hoặc thời gian chung sống với nhau. Nó xẩy ra cho mọi lứa tuổi, và trong mọi hoàn cảnh. 

Lịch sử đã chứng minh tính chất xã hội của chứng bệnh ly dị, khi cho biết ngay những người đồng thời với Chúa Giêsu cũng đã đặt vấn đề với Ngài. Và trước đó nữa, Maisen cũng đã phải vất vả với vấn nạn này. Thánh Kinh kể lại, khi những người Biệt Phái đến chất vấn Ngài về đề tài ly dị, Chúa Giêsu đã nói với họ: “Chính vì sự cứng lòng của các ngươi mà Maisen đã viết ra luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ bỏ cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:5-9). 

Qua câu trả lời trên, chúng ta thấy rằng ly dị là do tâm trạng đổi thay, do những thúc đẩy từ nhiều phía, do ảnh hưởng xã hội, và do thiếu lòng thủy chung của con người. Hơn 10 năm trước, khi khảo cứu về hậu quả của những cuộc hôn nhân đổ vỡ, người ta đã đi đến kết luận rằng con cái của những cha mẹ ly dị  chính là những nạn nhân đáng thương nhất qua hành động ly dị của cha mẹ chúng. Hậu quả này kéo dài cho đến khi chúng lớn, và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là các em trai, đặc biệt, nếu lúc cha mẹ chúng ly dị mà chúng đang ở vào lứa tuổi vị thành niên. Anh hưởng ấy có thể làm cho chúng có một cái nhìn thiên lệch, và mặc cảm tội lỗi về đời sống hôn nhân, gia đình. Nhưng gần đây, người ta lại có câu trả lời khác, đại khái cho rằng nếu cha mẹ mà cứ tiếp tục sống trong cảnh bất hòa, thì tốt hơn là nên ly dị, vì như thế sẽ giúp cho con cái sống trưởng thành hơn và không bị ảnh hưởng tâm lý về một cuộc hôn nhân đổ vỡ. 

Nhiều cuộc khảo cứu còn đi xa hơn nữa, khi kết luận rằng trẻ em được nuôi dưỡng bởi những cha mẹ đồng tính luyến ái, và những cha mẹ tự nhiên không có gì khác biệt về tâm lý và tình cảm. Và ảnh hưởng của những lần phá thai không còn gây kinh hoàng cho nhiều phụ nữ như trước nữa. Ngược lại, chúng chỉ có tác dụng về mặt thể lý, như một lần đau bụng, đi cầu. Đó là tâm lý, đó là tâm trạng của con người thời đại. Điều này cho thấy rằng, con người thời nay đang mất dần đi ý thức của việc làm, và họ lẫn lộn giữa cái xấu và cái tốt, cái được phép làm và cái không nên làm, điều mà Chúa Giêsu gọi là sự cứng lòng: “Chính vì sự cứng lòng của các ngươi” (Mc 10: 5). 

Thật vậy, do lòng dạ con người ra cứng cỏi, chai đá, mà hiện tượng ly thân, ly dị, phá thai, đồng tính luyến ái, hôn nhân đồng tính mới đang được hưởng ứng và thịnh hành. Và không những chỉ có những con người bình thường, ít học thức mới có những quan niệm lệch lạc, nhưng cả những vị có trách nhiệm thuộc lãnh vực luân lý và đạo đức cũng bị những tư tưởng lệch lạc ấy chi phối. Đó là lý do tại sao có những linh mục “làm phép cưới mát tay”. Làm phép cưới mát tay hay làm phép cưới cẩu thả, thiếu điều tra kỹ lưỡng, và thiếu hướng dẫn, thiếu chuẩn bị cũng là một hình thức. Đối với những linh mục này, có lẽ việc ly thân, ly dị chỉ là hệ quả của tâm lý xã hội, hoặc một hành động thiếu kinh nghiệm của những người trong cuộc. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế, vì hậu quả của những việc làm cẩu thả ấy còn kéo dài cho tới những thế hệ kế tiếp. Thống kê cho biết, con cái những cha mẹ ly dị cũng có nhiều cơ hội ly dị.

Vấn đề ly dị tưởng chỉ là những đối chọi về quan điểm xã hội giữa những người Pharisiêu và Chúa Giêsu nên Ngài đã có những lời lẽ cứng rắn về hôn nhân. Nhưng điểm quan trọng ở đây, là nhân cơ hội này, Chúa Giêsu đã lập lại ý định của Chúa Cha ngay từ ban đầu khi sáng tạo vũ trụ, khi đó, Thiên Chúa đã đặt con người vào một ơn gọi hết sức quan trọng: “Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ bỏ cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục (Mc 10: 6-8). Đó là những gì Thiên Chúa nói, và đó là việc Thiên Chúa làm.

Thật vậy, nếu nhìn luật một vợ, một chồng với cái nhìn của tâm lý hôn nhân gia đình, ta sẽ thấy đây là một đòi hỏi hết sức hợp tình, hợp lý, phù hợp với tâm lý sống của con người. Nó không hề đi ngược hoặc mang lại những khó khăn, những phiền toái mà con người không thể vượt thắng được. Ngược lại, nó mang đến cho những cặp vợ chồng một sự đảm bảo, một sự gắn bó hạnh phúc. Trong xã hội loài vật, Thiên Chúa cũng dựng nên những mẫu gia đình mà chỉ một vợ, một chồng, thí dụ, loài chim đại bàng đầu bạc của Bắc Mỹ. Chúng ở với nhau cho đến khi một con chết, và không bao giờ đi lang thang, hoặc cặp kè với những con khác. 

Trở lại vấn đề con người, như khảo cứu đã cho biết, nếu một người đã ly dị một lần, thì có nhiều lý do cho thấy người ấy sẽ ly dị tiếp sau này. Thực tế đã chứng minh nhận xét này, vì có nhiều người ly dị, tái hôn đến ba, bốn, hoặc năm lần mà vẫn không hạnh phúc. Những người này tưởng rằng sau khi đã bỏ chồng, bỏ vợ sẽ gặp được hoàng tử hay công chúa của cõi lòng, nhưng như người Việt Nam đã có câu: “Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”, hoặc:”Chê thằng toét mắt, lấy thằng gù lưng”. Do đó mới có hiện tượng ly dị, tái hôn, và tái hôn, ly dị. 

Ngoài ra, theo tâm lý, một người đã mang tâm trạng cứ thử một lần cho biết, hoặc cứ bước vào đời sống hôn nhân, nếu không thích thì bỏ, thì người này hầu như sẽ kết thúc hôn nhân của họ bằng ly dị. Họ giống như những kẻ mang tâm trạng chán đời, và nuôi ý muốn tự tử. Trước sau, nếu họ không được giúp đỡ kịp thời, thì cũng sẽ kết liễu cuộc đời bằng những cái chết hết sức vô nghĩa. Bước vào đời sống hôn nhân mà còn trông trước, ngó sau, còn mang ý nghĩ muốn thử một lần cho biết, thì trước sau gì, những người này cũng gặp đổ vỡ. Hơn nữa, chứng tỏ rằng họ đã không nghiêm chỉnh, đã không trưởng thành, và không ý thức trách nhiệm về lựa chọn, quyết định, và hành động hôn nhân của mình, những yếu tố để tạo nên hạnh phúc. Và nếu bước vào đời sống hôn nhân như vậy, thì đừng đổ thừa cho Thiên Chúa, mà là lỗi tại mình.

Việc Thiên Chúa đã liên kết trong đời sống hôn nhân, do đó, là một hành động phù hợp với ơn gọi cao quí, cho biết đây không phải là việc làm con trẻ, hoặc một hành động mà con người có thể đùa giỡn. Con người không được phân ly, vì con người không có quyền coi thường đời sống này, hoặc làm khác đi những luật lệ mà Thiên Chúa đã đặt định, thí dụ, con người ngày nay đang muốn lập thành một quy ước hôn nhân cho những người đồng tính. Đây là một việc làm trái ngược, và một hành động phá vỡ luật lệ mà Thiên Chúa đã an bài từ trước. 

Trở lại những gì Chúa Giêsu đã nói về đời sống gia đình, ta thấy rằng, Thiên Chúa hết sức khôn ngoan và thương xót khi đặt định con người vào một cuộc sống hôn nhân tốt lành, và đã ràng buộc, cột chặt họ lại trong sự tốt lành ấy bằng hôn ước bất khả phân ly. Ngài không hề o ép, và không hề áp đặt con người trong sự ràng buộc này. Trái lại, Ngài đã tạo cơ hội cho con người sống hòa hợp và hạnh phúc với nhau. Thử hỏi, nếu Ngài không bảo họ phải nghiêm chỉnh, tránh nhiệm, và trưởng thành với hành động của mình, thì đời sống hôn nhân sẽ đi về đâu, và sẽ như thế nào? Những trái tim tan nát vì tình yêu bị phản bội, những đứa trẻ bơ vơ vì thiếu cha, thiếu mẹ, những cuộc tình vụng trộm, và những cuộc hôn nhân đồng sàng dị mộng sẽ trở thành một nỗi kinh hoàng cho cá nhân, gia đình, và xã hội nếu Thiên Chúa không ràng buộc con người bằng luật bất khả phân ly.

Hôn nhân là một ơn gọi, một chọn lựa, một cửa ngõ dẫn vào hạnh phúc. Nhưng hôn nhân Công Giáo với luật bất khả phân ly còn là một bảo đảm cho tất cả những hạnh phúc ấy, nếu con người đi đúng, và tuân thủ một cách tự nguyện những gì Thiên Chúa đã an bài: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:9).

--------------------------

 

TN 27-B14. Sự Gì Thiên Chúa Đã Kết Hợp, Loài Người Không Phân Ly


 - Lm. Thu Băng

(Mk. 10:2-16)

 

Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về huyền nhiệm hợp nhất giữa hai vợ chồng "Họ không: TN 27-B14


Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về huyền nhiệm hợp nhất giữa hai vợ chồng "Họ không còn là hai, nhưng là một, một thể xác, một tinh thần, một quyền lợi, một một nhiệm vụ." Bởi thế: "Với gia đình họ là một tổ ấm, tổ ấm của nhau, tổ ấm của con cái."

Với học đường họ là nhà giáo dục đầu tiên dạy dỗ con cái trở nên người công dân tốt cho xã hội.

Với Giáo Hội thu hẹp, cha mẹ là cha sở dạy dỗ con cái về Thiên Chúa, ban Đức tin cho con cái qua Bí tích Rửa tội và giúp con cái lãnh nhận các Bí tích khác, lãnh nhận ơn thánh Chúa.

Với nhiệm vụ Chúa trao, họ chính là Thiên Thần Hộ Thủ mà hôm nay Giáo Hội mừng kính cách riêng.

Hôm nay tôi cũng muốn nhấn mạnh đến vai trò hộ thủ, vai trò gìn giữ canh phòng mà Chúa đã trao phó cho các bậc làm cha làm mẹ:

Đức Tin dạy có các Thiên Thần luôn ở bên để bênh đỡ, chỉ dạy chúng ta khi còn sống. Trong Sách Tân Ước cũng như Cựu Ước có đều nói Chúa đã cho mỗi người sinh ra trong trần gian một Thiên Thần canh giữ. Chúa Kitô gọi các con trẻ đến với Ngài, Ngài nói rằng: "Thiên Thần của chúng hằng thấy mặt Cha Ta ở trên trời". Vì lý do ấy thánh Jêrônimô ca tụng: "Các linh hồn thật là cao quý, vì mỗi linh hồn được Thiên Chúa cắt cử riêng một Thiên Thần để canh giữ, nhắc nhở". Thánh Tôma cũng quả quyết: "Mỗi quốc gia, mỗi đô thị, mỗi dân tộc, mỗi tu viện cũng như mỗi người, đều có Thiên Thần gìn giữ".

Các Thiên Thần là tướng lãnh trên thiên đàng, các ngài có sứ mạng dẫn dắt chúng ta trên đường hoàn thiện. Ở mỗi nơi, mỗi chỗ, cả ngày cũng như đêm, các ngài không lúc nào rời chúng ta, ngay cả những khi chúng ta phạm tội phản nghịch cùng Chúa.

Khi chúng ta cầu nguyện, các Đấng có nhiệm vụ dâng những kinh nguyện của chúng ta lên trước tòa Chúa để kéo muôn ơn phước xuống cho chúng ta. Lúc ta lâm nguy hoặc gặp điều nan giải, các Đấng sẽ lo cho chúng ta như cha mẹ lo cho con cái.

Thử hỏi từ thuở sinh ra đến nay:

- Nhờ ai mà ta biết Chúa và tấn tới trên đường trọn lành, tấn tới trên đường sống đạo ?

- Nhờ ai mà người có tội được phục thiện và vững vàng tin tưởng Chúa trước mọi đe dọa ? 

- Chính là nhờ các Thiên thần hộ thủ săn sóc, giúp đỡ, che chở, cầu thay nguyện giúp chúng ta vậy.

- Theo ông Hamon thì: "Mỗi khi Thiên Thần hoàn thành một công tác cứu rỗi nào, thì các ngài về trời mừng đại lễ cám ơn Chúa".

Hỡi những người được Thiên Chúa mời làm cha, làm mẹ, quí vị hãy nghe Đức Hồng Y Wyzinsky nói về cha mẹ ngài những lời này: "Tôi  mạnh dạn nói rằng: "Mẹ tôi chính là vị thiên thần sống bên tôi từ giây phút đầu tiên cuộc sống của tôi và cha tôi cũng chính là thiên thần che chở tôi từ khi tôi được chào đời".

Vậy thì khi con cái gọi quí vị là Thiên Thần cha, Thiên thần mẹ cũng không sai, vì chính Thiên Chúa đã trao cho quí vị sứ mạng thương yêu, giáo dục, an ủi, cửu thoát và bảo toàn hồn xác con cái từ chiếc nôi lọt lòng cho đến nấm mồ an nghỉ cuối đời và cũng chính quí vị là thiên thần hướng dẫn con cái trên con đường về thiên đàng nữa.

Xin quí vị hãy gắng dạy cho con cái: tình thương mến, thảo kính, cởi mở, dễ dạy với mọi người .... Vì quí vị là Thiên Thần Chúa đã trao trách nhiệm chăm sóc con cái nên con của Thiên Chúa. Cha mẹ là khuôn vàng thước ngọc đưa con cái đi trúng và vững trên đường cứu rỗi.

Hỡi những kẻ làm con, hãy vâng nghe cha mẹ với tình con thảo, hãy để cho lời cha mẹ lọt vào lòng, nghĩa là hãy trở nên một người con ngoan thảo, yêu thương và kính trọng cha mẹ vì các ngài chẳng những lả cha là mẹ mà còn là Thiên Thần của Chúa canh giữ chúng con, chỉ dạy chúng con nên con của Thiên Chúa. Hãy luôn tỏ lòng hiếu thảo, kính yêu các ngài cho xứng vị làm con.

Hôm nay Giáo Hội biệt kính các Thiên Thần hộ thủ. Chúng ta hãy nguyện xin Thiên Chúa cho chúng ta được đầy lòng kính tôn các ngài và xin Chúa ban cho các Thiên thần cha Thiên thần mẹ.... có đầy đủ phẩm cách và đức tính của Thiên thần hộ thủ, để các con cái trọng kính, yêu mến, vâng nghe ... và ngày sau cả cha mẹ, con cái được cùng nhau xum họp vui vầy bên toà Chúa.

--------------------------

 

TN 27-B15. THÁNH HOÁ TRONG CHÂN LÝ


 - Lm. Minh Vận

 

Chị Bernadette là người được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra nhiều lần lại hang đá Lộ Đức: TN 27-B15


Chị Bernadette là người được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra nhiều lần lại hang đá Lộ Đức Nước Pháp. Để được ẩn mình ở nơi thanh vắng, chuyên việc chay tịnh cầu nguyện và sống trọn cuộc đời cho Chúa và Đức Mẹ, Chị đã thánh hiến đời mình trong chốn tu viện Dòng Kín ở Nevers. Một ngày Chúa Nhật trong năm 1876, một Chị Nữ Tu đưa cho Bernadette xem bức ảnh người ta đã chụp Chị ở hang đá Lộ Đức trước đây, để xem phản ứng của Chị thế nào.

Đang khi chăm chú nhìn bức ảnh của mình, đột nhiên Chị Dòng Bernadette hỏi:

- Người ta dùng cái chổi để làm gì Chị nhỉ?

- Để quét nhà.

- Quét xong họ để chổi ở đâu vậy Chị?

- Để ở góc nhà, sau cánh cửa, chỗ cư trú thường lệ của nó.

- Đời em cũng thế Chị ạ. Đức Mẹ đã dùng em, rồi để em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm, và em muốn ở yên trong chỗ đó mãi.

I. DIỄM PHÚC CỦA TÂM HỒN BÉ THƠ

Phần thứ hai của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, sau khi Chúa đã minh xác lập trường của Chúa với những người biệt phái, về mục đích của Hôn Ước Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu khi tạo dựng con người, người ta đưa các trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để được Chúa chúc phúc, nhưng họ lại bị các môn đệ khiển trách. Thấy thái độ của các môn đệ, Chúa không bằng lòng nên phán bảo các ông: "Hãy để các trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những kẻ giống như chúng". Rồi Chúa còn nhấn mạnh thêm: "Thật, Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào Nước đó". Rồi Chúa âu yếm ôm hôn chúng và chúc lành cho chúng.

Căn cứ vào thái độ thương mến Chúa dành cho các trẻ thơ và lời quả quyết của Chúa: "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng", cho chúng ta thấy con đường thơ ấu thiêng liêng của Tin Mừng là cần thiết, để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa.

Bài Tin Mừng thứ bảy vừa qua, cũng nhắc lại cái diễm phúc của những tâm hồn bé nhỏ khiêm nhu, mới được Chúa mạc khải mầu nhiệm Nước Trời, cái diễm phúc mà những kẻ kiêu căng tự phụ không bao giờ được nếm hưởng. Hơn nữa, Chúa còn đòi buộc chúng ta phải biến cải và trở nên như con trẻ, như một điều kiện khẩn thiết để được vào Nước Trời: "Nếu không trở nên như con trẻ, các con không được vào Nước Trời" và "Ai không tiếp nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, cũng sẽ không được vào Nước đó". Tại sao? Thánh Giacobê trả lời cho chúng ta: "Chúa ban ơn cho người khiêm hạ, nhưng chống lại kẻ kiêu căng" (Jac 4:6).

II. M”U GƯƠNG BÉ NHỎ KHIÊM HẠ

Chính Chúa Kitô đã tự trở nên mẫu gương bé nhỏ khiêm hạ cho chúng ta noi theo bắt chước, như một hấp lực lôi cuốn, chinh phục và cảm hóa chúng ta. Nhiều nơi trong Tin Mừng được Chúa nhắc đi nhắc lại sự khẩn thiết này, khi thôi thúc kêu gọi chúng ta noi theo: "Các con hãy học cùng Cha, vì Cha dịu hiền và khiêm hạ trong lòng". Chúa còn tự hạ mình xuống như một người tôi tớ, khi quì xuống rửa chân cho các Tông Đồ tại nhà Tiệc Ly, để như một mẫu gương sống động có sức đè bẹp tâm trí kiêu căng tự phụ, chỉ muốn trồi mình lên trên kẻ khác, chiếm địa vị ưu tiên, đoạt chỗ nhất trong cộng đồng, vì các ngài luôn tranh dành nhau xem ai là người cao trọng hơn... Tấm gương ấy đã làm rung động con tim, khuất phục ý chí và cảm hóa tâm hồn các ngài. Sau khi chiếm được lòng cảm mến sùng mộ, Chúa mới lên tiếng âu yếm nhắn nhủ: "Hỡi các con nhỏ của Thầy, các con gọi Ta là Chúa và là Thầy thì rất phải. Thầy có như vậy thật; vậy nếu Thầy là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy bắt chước mà rửa chân cho nhau". Vậy: "Ai trong các con là Thủ Lãnh thì hãy tự hạ làm tôi tớ mọi người; cũng như chính Thầy đã không đến để được người ta phục vụ, nhưng để trở nên tôi tớ phục vụ mọi người và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mt 20:28).

Thánh Tông Đồ Phaolô đã đề cao mẫu gương khiêm hạ của Chúa Cứu Thế, khi viết cho các Tín Hữu Giáo Đoàn Do Thái trong bài đọc hai hôm nay: "Anh chị em thân mến, Đấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần là Đức Giêsu Chúa chúng ta" và "Người đã không hổ thẹn gọi chúng ta là anh chị em của Người", mặc dầu chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi.

III. ĐỂ ĐẠT TỚI ĐÍCH THÁNH THIỆN

Để đạt tới Đích Thánh Thiện của ơn gọi đặc biệt, được Chúa tuyển chọn thánh hiến cuộc đời cho Chúa, chúng ta hãy sống theo con Đường Thơ Ấu của Tin Mừng Chúa đã dạy và nhất là hãy sống theo mẫu gương khiêm hạ Chúa đã thực hiện.

Mặc dầu là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả, toàn năng, thánh thiện, Chúa đã nhập thể làm người mặc xác phàm nhân như chúng ta, trở nên con thơ bé nhỏ làm con Đức Trinh Nữ Maria, là một thụ tạo chính Ngài tạo dựng. Sống cuộc đời làm con, hằng suy phục Mẹ như một người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Mẹ.

Thánh Montfort đã ngây ngất sung sướng kêu lên trước tấm gương khiêm nhu bé nhỏ của Chúa Cứu Thế và cái diễm phúc của các linh hồn bé thơ được Chúa hài lòng: "Ôi linh hồn nào noi theo gương mẫu Chúa Giêsu trong sự thuần phục Mẹ Maria, thì làm vinh danh Chúa đến chừng nào!" (T.T.S.K.M.)

Kết Luận

Trước mẫu gương khiêm hạ vô cùng của Chúa Kitô, chúng ta hãy quyết tâm sống đời bé thơ thiêng liêng của Tin Mừng như Chúa đã dạy:

1. Thâm tín sự hư vô bất lực của mình trong mọi lãnh vực và cố trở nên bé nhỏ, thơ ngây ngoan thảo với các Bề Trên, để các vị đại diện Chúa dễ dàng giáo huấn, dẫn dắt chúng ta trên đường thiêng liêng.

2. Là những vị hữu trách, những nhà Tông Đồ, chúng ta hãy trở nên như người tôi tớ vô dụng phục vụ mọi người, như Chị Thánh Bernadette chỉ tự nhận mình là một cái chổi.

3. Nhất là chúng ta hãy trở nên một Giêsu Bé Thơ người con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng giúp chúng ta trở nên thánh thiện như Giêsu Con Mẹ, vì theo Thánh Phaolô: "Đấng thánh hóa và người được thánh hóa cả hai chỉ có một nguồn gốc". Do đó, trở nên Chúa Giêsu là chính mục đích của đời sống chúng ta vậy.

--------------------------

 

TN 27-B16. Hãy gìn giữ hạnh phúc - Lm. Vũ Xuân Hạnh

 

Có lần đọc trên báo một tâm sự của một cô gái trẻ viết về nỗi đau của gia đình mình. Ngày: TN 27-B16


Có lần đọc trên báo một tâm sự của một cô gái trẻ viết về nỗi đau của gia đình mình. Ngày ấy cô còn bé lắm. Một buổi sáng, còn đang ngon giấc trên giường, bỗng cô nghe bàn tay thô ráp của cha mình gọi dậy. Cha bắt hai chị em cô thay quần áo để cùng cha mẹ ra tòa ly dị. Hiểu được đây là một rủi ro, cô ôm đứa em trai của mình chui vào một góc nhà ngồi khóc tấm tức, cho đến khi cha cô bế xốc hai chị em cô ra xe và chở đi. Còn mẹ đạp xe theo sau mà dòng nước mắt chảy quanh. Trên đường ra tòa, hai ông bà không nói với nhau nửa lời. Cô cũng không thể nhớ trước tòa, cha mẹ cô đã nói với nhau điều gì, nhưng hình như có lúc hai người rất to tiếng với nhau. Chỉ biết sau phiên tòa, cô theo mẹ, còn em trai của cô thì theo cha. Căn nhà, nơi mà chị em cô đã từng được hưởng những ngày hạnh phúc, người khác đã mua. Thế rồi chị em cô cũng lớn lên. Ngày cô lên xe hoa, không có sự hiện diện của cha cô. Ngày hạnh phúc nhất của đời người con gái, cũng lại là ngày cô tủi thân nhất. Suốt tuổi nhỏ, cô đã không có cha ở bên cạnh yêu thương, dạy dỗ, chăm sóc, đã là một mất mát. Bây giờ lên xe hoa theo chồng, không có mặt cha, cô càng hụt hẫng. Dường như tình cha trong cô không còn chút nào nữa. Em trai của cô bây giờ đang ở tuổi thanh niên. Rồi đây, nó cũng sẽ lập gia đình. Cô tin rằng, ngày đám cưới của em không đầy nước mắt như ngày đám cưới của cô. Cô tha thiết ước mong, cha mẹ cô cố nén giận, cố nén tự ái để mà tham dự đầy đủ, để em cô được vui và không mặc cảm bị bỏ rơi như chính cô.

Đọc những lời trên đây của cô gái trẻ, tôi có cảm giác, cô không chỉ viết cho cha mẹ mình, mà hình như viết cho những ai đang làm cha, làm mẹ, và tất cả những người sẽ sống đời sống gia đình, sẽ làm cha, làm mẹ, để họ hiểu rằng, hạnh phúc gia đình là do chính vợ chồng tạo ra, nhưng hạnh phúc gia đình mất thì không chỉ gây bất hạnh cho chính vợ chồng, mà còn gây đau khổ cho những người liên hệ, cụ thể là những đứa con mà vợ chồng sanh ra nó. Bởi những đứa con thay vì có đủ cha mẹ, lại trở thành những đứa trẻ mồ côi. Thú thật, không có gì bi đát cho bằng mồ côi cha mẹ trong khi cha mẹ còn sống. nếu mồ côi thật sự, đứa bé có thể chấp nhận được, vì nó biết rõ, cha mẹ nó đã chết. Nhưng đàng này, cha mẹ nó còn sống mà nó phải thiếu cha hoặc thiếu mẹ.

Nhưng không phải tự dưng mà tôi nói đến gia đình, nói đến bất hạnh của việc vợ chồng bỏ nhau. Đúng hơn, do chính Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta. Bài đọc I, trích sách Sáng Thế diễn tả lời vui mừng của Ađam khi lần đầu tiên thấy Evà: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Ngay từ khởi đầu của nhân loại, Ađam, Evà đã ý thức được sự cao cả của tình yêu vợ chồng. “Xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” nghĩa là gì? Nghĩa là vợ chồng phải gắn bó với nhau như xương với thịt, đúng hơn: như xương trong thịt và thịt gắn chặt vào xương. Bởi thế, không thể tách xương ra khỏi thịt, hoặc tách thịt ra khỏi xương mà không gây đau đớn, không gây tê tái cho nhau.

Còn trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nhắc ta về sự chung thủy của vợ chồng một cách dứt khoát hơn, nhấn mạnh hơn: “Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly”. Rõ ràng, trong lời dạy này, Chúa nhấn mạnh, hôn nhân là do Thiên Chúa muốn. “Thiên Chúa liên kết” kia mà! Do đó, nếu ai manh tâm phản bội vợ hay chồng của mình, phản bội hạnh phúc gia đình mà chính mình tạo ra, người đó cũng bắt đầu động chạm đến Thiên Chúa, vì đã cố tình đi ngược ý Thiên Chúa muốn. Nói cách khác, khi xúc phạm đến hôn nhân, không đơn thuần chỉ là xúc phạm đến những người có liên quan, mà còn xúc phạm đến chính Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra, chúc lành cho hôn nhân và làm cho hôn nhân trở nên tốt đẹp.

Ước mong các gia đình luôn luôn là mái ấm của tình yêu thương. Đặc biệt, gia đình Công giáo hãy là những mái ấm thật sự, nơi mà mọi người trong đó đều cảm thấy được yêu thương, vỗ về và cảm nhận hạnh phúc mà ngoài mái ấm gia đình ra, mình không thể tìm ở bất cứ nơi đâu. Những gia đình Công giáo phải là những gia đình đùm bộc nhau, để không còn cảnh ngay cả nhìn mặt nhau cũng không có, không còn cảnh vợ chồng bỏ nhau, không còn cảnh có những đứa con ôm nhau mà khóc vì cha mẹ chúng bất hòa, không còn cảnh những đứa con phải mồ côi cha mẹ trong khi cha mẹ còn sống, hay thiếu vắng cha mẹ trong ngày vui của những đứa con mà lẽ ra cả hai đều phải hiện diện, nhưng chỉ vì tự ái mà điều ấy đã không xảy ra.

Trên hết tất cả, chúng ta hãy để cho Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn mình, để Lời Người dạy thực sự là lời thúc bách ta trong từng ngày sống của mình: sống làm sao đúng với mục đích của hôn nhân: Sinh con và giúp đỡ lẫn nhau. Ta hãy nhớ rằng: “Sự gì Thiên Cha đã liên kết, loài người không được phân ly”, để gia đình mãi mãi là gia đình hạnh phúc, và mọi người trong gia đình mãi mãi hưởng bình an.

--------------------------

 

TN 27-B17. Tính cách vĩnh viễn của hôn nhân


- Phó tế Jos. Phạm Ngọc Ngôn

 

Trên hành trình tiến về Giê-ru-sa-lem, sau khi rời bỏ Ca-phac-na-um, Chúa Giê-su cùng các: TN 27-B17


Trên hành trình tiến về Giê-ru-sa-lem, sau khi rời bỏ Ca-phac-na-um, Chúa Giê-su cùng các môn đệ đến miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan. Thánh Mác-cô hẳn phải tinh ý lắm mới giúp cho chúng ta khám phá một điểm độc đáo trong Tin mừng của Ngài, đó là việc Chúa Giê-su đến miền Giu-đa - nơi được xem là “thành đô Thiên Chúa” của người Do-thái, nơi tập trung cư dân Do-thái sống quanh thủ đô Giê-ru-sa-lem để rồi từ chính nơi trung tâm tôn giáo này, Chúa Giê-su chạm trán với những người Pha-ri-sêu - những vị lãnh đạo về tinh thần và là thầy dạy của người Do-thái với cái bẫy “gài sẵn” được giăng ra hòng đưa Chúa Giê-su vào tròng để có cớ kết án Ngài: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?”.

Quan điểm của Đệ nhị luật và của người Pharisêu về vấn đề ly dị

Một khoản luật về vấn đề ly dị được lưu truyền rất lâu trong dân Do-thái có từ thời Mô-sê và được ghi lại trong sách Đệ nhị luật với đại ý là một người đàn ông đã lấy vợ, đã ăn ở với vợ rồi nhưng vì trong quá trình chung sống, xét thấy người vợ sống không tốt với mình hoặc thấy có điều gì không hay ở nơi nàng, thì người chồng được phép viết chứng thư ly dị, trao tận tay người vợ và đuổi nàng ra khỏi nhà (x. Đnl 24, 1tt). Người Do-thái căn cứ vào đây để có thể tha hồ đối xử tệ bạc với người vợ của mình, vì… đã có luật rồi cứ thế mà làm!. Đàng khác, vào thời Chúa Giê-su vẫn lưu truyền hai trường phái quan niệm khác nhau về vấn đề ly dị, một của trường phái Hillel và một của trường phái Sammai.

Trường phái Hillel là trường phái chủ trương tự do, cấp tiến. Họ chủ trương rằng được phép rẫy vợ với bất cứ lý do nào, cho dù chỉ một việc rất nhỏ (điều này rất hay xảy ra trong gia đình) làm chướng tai gai mắt “đức ông chồng” là có thể nhận được chứng thư ly dị và bị đuổi ra khỏi nhà ngay lập tức.

Trường phái Sammai, trái lại, chủ trương bênh vực quyền lợi của người phụ nữ đang bị xã hội của những người đàn ông thống trị. Trường phái này chỉ chấp nhận cho phép rẫy vợ trong trường hợp người vợ “mèo mỡ” hay nghi ngờ về lòng thuỷ chung.

Dù ở trường phái nào đi nữa, chúng ta thấy thân phận người phụ nữ, người vợ trong xã hội Do-thái lúc bấy giờ rất hẩm hiu. Họ có thể bị đuổi ra khỏi nhà không biết lúc nào, đôi khi chỉ vì một bóng hồng nào đó lưới qua trong trái tim của đức lang quân cũng đủ để gây cớ cho nàng mất vai trò làm vợ, làm mẹ.

Quan niệm của Chúa Giêsu về vấn đề ly dị

Đứng trước cái bẫy giăng sẵn của người Pha-ri-sêu mà họ tin chắc rằng Chúa sẽ sập vì dù Ngài có chọn trường phái nào thì chăng nữa thì Ngài cũng là người hoặc theo cấp tiến hoặc theo bảo thủ đối với lề luật thánh. Và như thế ai còn có thể tin, để rồi tuôn đến học hỏi nơi Ngài nữa.

Chúa Giê-su trả lời họ bằng một câu hỏi: “Thế ông Mô-sê đã dạy các ông điều gì?”. Hỏi câu hỏi này, Chúa Giê-su biết chắc rằng họ sẽ trả lời dựa vào lệnh truyền của Mô-sê đã được ghi trong Đệ nhị luật. Thế như đó chỉ là cái cớ để dựa vào đó, Ngài nại đến một thế lực cao trọng hơn luật Mô-sê để giải thích lề luật. Ơ đây, Chúa nại đến ý định ban đầu của Thiên Chúa được trích trong sách Sáng thế (bài đọc 1), đó là “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt” để từ đó, Ngài đưa đến kết luận: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.

Như thế, người nam và người nữ phối hợp với nhau nên vợ nên chồng có một nền tảng vững chắc từ trong ý định nguyên thuỷ của Thiên Chúa. Đây là một nền tảng vững chắc nhất về hôn nhân của nhân loại. Từ nay dựa vào nền tảng này, có thể thấy được rằng hôn nhân của con người là cuộc hôn nhân mà ở đó khi đã kết hợp, người nam và người nữ sẽ trở thành “một xương một thịt”, làm thành một tế bào sống xuất phát trong tương quan tình yêu, giới tính và trách nhiệm.

Chính vì thế, chúng ta thấy rằng việc rẫy vợ dù có tạo ra bất cứ lý do gì vẫn không huỷ bỏ ý định ban đầu của Thiên Chúa cũng như tính cánh vĩnh viễn của mối dây hôn nhân. Nguyên tắc ở đây là sự miễn chuẩn (hôn nhân) không bao giờ huỷ bỏ luật căn bản- luật phát xuất từ thánh ý Thiên Chúa.

Trong một xã hội mà ở đó gia đình luôn phải đương đầu với bao nhiêu thách đố: ly dị, phá thai, đồng tính luyến ái,… Lời Chúa hôm nay - hơn bao giờ hết- đặt ra cho mỗi người Kytô hữu chúng ta một sự lựa chọn. Vẫn biết rằng gia đình- tự bản chất- là thánh thiêng nhưng đồng thời cũng rất mỏng giòn dễ đổ vỡ nên cũng rất cần được quan tâm chăm sóc và hướng dẫn của hết mọi người. Thiết nghĩ mục vụ về gia đình ngày hôm nay đặt ra cho mỗi người chúng ta không chỉ chú trọng đến giáo lý về hôn nhân mà còn cần phải hướng dẫn cho những thanh niên thiếu nữ chuẩn bị bước vào đời sống gia đình có được một kiến thức khả dĩ bao có thể, giúp họ vững tin hơn bước vào đời sống hôn nhân và ra sức xây dựng gia đình theo giáo huấn của Chúa và Giáo hội.

--------------------------

 

TN 27-B18. GIA ĐÌNH LÀ NỀN TẢNG CỦA XÃ HỘI VÀ CỦA GIÁO HỘI


 - Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

 

Một số người Pha-ri-sêu đến gần Chúa Giêsu. Họ đặt câu hỏi về việc ly dị để bẫy Người:: TN 27-B18


Một số người Pha-ri-sêu đến gần Chúa Giêsu. Họ đặt câu hỏi về việc ly dị để bẫy Người: “Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?”. Nhưng Chúa Giêsu trả lời bằng một câu trả lời khác bắt họ nhìn nhận công khai rằng đó không phải là một điều quy định trong luật Môisen, nhưng là một điều cho phép. Bấy giờ, Chúa Giêsu tuyên bố rằng sở dĩ ông Môisen cho phép viết chứng thư mà rẫy vợ vì họ lòng chai dạ đá. Nhưng lời miễn chuẩn này không hủy bỏ được Luật căn bản.

Dù truyền thống Do-thái có cổ xưa đi chăng nữa, Chúa Giêsu nhắc lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa khi kể lại câu chuyện trong sách Sáng Thế (bài đọc 1). Bằng những hình ảnh đơn sơ, nhiều tưởng tượng nhưng đầy ý nghĩa như truyện “Một mẹ trăm con” của dân tộc Việt Nam, tác giả sách Sáng Thế giúp chúng ta khám phá ra những chân lý căn bản và sâu sắc về đôi vợ chồng cũng như về gia đình.

1/ “Đàn ông ở một mình không tốt”. Câu này làm đề tài cho nhiều cuộc tranh luận sôi nổi cũng như nhiều chuyện phiếm khôi hài. Thực ra, đây là bản văn cũ dịch sai! Tên Adong hay Adam có nghĩa là “con người”, là nhân tính; dịch ra tiếng Anh là “man”, tiếng Pháp là “homme”. Chữ này có hai nghĩa: con người và đàn ông. Do đó câu dịch đúng sẽ là: “Con người ở một mình không tốt”. Con người sinh ra là để sống chung với nhau (với gia đình, đoàn thể, xã hội), chứ không thể sống lẻ loi một mình.

2/ Hình ảnh ông Adong ngủ say khi Chúa tạo dựng bà Evà là một biểu tượng gồm nhiều ý nghĩa: “người khác” vẫn là một điều bí mật; tác động của Chúa luôn là một mầu nhiệm; chính Chúa sáng tạo chứ không phải con người.

3/ Đàn ông và đàn bà được dựng nên bình đẳng như nhau vì được dựng nên từ cùng một xương, một thịt, cùng một nhân tính.

4/ Đôi vợ chồng phải sống trong sự hợp nhất sâu sắc và bất khả phân ly. Sự hợp nhất ấy được biểu lộ qua sự sinh sản. Con cái chẳng phải là “một thân thể” xuất phát từ tình yêu vợ chồng hay sao?

Sự hợp nhất chủ yếu này phải đuợc duy trì và bảo vệ bằng mọi giá, vì đó là ước muốn của Thiên Chúa đối với đôi vợ chồng cũng như đối với gia đình. Vì thế, Chúa Giêsu mạnh mẽ xác nhận: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Người đến để khôi phục sự sáng tạo theo lệnh truyền của Đấng Tạo Hóa.

Thế nhưng, những người Do-thái giải thích bản văn của sách Sáng Thế về đôi vợ chồng theo lối của họ. Những người Pha-ri-sêu tự cho phép tránh luật Chúa và đề xuất một vài luật trừ. Theo hướng của các ngôn sứ, Chúa Giêsu trở về nguồn và phản đối những giải thích sai lầm của họ: “Tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?... các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa?” (Mt 15,3-6).

Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội nói về gia đình và cầu nguyện cho gia đình. Gia đình là nền tảng của xã hội và của Giáo Hội. Thiên Chúa là nguồn sự sống, nhưng tình yêu vợ chồng làm sự sống đó được sinh ra; gia đình là ngôi vườn làm sự sống được phát triển và nở hoa. Và gia đình cũng là nơi tự nhiên để truyền đạt đức tin và rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu cũng cần một gia đình để sinh ra, lớn lên và phát triển về nhân tính. Cha Stan Rougier có nói: “Nếu Thiên Chúa phát minh gia đình, bởi vì gia đình giống Người. Thiên Chúa của Kitô hữu không đơn độc. Người cần có ba (3) để thành Thiên Chúa”.

Nhưng trong đời sống, không có con đường nào ngay thẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Gia đình không thể tránh được những thử thách, những khó khăn. Trong hôn nhân, chung thủy và tha thứ luôn gắn bó với nhau, vì cả hai cùng một nguồn gốc. Khi chồng hoặc vợ tha thứ cho người bạn mình vì để muốn tỏ cho bạn mình rằng cuộc sống ngày mai sẽ khác ngày hôm qua. Tha thứ không phải chỉ là quên những chuyện quá khứ, nhưng còn cao xa hơn nữa: tha thứ là để muốn cùng nhau tiếp tục xây dựng tương lai. Gia đình luôn là nơi cao trọng của tình yêu con người, của tình yêu lâu bền, chung thủy, mạnh hơn cả những thử thách và thất bại.

Hôm nay, Chúa nhắc chúng ta không nên phán xét và kết án. Chúng ta hiểu rõ rằng luật xã hội và luật Giáo Hội rất cần thiết, nhưng sự phán xét của Chúa không bị giới hạn trong sự phán xét của loài người. Người nhìn xa và rộng hơn.

Xin Chúa chúc lành và ban ơn cho gia đình chúng ta được luôn sống thương yêu nhau trong sự trung thành, trong sự tin tưởng, nhẫn nại và tha thứ. Ước gì tất cả chúng ta, gia đình chúng ta là những chứng nhân của Chúa, chứng nhân tình yêu, bởi vì ở đâu có tình yêu thương, ở đấy có Thiên Chúa hiện diện.

--------------------------

 

TN 27-B19. HAI HỒNG ÂN - Lm Phan Văn Lợi

 

Đoạn Tin mừng hôm nay, với hai giáo huấn luân lý, nằm trong văn mạch nói về chuyện Đức: TN 27-B19


Đoạn Tin mừng hôm nay, với hai giáo huấn luân lý, nằm trong văn mạch nói về chuyện Đức Giêsu 3 lần loan báo việc Người chịu khổ nạn (Mc 8,31-33; 9,30-32; 10,32-34). Việc Mc ghép hai vấn đề này như vậy thật đáng suy nghĩ. Thay vì "lên lớp" dạy luân lý, hoặc trích luật này luật nọ trong KT, ông nhìn nhận chỉ có một nền tảng duy nhất cho đời sống luân lý KTG là tấm gương của Đấng Sáng lập. Các trình thuật loan báo số phận ĐKT chỉ muốn cho thấy chính từ định mệnh của Người, ta sẽ hiểu được những đòi hỏi của Người. Do đó ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống Kitô giáo có những yêu sách quyết liệt, bất khoan nhượng. Và việc thực thi được những yêu sách này là một hồng ân Thiên Chúa.

1. Hồng ân chung thủy trong hôn nhân

Trước hết là vấn đề luân lý hôn nhân. Đức Giêsu trả lời một câu hỏi gài bẫy: "Phải chăng chồng được phép rẫy vợ?" bằng cách cố gắng làm cho các đối thủ, rồi các môn đệ của mình suy nghĩ về hôn nhân như đã được Thiên Chúa đặt ra. Chú ý kỹ, ta có thể thấy ngay là Đức Giêsu gỡ mình khỏi quan điểm pháp lý thuần túy (lề luật có cho phép không?). Sau khi phái Pharisêu thú nhận: Môsê không phải đã "truyền dạy" mà là "cho phép", tức nhân nhượng tạm thời, Đức Giêsu đã tái xác quyết ý định ban đầu của Đấng Tạo Hóa, lên tới tận ý nghĩa sâu xa nguyên thủy của một trong những thực tại nhân loại quan trọng. Việc tìm kiếm ý nghĩa như thế này, điển hình của Tin mừng, thúc đẩy chúng ta trước hết chiêm ngưỡng dự định của Thiên Chúa về hôn nhân, tiếp đến là xin được hồng ân trung tín với dự định đó, vì nó không dễ thực hiện.

Đức Giêsu muốn chúng ta chiêm ngưỡng cái gì? Chiêm ngưỡng hôn nhân như là sáng tạo của Thiên Chúa: "Lúc khởi đầu". Nhân loại sẽ không ngớt đưa ra nhiều nhận xét và luật lệ về vấn đề này, tùy theo sự tiến triển của các phong tục, nhưng Tin mừng bao giờ cũng sẽ đưa chúng ta về lại cái Thiên Chúa đã muốn: một đôi bạn thiết lập trên sự khác biệt phái tính và trên sự chung sống lâu dài.

"Lúc khởi đầu công trình tạo dựng.... Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Đơn giản và mạnh mẽ. Phải bám vào tảng đá đó mỗi khi thấy chuyện tính dục đồng giới, đa thê, ly dị và bất trung, mỗi khi đứng trước các các nổi loạn, các chế nhạo hay các quan niệm khác của trần đời. Dẫu trong nhiều nền văn hóa, thiên hạ nghiêng chiều đến đâu về sự dễ dãi (đặt lại vấn đề lòng chung thủy) cũng như về sự quảng đại (thông cảm đối với những thất bại), Đức Giêsu vẫn đòi phải luôn hướng về lý tưởng ban đầu ấy: một người nam và một người nữ yêu nhau lúc sướng khổ vui buồn, trong thời gian và cho đến vĩnh cửu.

Tình yêu mong manh ban đầu của họ phải biến thành tình yêu không lay chuyển tiếp đó: một hỗn hợp gồm âu yếm, can đảm, bền bỉ và đức tin, sẽ giúp họ đứng vững trong các cơn giông tố hay, đôi lúc tệ hơn, trong những ngày nhạt nhẽo, đặc biệt giữa hoàn cảnh bất thuận lợi cho hôn nhân như hiện thời. Hôm qua, ly dị bị đàm tiếu, và trong các môi trường kitô giáo, người ta chẳng chút thương xót chuyện ấy. Nay thì thiên hạ chấp nhận bất cứ vụ ly hôn nào, coi như một sự cố đơn giản trên hành trình thôi. Nhiều người mất lòng ao ước chiến đấu để cứu vãn một tình yêu, tình yêu của họ hay của những cặp khác.

Chính vì thế mà cần cầu nguyện, vì chiến đấu trước hết và luôn luôn là cầu nguyện. Ở đây cũng vậy, ta có thể không cưỡng được những mỉa mai và thất vọng lúc nói đến chuyện cầu nguyện để cứu vãn một tổ ấm. Nhưng một kitô hữu tin gì nếu không tin vào lời cầu nguyện? Việc cầu nguyện mà chúng ta thực hiện để thay đổi con tim kẻ khác trước hết phải là việc cầu nguyện để thay đổi chính con tim của chúng ta, các suy nghĩ, các lời nói, các thái độ của chúng ta. Nó giữ chúng ta luôn tỉnh thức về sự tiến triển của tình yêu mình. Nó đặt chúng ta lại trước Đức Giêsu, Đấng nói với chúng ta về ý định của Thiên Chúa: một người nam và một người nữ yêu nhau chung thủy. Vì sự trung tín đến cùng trong đời đôi bạn rốt cục là một hồng ân của Thiên Chúa.

Hôm 10/09 vừa qua, đã diễn ra Ngày Hội Các Gia Đình tại quê hương của thánh Phanxicô Khó nghèo. Nhân dịp này, báo chí đã đặc biệt nhắc đến chuyện một cha dòng Phanxicô là "gia trưởng gương mẫu trong một gia đình có 7 người con" mà đa số đã dâng mình cho Chúa. Đó là cha Probo Vaccarini, 81 tuổi, thuộc giáo phận Rimini, thi hành chức vụ linh mục đã 12 năm nay. Năm 1952, chàng thanh niên Probo Vaccarini kết hôn với cô Anna Maria Vannuci. Cả hai sống rất đạo đức, chuyên chăm thờ phượng và làm việc bác ái. Cuộc hôn nhân này vì thế được Chúa chúc lành với 7 người con. Năm 1970, bà Anna qua đời. Thấy con cái đã khôn lớn, ông Probo bày tỏ với giáo quyền ý muốn dâng mình cho Chúa. Sau nhiều thử thách, ông đã trở thành linh mục dòng Phanxicô. Nhưng trong gia đình cha Probo, không chỉ có ngài là linh mục. Ba con trai là Giovanni, Francesco và Giuseppe cũng là linh mục. Con trai thứ tư, Gioacchino, làm thày sáu. Maria Lusia là nữ tu, Maria Celeste thuộc dòng ba Phanxicô và Maria Pia đã kết hôn và có 4 con. (Theo VietCatholic).

2. Hồng ân gia nhập Nước Thiên Chúa

Tiếp ngay sau giáo huấn về hôn nhân, một số cha mẹ đã dẫn con họ đến với Đức Giêsu để "Người đặt tay trên chúng" và họ đụng phải phản ứng thô bạo của các môn đồ: mấy ông thẳng tay xua đuổi. Đức Giêsu bèn lợi dụng cơ hội để đưa thêm một giáo huấn mới: Nước Thiên Chúa được ban cho những người "giống chúng", và ai không đón nhận Nước này "như một trẻ nhỏ", sẽ chẳng được vào. Nhưng "như một trẻ nhỏ" và "giống chúng" nghĩa là gì? Hoàn cảnh lịch sử của Đức Giêsu cũng như của cộng đoàn Mc loại trừ mọi lối giải thích tâm lý học.

Không phải cái mà trẻ em tưởng nghĩ và cách chúng cảm nhận sự vật phải được coi là kiểu mẫu và lề lối. Đúng hơn, tư tưởng Đức Giêsu đi theo chiều hướng xã hội, dựa trên thân phận trẻ nhỏ. Nước Thiên Chúa thuộc về những ai ít được lưu tâm như trẻ nhỏ. Bởi vì trong toàn thể thế giới cổ xưa, kể cả Do thái, trẻ em đặc biệt bị coi như một cái gì chưa hoàn thành, có tính cách chuẩn bị và do đấy, đối với tư tưởng Do thái, là thiếu khả năng để thực thi Lề luật, thành thử câu 10,14 có nghĩa: Nước Thiên Chúa được ban cho những người không đủ khả năng, khờ dại, chả được học hỏi những vấn đề của luật pháp. Nói cách khác: Nước Thiên Chúa không thể chiếm đoạt bằng những tính toán, bằng việc giữ đúng Lề luật. Nó là hồng ân nhưng không, chỉ ban cho ai sẵn sàng chờ đợi và đón nhận nó "như một trẻ nhỏ".

Thành thử lời Đức Giêsu không đề ra cho chúng ta một tấm gương là lối cư xử trẻ con, ngay cả trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Nó cũng chẳng khuyến khích một thái độ ngây thơ sai lạc, một thái độ khiến ta trút cho kẻ khác nỗ lực nên thánh, bổn phận định đoạt số phận bản thân mình ("Con đường thơ ấu" của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu hoàn toàn khác). Đúng hơn, đây là một lời phản đối ý tưởng cho rằng chỉ những ai có khả năng tài giỏi trong những vấn đề Lề luật mới đi vào được Nước Trời. Theo phe các trẻ nhỏ như Đức Giêsu làm ở đây (Người chứng minh bằng lời nói và hành động), thành ra là theo phe tất cả những ai chờ đợi sứ điệp và ơn cứu rỗi của Người cách đơn sơ, vô thành kiến và không bị trói buộc bởi bao truyền thống cổ lỗ, những truyền thống vốn được duy trì với những cấm kỵ và kiêu căng của chúng. Vậy là qua hình ảnh "vị thế" xã hội của trẻ em, Đức Giêsu muốn chống lại mọi tôn giáo muốn tìm cách quản lý hồng ân Thiên Chúa nhờ việc tự thân nỗ lực thực thi các quy tắc luân lý lẫn phụng tự của Lề luật (trường hợp Biệt phái) và như thế là muốn mua lấy hay tạo lấy sự người.

--------------------------

 

TN 27-B20. TIN VUI TÌM LẠI ĐƯỢC CON MẮT THỨ BA


- Lm Anrê Trần Cao Tường

 

Ai lái xe cũng đều biết thế nào là điểm mù. Xe ở xa thì thường dễ thấy, nhưng khi chạy sát bên: TN 27-B20


Ai lái xe cũng đều biết thế nào là điểm mù. Xe ở xa thì thường dễ thấy, nhưng khi chạy sát bên cạnh xe mình thì lại khó thấy nhất. Đó là điểm mù. Đứng núi nọ trông núi kia cao, nên mới sinh đổ vỡ gia đình, tạo ra biết bao thảm cảnh. Đây cũng là dấu chỉ thời đại khi cặp mắt con người bị che mờ bởi những ước vọng càng ngày càng chồng chất và phức tạp đến độ khủng khiếp, chỉ thích tìm những gì ở mãi xa vời mà đánh mất hạnh phúc giản đơn ngay trong tầm tay, ngay trong nhà mình. Con mắt nào mở ra được vào năm 2000?

Đó là tìm lại được con mắt thứ ba, con mắt của tâm, con mắt đơn sơ hồn nhiên như trẻ nhỏ. Chúa Giêsu đã nói rõ: "Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó".

Mẹ Têrêsa đã thể hiện điều trên bên xứ Ấn Độ, không phải bằng những chuyện lớn lao qui mô, mà bằng từng cử chỉ thương yêu nhỏ bé: "Nếu có ai cảm thấy Chúa muốn họ thay đổi cơ cấu xã hội, thì đó là chuyện giữa họ với Chúa. Còn chúng tôi chỉ phục vụ theo kiểu được gọi. Tôi được gọi để phục vụ từng người một, để thương từng người nghèo một, chứ không phải đương đầu với cả guồng máy xã hội. Tôi chẳng phải đóng vai trò phê phán nào cả".

Mẹ đã mang được con mắt của một nhà ảnh đích danh, thấy và chụp được nét Chúa cả nơi những gì đáng sợ nhất. "Một hôm có một thiếu nữ ngoài nước Ấn muốn nhập Dòng Bác Ái. Chúng tôi có điều lệ là ngay ngày hôm sau, người mới tới phải đi thăm Nhà cho những người đang hấp hối. Vì thế tôi bảo cô gái: "Con đã thấy linh mục trong thánh lễ chứ: ngài chạm tới Mình Thánh Chúa Giêsu với vẻ yêu mến và thận trọng. Vậy thì con cũng làm như vậy khi đi thăm nhà cho người đang hấp hối, vì cũng một Chúa Giêsu con sẽ nhìn thấy đó trong những tấm thân èo ọt nghèo khổ."

Và cô ta đi. Sau ba giờ cô ta trở về với một nụ cười thật tươi, tôi chưa bao giờ thấy một nụ cười như thế. Cô nói: "Thưa mẹ, con đã chạm tay được vào thân mình Chúa Kitô trong ba tiếng đồng hồ." Và tôi hỏi cô ta: "Thế nào, con đã làm cái gì?". Cô ta trả lời: "Khi chúng con tới nơi, người ta mang đến một người mới bị té xuống rãnh nằm dí dưới đó một hồi lâu. Người ông ta đầy vết thương, bùn đất và bọ, và con đã lau chùi cho ông ta, con ý thức rằng con đang đụng chạm đến thân mình Chúa Kitô."

Vâng, con tin nhận Lời Chúa là Tin Vui cho thời điểm đời con lúc này. Qua thái độ lắng lòng hồn nhiên trở về nội tâm, mắt con được bật sáng thấy được vẻ kinh ngạc của cuộc đời. Xin cho con tìm lại được con mắt thứ ba, con mắt của tâm, như Hàn Mạc Tử, để thấy được mọi sự, mọi vật, mọi chuyện xảy ra, đều là tiếng của Trời đang giải nghĩa yêu:

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiềuĐể nghe dưới đáy nước hồ reoĐể nghe tơ liễu run trong gióVà để xem Trời giải nghĩa yêu.

--------------------------

 

TN 27-B21. THIÊN CHÚA KẾT HỢP, LOÀI NGƯỜI PHÂN LY


 - Nguyệt San Trái Tim Đức Me

 

Tôi với bà ấy đã cưới nhau được 25 năm. Trong bấy nhiêu năm, tôi đi làm sáu, có khi bảy: TN 27-B21


"Tôi với bà ấy đã cưới nhau được 25 năm. Trong bấy nhiêu năm, tôi đi làm sáu, có khi bảy ngày một tuần, để đủ tiền nuôi sống gia đình. Tôi không hề bê trễ trong việc giáo dục hai đứa con của tôi. Các việc trong nhà tôi luôn giúp bà ấy một tay. Các ngày sinh nhật, kỷ niệm thành hôn tôi không quên một ngày nào. Thế mà cách đây mấy tuần bà ấy nói tôi không còn đáng yêu nữa, và bà quyết định ra tòa để ly dị tôi..."

Theo thống kê của nước Mỹ trong năm 1997, trong khi gần 2,400,000 cặp nam nữ đã trao nhau lời thề ước sẽ "yêu thương và tôn trọng" nhau suốt đời, thì đồng thời cũng có gần 1,200,000 cặp đã dẫn nhau ra tòa để ly dị. Hiện nay trên nước Mỹ, có khoảng hai chục triệu người đã ly dị ít là một lần. Nhìn vào cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, tuy là có phần khá hơn, nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng biết trong số bạn bè thân quyến có người đã ly dị. "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Marcô 10:9), nhưng thực tế cho thấy gần một nửa những lời hôn ước không lâu sau đã đi đến chỗ đổ vỡ. Thiên Chúa kết hợp, loài người phân ly.

Đây không phải là hiện tượng ngày nay mới có. Cả ngàn năm trước khi Chúa Kitô đến, vì sự yếu đuối của con người, Môisen đã cho phép ly dị. Nhưng với sự hiện diện của Chúa Kitô, Đấng đã đến để tái lập ý định nguyên thủy của Thiên Chúa về con người, hôn nhân đã tìm lại được giá trị thánh thiện của nó. Theo thánh ý Thiên Chúa, lời hôn ước của đôi vợ chồng không chỉ là một giao kèo giữa hai người, và vì đó mà hai người có thể tháo gỡ bất cứ lúc nào. Theo giáo lý Công Giáo, hôn nhân có nguồn gốc từ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa thành lập giao ước hôn nhân, và cũng chính Ngài qui định những ràng buộc của giao ước đó. Theo qui định này, hôn nhân Công Giáo có hai mục đích là đôi bạn nâng đỡ nhau trong cuộc đời và sinh thành dưỡng dục con cái' và có hai đặc tính là duy nhất nên một và bất khả phân ly. Thật vậy, Thiên Chúa đặt trong lòng con người ước vọng có một người bạn đường để cùng nâng đỡ nhau, cùng chia vui sẻ buồn trong suốt cuộc đời của nhau. Vì thế, không phải bị thúc đẩy bởi nhục dục lăng loàn hay bản năng mù quáng, nhưng chính là ước vọng muốn được kết hợp nên một đã thúc đẩy hai người nam và nữ tiến đến hôn nhân. Và khi hai người trao nhau lời hôn ước, chính Thiên Chúa đã chúc phúc và nối kết để hai người nên một thân thể. "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly."

Nhìn thoáng qua, có lẽ Thiên Chúa đặt ra một qui định quá khắt khe, nhưng khi tìm hiểu vấn đề, chúng ta phải nhận rằng Ngài có lý khi qui định như vậy. Theo các nhà tâm lý, hai biến cố làm cho con người đau khổ hơn cả là thứ nhất khi vợ hoặc chồng chết, và thứ hai là ly dị. Hai người trong cuộc đau khổ, nhưng những người con của họ có khi còn đau thương tang tóc hơn. Hiệu quả của ly dị thật khó mà lường được. Lời Chúa hôm nay kêu gọi những người đang sống trong đời sống hôn nhân hãy hiểu biết rõ ràng hơn về mục đích và ý nghĩa của hôn nhân Công Giáo. Hơn nữa, hằng ngày họ hãy làm tăng triển và làm mới lại tình yêu họ đã trao tặng nhau trong ngày thành hôn. Có được như vậy, họ sẽ tạo được một cuộc hôn nhân có ý nghĩa, được Thiên Chúa chúc phúc, và họ sẽ có đủ nghị lực để trung kiên với lời họ đã thề hứa với nhau.

Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Người. Ngài tạo dựng họ có nam có nữ, và Ngài đã muốn họ kết hợp nên một để cùng nâng đỡ tương trợ nhau trong cuộc đời. Với tấm lòng của một người Cha đầy lòng nhân ái, Ngài đã ban phúc lành của Ngài trên họ, và Ngài mong rằng họ sẽ có được những chuỗi ngày hạnh phúc bên nhau. Nhưng con người từ mấy ngàn năm nay đã làm cho Thiên Chúa phải thất vọng nhiều. Ước gì với ơn phù trợ của Chúa, các đôi bạn hãy trung tín với lời đoan kết của họ, trung tín với người họ đã tuyển chọn trong yêu thương. "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly."

--------------------------

 

TN 27-B22.  TÌM LẠI SỰ NGẠC NHIÊN


Mark Link S.J.

Bài đọc:St 2: 18-24 ; Dt. 2: 9-11 ; Mc 10: 2-16.

Chủ đề: Biết ngạc nhiên như trẻ thơ là trọng tâm mọi lời cầu nguyện và tôn thờ.

 

Mấy năm trước, tờ Chicago Tribune  (Diễn đàn Chicago) có đăng bài viết của Amelia Bahl nhan: TN 27-B22


Mấy năm trước, tờ Chicago Tribune  (Diễn đàn Chicago) có đăng bài viết của Amelia Bahl nhan đề: “Đi đạo với Bà Tôi”. Bài được viết theo thể đối thoại như sau;

Ricky hỏi: Thưa bà tại sao cây lại thay lá vào cuối mùa hạ?

Bà trả lời: Vì những lá cây cũ mèm xơ xác rồi, cần mặc lấy lá mới.

-        Những lá mới từ đâu đến vậy?

-        Từ sâu dưới lòng đất, bà mẹ thiên nhiên luôn bận bịu chuẩn bị lá mới cho chúng

-        Bà ơi,  có bao giờ bà thấy bầu trời giống như một hồ nước úp lộn ngược không?

-        Và những áng mây bé tí kia trông giống những chiếc thuyền buồm phải không nào?

-        Cháu thắc mắc chả hiểu chúng dương bồm đi về đâu?

-        Có lẽ đi dự “hội mây” đó cháu.

-        Chúng sẽ làm gì ở đó nhỉ?

-        Có lẽ để quyết định xem trái đất có cần mưa thêm không?

-        Chà! Chúa lo lắng tất cả mọi sự, bà nhỉ?       

***

Bà của Richy thực là một kiểu mẫu người lớn hoàn hảo. Bà không bị mất cảm thức của mình về những điều ngạc nhiên của trẻ thơ. Biết ngạc nhiên là biết nhìn thấy sự vật giống như trẻ con nhìn thấy chúng. Là biết đặt ra những câu hỏi tương tự như trẻ con thường hỏi. Biết ngạc nhiên là biết nhìn mọi sự như chúng ta nhìn chúng lần đầu tiên, nghĩa là nhìn chúng với sự tươi mát lần đầu, toả ra sự mới mẻ từ đôi tay tạo dựng chưa hề bị tì ố của Chúa. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào một cánh đồng cỏ ướt đẫm sau cơn mưa và nhận ra những dấu chân của Chúa trên đó. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào đôi mắt trẻ thơ và nhận ra dấu tay của Thiên Chúa ẩn chứa trong đó.

Có một ví dụ thú vị cho vấn đề chúng ta đang bàn được thấy trong quyển sách của Charles Colson tựa đề (Tái sinh) “Born Again” (Sinh lại). Colson một trong những người bị kết án trong vụ Watergate của tổng thống Nixon vào thập niên 1970. Về sau, ông đã trở lại đạo Chúa. Sự trở lại này đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn ông mãi đến hôm nay.

Trong một đoạn sách của mình, Colson đưa chúng ta lùi về quá khứ 20 năm trước để tham dự một mùa hè thú vị mà ông đã trải qua cùng hai cậu nhóc, con của ông. Ông đã mua cho chúng một chiếc thuyền buồm dài 14 bộ (quãng 4 mét rưỡi) và đem nó ra hồ. Khi cả ba đến bờ hồ, một cơn mưa phùn nho nhỏ của mùa hạ bắt đầu lất phất. Tuy nhiên điều này chẳng làm cho họ quan tâm.

Sau khi thuyền rời khỏi bến, họ chỉ còn nghe thấy tiếng nước vỗ mạn thuyền và tiếng chiếc buồm sũng nước vỗ phành phạch trong gió. Cậu bé Chris, 10 tuổi được giao nhiệm vụ điều khiển chiếc thuyền. Khi nhận thức được vai trò thuyền trưởng của mình, gương mặt cậu bé trông mới rạng rỡ làm sao! Ánh mắt cậu toé lên nỗi hào hứng khi biết rằng cậu đang nắm trong tay quyền điều khiển sức mạnh của gió. Nhìn vào khuôn mặt và ánh mắt cậu con trai, Colson hết sức sửng sốt. Lúc đó, ông tâm sự với Chúa và ông vẫn còn nhớ mãi  những lời tâm sự ấy:

“Lạy Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho con đứa con trai này, đã ban cho con giây phút kỳ dịêu này. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt đứa nhỏ này, đời con đã thoả mãn rồi. Trong tương lai, dù có xảy đến điều gì cho dẫu ngày mai con có phải chết, thì đời sống của con kể cũng đã mãn nguyện lắm rồi. Tạ ơn Chúa”.

Sau đó, Colson ngạc nhiên vì điều ông vừa làm. Trước đó, ông đâu có tin rằng Thiên Chúa có bản ngã, thế mà trong ngẫu hứng, ông lại thưa chuyện với Ngài như một Đấng có bản ngã. Trong niềm vui vào giây phút ấy, tim ông đã vượt khỏi trí não để biểu lộ lời xác nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu ngã. Qua chính những lời cầu nguyện của mình, ông khám phá rằng dù ông chưa chứng minh được cho mình rằng có Thiên Chúa, ông vẫn có thể thưa chuyện với Ngài. Làm sao ông có thể thưa chuyện với Ngài được nếu không phải là tận thâm sâu tâm hồn ông vẫn ý thức rằng có ai đó đang lắng nghe ông từ một nơi nào đó. Thực thế, vào buổi trưa hè mưa phùn ấy, Colson đã khám phá ra cho mình điều mà các tác giả linh đạo luôn nhất  trí với nhau, đó là: Sự ngạc nhiên là trọng tâm mọi lời khẩn nguyện và thờ phụng.

Điều này dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của bài Phúc Âm hôm nay.

Nếu chúng ta cảm thấy khó cầu nguyện và thờ phụng Chúa, có thể là vì chúng ta đã để cho cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình bị khuất sau đám mây: có lẽ vì chúng ta đã không nghiêm chỉnh nghe theo lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm hôm nay; “Ai không biết đón nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó đâu”..

Có lẽ chúng ta đã đánh mất cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình về vũ trụ. Có lẽ từ lâu lắm rồi chúng ta không còn đi bộ dạo chơi và trò chuyện với con cháu chúng ta.

Nhà viết tiểu thuyết hiện đại John Updike đã cảnh cáo chúng ta điều có thể xảy ra nếu chúng ta không còn biết tiếp xúc với những thành viên trẻ trong gia đình Thiên Chúa như sau:

“Nếu người lớn chúng ta không biết tiếp tục trò chuyện với trẻ con, chúng ta sẽ không còn là những con người nữa, mà chỉ còn là những cổ máy biết ăn và biết kiếm tiền’. Nhà thừa sai vĩ đại Albert Schweitzer nói: “Bi kịch của cuộc sống chính là chúng ta đã chết mặc dù vẫn mang tiếng là đang sống’. Khi cảm thức ngỡ ngàng trước vũ trụ bắt đầu lịm tắt thì ý thức về cầu nguyện và phụng thờ cũng bắt đầu tàn lụi theo. Đây là một lời rất quan trọng và thực tiễn mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay.

Để kết thúc xin mời anh chị em yên lặng hiệp ý cầu nguyện cùng tôi; “Lạy chúa, xin giúp chúng con giữ mãi được cảm thức ngạc nhiên trước cuộc sống, đừng để chúng con trở nên mù loà không nhìn thấy dấu tay Chúa trong vũ trụ quanh chúng con, đặc biệt nơi ánh mắt và khuôn mặt của các trẻ nhỏ.

Xin giúp chúng con biết luôn tiếp xúc với những trẻ em chung quanh chúng con, để đừng bao giờ quên lời Chúa Giêsu truyền dạy; “Kẻ nào không tiếp nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó”.

Xin hãy giúp chúng con tái khám phá ra cách nào để ngạc nhiên ngõ hầu nhờ đó chúng con có thể tìm lại được cách thức cầu nguyện và phụng thờ Chúa.

Chúng con nguyện xin nhờ Chúa Giêsu là Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời...

--------------------------

 

TN 27-B23. ĐỪNG CHIA CẮT NH”NG GÌ THIÊN CHÚA ĐÃ KẾT HỢP


N. Quesson

 

Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi: TN 27-B23


Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi hoang. Một vị nhận xét: “Đây thật là một câu chuyện hay. Chúa đã vẽ nên một bức tranh sinh động: Người em tự cao tự đại, ham hưởng thụ, người anh cần cù lam lũ những lại nhỏ nhen ganh tị; còn người cha thì dịu hiền nhân ái. . .  Mà sao không thấy nói tới người mẹ nhỉ?”.

Vị tu sĩ thứ hai là một người lớn tuổi hơn, điềm đạm trả lời: Nhưng bạn ơi, nếu gia đình đó còn mẹ, chắc người con sẽ không bỏ nhà đi hoang đâu!

Một gia đình đầy đủ, mỗi người đều làm chu toàn sứ mệnh của mình thì đó là một bảo đảm về hạnh phúc cho từng người và cũng là một cái nôi an toàn cho đức hạnh, tư cách của mỗi người. Đó cũng là bảo đảm thành công trong hoạt động xã hội, và trợ lực người ta rất nhiều trong việc rèn luyện các đức tính tự nhiên cũng như siêu nhiên.

Và một gia đình như vậy phải xây dựng trên nền tảng hôn nhân vững chắc, một hôn nhân theo đường hướng Chúa Giêsu đã vạch định và củng cố. Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sinh vật, từ thực vật, động vật có đực và có cái, đến con người có nam có nữ, có đàn ông đàn bà. Những khác biệt về giới tính đi tới một hoà hợp diệu kỳ, bổ túc cho nhau để đạt thăng tiến phát triển. Nhưng trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, quan niệm về giới tính đã trải qua nhiều giao động thăng trầm; khi thì bi quan nghiêm khắc muốn tiêu diệt tính dục, có lúc lại quá lạc quan đến mức tự do phóng túng, chủ trương tìm hưởng lạc thú như mục đích đời người.

Nền luân lý của Do Thái giáo cổ truyền cũng qua nhiều biến động. Các tổ phụ đều chấp nhận đa thê, và luật Môise cho phép bỏ vợ nếu có lý do chính đáng, chỉ cần thành lập một chứng từ ly hôn. Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật đó cũng được đưa ra mổ xẻ. Vì thế mới có câu hỏi; “Có được phép bỏ vợ không?”. Nhân dịp này Chúa Giêsu xác định quan điểm của Người về hôn nhân. Trước hết nhận xét về luật cho ly dị của Môisê, Chúa bảo đầu tiên không phải như vậy, nhưng Môisê đã chiều theo sự yếu đuối của con người mà tạm đưa ra những qui luật rộng rãi. Đã đến lúc phải đặt vấn đề vào đúng chỗ ban đầu của nó. Hôn nhân phải có hai đặc tính: Một vợ một chồng và không được ly dị.

Chỉ có một vợ một chồng, vì hai người nam nữ phải được bình đẳng. Đó là hai nhân vị cùng quan trọng như nhau, bổ túc cho nhau, chu toàn những sứ mệnh riêng không ai thay thế được. Và phải có tư thế bền vững để mọi thành phần gia đình được yên vui hạnh phúc, nhất là cho những đứa con đang hình thành về thể chất và tinh thần. Không ổn định, không vững chắc thì không thể nào xây dựng những giá trị lâu dài được.

Quan điểm này phần nào khác với một số người đồng thời với Chúa Giêsu, nhất là trái với nếp sống đa số nhân loại thời này. Nhưng lại rất cần thiết để đạt hạnh phúc. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu. Kết hợp với nhau là phải nghĩ tới người khác. Chỉ được hưởng hạnh phúc khi  tạo dựng hạnh phúc cho người bạn, cho thành phần khác trong gia đình . Còn nếu chỉ nghĩ tới mình thì rồi sẽ có lúc thấy người khác là gánh nặng mình muốn trút bỏ.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết xây dựng niềm tin trên quan điểm của Chúa. Cho chúng con biết kiên tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình để chúng con được hạnh phúc trong cuộc sống này trong khi mong đợi cuộc sống hạnh phúc mai sau. Amen.

--------------------------

 

TN 27-B24. CẦU NGUYỆN VỚI NHAU-Ở VỚI NHAU


Gm. Arthur Tonne

 

Lớp giáo lý người lớn đang học về hôn nhân. Giáo lý viên xin mỗi học viên cho một câu hỏi: TN 27-B24


Lớp giáo lý người lớn đang học về hôn nhân. Giáo lý viên xin mỗi học viên cho một câu hỏi về hôn nhân; những câu hỏi tiêu biểu cho cuộc hội thảo ba cặp: một cặp Công giáo kết hôn được 14 năm, cặp Tin Lành Methodist 22 năm và một cặp Mennoite kết hôn mới hơn 2 năm.

Đây là một câu hỏi: “Có bao giờ bạn nghĩ đến việc ly dị? nếu có, bạn phân giải thế nào?”

Người chồng Mennonite trả lời hay nhất: Jennie và tôi cả hai đã cam kết với Đức Kitô, khi chúng tôi còn học trung học, điều đó giúp chúng tôi cam kết với nhau trong hôn phối.

Cam kết là quan hệ thường thấy thời nay, nó có nghĩa là một lời thề, một lời hứa với một người khác. Trong tôn giáo, nó có nghĩa là một lời hứa đứng đắn và long trọng để hoàn toàn trung thành với Đức Kitô. Trong hôn nhân, nó có nghĩa là một lời hứa long trọng và thành thật, hoàn toàn trung thành với nhau.

Điều làm sáng tỏ ý nghĩa của tôi hôm nay là; một đôi hôn phối, họ trung thành với Chúa, có nhiều cơ may trung thành với nhau. Kinh nghiệm về điều tra đã làm sáng tỏ điều đó. Năm 1975 trong 4 cặp có 1 cặp ly dị. Nhưng trong 57 cặp trong gia đình đi lễ đều đặn chỉ có một cặp ly dị. Điều đáng chú ý là 500 cặp trong gia đình đọc Kinh Thánh đều đặn và cầu nguyện chỉ có một cặp ly dị.

Chúng ta không thắc mắc khi Đức Kitô kết án ly dị và tái hôn.

Chúng ta không thắc mắc khi cặp hôn phối cầu nguyện với nhau; họ thường ở với nhau.

Khi một đôi hôn nhân gặp vấn đề. Họ thường thổ lộ với người khác, họ phàn nàn với lối xóm và bạn bè. Họ khóc lóc với mẹ với cha, họ thở than với người đồng nghiệp, với người cùng hội cùng thuyền. Họ cũng có thể tin cậy ở một bác sĩ, một linh mục, một tâm lý gia, một luật sư, một cố vấn hôn nhân, một viên chức, họ nói với bất cứ ai về tình cảnh rắc rối của họ. Nhưng họ không thưa với Chúa về điều đó. Tất cả những người nêu trên có thể cho họ lời hướng dẫn, lòng cảm thông và sự giúp đỡ nào đó. Nhưng không ai có thể nâng đỡ họ như Chúa. Không ai hiểu hoàn cảnh của họ hơn Chúa, Đấng thông biết mọi sự và yêu thương mọi loài, hãy đơn sơ và thành thật, bạn thân thưa với Chúa về nỗi khó khăn của bạn, chân thành và khiêm nhượng, bạn xin Chúa giúp.

Nếu thật sự bạn cảm thấy mình tội. Đừng quá dễ tha thứ cho mình. Bạn xin Chúa hoán cải trái tim người có lỗi. Nếu bạn có lỗi, một lần nữa bạn hết sức khiêm nhượng xin Chúa giúp bạn thay đổi.

Nếu bạn cam kết với Chúa, hai bạn cũng cam kết với nhau. Nếu bạn tập cầu nguyện riêng tư với Chúa. Hai bạn cũng sẽ cầu nguyện với nhau dễ dàng. Kết quả là mọi vấn đề sẽ được giải quyết trước khi chúng trở nên trầm trọng.

Chúa ban luật cấm ly dị, Chúa sẽ giúp đỡ bạn giữ luật đó. Hãy xin Chúa giúp bạn trong Thánh lễ hôm nay. Khi Chúa ban mình cho chúng ta trọn vẹn, chúng ta sẽ cố gắng dâng trọn vẹn chúng ta cho Chúa.

Xin Chúa chúc lành bạn.

--------------------------

 

TN 27-B25. SỰ THÁI HOÀ CỦA THUỞ BAN ĐẦU


Lm. Gérard Bessière và Hyacinthe Vulliez

“Chỉ vì các ông lòng chai dạ đá...”

 

Chỉ vì các ông lòng chai dạ đá, chỉ vì con người yếu hèn, nên mới phải có những luật lệ, những: TN 27-B25


Chỉ vì các ông lòng chai dạ đá, chỉ vì con người yếu hèn, nên mới phải có những luật lệ, những qui định. Nếu không có luật lệ, xã hội sẽ loạn lạc, mặc tình cho kẻ mạnh, kẻ xấu tung hoành ngang dọc. Luật lệ, qui định là cần thiết đối với con người ở mọi thời đại, mọi nền văn minh. Đây là một lời thú nhận rằng con người có những giới hạn cơ bản.

Chỉ vì con người yếu hèn, cho nên mới phải có tòa án, hình phạt, tù ngục. Mới phải có những ngăn cấm răn đe những hành vi làm ô nhiễm môi trường sống, để cứu lấy rừng, lấy biển... Chỉ vì con người yếu hèn mà các nhà luân lý mới phải nêu lên những nguyên tắc đạo đức, các luật gia phải soạn thảo những điều luật tỉ mỉ và cụ thể. Chỉ vì con người hèn yếu, nên mới phải có những tờ giao kèo, hợp đồng ngay cả giữa bạn bè, người thân, chồng vợ... vì người ta không dám tin vào lòng trung tín của nhau.

Trả lời cho những người biệt phái hay gây sự, Đức Giêsu đã vạch ra một luống cày mới cho mùa gieo hạt của những giá trị mới: "Chỉ vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã phả cho phép viết giấy ly dị mà bỏ vợ... Chứ lúc đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ...". Đức Giêsu đã đưa các đối thủ của Ngài trở về ý định ban đầu, cũng là ý định sau cùng của Thiên Chúa, ấy là con người sống trong sự hòa hợp hoàn toàn với nhau và với vũ trụ. Cảnh thái hoà, đó chính là thiên đàng hạ giới. Đó chính là vương quốc của Thiên Chúa.

Đức Giêsu có cái nhìn tin tưởng vào con người. Ngài kêu gọi đến cái phần tốt đẹp nơi mỗi người, cái phần nó làm cho dung mạo con người trở nên giống với dung mạo Thiên Chúa. Để được thế, con người còn phải vất vả chiến đấu với sự yếu hèn của mình, vẫn phải phấn đấu làm cho lòng dạ mình bớt chai đá, mà dịu dàng nhạy cảm hơn, để có thể đập cùng một nhịp với trái tim Thiên Chúa, để có thể góp phần vào sự thái hòa của vũ trụ, mà Đấng tạo thành đã muốn có từ thuở ban đầu tạo dựng.

--------------------------

 

TN 27-B26. HÔN NHÂN BẤT KHẢ PHÂN LY


"Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly"  (Mc 10,9)

Minh họa

- Mille images 132 E

- "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" (Mc 10,9)

Sợi chỉ đỏ:

- Bài đọc I (St 2,18-24): Thiên Chúa dựng nên nhân loại có nam có nữ, để hai người kết hợp với nhau thành vợ chồng gắn bó với nhau.

- Tin Mừng (Mc 10,2-16): Trả lời cho câu hỏi của những người pharisêu "Có được phép ly dị không ?", Đức Giêsu nói: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".

I. D”N VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

 

Lời Chúa hôm nay dạy về đạo thuỷ chung trong hôn nhân. Ngày nay, đạo thuỷ chung đang bị: TN 27-B26


Lời Chúa hôm nay dạy về đạo thuỷ chung trong hôn nhân.

Ngày nay, đạo thuỷ chung đang bị thử thách nặng nề: nhiều cặp vợ chồng ly dị nhau, nhiều cặp khác thì ly thân, nhiều cặp khác nữa thì vẫn còn sống chung nhưng ngoại tình.

Trong thánh lễ này, anh chị em hãy cầu nguyện cho gia đình mình, và cũng hãy cầu nguyện cho những gia đình đang bất hòa với nhau.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Xin Chúa tha thứ cho những người làm vợ làm chồng đã vì yếu đuối mà có lần không trung tín với nhau.

- Xin Chúa tha thứ cho những vợ chồng không hòa thuận yêu thương nhau.

- Xin Chúa thứ tha cho những cha mẹ không làm gương tốt cho con cái.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (St 2,18-24)

Bài tường thuật về việc Thiên Chúa tạo dựng người nữ. Qua những hình ảnh mà tác giả tạm dùng, chúng ta khám phá được những ngụ ý sau: (1) Người nữ là trợ tá tương xứng của người nam (trong khi mọi dã thú và chim trời đều không thể làm bạn tương xứng với người nam được) ; (2) Người nữ vừa thân thiết vừa bình đẳng với người nam (hình ảnh chiếc xương sườn ở ngang hông người nam) ; (3) Vợ chồng phải gắn bó với nhau thành một xương một thịt.

2. Đáp ca (Tv 127)

Bài thơ ca tụng người vợ đức hạnh: nàng như cây nho đầy hoa trái, nàng là phúc lộc Thiên Chúa ban cho người kính sợ Chúa.

3. Tin Mừng (Mc 10,2-16)

Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài học:

a/ Về cuộc sống hôn nhân: Những người biệt phái phỏng vấn Đức Giêsu về vấn đề ly dị.

Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn đề này: lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép ly dị vì những cớ rất tầm thường ; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi ShammaẴ) chỉ cho ly dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép ly dị.

Còn lập trường của Đức Giêsu là tuyệt đối không được ly dị: "Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly".

Nhân dịp này, Đức Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân: phải yêu thương nhau ("luyến ái") và đồng tâm nhất trí ("nên một huyết nhục") với nhau.

b/ Về thái độ đón tiếp:

- Người ta đem trẻ nhỏ đến với Đức Giêsu. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với Đức Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng ("đặt tay trên chúng").

- Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là vì thời đó người do thái coi khinh trẻ nhỏ (co chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.

- Phản ứng của Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai.

- Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.

4. Bài đọc II (Dt 2,9-11) (Chủ đề phụ)

Đức Giêsu là đại biểu của loài người. Qua cuộc chịu nạn và chịu chết, Người bị hạ xuống thua kém các thiên thần một thời gian ngắn. Nhưng qua việc phục sinh, Ngài lại được nâng lên trở thánh vị lãnh đạo thập toàn. Các kitô hữu kết hợp với Đức Giêsu trong đau khổ thì cũng được chia xẻ vinh quang với Ngài.

IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Gia đình: Vấn đề Ly hôn và con cái

"Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, và tôi còn khóc, nhưng không ai biết... Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung đột khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại... chính tôi nữa !"

Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.

Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỉ lệ phân nửa: bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy !

Lý do người ta dựa vào, là "Đã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau". Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót 3 điểm sau đây:

1/ Thứ nhất là quá ích kỷ: chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu ? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.

2/ Thứ hai là phản trắc, lật lọng: những người ly dị là những kẻ phản trắc, lập lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì ? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không ?

3/ Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân: bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Đó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cấn phải trải qua khủng hoảng mới đi tối chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được ?

Đó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn... Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo Hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây:

1/ Những người biệt phái dẫn chứng với Đức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Đức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Đức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẫn trách trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.

2/ Đức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của TC, con người không có quyền làm ngược lại "Điều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly". Nghĩa là Đức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có 100 tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.

3/ Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Đức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau ; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đoạ khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.

* 2. Chung thủy trong tình yêu

Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.

Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.

Hồ Tử nói:

- Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân !

Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.

Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:

- Chàng đi làm quan năm năm mới về. Đáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được !

****

Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Đó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: "Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục "là giao ước tình yêu". Hiệu quả của giao ước này là "hai người trở nên một". Điều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.

Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: "Mình với ta tuy hai mà một". Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.

Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.

Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Đavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.

Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Đó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.

Hình ảnh "Đức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng" (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu "cơm không lành canh không ngọt", muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp "đường ai nấy đi" thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu ? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.

Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn".
********

Lạy Chúa, "Chúa là tình yêu", xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.

Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

3. Trở lại thành trẻ thơ

Đức Giêsu nói: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với một tâm hồn trẻ thơ thì sẽ chẳng được vào".

Sau đây là một vài suy nghĩ về việc trở lại thành trẻ thơ:

1. Trẻ không do tuổi đời mà do tâm hồn.

Ta già đi không phải vì đã sống nhiều năm mà do đã đánh mất lý tưởng, chất chứa ưu phiền, nghi hoặc, sợ hãi, thất vọng, không tự tin...

2. Niềm tin làm ta trẻ, hoài nghi khiến ta già ; hy vọng làm ta trẻ, thất vọng khiến ta già.

3. Hồi còn bé chúng ta rất hồn nhiên. Lớn lên chúng ta đánh mất nó. Dù vậy chúng ta vẫn có thể tìm lại được sự hồn nhiên. Tuy nhiên tính chất của hai sự hồn nhiên này khác nhau:

- Sự hồn nhiên thứ nhất thì chưa chín chắn, chưa có trách nhiệm, chưa biết đến ưu sầu và sự dữ. Sự hồn nhiên thứ hai đã chín mùi nhờ tinh thần trách nhiệm, nhờ cảm nghiệm về ưu sầu và sự dữ ; Sự hồn nhiên thứ nhất chưa biết phạm tội. Sự hồn nhiên thứ hai chỗi dậy từ tội lỗi ; Sự hồn nhiên thứ nhất không biết phạm tội, sự hồn nhiên thứ hai không muốn phạm tội.

4. Chuyện minh họa

a/ Đổi lời tuyên hôn

Một đôi bạn trẻ sắp sửa thành hôn đến gặp vị Linh mục sắp chứng hôn cho họ và đề nghị:

- Thưa cha, chúng ta đã thảo luận với nhau rất kỹ nên đến xin Cha sửa đổi một chút trong câu mà Cha sẽ đọc trong nghi lễ: Thay vì Cha tuyên bố là chúng ta sẽ là vợ chồng với nhau "cho đến chết", Cha có thể đổi lại là "cho đến khi không còn yêu nhau nữa" được không ạ ?

Linh mục hỏi lại:

- Tại sao thế ?

- Chúng con thấy nhiều vợ chồng sống với nhau một thời gian rồi không còn yêu nhau nữa. Khi đó mà phải tiếp tục sống với nhau thì chỉ làm khổ cho nhau thôi. Thà ly dị còn tốt hơn.

- Cha khen ngợi sự thẳng thắn của chúng con. Nhưng Cha không thể sửa đổi như chúng con đề nghị, vì Cha không muốn chứng hôn cho một cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tan rã.

- Nghĩa là sao ạ ?

- Hôn nhân nửa vời thì chắc chắn sẽ tan rã.

- Thế nào là hôn nhân nửa vời ?

- Thứ nhất là nửa vời về thời gian, nghĩa là chỉ muốn sống chung cho đến khi không còn muốn sống chung nữa ; thứ hai là nửa vời về chọn lựa: chúng con không chọn con người của nhau mà chỉ chọn một số những điểm hợp nhau ; thứ ba là nửa vời về dấn thân: chúng con chỉ muốn dấn thân bao lâu sự dấn thân đó mang đến cho chúng con sung sướng và hạnh phúc. Hôn nhân nửa vời chắc chắn sẽ tan rã thôi.

- Vậy thế nào là hôn nhân trọn vẹn ?

- Hôn nhân công giáo phải là hôn nhân trọn vẹn, vì khi chọn một người làm vợ hay làm chồng mình là ta chấp nhận trọn vẹn con người của người đó gồm cả ưu điểm và khuyết điểm, ta muốn cùng người đó chia xẻ không chỉ niềm vui mà cả nỗi buồn, ta sẽ cùng người đó sống không chỉ một thời gian mà là suốt đời.

- Thế nhưng ở đời này có gì là trọn vẹn đâu ?

- Đúng thế. Nhưng chính vì con người không trọn vẹn nên con người cần có bạn hôn nhân để bổ túc cho nhau nên trọn vẹn hơn. Hơn nữa, khi hôn nhân được cử hành bằng bí tích trước mặt Chúa thì còn có Chúa hỗ trợ cho những cố gắng của hai vợ chồng.

b/ Nam và nữ

Truyện kể Ấn độ về tạo dựng: Khi tạo dựng người nam xong, Đấng sáng tạo thấy Ngài đã tận dụng tất cả những yếu tố vật chất. Ngài không còn chất cứng hay vật rắn trên tay để tạo dựng người nữ.

   Sau một hồi suy nghĩ, Ngài lấy sự tròn trịa của mặt trăng, dẻo dai của thân nho, mảnh mai của cây sậy, nảy nở của bông hoa, màu tươi sáng của lá cây và sự yên tĩnh của tia nắng mặt trời, nước của đám mây và sự bất ổn của gió, sự sợ hãi của con thỏ và tự cao tự đại của con công, sự mềm mại của ức chim và cứng rắn của kim cương, ngọt ngào của mật và độc ác của cọp, nóng của lửa và lạnh của tuyết, sự bép xép của chim mỏ ác và giọng líu lo của họa mi, sự dối trá của sếu và sự tự tin của sư tử.

Trộn tất cả những yếu tố đó lại với nhau, Đấng sáng tạo dựng nên người nữ và trao cho người nam.

Một tuần sau, người nam trở lại và nói: "Thưa Ngài, tạo vật Ngài trao cho làm con sống không hạnh phúc. Cô ấy nói luôn miệng và chòng ghẹo con suốt ngày, làm con chẳng được nghỉ ngơi. Cô bắt con phải luôn để ý đến cô, nên thời giờ của con bị lãng phí. Chuyện nhỏ tí cũng làm cô khóc và cuộc sống thật vô dụng. Con đến trả lại cô ấy cho Ngài, vì con không thể sống với cô ấy".

- Được.

Và Ngài nhận lại. Một tuần trôi qua, người nam trở lại với Đấng sáng tạo và nói: "Thưa Ngài, cuộc sống của con thật trống rỗng từ khi con trao lại tạo vật đó cho Ngài. Con luôn nghĩ về cô ấy, về cách cô múa hát, về ánh mắt trao duyên, về bao câu  chuyện và xích lại gần con. Trông cô thật đẹp và da thịt cô mịn màng. Con rất thích nghe cô cười. Xin trao lại cô ấy cho con".

- Được.

Và Ngài trao lại cho anh. Nhưng ba ngày sau, người nam trở lại và nói: "Thưa Ngài, con không biết phải giải thích làm sao, nhưng với tất cả kinh nghiệm của con về tạo vật này, con kết luận rằng cô đã gây cho con nhiều buồn bực hơn niềm vui. Con cầu nguyện cho cô và trao trả lại cho Ngài. Con không thể sống với cô ấy  !"

- Anh cũng không thể sống thiếu cô ấy !

Rồi Ngài quay lại và tiếp tục làm việc. Người nam nói vẻ thất vọng: "Con sẽ làm gì ? Con không thể sống với cô ấy và cũng không thể sống thiếu cô ấy !"

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho những người Thiên Chúa đã liên kết thành vợ chồng trong hôn nhân, để họ luôn nhớ và thi hành lời Chúa dạy: "Điều gì Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân ly".

1. Nhiệm vụ của Hội thánh là giúp mọi người chuẩn bị và nuôi dưỡng đời sống hôn nhân theo ý Thiên Chúa / Xin cho các vị chủ chăn luôn tận tâm thi hành nhiệm vụ rất cần thiết và cao quí này.

2. Nhiệm vụ của xã hội là tạo điều kiện và môi trường tốt / để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân đúng phẩm giá con người / Xin cho các nhà cầm quyền biết ý thức trách nhiệm đó / để loại bỏ mọi ảnh hưởng nguy hại đến đời sống hôn nhân.

3. Nhiệm vụ của vợ chồng là chung thủy với nhau trọn đời / để tôn trọng và yêu thương nhau / Xin cho các đôi vợ chồng đang chia rẽ bất hòa / biết nhận lỗi và tha thứ cho nhau / để gia đình được sum họp.

4. Nhiệm vụ của vợ chồng công giáo là thi hành đúng lời cam kết với nhau trước mặt Chúa và Hội thánh khi cử hành bí tích hôn phối / Xin cho các đôi vợ chồng trong họ đạo chúng ta / luôn nêu gương sống trung thành với lời cam kết đó.

Chủ tế : Lạy Chúa, hoàn cảnh nghèo đói, chậm tiến và những ảnh hưởng xấu trong xã hội, đang gây đổ vỡ cho nhiều gia đình chúng con, xin Chúa luôn trợ giúp để ít là những gia đình công giáo, luôn là những dấu hiệu tinh thương của Chúa giữa mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô...

VI. TRONG THÁNH LỄ

- Trước kinh Lạy Cha: Qua kinh nghiệm gia đình, chúng ta đã hiểu tình cha yêu thương con cái là thế nào. Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta hơn bất cứ người cha trần gian nào. Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời kinh sau đây.

VII. GIẢI TÁN

Hôm nay Lời Chúa đã dạy cho chúng ta hiểu tình nghĩa vợ chồng như thế nào. Cầu chúc cho những vợ chồng trở về gia đình sống hòa thuận yêu thương nhau.

--------------------------

 

TN 27-B27. Nhìn lại gía trị hôn nhân khởi thủy


- Suy niệm Lời Chúa

Mc 10,2-16

Thưa quý vị,

 

Tôi vừa chủ toạ một thánh lễ với những người ly dị. Họ lập thành cộng đoàn nhỏ mà tôi hết lòng: TN 27-B27


Tôi vừa chủ toạ một thánh lễ với những người ly dị. Họ lập thành cộng đoàn nhỏ mà tôi hết lòng ngưỡng mộ. Họ là những thành viên mới ly dị hay ly dị đã lâu. Và bởi lẽ họ đều mang những vết thương lòng sâu sắc nên họ rất thông cảm với những người cùng cảnh ngộ. Họ bình thường như bao nhiêu người khác trong giáo xứ, nhưng vẫn cảm thấy lẻ loi và mang nhiều mặc cảm. Nhất là về phía nữ giới. Theo thống kê thì hiện nay trên đất nước Hoa Kỳ tỉ lệ ly dị là 50%. Một con số đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ. Không kết án họ nhưng cũng không thể bỏ qua. Trong giáo xứ rồi sẽ có những cặp ly dị, những gia đình lộn xộn trù tính ly dị và các trẻ nhỏ phải sống với cha hoặc mẹ độc thân. Cũng phải liên tưởng đến các thanh niên thiếu nữ trong cộng đoàn đang dự định kết hôn. Họ có thể hiểu lầm lời rao giảng của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay như một lời mời gọi không thực tế. Lại nữa, thoạt nghe, những người đang gánh chịu đau khổ, dằn vặt trong gia đình cảm thấy sứ điệp của Ngài mâu thuẫn với kinh nghiệm họ đang phải trải qua. Cho nên chúng ta cần suy gẫm thấu đáo hơn về bí tích hôn phối.

Bài đọc một trích sách Sáng thế ký (2,18), Thiên Chúa tạo dựng Adam trước rồi đến Evà trong cách thức hoàn toàn khác nhau. Adam từ bụi đất và Evà từ xương sườn Adam. Khi vừa được dựng nên, Adam đã được Thiên Chúa ban quyền quản lý vũ trụ và các sinh vật trong đó. Bất cứ sinh vật nào đi qua trước ông, ông đều cho một cái tên và tên ấy sẽ thuộc về sinh vật đó mãi mãi. Nhưng Adam vẫn cô đơn, ông vẫn chờ đợi một người bạn có thể hiểu và hợp tác với mình. Bởi lẽ các sinh vật khác hoàn toàn xa lạ. Như thế có thể nói rằng đời sống và sự tạo dựng của các sinh vật kém hơn của con người. Khi Evà được tạo dựng thì không trực tiếp bởi bụi đất, nhưng từ chất liệu lấy từ Adam. Do đó, bà hoàn toàn lệ thuộc vào Adam và được dựng nên cho Adam: “Xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được sinh ra từ đàn ông.” Câu nói quá rõ ràng về nguồn gốc của tình yêu hôn nhân, gia đình và sự lệ thuộc hỗ tương giữa hai người nam nữ. Hai người có cùng một bản tính nhân loại nhưng nhiệm vụ khác nhau. Chính Adam đã xác nhận sứ vụ của vợ mình: “Con người đặt tên cho vợ là Evà, vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh” (St 3,20).

Qua dòng lịch sử, truyền thống của nhiều tôn giáo đã dùng hình ảnh hôn nhân để diễn tả mối liên hệ mật thiết giữa thần linh với dân tộc mình hoặc cá nhân. Dân Do Thái cũng không ra ngoài thông lệ. Cựu ước đã nhiều lần dùng hình ảnh này để nói về sự gắn bó giữa Thiên Chúa và tuyển dân. Thí dụ rõ ràng nhất là Sách Diễm tình ca. Nó là cả một bài thơ dài mô tả tình thắm thiết giữa Đức Chúa Trời và dân tộc Israel. Nó dùng toàn ngôn ngữ và hình ảnh tình yêu lứa đôi theo cách thức loài người.

Nhiều sách khác trong văn chương Do Thái cũng mượn truyện hôn nhân để cho biết tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại như Giêrêmia, Êzêkiel, Amos, Hôsê,.. Bước sang thời kỳ Tân Ước, các tác giả Kinh Thánh vẫn dùng hình ảnh phổ thông đó mà nói về Chúa Giêsu với Giáo Hội của Ngài. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Côrintô như sau: “Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng anh em như một trinh nữ trinh khiết” (2 Cr 11,2). Hay Mt 9,15: “Đức Giêsu trả lời: chẳng lẽ khách dự tiệc lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ?” Hay Ga 3,28: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu người ấy là chú rể.” Như vậy, cả hai giao ước cũ và mới đều nhất trí dùng hình ảnh hôn nhân để mô tả tình yêu cao vời của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài. Do đó, chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu xa của tình yêu hôn phối. Không những nó là một thực tại trần thế, không tàn phai mà còn là biểu tượng vĩnh viễn mối dây Thiên Chúa yêu thương loài người. Trong lễ cưới của người công giáo, Hội Thánh đã nêu lên biểu tượng này khi chúc lành cho đôi vợ chồng mới: “Lạy Chúa, Chúa đã thánh hiến sự phối hợp vợ chồng bằng mầu nhiệm cao cả, để dùng khế ước hôn nhân mà báo trước mầu nhiệm kết hiệp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh.” Hoặc những lời khác tương tự: “Lạy Chúa, để mặc khải mầu nhiệm yêu thương, Chúa đã lấy sự kết hợp giữa hai vợ chồng làm hình ảnh giao ước giữa Chúa và Hội Thánh. Chúng con nài xin Chúa&” Cũng như hôn nhân lý tưởng là hai vợ chồng hiến thân cho nhau, thể xác và tâm hồn, như món quà ban tặng, thì tình yêu giao kết của chúng ta và của toàn thể Hội Thánh với Thiên Chúa phải trọn vẹn như vậy. Sự đáp trả của linh hồn không thể có chút bợn nhơ, hậu ý mà phải tinh tuyền và trọn hảo. Kết quả của tình yêu hôn nhân là con cái. Kết quả của tình yêu hiến dâng Thiên Chúa là sự thánh thiện và những công việc bác ái mình thực hiện cho tha nhân. Ích kỷ không thể nào và không bao giờ là tình yêu thiêng liêng, nó là sự dối trá trắng trợn, một cạm bẫy của Satan. Đời sống của những vị thánh trong Giáo Hội là bằng chứng rõ nét cho sự thật đó. Nó là sự thể hiện rõ ràng các Ngài yêu mến Thiên Chúa và Thiên Chúa yêu thương các Ngài. Tình yêu này không bao giờ tan vỡ. Các Thánh không bao giờ phản bội Thiên Chúa vì cảm nghiệm được tình Chúa xót thương mình. Những ân huệ hàng ngày thúc giục các Ngài yêu mến và tạ ơn. Như vậy, chúng ta cũng phải vững bụng rằng Thiên Chúa không khi nào bẻ gãy tình yêu của Ngài đối với nhân loại, đối với mỗi người chúng ta. Ngài không hề thất vọng nơi các linh hồn, bỏ rơi hoặc ngoảnh mặt không yêu thương, trợ giúp họ nữa.

Vì thế trong bài Phúc âm Chúa Giêsu nhắc lại truyền thống nhiệm màu của Kinh Thánh mà tuyên bố mối ràng buộc hôn nhân là không tháo gỡ được. Nó là dấu chỉ hữu hình tình yêu vô hình và hiệu quả của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài khẳng định tính bền vững của hôn nhân. Nó có ý nghĩa vượt xa sự kết hiệp giới tính. Nó không phải chỉ liên quan đến thân xác mà còn bao hàm toàn thể nhân sinh. Đôi vợ chồng là một về xác thịt và cũng là một về hiện hữu (une seule chair, un seul être). Vì thế, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình. Rõ ràng ông Adam không có cha mẹ để lìa bỏ. Lời tuyên bố của Sách Thánh nhắm đến toàn thể nhân loại. Tác giả muốn gọi sự kết hợp này là thuộc về “trái tim”, phát xuất từ trái tim, nơi thẳm sâu nhất của tồn tại con người. Hôn nhân, do đó, là sự dấn thân của hai trái tim giống như tình yêu trung tín (hesed) của Đức Chúa Trời. Lòng thương yêu này vượt trên cả tội lỗi và nết xấu của mỗi người. Tức là trung tín trong bất cứ tình huống nào. Vì Thiên Chúa không thể bất trung với chính Ngài. Lời thề trong lễ hôn phối của đôi vợ chồng mới là: “giữ lòng chung thuỷ khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ” vang vọng tình yêu hered của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta phải đáp trả cho cân xứng. Nghĩa là trung tín với Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào, thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, khoẻ mạnh cũng như khi yếu đau. Đừng bao giờ lãng quên giao ước giữa ta với Đức Chúa Trời.

Hình ảnh tình yêu hôn phối còn giúp chúng ta suy gẫm về bí tích Thánh Thể trong thánh lễ hôm nay. Phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu thực hiện là ở trong bữa tiệc cưới. Hai người thề hứa yêu thương và trung thành trọn đời là cơ hội tốt để Chúa Giêsu mặc khải tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài cũng đổ tràn đầy tình yêu và ân huệ vào lòng chúng ta, như ban cho đôi tân hôn hơn bốn trăm lít rượu ngon. Rượu của niềm vui và hạnh phúc. Âu huệ và lòng xót thương của Ngài cũng tràn trề trên mỗi linh hồn. Xin hân hoan cử hành thánh lễ này. Đúng thật, sự sống, sự chết và sống lại của Ngài đã sinh hoa trái lạ lùng cho mỗi linh hồn, cũng như hôn phối mang tình yêu, nhẫn nại, hy sinh, độ lượng, tha thứ, bền vững cho mỗi gia đình công giáo. Lòng trung tín trong hôn nhân của các tín hữu là hình ảnh cực kỳ sống động Chúa Giêsu luôn ngự giữa Hội Thánh trong mọi tình huống. Dĩ nhiên khế ước hôn nhân nhiều khi bị bẻ gãy, chia lìa bởi những lý do loài người không lường trước được như phản bội, thói xấu, kinh tế,& Nhưng tất cả đều là tội lỗi, yếu đuối về phần con người. Trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu rao giảng hôn nhân lý tưởng, nằm trong tầm tay của con người, bởi nó phản ánh ý định nguyên thuỷ của Thượng Đế khi tác tạo nhân loại. Như chúng ta đã thấy, sách Sáng Thế ký nói về một hôn nhân bền vững, không chia lìa: “Họ không còn là hai, nhưng là một.” Sau khi con người sa ngã, bản tính trở nên yếu đuối, ngu xuẩn, dễ bị Satan lừa dối mà phạm tội, phá đổ hạnh phúc của chính mình. Chúa Giêsu thương chỉnh đốn lại hôn nhân lý tưởng để chúng ta nhận ra lỗi lầm của mình, quay về với chính mình và với Thiên Chúa cùng đồng loại.

Cho nên Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta cái nhìn hoàn toàn mới về căn tính của hôn nhân và đường lối sống thế nào cho hợp với chương trình nguyên thuỷ của Thiên Chúa. Dù còn độc thân, kết bạn hay đã ly dị, chúng ta đều có thể nhận ra phải trái trong cuộc đời. Chúng ta hằng ngày vật lộn với bao nhiêu khó khăn, kể cả trong hôn nhân, để trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta có bí tích Thánh Thể, hãy cậy trông vào Chúa Giêsu giúp đỡ vượt qua mọi khó khăn. Chúa Thánh Thể là biểu trưng của lòng Thiên Chúa xót thương và trung tín (hesed và rahamim). Ngài luôn ngự giữa chúng ta, hướng dẫn mọi nỗ lực, ý tưởng mỗi người theo nẻo chính đường ngay. Chúng ta hy vọng từng bước trong cuộc đời, sống trung tín với giao ước của Ngài và với tha nhân. Nếu như chúng ta có trái tim “chai đá” như các kinh sư trong phúc âm, thì xin Ngài uốn nắn để có thể cải tạo, ngõ hầu xoá bỏ được các lỗi lầm mà quay về với tương lai tươi sáng của kiếp sống làm con cái Thiên Chúa tình thương. Amen.

Ghi chú: Xin đọc thông điệp “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” (Deus dives in Misericordia) của Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 30/11/1980 để có thể hiểu được hai từ “hesed” (tình yêu trung tín) và rahamim (tình yêu xót thương) của Cựu ước mà tác giả nhắc tới trong bài suy gẫm này.

Lm. Jude Siciliano, OP.

--------------------------

 

TN 27-B28. Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp


Mc 10, 2-16

“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li”.

Anh chị em thân mến,

 

Mô đen nổi bật nhất của thế giới ngày nay chính là vợ chồng li dị nhau. Li dị là một hành vi: TN 27-B28


Mô đen nổi bật nhất của thế giới ngày nay chính là vợ chồng li dị nhau.

Li dị là một hành vi bạo lực tàn nhẫn làm tổn thương lâu dài tinh thần của con cái, là sự ích kỉ tàn nhẫn của cha mẹ đối với con cái của mình...Con người thời nay viện cớ là phải theo đà tiến của văn minh nhân loại, của khoa học kĩ thuật để rồi từ chối và phủ nhận cái gốc của hoà bình chính là hạnh phúc gia đình, họ chối bỏ giá trị đạo đức cá nhân để a dua theo phong trào mà họ cho rằng, nếu mình không theo là lỗi thời. Li dị chính là chối bỏ đạo đức căn bản trong hôn nhân mà Chúa Giêsu đã nói rõ ràng: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li”, Thiên Chúa đã phối hợp và chúc phúc trong sự ưng thuận một cách thong dong của người nam và người nữ, chứ không phối hợp và chúc phúc cách miễn cưỡng hay gò bó của hai người, cho nên khi họ xé bỏ khế ước hôn nhân để li dị đường ai nấy đi, thì chính họ cũng đã xé bỏ hạnh phúc của mình và con cái của mình, và hơn thế nữa, họ từ chối sự chúc lành của Thiên Chúa trên tình yêu của họ: họ không thể nào tìm kiếm lại hạnh phúc hôn nhân sau khi đã li dị...

Tình yêu chân chính là biết hi sinh cho nhau và chấp nhận những khuyết điểm của nhau, trong tình yêu vợ chồng sự hi sinh cho nhau và chấp nhận khuyết điểm của nhau càng phải nổi bật hơn nơi chồng vợ, bởi vì bao lâu họ biết chấp nhận và hi sinh cho nhau thì hạnh phúc còn ở với họ, nhưng một khi họ chỉ nhìn thấy những khổ cực của mình mà không nhìn thấy những nổi khổ của vợ (chồng) mình, thì cánh cửa hạnh phúc gia đình đang từ từ khép lại, nhốt họ trong sự ích kỉ chỉ muốn thoả mãn những đòi hỏi của cá nhân mà thôi.

Anh chị em thân mến,

Hạnh phúc của đời sống hôn nhân rất là quan trọng, quan trọng là bởi vì được Thiên Chúa chúc phúc, và Chúa Giêsu đã nâng lên hàng bí tích, do đó mà chúng ta -những người vợ người chồng- càng phải ý thức hơn nữa vai trò của mình trước mặt Thiên Chúa, đó là biết chấp nhận khuyết điểm của nhau và hi sinh cho nhau, bởi vì đó chính là những giọt mật ngọt trong tình yêu chân thật của đời sống hôn nhân theo ý của Thiên Chúa.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.             

Gợi ý:

1. Có lúc nào anh (chị) mĩm cười trước khuyết điểm của vợ (chồng) ?

2. Có lúc nào anh (chị) nghĩ rằng: chửi mắng chồng (vợ) là sẽ làm cho gia đình mất hạnh phúc ?

Bài giảng chủ nhật 27 thường niên tại nhà thờ Chúa Thánh Thần-Taiwan. 

- Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb

--------------------------

 

TN 27-B29. Vợ chồng bất khả phân ly

 

Ngày hôm nay bọn Biệt phái đã đưa ra vấn đề ly dị để gài bẫy Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài có: TN 27-B29


Ngày hôm nay bọn Biệt phái đã đưa ra vấn đề ly dị để gài bẫy Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài có được phép ly dị hay không ? Bởi vì trong sách Đệ Nhị Luật, Maisen đã khẳng định: Một người đàn ông lấy vợ, nhưng sau đó nhận thấy người vợ không đẹp mắt mình, ông ta có quyền dãy vợ và đuổi vợ đi.

Đây là một vấn đề được tranh cãi rất nhiều nơi dân Do Thái. Có người thì chủ trương được ly dị với bất cứ lý do nào, có người thì quan niệm chỉ được ly dị với lý do thật nghiêm trọng và chính đáng mà thôi.

Nếu Chúa Giêsu chấp thuận ly dị thì đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa, còn nếu Ngài không chấp thuận thì Ngài sẽ mất đi cảm tình của dân chúng và không tôn trọng luật lệ Maisen. Đằng nào thì Ngài cũng sẽ rơi vào cái bẫy được gài sẵn.

Hơn thế nữa, lúc bấy giờ chính Hêrôđê cũng đã dãy vợ để lấy người chị dâu của mình. Gioan Tiền hô đã lên tiếng can ngăn và đã phải trả giá bằng chính cái chết của mình.

Chúa Giêsu đã nhìn thấy rõ âm mưu thâm độc ấy và đã nói với họ: Sở dĩ Maisen chấp nhận là vì sự cứng lòng của họ, chứ từ thuở ban đầu thì đã không như thế. Bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ, để cả hai trở nên một xương một thịt. Nghĩa là cả hai phải bổ túc lẫn cho nhau. Sợi giây hôn nhân này còn bền chặt hơn cả sợi giây máu huyết. Bởi đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ mình. Và Chúa Giêsu đã kết luận:

- Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly.

Lời xác quyết của Chúa Giêsu thì vững vàng như đá tảng. Chính vì thế mà Giáo hội luôn bênh vực cho tính cách bất khả phân ly của hôn nhân.

Như chúng ta đã biết gia đình là tế bào sống động của nhân loại, là nền tảng kiên vững của xã hội. Nền tảng này tồn tại được là do tính cách bất khả phân ly của hôn nhân. Nếu vợ chồng tan rã thì đang sẽ sụp đổ. Một khi gia đình đã sụp đổ hẳn sẽ kéo theo nhiều hậu quả tai hại cho xã hội.

Thực vậy, vì lợi ích của cả hai vợ chồng mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Một cuộc tình tan vỡ, hẳn sẽ gây đau khổ cho cả hai, nhất là người vợ. Nơi những quốc gia mà chế độ đa thê còn tồn tại, thì người phụ nữ phải chăng chỉ là một thứ đồ chơi không hơn không kém. Với đặc tính bất khả phân ly, Giáo hội đã lớn tiếng bênh vực quyền lợi của người phụ nữ.

Tiếp đến vì lợi ích của con cái mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Trẻ nhỏ như một mầm non, cần phải được che chở bởi sức mạnh của người cha và tình thương yêu của người mẹ. Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho trẻ thơ những bài học làm người, trong đó cha mẹ chính là những bậc thày, những người hướng dẫn không thể thay thế.

Con cái sẽ như thế nào nếu như cha một nơi, mẹ một nẻo và như thế, chính bản chất của hôn nhân đòi buộc tính cách bất khả phân ly.

Để duy trì được đặc tính này, dĩ nhiên chúng ta phải hy sinh và từ bỏ nhiều lắm, nhưng nhờ chính những hy sinh và từ bỏ ấy mà tình yêu của chúng ta ngày một thêm mặn nồng và đằm thắm.

Có lẽ giờ này Chúa Giêsu cũng muốn nhắn nhủ chúng ta, những cặp vợ chồng Công giáo, đó là: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, thì loài người không được phân ly.

--------------------------

 

TN 27-B30. Bền vững

 

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố cho những người Pharisêu cũng như cho mọi người: TN 27-B30


Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố cho những người Pharisêu cũng như cho mọi người biết chủ trương của Ngài về hôn nhân và cũng là lề luật của Thiên Chúa, là vợ chồng phải nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly, tức là chỉ được một vợ một chồng và phải sống chung thủy với nhau suốt đời. Nói khác đi, Chúa Giêsu không chấp nhận đa phu đa thê và ly dị. Tại sao Chúa Giêsu lại chủ trương như vậy và đòi hỏi mọi người phải sống như vậy ?

Trong báo Tuổi Trẻ Cười số 3 phát hành vào đầu tháng ba năm 1984, có một bài đầu đề là “Hôn nhân kiểu Mỹ” kể rằng: chuyện thay vợ đổi chồng như thay áo của người Mỹ cũng đáp ứng nhu cầu tiện dụng, bởi vì mọi thứ trong cuộc sống của họ đều phải tiện dụng, đều mang dấu vết những sản phẩm chế tạo hàng loạt. Khi nói như vậy tác giả bài báo này có dụng ý nói rằng: chuyện bỏ nhau, chuyện thay vợ đổi chồng ở Mỹ rất nhiều và rất dễ dàng. Mọi người dân Mỹ đều thuộc làu bộ luật ly dị, vì nó giản tiện hơn những bộ luật khác.

Đó là chuyện của xứ người, còn ở xứ ta thì sao ? Báo chí cho biết: tại thành phố Hồ Chí Minh, qua thụ lý sơ thẩm của các tòa án quận huyện, được tòa án thành phố tổng hợp, thì hiện tượng ly hôn đã gia tăng đáng kể, đến mức báo động trong những năm gần đây. Báo chí còn cho biết thêm: phần đông đơn xin ly hôn là của những đôi vợ chồng ở lứa tuổi 30 tới 40 và có rất nhiều đôi vợ chồng mới lấy nhau từ một đến năm năm. Có bài báo, sau khi đã kể ra một số lý do dẫn đến ly hôn, đã kết luận: có những trường hợp có lý do chính đáng, nhưng cũng có những trường hợp lý do đưa ra xin ly hôn thật lẩm cẩm. Một số dẫn chứng trên cho thấy tình trạng hôn nhân ngày nay và củng cố cho điều Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay.

Bước vào hôn nhân, tất cả mọi người, ai cũng muốn được hạnh phúc, trọn đời yêu thương, và cuộc tình không phải chỉ là chuyện tháng ngày, vui thì ở, chán thì chia tay, nhưng trái lại, luôn bền vững, tươi đẹp. Chính Chúa Giêsu cũng mong muốn như thế, nên Ngài đã nâng sự kết hợp vợ chồng lên hàng bí tích, nghĩa là một sự kết hợp thánh thiện, bền chặt, biểu tượng của sự kết hợp mầu nhiệm giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Sự kết hợp này keo sơn và bền chặt, ngoài sự chết, không sức mạnh nào, không uy quyền nào có thể chia lìa. Vì thế, khi những người Pharisêu đến chất vấn Chúa: có được phép li dị để lấy người khác không ? Hẳn là họ muốn hỏi: có được thay vợ đổi chồng, đa phu đa thê không ? Họ còn nại đến thế giá của ông Môsê để hỏi thử Chúa. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã điềm đạm nhắc lại cho họ biết luật nguyên thủy của Thiên Chúa là một vợ một chồng, còn việc ông Môsê cho phép bỏ nhau để lấy người khác là vì lòng dạ dân chúng thời đó cố chấp, nên ông Môsê phải nhường bộ, chứ thuở ban đầu đâu có thế. Như vậy, Chúa Giêsu đã chính thức rút lại luật Môsê và thay thế những gì là hủ tục trong Cựu ước bằng luật Tân ước, nghĩa là Chúa chính thức xác nhận luật nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân, đồng thời Chúa đòi hỏi mọi người phải sống theo luật lệ này. Vì thế từ xưa cho đến nay, Giáo hội vẫn luôn trung thành tuân giữ.

Hôn nhân là vấn đề tình yêu, một tình yêu chân chính không chấp nhận chia sẻ, phân tán. Khi yêu người ta muốn chiếm trọn, muốn được chung tình, chứ không ai muốn chung chạ hay nửa đường đứt gánh. Vì thế, bất cứ khi nào tình yêu bị sứt mẻ, bị chia sẻ, bị phản bội, người ta sẽ không quản gian nguy, không ngại tai tiếng, không ngại hy sinh, để quyết bảo vệ cho kỳ được tình yêu đó, như đánh ghen, đập phá, chém giết, thuê người hành hung, tạt át xít tình địch… Tất cả những hành động đó không ngoài mục đích đòi quyền yêu và được yêu một cách tuyệt đối trong hôn nhân, không ngoài mục đích bảo vệ đạo chung thủy của vợ chồng.

Không thể có hạnh phúc trong những gia đình chồng đèo bồng vợ lang chạ, trái lại, khi “sợi giây” tơ hồng bị xé lẻ thì biết bao cảnh hỗn loạn tang thương xảy đến cho gia đình, vợ chồng sẽ không còn lòng quảng đại để tha thứ và để cảm thông nhau như trước nữa, bầu khí gia đình ngột ngạt, nghi kỵ, hằn học, ăn miếng trả miếng sẽ bùng nổ từ đây, và không sớm thì muộn sẽ đi đến chỗ đưa nhau ra tòa đòi ly dị. Tình trạng bi đát này sẽ gây nên nhiều đau khổ cho hai người.

Nhưng hậu quả tai hại nhất của gia đình ly dị là số phận con cái. Thật bất hạnh cho chúng, sinh lầm trong những gia đình bất hòa ấy: tâm tư tình cảm chúng bị đầu độc, chia sẻ, tình huynh đệ bị sứt mẻ héo tàn, tuổi trẻ mơ mộng bị hoen ố, lòng chúng hoang mang, mặc cảm, chán chường. Tội ác phát sinh ra tội ác, từ một gia đình thiếu tình yêu, chúng càng khao khát tình yêu khi nhìn đến anh em của những gia đình khác, chúng muốn tình thương mà lại thiếu tình thương, chúng muốn thoát ly gia đình để đòi hỏi một sự bù đắp nào đó, đòi hỏi không được thì càng gào thét, đập phá, quấy rối… và trở thành những trẻ em hư hỏng.

Trong phạm vi tự nhiên mà đã nguy hại như thế huống chi là phạm vi siêu nhiên. Gia đình là nền tảng của Giáo hội, là tế bào sống của Giáo hội. Nếu tế bào đó không sống, bị hư hỏng thì nhiệm thể đâu còn có lành mạnh được. Chúa nói: “Gia đình nào chia rẽ là tự hủy”. Trường hợp đau thương đó nếu còn được người cha hay người mẹ biết chịu đựng, nhẫn nại, hướng dẫn các con thì còn hy vọng cứu vãn được con cái, nhưng nếu “ông ăn chả bà ăn nem” thì sẽ không còn mảnh đức tin nào nữa. Chúa Kitô đã xác định rõ ràng: “Điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”, phân ly là mất mát, là chết chóc.

Nếu thực tại hôn nhân ngày nay đã lệch chính đạo và xa rời ý muốn của Thiên Chúa, thì nhiệm vụ đưa hôn nhân trở về nguồn là một vinh dự và cũng là một trọng trách của đôi bạn đã kết ước, của các bậc cha mẹ, của các gia đình, và của hết mọi người có nhiệm vụ rao truyền lời Chúa cho muôn dân.

--------------------------

 

TN 27-B31. SNLC/841 – Đời đời

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisêu đã trưng dẫn luật Môsê cho phép một: TN 27-B31


Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisêu đã trưng dẫn luật Môsê cho phép một người Do Thái ly dị vợ mình. Một câu trích trong sách Đệ Nhị Luật (24: 1) nói rằng::Nếu một người đàn ông thấy nơi vợ mình có điều gì chướng thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”. Nghe có vẻ giống như ném một cái rác vào trong thùng rác.

Nhưng Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến tính vĩnh viễn và bất khả phân ly của hôn nhân. Người trích một câu trong sách Sáng Thế Ký như sau: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ ; vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly”.

Hôn nhân là một giao ước vĩnh viễn giữa người chồng và người vợ, được ký kết trước mặt Thiên Chúa. Hai người tự nguyện thề hứa dâng hiến cuộc đời cho nhau. Giao ước này khác xa các hợp đồng kinh tế. Chẳng hạn, nếu chúng tôi muốn thuê một căn hộ chúng tôi sẽ ký một hợp đồng trong một thời hạn nhất định, có ghi rõ số năm, tháng mà chúng tôi sẽ thuê căn hộ đó. Giao ước hôn nhân thì khác hẳn. Bởi vì nó không phải là một giao kèo có thời hạn, nhưng là một cam kết dấn thân sống kết hiệp với nhau trong suốt cả cuộc đời.

Hai người phải phối hiệp với nhau. Trong hôn nhân, sự chia cách là hậu quả của những hiểu lầm. Ly dị có thể phá hủy không chỉ là cuộc sống lứa đôi mà thôi, nhưng còn phá hủy cả tương lai của con cái nữa. Vì thế, hôn nhân mang ý nghĩa một sự kết hiệp vĩnh viễn, giữa người chồng với người vợ, và còn là sự liên đới giữa cả cha mẹ với con cái nữa.

Cả hai vợ chồng sẽ trở nên một xương một thịt. Theo kế hoạch của Thiên Chúa, họ không còn là hai nữa nhưng đã kết hợp nên một. Điều này có thể thấy được trong cố gắng kết hiệp của họ để giúp nhau lớn lên trong sự trưởng thành.

Để cuộc sống lứa đôi được hạnh phúc, người ta cần phải có nhiều yếu tố chẳng hạn như sự thành thật, tinh thần hy sinh, hợp nhất, sự tha thứ, tinh thần phục vụ quảng đại.

Lạy Chúa, xin chúc lành cho mọi cuộc hôn nhân. Xin giúp các người làm chồng và làm vợ biết sống trung thành với lời dạy của Chúa.

--------------------------

 

TN 27-B32. BỠ NGỠ  -  Chiara Lubich


"Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng"

 

Cung cách hành xử và nói năng của Đức Giê-su luôn làm ta bỡ ngỡ. Chẳng hạn như cách thức: TN 27-B32


Cung cách hành xử và nói năng của Đức Giê-su luôn làm ta bỡ ngỡ. Chẳng hạn như cách thức Người đối xử với trẻ em. Vào thời của Người, trẻ em bị coi rẻ trong xã hội và chúng chẳng có vị trí gì trong thế giới "người lớn". Các tông đồ không muốn chúng đến vây quanh Người: chúng chỉ có quấy rầy mà thôi. Ngay cả các thượng tế và kinh sư cũng đâm ra "tức tối" khi thấy lũ trẻ reo hò trong đền thờ "Hoan hô Con Vua Đa-vít". Họ yêu cầu Đức Giê-su hãy quở mắng chúng (xem Mt 21,15-16). Thay vì thế, Đức Giê-su có một thái độ đối với trẻ em hoàn toàn khác hẳn: Người gọi các trẻ em đến; Người ôm lấy chúng, đặt tay chúc lành cho chúng; và Người còn đưa chúng ra làm gương mẫu cho các môn đệ của mình:

"…vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng"

Tại một đoạn khác trong Phúc Âm, Đức Giê-su dạy rằng "nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 18,3).

Tại sao Nước Thiên Chúa thuộc về những người giống như các trẻ em? Vì trẻ em tin tưởng, phó thác nơi cha mẹ của mình; chúng tin vào tình thương của cha mẹ. Khi ở trong vòng tay của cha mẹ, chúng cảm thấy an toàn, không sợ hãi. Và khi thấy hiểm nguy, chúng lại càng ôm ghì lấy cha mẹ và ngay lập tức chúng cảm thấy mình được che chở. Đôi khi, ta đã từng thấy có những người cha, người mẹ đặt đứa trẻ lên cao chẳng hạn, rồi bảo con hãy nhảy. Và đứa trẻ đã thực hiện cú nhảy trong sự phó thác hoàn toàn.

Đức Giê-su muốn các môn đệ của Nước Trời cũng giống thế. Ki-tô hữu đích thực, như các trẻ em, tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Họ lao vào đôi tay của Cha trên trời, và họ tín thác Người vô điều kiện. Không có gì làm cho họ phải sợ hãi nữa bởi vì họ không bao giờ cảm thấy cô đơn. Cả khi thử thách xảy đến, họ tin vào tình yêu của Thiên Chúa, vì họ tin rằng mọi sự xảy ra đều vì lợi ích của họ. Có điều gì phải lo lắng sao? Họ liền phó mình trong tay Thiên Chúa, để rồi với lòng tin tưởng như trẻ thơ, họ tin rằng Người sẽ giải quyết mọi sự. Như một đứa trẻ, họ phó thác hoàn toàn, không so đo, tính toán thiệt hơn.

"…vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng"

Trẻ em phụ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ về thực phẩm, áo quần, nhà cửa, sự chăm sóc, giáo dục v.v. Chúng ta, "những trẻ em của Phúc Âm", cũng phụ thuộc hoàn toàn vào Chúa Cha. Người nuôi ta như Người nuôi chim trời. Người mặc cho ta như Người mặc cho những bông huệ ngoài đồng. Người biết điều ta cần trước khi ta mở miệng cầu xin (xem Mt 6,26), và Người ban điều ấy cho ta. Ngay cả Nước Trời cũng không phải là cái mà ta chiếm đoạt được; ta lĩnh nhận như một món quà từ bàn tay Thiên Chúa.

Ngoài ra, trẻ em không làm điều xấu vì chúng không biết xấu là gì. Người môn đệ của Phúc Âm xa lánh sự dữ bằng cách yêu thương. Nhờ vậy, họ giữ mình trong sạch và lấy lại được sự hồn nhiên.

Không bị gánh nặng kinh nghiệm chất lên người, các trẻ em đối diện với đời trong thái độ tin yêu, luôn đi tìm những cuộc phiêu lưu mới. "Các trẻ em của Phúc Âm" tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa và để lại quá khứ sau lưng, họ bắt đầu một cuộc sống mới mỗi ngày bằng cách bỏ ngỏ cho những tác động luôn mang tính sáng tạo của Chúa Thánh Thần.

Trẻ em không tự mình học nói được; chúng cần có người dạy. Người môn đệ của Đức Giê-su cũng không theo lối lý luận riêng của mình; họ học tất cả từ nơi Lời Chúa, bao gồm việc nói năng và sống theo Phúc Âm.

Trẻ em có khuynh hướng bắt chước cha mình. Nếu ta hỏi chúng khi lớn lên chúng sẽ làm gì, thì chúng thường trả lời là sẽ theo nghề của cha mẹ. "Các trẻ em của Phúc Âm" cũng vậy. Họ noi gương Cha trên trời, Đấng là Tình Yêu, và họ yêu thương như Người yêu thương. Họ yêu mọi người vì Chúa Cha cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (xem Mt 5,45). Họ yêu thương trước, bởi vì đang lúc ta còn là tội nhân thì Đức Ki-tô đã yêu thương ta (xem Rm 5,8). Họ mến yêu không vụ lợi vì Cha trên trời làm như thế.

Vì thế Đức Giê-su thích được các trẻ em vây quanh và Người đặt chúng làm gương mẫu:

"Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng"

Thực vậy, trẻ em không ngừng làm ta kinh ngạc. Betty, một bé gái sáu tuổi ở Milan, đã viết cho tôi: "Hôm qua ba cháu bảo cháu đi xuống hầm để lấy đồ. Cái cầu thang tối thui làm cháu sợ. Lúc đó cháu cầu nguyện với Chúa Giê-su và cảm thấy Người ở gần bên".

Irene, Hillary và Laura, ba chị em ở Firenze, được mẹ chở đi mua sắm. Khi đi ngang qua trước nhà ông ngoại, chúng xin mẹ cho chúng được ghé thăm ông. Người mẹ bảo: "Các con đi đi, mẹ đợi ở đây". Khi quay lại, chúng hỏi: "Tại sao mẹ không thăm ông ngoại?" Người mẹ trả lời: "Ông ngoại làm mẹ buồn. Như thế này để ngoại biết ngoại đã làm gì".

Hillary trả lời: "Nhưng mẹ ơi, ta phải yêu mọi người, kể cả kẻ thù nữa". Người mẹ không còn biết phải nói gì. Bà nhìn chúng và mỉm cười: "Con có lý. Các con chờ mẹ ở đây". Và bà đi một mình lên chào ông ngoại.

Ta có thể học nơi trẻ em cách thức đón nhận Nước Thiên Chúa.

--------------------------

 

TN 27-B33. TƯƠNG QUAN NAM N”, TƯƠNG QUAN VỢ CHỒNG.


CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN NĂM B (08.10.2006)

I. D”N VÀO PHỤNG VỤ

 

Có lẽ chưa bao giờ con người gặp nhiều khó khăn trong tương quan nam nữ nói chung và tương: TN 27-B33


Có lẽ chưa bao giờ con người gặp nhiều khó khăn trong tương quan nam nữ nói chung và tương quan vợ chồng nói riêng như ngày nay. Chuyện vợ chồng tan rã và ly dị xẩy ra càng ngày càng nhiều, nhất là ở các nước văn minh tiên tiến. Hôn nhân đồng tính - trái tự nhiên - càng ngày càng được luật pháp của nhiều nước nhìn nhận. Nạn mãi dâm, buôn người, kỹ nghệ sex càng ngày càng bành trướng làm hoen ố bao tâm hồn, xúc phạm nhân phẩm, nhất là của phụ nữ và trẻ em.

Trong bối cảnh ấy các bài Sách Thánh Chúa Nhật 27 Thường Niên hôm nay là lời mời gọi mọi người hãy trở lại với ý định và chương trình tạo dựng của Thiên Chúa để xây dựng mối tương quan trong sáng, lành mạnh, tươi đẹp và thánh thiện giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng.

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh

(1) Bài đọc 1: St 2, 18-24: cả hai thành một xương một thịt.

     18 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. 19 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế.20 Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. 21 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. 22 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.

   23 Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra."  24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.


(2) Bài đọc 2: Dt  2,9-11: Đấng thánh hóa và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc

         9 Nhưng con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.

        10 Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. 11 Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em.

(3) Bài Tin Mừng: Mc 10,2-16: Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.  

         2 Khi ấy, có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không? " Họ hỏi thế là để thử Người. 3 Người đáp: " Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì? "4 Họ trả lời: "Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ." 5 Đức Giê-su nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. 6 Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; 7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, 8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.9 Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly." 10 Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. 11 Người nói: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; 12 và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình."

          13 Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng.14 Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng.15 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào."16 Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?

(1) Bài đọc 1 (St 2, 18-24) là kế hoạch tạo dựng và cũng là giáo huấn của Thiên Chúa về mối tương quan giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng. Giáo huấn ấy được trình bày bằng một truyện kể, rất cụ thể, hình tượng và hấp dẫn. Mối tương quan giữa nam và nữ là mối tương quan bình đẳng, gắn bó, hạnh phúc và bổ túc cho nhau (phụ tá). Mối tương quan vợ chồng là mối tương quan keo sơn, khắng khít, hai thành một về tâm hồn và thân xác.

(2) Bài đọc 2 (Dt  2,9-11) là một đoạn thư của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Do Thái trong đó Thánh Phao-lô nói về vai trò của Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã chuộc lại và thánh hóa phẩm giá con người để con người không thua kém các thiên thần. Con người đã thua kém các thiên thần vì tội nguyên tổ đã làm cho mối tương nam nữ, vợ chồng bị biến chất: từ tương quan bình đẳng, kính trọng xuống thành tương quan chiếm đoạt, sở hữu. Nay Chúa Giê-su Ki-tô đã thiết lập lại mối tương quan ban đầu của Chương Trình Thiên Chúa Tạo Dựng.

(3) Bài Tin Mừng ( Mc 10,2-16) là một cuộc tranh luận giữa một nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giê-su về hôn nhân tức mối tương quan giữa vợ và chồng. Chúa Giê-su đã nhắc lại kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa và xác định con đường và  lối sống chính thống là hôn nhân nhất phu nhất phụ, là hôn nhân bền vững và bắt khả phân ly.

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?

        Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Thiên Chúa muốn rằng:

* mối tương quan giữa nam và nữ phải là tương quan lành mạnh, bình đẳng, yêu thương và bổ sung cho nhau,

* mối tương quan giữa vợ và chồng phải là tương quan nhất phu nhất phụ, bền chặt, tương kính và bất khả phân ly.

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

        Sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là xây dựng:

* mối tương quan lành mạnh, bình đẳng, yêu thương và bổ sung giữa nam và  nữ.

* mối tương quan phu nhất phụ, bền chặt, tương kính và bất khả phân ly giữa vợ và chồng.

IV. CẦU NGUYỆN

     “Lạy Thiên Chúa là Cha Tạo Dựng vũ trụ vạn vật và loài người, chúng con xin dâng lên Cha lời cảm tạ về ý định và kế hoạch của Cha là muốn:

* mối tương quan nam nữ phải là tương quan lành mạnh, bình đẳng, tương kính và bổ sung,

* mối tương quan vợ chồng phải là tương quan yêu thương, bền vững, bất khả phân ly và tương kính, để con người vui hưởng hạnh phúc trong gia đình và ngoài xã hội.

Nhưng do chúng con yếu đuối và tội lỗi, nên các mối tương quan nam nữ và vợ chồng dễ dàng bị biến chất, không theo đúng kế hoạch và ý muốn của Cha, khiến chúng con bất hạnh trong gia đình và ngoài xã hội.

Xin Cha đoái thương cứu giúp chúng con vượt qua mọi gian nan, thử thách, yếu đuối mà sống phù hợp với kế hoạch và ý muốn của Cha.

                Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
         Houston (TX/USA) ngày 23 tháng 09 năm 2006

--------------------------

 

TN 27-B34. TÔN TRỌNG SỰ BÌNH ĐẲNG VÀ TRUNG TÍN TRONG HÔN NHÂN


CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN B

TÔN TRỌNG SỰ BÌNH ĐẲNG VÀ TRUNG TÍN TRONG HÔN NHÂN

( Mc 10, 2-16)

Thưa quý vị,


 

Trong các toà án ngày xưa, khi chưa phát minh máy ghi âm, thì người ta dùng thư ký đặc biệt, ghi: TN 27-B34


Trong các toà án ngày xưa, khi chưa phát minh máy ghi âm, thì người ta dùng thư ký đặc biệt, ghi chép rất nhanh các lời khai, gọi là nhân viên tốc ký. Sau phiên toà các luật sư muốn dò lại hồ sơ, chỉ cần đọc văn bản ghi nhanh đó, khắc biết đầy đủ chi tiết. Khi tranh đua các trận cầu ở Mỹ, người ta dùng máy ghi ảnh. Nếu một ông bầu nào đó, muốn phản đối trọng tài thì chỉ cần bấm lại máy, mọi sự sẽ trở nên rõ ràng. Nếu một tiệm tạp hoá lớn bị trộm cắp, hay khách hàng cầm nhầm đồ vật thì cảnh sát chỉ cần bấm lại máy thu hình đặt sẵn trong các quầy là tìm ra thủ phạm ngay. Thời hiện đại có nhiều phương tiện tìm kiếm sự thật rất tiện lợi và nhanh chóng.

Nhưng khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ vạn vật và con người, ai đã ghi chép văn bản? Hẳn chẳng có ai. Khi Adam, Eva được dựng nên, ai đã chứng kiến mà mô tả lại? Cũng chẳng có ai cả! Vậy những chuyện trong sách Sáng Thế thật hay bịa? Rõ ràng trình thuật tạo dựng hai ông bà không phải là câu truyện tả chân xác thực một trăm phần trăm. Thánh Kinh không phải là lịch sử theo nghĩa đó. Nó có mục tiêu khác. Đó là giúp đỡ các tín hữu bền vững và lớn lên trong đức tin. Nó không phải là truyện “lúc ấy” mà là chuyện “bây giờ”. Nó chuyển tải một nội dung quan trọng cho các tín hữu hiện đại và đường lối văn chương của nó cụ thể, rực rỡ màu sắc, ngõ hầu người đọc dễ nắm bắt và nhớ lâu. Liệu có đúng câu truyện xảy ra như thế? Đúng thế. Nó là sự thật nằm tàng ẩn trong câu truyện, xin cảm phiền theo dõi tiếp.

Chân lý thứ nhất có thể suy đoán ra là đàn ông và đàn bà hoàn toàn bình đẳng trong việc tạo dựng, không phải như người ta lầm tưởng xưa nay: đàn bà thua kém đàn ông. Thiên Chúa là Tạo Hoá của cả hai người. Không có sự chênh lệch hay thiên vị khi Ngài dựng nên Adam và Eva. Tạo hoá của Adam cũng là tạo hoá của Eva. Chẳng có ưu tiên nào cả! Vậy tại sao người ta lại đặt ưu tiên cho Adam và coi nhẹ Eva? Adam không tham dự vào việc tạo dựng Eva. Khi Thiên Chúa làm nên Eva, Adam đang ngủ say! Công việc là công việc của Thiên Chúa. Ngài hoàn toàn tự mình khởi sự, chẳng có ai can dự vào. Adam từ bụi đất và Eva từ một chiếc xương sườn. Cả hai là công việc một mình Thiên Chúa. Vậy não trạng thiên vị là sai lầm. Sự thật là nhân phẩm Adam, Eva hoàn toàn giống nhau.

Chân lý này còn được tỏ hiện, như tác giả Dianne Bergan nhận xét, trong lời tuyên bố của Adam: “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi.” Theo nữ tác giả, hai chữ “xương thịt” có ý nghiã vừa tâm lý vừa thể xác. Xương gợi nên sức mạnh, thịt sự yếu đuối. Như vậy toàn cảnh con người là sức mạnh và yếu đuối nơi cả hai đàn ông và đàn bà. Chứ không riêng gì một phía nào: đàn ông là sức mạnh, đàn bà là yếu đuối. Chúng ta nên hiểu phía đàn ông mạnh mẽ nhưng cũng rất yếu đuối và đàn bà là người bạn thích hợp của ông ta. Eva chia sẻ toàn bộ số phận làm người như Adam. Như vậy câu truyện tạo dựng con người là có thật. Vì nó chuyển tải sự thật căn bản về loài người mà Thiên Chúa đã tác thành nên: Cuộc đời là một ơn ban của Thượng Đế và Ngài còn ban cho một hoàn cảnh thuận lợi để sống. Adam và Eva được tạo dựng như một cộng đoàn, không riêng lẻ và được kêu gọi sống với nhau trong tương quan hợp lý. Tương quan này được đặt trong một thế giới có trật tự. Khi hành động tạo dựng Adam, Eva hoàn tất, chúng ta chẳng thể có ý kiến nào khác ngoài quan niệm là họ thuộc về Thiên Chúa và về nhau cách hoàn hảo, bởi cả hai đều “một xương một thịt”. Không thể nói nhân loại đầy đủ hơn nơi người đàn ông và kém hơn nơi người đàn bà. Hoặc một bên trổi vượt hơn bên kia và vì thế có thể lấn át nhau. Ngược lại cả hai đều phản ánh đồng đều nhân loại tính: “Con người nói: phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi…bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương thịt.”

Như vậy chúng ta dễ hiểu ra quan điểm của Chúa Giêsu khi tuyên bố: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly. Xin nhớ, Ngài cùng các môn đệ đang đi lên Giêrusalem, dọc đường Người dạy dỗ các ông về giáo lý chân thật của Đức Chúa Trời. Các Pharisêu đưa vấn đề ly dị ra trắc nghiệm Ngài. Nhưng cũng nhờ vậy mà Ngài có cơ hội dạy dỗ một chân lý ngàn đời về vấn đề hôn nhân. Theo sách Đệ nhị luật (24, 1-4) người đàn ông được phép đuổi vợ vì một lý do giản dị là tìm thấy nơi nàng có điều chi “chướng”. Chẳng ai hiểu chính xác thế nào là chướng, vì vậy mỗi trường phái cắt nghĩa một khác. Thời Chúa Giêsu vấn đề ly dị là một đề tài không nhỏ ( thời nay cũng vậy) trong cộng đồng tôn giáo. Vì vậy họ đặt trước Chúa Giêsu cái bẫy để thử Ngài. Nếu Ngài trả lời được thì rõ ràng Ngài đi ngược với tự nhiên. Nếu nói không thì phạm luật Môsê như chúng ta vừa trích dẫn. Nhưng thay vì bàn luận trực tiếp được hay không được phép ly dị, Ngài chưng ra sách Sáng Thế Ký và chương trình về hôn nhân của Thiên Chúa.

Ngày nay lời dạy của Ngài cũng rất khó nuốt. Bởi ly dị rất phổ biến trên toàn thế giới. Riêng nước Mỹ 50% các giao ước hôn nhân đi đến đổ vỡ. Các tín hữu khó mà tuôn giữ lời Chúa Giêsu trước thực tại của cuộc sống tân thời, xô bồ và thượng tôn vật chất. Trong bài suy niệm này chúng ta thử vật lộn với sự thật Chúa dạy và các thực tế trong gia đình, xã hội, bạn bè, người dưng nước lã và với chính bản thân. Trước hết là lý do nghiêm ngặt chống ly dị. Trong xã hội thời cổ và ngay cả bây giờ, luật hôn nhân nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Bởi vì đàn ông có khuynh hướng bạo lực và đàn áp. Họ coi đàn bà và con nít như tài sản riêng, có toàn quyền định đoạt tương tự như nô lệ vậy. Luật lệ là để bảo vệ các thành viên yếu kém trong cộng đồng. Nhưng tai hại thay nó lại do đàn ông xây dựng nên. Vì thế còn nhiều thiếu sót và bất công. Thí dụ luật cho phép ly dị vì lý do “chướng mắt”. Chướng mắt vì không thích nữa, vì tốn kém, vì nấu ăn tồi, vì tuổi tác… Hàng ngàn lý do gọi là “chướng”. Khi một người đàn bà bị đuổi ra khỏi nhà, bà rất dễ bị tổn thương và lệ thuộc vào gia đình bên ngoại để sống còn. Chẳng may gia đình nghèo khổ, lúc ấy bà hoàn toàn phải tự lo liệu. Cho nên cần một luật hôn nhân nghiêm ngặt hơn để giúp đỡ những trường hợp khó khăn. Ngoài lề luật của Thiên Chúa, lòng yêu thương bác ái đòi buộc Chúa Giêsu đưa ra một “lý tưởng”, chứ không phải như mấy ông Pharisêu hy vọng Ngài sẽ tháo thứ như thái độ của Ngài vốn có đối với “tập tục” của cha ông.

Có lẽ vì lý do đó mà thánh Mathêu đặt vấn đề ly dị vào mục “khuôn vàng thước ngọc” của Bài Giảng Trên Núi(5,31) song song với tám mối phúc thật, yêu kẻ thù, bất bạo động, đưa má cho người ta tát, cho mà không đòi lại… Trong ánh sáng của các lý tưởng này, Chúa cho chúng ta hay nhân loại thiếu sót biết bao khi thực hiện Thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta quá yếu đuối trong chức vụ làm môn đệ Ngài và làm công dân nước trời. Chúng ta luôn cần đến lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Vấn đề hôn nhân và gia đình cũng vậy. Nó là một lý tuởng người ta phải cố gắng đạt tới. Không vì lý do gì mà bưng tai bịt mắt trước “sự thật” của Sáng Thế Ký. Và Chúa Giêsu nhấn mạnh lại: Mối ràng buộc hôn nhân là vĩnh viễn không quyền lực nào bẻ gẫy được dù là quyền bính quốc gia, Giáo Hội, quốc tế. Nó đã được Thiên Chúa an bài và quyết định. Ngoài ra tính bất phân ly của hôn nhân còn là biểu tượng tình yêu Hội Thánh với Đức Kitô và sự gắn bó vững vàng giữa thụ tạo với Thiên Chúa của mình. Như vậy hôn nhân giữa người nam và người nữ mang nhiều ý nghĩa khác nhau về lòng trung thành. Không những trung thành xác thịt, nhưng tình yêu, tâm linh, tinh thần tín thác, trợ giúp và biểu tượng nữa. Nó nói lên sự gắn bó của Thiên Chúa với loài người và ngược lại loài người với Tạo Hoá của mình. chẳng biểu tượng nào có ý nghĩa hơn!

Đó là lý tưởng của hôn nhân công giáo, nó vượt xa mọi học thuyết khác. Người tín hữu tin chắc rằng bí tích hôn phối phản ánh tình yêu của Chúa Kitô, Thiên Chúa nhập thể, với Hội Thánh và ngược lại. Nhưng khi thể hiện chúng ta thường thất bại, vì yếu đuối của bản tính nhân loại. Chúng ta phải luôn đấu tranh để theo gương Chúa Giêsu. Ngài trung thành với Hội Thánh và từng linh hồn cho đến chết trên thập giá. Hôm nay chúng ta đem cuộc đấu tranh này dâng trên bàn thờ để Chúa giúp đỡ. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta Đức Kitô và tinh thần của Người ngõ hầu chúng ta sống am hợp với niềm tin.

Tuy nhiên Hội Thánh không cố tình ngoảnh mặt khỏi những yếu đuối của con người. Nó bắt nguồn ngay từ bản tính sa ngã. Sau thời gian dài kinh nghiệm và suy gẫm về điều chi làm cho người ta hoàn toàn đồng ý thì tâm lý học khám phá ra rằng vào giai đoạn nào đó của cuộc đời hoặc trong những hoàn cảnh nhất định nào đó việc đồng ý hoàn toàn và tự do là không thể thực hiện được. Vì thế hiện nay Giáo Hội tuyên bố nhiều giao ước hôn nhân không thành, bởi thiếu sự đồng ý chân thật. Nhưng ở những hoàn cảnh khác, phẩm chất của giao ước hôn phối là đầy đủ, không tháo gỡ được nữa.

Phúc Âm hôm nay nghiêm khắc lên án ly dị. Tuy nhiên nhiều cặp vợ chồng không đáp ứng được lý tưởng của hôn nhân. Họ thiếu sót cách này cách khác. Các chủ chăn nên bỏ công khó tìm hiểu và giúp đỡ họ thực tình chứ không “tội nghiệp” suông. Ở Việt Nam còn ít, chứ ở Au Mỹ, ly dị và tái kết hôn ngày càng trở nên phổ biến. Họ vẫn khao khát sống đời tín hữu, nhưng hoàn cảnh không cho phép. Các mục tử nghĩ sao đây? Hãy tìm ra phương pháp để an ủi nâng đỡ những tâm hồn đó. Người ta còn đặt câu hỏi: ly dị và tái kết hôn khác nhau thế nào? Vậy cần nhiều học hỏi và suy tư, không nên bỏ phí thời giờ vui chơi bài bạc.

Nhưng tư tưởng chính thống vẫn là bước đi an toàn. Luật lệ nghiêm khắc vẫn cần thiết để bảo vệ lý tưởng hôn nhân và giúp đỡ các đôi vợ chồng đạt tới mục tiêu ấy. Tôi quen một gia đình đã kết hôn 30 năm. Họ thú nhận đã 5 lần dự tính ly dị. Nhưng nhờ ơn Chúa và bạn bè nâng đỡ họ vẫn còn yêu nhau và khám phá ra rằng những khó khăn chỉ là nhất thời, giúp họ lớn lên trong hiểu biết và hạnh phúc. Một bà mẹ trẻ khác thú nhận: “Quyết định kết hôn và sống trung thành là một điều khó khăn nhất trong cuộc đời mình”. Chúng ta cần giữ vững “lý tưởng” nhưng cũng cần tìm ra đường lối giúp các gia đình khủng hoảng. Xin đừng nhởn nhơ với bổn phận. Công việc thật nặng nề nhưng là trách nhiệm mục tử.

Căn do mọi sự dữ là tội lỗi. Người ta thường ích kỷ nghiêm khắc với tha nhân, dễ dãi với bản thân. Cho nên thiếu bác ái chân thật. Đôi vợ chồng phải nâng đỡ nhau chứ đừng chì chiết, nhường nhịn nhau chứ đừng cố chấp. Chúng ta sống trong thế giới tan nát vì tôi lỗi cho nên ít nhiều bị ảnh hưởng. Điều này mọi người đều biết và thông cảm. Nếu như lúc nào đó “lý tưởng” bị bẻ gẫy, chúng ta không ngã lòng, xin Chúa khoan dung tha thứ. Ngài sẵn sàng đổ ơn xuống giúp đỡ ngõ hầu chúng ta làm lại cuộc đời. Ngày nay các gia đình luôn phải đối phó với khó khăn và căng thẳng. Này nhé ly dị rất phổ thông, văn hoá xã hội không giúp đỡ gì nhiều cho nếp sống gia đình. Các thành viên tản lạc xa nhau. Kinh tế chụp giật xô bồ. Cha mẹ xa con cái. Con cái chẳng có thời giờ thăm hỏi cha mẹ, ông bà. Công việc bề bộn. Tình cảm máu mủ không được vun đắp, nuôi dưỡng. Thử hỏi gia đình bền vững thế nào được? Nhưng hãy nghĩ đến những lễ hôn phối mà chúng ta đã tham dự. Nó ám chỉ sự dẫn thân trọn đời, không những ngay lúc nghi thức diễn ra, mà mãi mãi về sau. Khi đôi vợ chồng gặp khó khăn, cần được khích lệ và giúp đỡ để tiếp tục là “một xương một thịt”. Chúng ta hãy sẵn sàng hiện diện để “lý tưởng” của Chúa được củng cố và sáng tỏ. Như vậy cộng đồng mới thực sự là môn đệ Chúa. Mong lắm thay. Amen.


Lm. Jude Siciliano, OP.

--------------------------

 

TN 27-B35. Gia đình: trang Tin Mừng được viêt cho thời đại


CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN (B)

Dẫn nhập đầu lễ:

Kính thưa cộng đoàn,


 

Cho dù không phải là một thánh lễ có ban bí tích Hôn Phối, sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay: TN 27-B35


Cho dù không phải là một thánh lễ có ban bí tích Hôn Phối, sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay lại tập chú vào chủ đề hôn nhân-gia đình, một nội dung giáo lý đặc biệt liên quan đến phần đông kitô hữu. Bởi vì thành phần đông đảo nhất trong cộng đoàn Dân Chúa vẫn là những người chọn bậc sống hôn nhân gia đình.

Đứng trước những cám dỗ và áp lực nặng nề đe dọa nền tảng của gia đình và sự thánh thiện bền vững của bí tích hôn nhân, đứng trước những nguy cơ rạn nứt và đỗ vỡ của nhiều gia đình kitô hữu, nhất là các gia đình kitô hữu trẻ, chúng ta hãy xin Chúa ban xuống muôn ơn trên các gia đình, và xin Thánh Thần tình yêu hướng dẫn các đôi bạn trẻ tiến tới việc xây dựng gia đình trong ý thức và niềm tin yêu.

Giờ đây, chúng ta hãy thành tâm sám hối để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

Giảng Lời Chúa:

Ở đây, trong ngôi Thánh đường nầy, chúng ta đã có rất nhiều dịp để chia sẻ cho nhau về tình yêu đôi lứa, về bí tích Hôn Phối, về đời sống hiôn nhân-gia đình. Và dĩ nhiên nội dung của các đề tài trên đều là tốt đẹp thánh thiêng: tình yêu là thánh thiện, cao quí vì bắt nguồn từ Thiên Chúa và phản ảnh chính tình yêu Thiên Chúa. Bí tích Hôn nhân là cao trọng và cần thiết vì do chính Chúa Kitô thiết lập để ban ơn cho đôi vợ chồng. Gia đình là thánh thiêng vì là tế bào nền tảng của xã hội và Giáo Hội…Vâng, làm sao ở giữa cái không gian nầy, cái bầu khí nầy mà chúng ta lại nói khác được, cho dù trong hiện thực đời thường, hình như không phải tất cả trăm phần trăm đều đúng y như thế.

Nói cách khác: cho dù tình yêu là bắt nguồn từ Thiên Chúa và Hôn Nhân là ý định của Đấng Tối Cao thì vẫn có những tình yêu đã sớm phai màu và những đôi uyên ương đã rẽ cánh chia tay khi thời gian chung bước chỉ được mấy Mùa Xuân hay thậm chí, chỉ mới vài con trăng le lói. Và cho dù Bí tích Hôn Phối là phương thế tối hảo để Chúa Kitô chúc lành và thánh hóa lứa đôi, thì cũng không ít những lứa đôi với cử hành Hôn Phối linh đình trọng thể, với soirê lướt thướt đắt tiền, với camêra quay không thiếu một chi tiết nhỏ, với phù rễ phù dâu hàng tá cùng với những bài thánh ca hay nhất được chọn để ca khen…thì chỉ sau khi cử hành Bí tích một khoảng thời gian ngắn chàng và nàng đã vội đưa nhau ra tòa án dân sự để anh đi đường anh tôi đi đường tôi.

Nói như thế không phải để chúng ta nghi ngờ chân lý: tình yêu vốn bắt nguồn từ Thiên Chúa và xem thường hiệu quả đích thực của Bí tích Hôn Phối, nhưng để chúng ta tỉnh táo nhận diện đâu là tình yêu đích thực phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa, và đâu là những phương thế tối hảo để bảo vệ và thăng tiến đời sống hôn nhân-gia đình

1. Tình Yêu Hôn Nhân bắt nguồn từ Thiên Chúa

Dựa vào ánh sáng và uy tín của Lời Chúa vừa được công bố, chúng ta có thể phác thảo một vài nét chính yếu cho thấy một tình yêu đôi lứa bắt nguồn từ Thiên Chúa, chứ không là kết quả của một cảm xúc bốc đồng hay một giao ước bất đắc dĩ để thỏa mãn những âm mưu và vụ lợi.

v Một tình yêu đôi lứa bắt nguồn từ Thiên Chúa khi cả hai đều nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong nhân vị của mỗi người vì như lời sách Sáng thế dạy:

“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ…” (St 1,27-28)

Khi người nam nhìn người nữ chỉ là một “món hàng để sở hữu”, một “dụng cụ để thỏa mãn”, một “tôi tớ để phục vụ”, một “công cụ để sinh lợi và sinh con”…thì làm sao cho đó là tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Cũng vậy, khi người vợ xem người chồng chỉ là một vật để gây giống, một thứ công nhân không trả lương, một tên ăn hại, một gã khờ…thì thử hỏi trong tình yêu kiểu đó có chút nào là tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa ! Và dĩ nhiên, thứ tình yêu như thế, vợ chồng xem nhau như thế, nếu còn ở với nhau ngày nào sẽ chỉ là thời gian của địa ngục và điểm đến chắc chắn đó chính là xa nhau.

- Một tình yêu hôn nhân bắt nguồn từ Thiên Chúa khi người chồng và người vợ khắng khít và nên một trong tâm trí, trong dự phóng, trong những nhõ nhặt của đời thường hay trong những sự kiện và biến cố quan trọng trên từng cây số cuộc sống, như lời dạy của sách Sáng Thế:

“Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: “Phen nầy, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi ! Nàng sẽ được gọi là đàn bà; vì đã rút từ đàn ông ra”. Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,22-24)

Làm sao gọi được một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa khi chồng nói một đàng vợ hiểu một nẽo, chồng theo ý chồng vợ theo ý vợ. Không bao giờ biết gọi nhau bằng một tiếng “Mình” trong khi đó mỗi người thi đua ăn riêng, tiêu riêng, chơi riêng, làm riêng. Một tình yêu không phấn đấu để trở nên mỗi ngày hiệp nhất hơn, ý hợp tâm đầu hơn, liên kết hơn, mà chỉ thấy nơi mỗi người toàn những khác biệt, những tính hư tật xấu, những trói buộc làm mất tự do, những keo kiệt và bũn xĩn mang đầy ích kỷ hẹp hòi…Một tình yêu như thế làm sao bền vững được, keo sơn được, vì tự bản chất, đã không có chút nào giống với tình yêu của Thiên Chúa, một Thiên Chúa Ba Ngôi, sắt son, hiệp nhất, bất khả phân lý và hoàn toàn nên một.

- Một tình yêu hôn nhân bắt nguồn từ Thiên Chúa khi vợ chồng biết hy sinh cho nhau, biết trao ban và nhận lãnh như chính Thiên Chúa đã làm gương và đã dạy:

“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi đã ban Con Một” (Ga 3,16), “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,12-13)

Làm sao gọi được là một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa và phản ảnh chính tình yêu của Ngài khi người chồng coi vợ chẳng khác nào đứa ở, lúc nào cũng mắng nhiếc, nhục mạ, đánh đập và bắt vợ phải cung phụng trà nước cháo cơm, thức khuya dậy sớm trong khi cứ phây phây nhậu nhẹt say xỉn với bạn bè thâu đêm suốt sáng, hết quán bia ôm nầy tới quán karaôkê khác; hay vợ lúc nào cũng biếng lười xảnh xẹ, đua đòi hết kiểu áo nầy đến kiểu dép kia, hết tứ sắc lại bài cào, bắt chồng lao tâm khổ tứ nắng dãi mừa dầm mà không hề chìa tay đỡ cho nhau một chút, vác cho nhau một khúc…Tình yêu như thế thì làm sao ăn đời ở kiếp với nhau, cho dù có “mười bí tích Hôn Phối’ cũng phải chào thua !

2. Cầu nguyện: phương thế để bảo vệ đời sống Hôn nhân-gia đình:

Để minh họa cho nội dung nầy, có một giai thoại nhỏ xin được chia sẻ:

Một thanh niên Scốt-len tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi:

- Có phải công việc quá cực nhọc không?
- Không, công việc rất nhàn.
- Có phải lương qúa ít không?
- Không, lương khá lắm.
- Hay anh không thích đồ ăn ở đó?
- Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon.
- Vậy tại sao anh thôi việc?
- Vì nhà đó không có mái che.

Đối với người Scốt-len, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện.(Tonne).

Quả thật, một gia đình không có thói quen thực hành việc cầu nguyện chung hay đã đánh mất sinh hoạt thiêng thánh nầy, chắc chắn sẽ đối diện với những trận phong ba bảo táp của sự dữ, những tác dụng tiêu cực xảy ra hằng ngày mà không có một phương tiện nào để che chắn bảo vệ. Trước những đe dọa và áp lực thường xuyên của nền văn minh sự chết thông qua các tệ nạn như: ly dị, phá thai, cái chết êm dịu, kiểm soát sinh sản toàn diện, kết hôn đồng phái…gia đình kitô hữu phải là một ‘trung tâm cầu nguyện”, phải là một “cung thánh” như chính lời nhắn nhủ của Đức Cố Giáo hoàng G.P II trong huấn từ ngày 25.01.2003:

“Nếu các con ước mong trở thành “Tin Mừng cho thiên niên kỷ thứ ba”, thì đừng quên rằng cầu nguyện trong gia đình là con đường vững chắc để luôn hiệp nhất trong một lối sống hòa hợp với thánh ý Thiên Chúa…”

Nói theo ngôn ngữ của cuộc đại hội quốc tế gia đình lần thứ IV tại Manila tháng 01.2003, thì tại mỗi gia đình cần có 3 cái “bàn thờ”: Bàn thờ thứ nhất thiết đặt ở trung tâm, là nơi toàn thể gia đình sớm hôm họp nhau cử hành cầu nguyện. Không có bàn thờ nầy gia đình sẽ không còn là một cung thánh, sẽ không phát triển và thăng hoa sự hiệp thông giữa các thành viên, sẽ nghèo nàn đời sống tin cậy mến, sẽ nhạt mờ tình yêu đối với Chúa Kitô và Hội Thánh, sẽ mù mờ và dốt nát các chân lý đức tin. Nói cách khác, sẽ đẫy Chúa đi xa vì không còn có cơ hội cho Chúa đến viếng thăm và hiện diện như Ngài đã từng nhắc khéo: “Ở đâu có hai ba người họp lại vì Danh ta, sẽ có ta hiện diện”.

Bàn thờ thứ hai là “mâm cơm”. Bữa cơm gia đình với sự hiện diện của các thành viên sẽ là nơi để tất cả dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, là nơi để chia sẻ và hàn hyên tâm sự, là nơi để đón nhận và trao ban những kinh nghiệm, những lời huấn đức hay những học hỏi cần thiết về đức tin va cuộc sống…

Bàn thờ thứ ba là “cái giường ngủ”. Chính nơi bàn thờ đặc biệt nầy mà tình yêu và lòng chung thủy vợ chồng được biểu lộ, sự trinh khiết trong đời sống hôn nhân được thể hiện cụ thể, mối giây kết hiệp nhiệm mầu “nên một” của hai nhân vị được hiện thực hóa. Cũng chính nơi đây, con cái lãnh lấy phép lành của Cha mẹ trước khi an giấc và đôi vợ chồng sẽ sống lại cái phút giây nhiệm mầu và hạnh phúc luôn mới mẻ và tinh khôi của bí tích Hôn Nhân. Phải lấy lại sự thánh thiện của không gian nầy và phải biến nơi đây thành cung thánh, thành bàn thờ, thành nơi hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa tình yêu.

3. Gia đình là “trung tâm truyền giáo”:

Cécil Northcott trong quyển "Chúa hiển hiện đời nay" thuật lại một cuộc thảo luận trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới: "Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau làm sao nói cho người khác biết về Chúa Giê-su. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi châu: "Ma-ri-a, ở nước cô thì cô làm thế nào ?" Ma-ri-a trả lời: "Chúng tôi không có hội truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng. Khi dân làng thấy cuộc sống Ki-tô như thế nào, họ đều muốn thành ki-tô hữu."

Câu trả lời của cô Maria người Phi Châu trên đã nói lên tất cả cái sứ mệnh cao quí của các gia đình kitô hữu: sứ mệnh chứng nhân giữa dòng đời, sứ mệnh truyền giáo. Quả thật, như Đức Thánh Cha Phaolô VI phát biểu: “Ngày nay người ta tin các chứng nhân hơn các thầy dạy. Sở dĩ họ tin các thầy dạy vì các thầy dạy chính là các chứng nhân”. Chính vì thế, công cuộc phúc âm hóa thế giới hôm nay, công cuộc loan Tin Mừng và giới thiệu Đức Kitô cho nhân loại được trao gởi cho các gia đình như một sứ mệnh cốt yếu và một phương thế tối hảo. Vì thế, gia đình chính là “trang Tin mừng được viết cho thời đại” như cách nói của Đức G.P.II

Để xác tin về những điều chúng ta vừa chia sẻ, và cũng để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, chúng ta hãy cùng lắng nghe những lời nhắn nhủ của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, trong cuộc gặp gỡ các gia đình ngày 25.01.2003:

“Các gia đình Kitô hữu thân mến, hãy hân hoan công bố cho thế giới kho tàng kỳ diệu mà các con sở hữu trong tư cách là Hội Thánh tại gia ! Hỡi các gia đình Kitô hữu, trong Đức Kitô, hãy trở nên ánh sáng của thế giới, nhờ sự hiệp thông trong sự sống và tình yêu, nhờ hiến thân cho nhau và quảng đại đón nhận con cái. Trên hết mọi sự, các con hãy là “Tin Mừng” cho thiên nien kỷ thứ ba bằng cách trung thành ở lại trong ơn gọi của mình. Các cặp vợ chồng Kitô hữu thân mến, hãy là “Tin Mừng cho thiên niên kỷ thứ ba” bằng một cuộc sống làm chứng có sức thuyết phục và dai bền cho sự thật về gia đình. Nếu các con ước mong trở thành “Tin Mừng cho thiên niên kỷ thứ ba”, thì đừng quên rằng cầu nguyện trong gia đình là con đường vững chắc để luôn hiệp nhất trong một lối sống hòa hợp với thánh ý Thiên Chúa. Và cuối cùng: nhờ cơn Thiên Chúa giúp, các con hãy đặt Tin Mừng làm nguyên lý hướng dẫn gia đình mình, và hãy làm cho gia đình các con trở thành một trang Tin Mừng được viết ra cho thời đại chúng ta !”


LM. Giuse Trương Đình Hiền      

--------------------------

 

TN 27-B36. Cả hai trở nên một xương một thịt!


Chúa Nhật XXVII Mùa Thường Niên, B

«Cả hai trở nên một xương một thịt!»

(St 2,18-24; Dt 2,9-11;Mc 10,2-16)

 

Một lần nữa các thầy Pha-ri-sêu lại muốn chơi xấu Ðức Giêsu: Họ đặt ra cho Người một câu hỏi và: TN 27-B36


Một lần nữa các thầy Pha-ri-sêu lại muốn chơi xấu Ðức Giêsu: Họ đặt ra cho Người một câu hỏi và xin người giải đáp, với mục đích là không phải để tìm hiểu, nhưng như thánh sử Mác-cô đã viết, là: « Họ cốt ý thử Người » ! Một câu hỏi mà ngày nay ngay chính trong Giáo Hội cũng đang luôn luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng. Câu hỏi của họ là: « Thưa Thầy, người chồng có được rẫy vợ mình không ? » Theo ngôn từ và kiểu nói ngày nay, có lẽ người ta sẽ hỏi: « Thưa Thầy, có khi nào hai vợ chồng được phép ly dị nhau không ? » Ðể trả lời câu hỏi hắc búa được nêu lên, người ta chỉ có hai cách: Hoặc trả lời được phép hoặc không được phép !

Theo các thầy Pha-ri-sêu dự đoán, thì dù trả lời bằng bất cứ cách nào đi nữa, Ðức Giêsu cũng sẽ không thể tránh khỏi bị lầm lỗi: Vì nếu trả lời là « được phép », thì họ sẽ đưa ra những lý do về tình cảm, về nhân đạo hay về ý nghĩa cao cả của hôn nhân để phản đối: tức tội vô nhân đạo ! Nhưng nếu trả lời « không được phép », họ lại dựa theo luật của Môse cũng như truyền thống xưa nay của cha ông, để chống lại: tức tội chống lại luật lệ ! Câu hỏi được đặt ra quả là một cái bẫy vô cùng nguy hiểm mà các thầy Pha-ri-sêu đoán chắc là Ðức Giêsu khó lòng thoát khỏi, và như thế họ có lý do để bắt tội và kết án Người.

Nhưng thay vì trả lời một cách dứt khoát « được phép » hay « không được phép », là điều chắc chắn sẽ còn gây ra những cuộc tranh cãi dài giòng, Ðức Giêsu đã nêu lên một câu hỏi để xem họ đã đọc và hiểu được những gì trong Thánh Kinh về vấn đề đó. Và họ đã trích ra ngay lập tức những điều khoản trong luật của Môsê cho phép được rẫy vợ. Ðức Giêsu đã không hề mảy may có thái độ phê bình bộ luật đã được Môsê công bố. Trái lại, Người đã trực tiếp nêu chính điểm yếu của họ: « Chính vì các ông lòng chai dạ đá ». Nói cách khác, luật Môsê cho phép ly dị chỉ là một biện pháp sư phạm bất đắc dĩ đối với tình trạng luân lý sa sút của con người, chứ không phải là chính bản chất của luật, tức không phải do ý muốn của Thiên Chúa.

Vâng, bản chất đích thực của luật là: « Ngay từ lúc khởi đầu công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên con người gồm có nam và nữ. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly ». Ở đây Ðức Giêsu đề cập đến một sự hiệp nhất của con người theo bản chất tự nhiên, nghĩa là do chính Tạo Hóa đã nối kết: Sự hiệp nhất giữa người nam và người nữ, để cả hai cùng bổ túc cho nhau trong lãnh vực thể lý, tâm lý cũng như tinh thần, hầu cho cả hai trở thành một. Hình ảnh Thiên Chúa rút một xương sườn của ông A-đam để dựng nên bà E-và đã nói lên sự hiệp nhất bổ túc hỗ tương đó (x. St 1,21-22), như chính ông A-đam đã nói về bà E-và: « Ðây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi » ( x. St 1,23). Ðồng thời Ðức Giêsu cũng khẳng định cả hai phái - đàn ông cũng như đàn bà - đều quan trọng và cần thiết như nhau, nghĩa là cả hai đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi người nam đã bỏ cha mẹ để liên kết với vợ mình và cùng với nàng tạo nên nhân loại. Vì thế nhân loại không phải là đàn ông cũng không phải là đàn bà, nhưng là thành quả của sự hợp nhất giữa hai người – đàn ông và đàn bà – trong hôn nhân !

Dĩ nhiên, sự hiệp nhất giữa hai người nam-nữ trong hôn nhân không phải là một sự hiệp nhất bề ngoài mà thôi, tức là một sự hiệp nhất tạm thời, có tính cách hình thức bên ngoài mà thôi, như thể sự kết giao của những đối tác trong lãnh vực thương mại, chính trị hay thể thao, v.v... với nhau. Nhưng là một sự hiệp nhất trọn vẹn, sâu xa và nội tại, đến nỗi người nam đã sẵn sàng giã từ cha mẹ mình để liên kết với vợ và cả hai đã trở thành một xương một thịt mà thôi, nói cách khác, cả hai đã cấu tạo nên nhân loại

Về đời sống hôn nhân, người ta thường có cái nhìn quá đơn giản, nghĩa là người ta thường quan niệm rằng khi hai người nam-nữ thương nhau, họ liền bỏ gia đình cha mẹ mình để cùng nhau thành lập nên một gia đình mới và có mái ấm riêng, thế thôi ! Thật ra, cái thực tại hôn nhân còn mang ý nghĩa thâm thuý sâu xa hơn bội phần.

Vì chữ « lìa bỏ » trong câu « người nam sẽ lìa bỏ… » có nghĩa là: bỏ lại phía sau hay không còn cần tới một sự dìu dắt nâng đỡ, một sự bảo vệ, v.v… mà trong quá khứ từng là một điều rất quan trọng và rất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người !

« Lìa bỏ » ở đây không có nghĩa là coi khinh, chối bỏ hay loại trừ, nhưng có nghĩa là tự tách mình ra khỏi sự săn sóc, che chở và bảo vệ của một người khác; « Lìa bỏ » ở đây có nghĩa là giã từ một tình trạng nào đó để tiến tới một tình trạng mới khác, là tự biến đổi để trở nên một thực tại khác. Một thực tại mới cần phải được xuất hiện: Ðó là hai cá thể riêng biệt trở thành một. Dĩ nhiên, sự hiệp nhất nên một ở đây không phải là một sự tập họp hay một sự qui tụ các thành phần lẻ loi lại thành một khối hay một đội ngũ, nhưng là như những người cộng tác của Tạo Hóa để sáng tạo ra nhân loại mới. Vì thế, sự hiệp nhất đó có tính cách nội tại hay tự nhiên và bền vững. Tính chất đó đã được Ðức Giêsu khẳng định khi Người nói: « Ðiều Thiên Chúa đã nối kết, thì loài người không được phép phân ly ! ». Tính cách bền vững chính là một đặc tính của Bí Tích, nghĩa là một tác động được phát xuất từ Thiên Chúa và được dựa trên tình yêu của Thiên Chúa: Bí Tích Hôn Nhân ! Bí Tích hôn nhân là một Bí Tích tình yêu của hai người nam-nữ, được đặt trên nền tảng của tình yêu Thiên Chúa, Ðấng chính là tình yêu !

Bởi vậy, mục đích của hôn nhân phải được tìm kiếm đúng với kế hoặch và ý muốn của Thiên Chúa. Ngược lại, nếu hai người nam-nữ coi mục đích đời sống hôn nhân của họ như một phương tiện hợp pháp để cùng nhau hiện thực những đòi hỏi tự nhiên, để làm thoả mãn những nhu cầu thể xác của nhau mà thôi, thì hôn nhân mất hết tính cách Bí Tích, tức tính cách thánh thiêng và bền vững. Nếu hôn nhân bị thương mại hóa, nghĩa là được coi như một hợp đồng để nhắm đạt tới những lợi lộc về tài chánh hay sự quân bình trong lãnh vực vật chất hoặc tình cảm, thì mất hết giá trị thánh thiêng và bền vững của nó, vì nó không còn nằm trong kế hoạch của Tạo Hóa nữa, và hậu quả đương nhiên là sự tháo gỡ hay huỷ bỏ hôn nhân chỉ còn là một điều tùy tiện. Trong những trường hợp này, tiếng « hôn nhân » chỉ là một sự lạm dụng danh từ, vì hôn nhân ở đây không còn mang ý nghĩa chân chính của nó nữa, nhưng chỉ là một sự qui tụ hai người độc thân thuộc hai phái lại với nhau, hầu cả hai cùng giúp nhau tạo ra một cuộc sống chung thoải mái dễ chịu hơn, thế thôi !

Trong khi đó, nếu Ðức Giêsu đề cập đến hôn nhân là Người nói về một thực tại hoàn toàn khác hẳn: Ðó là một sáng tạo mới, là một kết quả của một sự loại bỏ hoàn toàn tình trạng cũ trước kia, và là một sự kiến tạo nhân loại trong tính chất toàn diện của nó do sự hiệp nhất của hai người nam-nữ ! Bởi vậy, sự hiệp nhất của hai người nam-nữ trong hôn nhân là một Bí Tích, nghĩa là một thực tại được chính Thiên Chúa thiết lập và chúc phúc, và vì thế nó mang tính chất chung thủy, bền vững, bất khả phân ly.

Tiếp sau đó, khi về đến nhà, các môn đệ vẫn chưa hết thắc mắc nên đã gạn hỏi Chúa một lần nữa về những yêu sách cũng như những thảm cảnh trong đời sống hôn nhân. Và Ðức Giêsu lại khẳng định yêu sách bất khả nhượng của hôn nhân là đòi phải có sự chung thủy. Ðồng thời, Người cũng tranh đấu cho sự bình đẳng giữa hai người nam-nữ trong hôn nhân.

Sau cùng, bài Phúc Âm hôm nay còn nêu lên một vấn đề có liên quan trực tiếp đến các con trẻ. Số là trong khi các Tông đồ tìm cách xua đuổi các con trẻ đi nơi khác, thì Ðức Giêsu đã trách các ông và bảo hãy để cho chúng được tự nhiên đến với Người. Thoạt mới nghe qua, người ta có cảm tưởng giữa những lời giáo huấn nghiêm trọng của Ðức Giêsu về hôn nhân và câu chuyện con trẻ đến quấy rầy, không có gì tương quan với nhau cả. Thế nhưng trong thực tế, cả hai vấn đề đó liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Các con trẻ được coi như là biểu tượng làm nổi bật và nói lên mục đích của hôn nhân. Ðức Giêsu nói: « Nước Thiên Chúa thuộc về những ai nên giống được như chúng ». Chúng ta đều biết rằng trẻ con là những con người còn bé nhỏ, chưa đạt được tình trạng trưởng thành về tâm sinh lý. Vì thế, đứa trẻ trong mọi phương diện còn đang trong thời kỳ lệ thuộc vào sự dìu dắt của người lớn, để tuần tự vượt qua các giai đoạn cần thiết và trở nên trưởng thành, tự lập.

Sự « nên giống con trẻ », có nghĩa là chấp nhận bắt đầu xây dựng một cái gì đó một cách hoàn toàn mới mẻ. Nhưng cũng có nghĩa là bắt đầu một công việc rất có thể sẽ kéo dài lâu, nhất là sẽ mang tính cách tinh tuyền, nguyên gốc. Ðó cũng chính là những đặc điểm của hôn nhân, khi chúng ta nắm vững được ý nghĩa của những chữ: « Lìa bò. Tự tách ra. Trở nên ».

Qua đó, chúng ta nhận chân được rằng Ðức Giêsu quả thực muốn con người được giải thoát khỏi tình trạng đã dồn ép, Môsê phải đành lòng công bố luật cho phép ly dị: Ðó là tình trạng « Lòng chai dạ đá ». Một con tim chai lỳ là một con tim hóa thạch, là tượng trưng cho sự lỳ lợm, bất trị, vô cảm ! Vì con người từ chối sự canh tân đổi mới và để trở nên sáng tạo hơn, con người đã làm giảm thiểu các giá trị nền tảng của hôn nhân. Trong khi đó, « chấp nhận trở nên giống con trẻ », có nghĩa là bắt đầu xây dựng một con người mới với tất cả các giai đoạn và với tất cả những tách rời hay lìa bỏ cần thiết, có nghĩa là hiện thực đời sống hôn nhân đúng với thánh ý Thiên Chúa.

Ðến đây, người ta có thể hiểu tại sao Giáo Hội không hề chấp thuận việc ly dị, bởi vì Giáo Hội không được phép đi ngược lại giáo huấn của Ðức Giêsu. Cũng vì thế Giáo Hội luôn tìm cách giải thích và cắt nghĩa cho những người nam nữ đang dự bị hôn nhân hiểu rõ những gì là nòng cốt, là nền tảng của hôn nhân Kitô giáo và để họ xác tín được điều họ dự định cùng nhau thực hiện: Kết Hôn !


LM Nguyễn Hữu Thy

--------------------------

 

TN 27-B37.  BẤT KHẢ PHÂN LY

 

Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi& Nàng sẽ được gọi là đàn bà vì đã được rút ra từ: TN 27-B37


 “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi… Nàng sẽ được gọi là đàn bà vì đã được rút ra từ đàn ông.  Bởi thế người đàn ông đã lìa xa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St.2:23-24)

***

Bạn thân mến!  Trên đây là đoạn văn cuối cùng trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ Chúa Nhật hôm nay.  Phụng vụ Tin Mừng cũng nhắc đến sự bất khả phân ly trong đời sống vợ chồng: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc.10:9)

Lời Chúa trên đây đã vang vọng qua hơn hai mươi thế kỷ và ngày nay vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.  Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?  Tiếc thay số ly dị nơi các kitô hữu mỗi ngày mỗi tăng.  Sống với nhau một vợ một chồng suốt một đời người đã trở thành một ước mơ khó đạt.

Trong xã hội Do Thái thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.  Người vợ là một thứ tài sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi ly dị chỉ vì một lý do cỏn con.

Trước câu hỏi “Chồng có được rẫy vợ không?” (Mc.10:2).  Đức Giêsu cương quyết nói KHÔNG.  Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế.  Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần.  Lập trường của Ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo của thời xa xưa đó, cũng như thời đại của chúng ta hôm nay.

Khi người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê, Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng: “Họ không còn là hai, nhưng là một xương một thịt” (St.2:24).  Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.  Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời.  Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.

“Không còn là hai, nhưng là một” (St.2:24).  Làm sao hai người lại có thể "trở nên một” nếu mỗi người không “cắt bỏ” đi phân nửa ? Cắt bỏ là việc làm đau thương lắm, chịu nhiều hy sinh lắm.  Nhưng tình yêu là sức mạnh sẽ biến đau thương thành hạnh phúc, biến hy sinh thành hy vọng ngọt ngào. Chính tình yêu sẽ mang ta đến với nhau, sẽ giúp ta chịu đựng tất cả, hy sinh tất cả và vượt qua tất cả. Và Thiên Chúa, Ngài cũng chính là Tình Yêu (1Ga.4:16)

Trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau.  Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên. Còn cần một bên thứ ba nữa, đó là Thiên Chúa: Đấng phối hợp và làm cho hai bên trở nên vợ nên chồng.  Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới để ban ơn chúc phúc cho ta. Ngài cũng có mặt trong cuộc sống của mỗi gia đình để tiếp tục bảo vệ tình yêu, để ban ơn giúp sức cho ta duy trì  hạnh phúc … ngay cả khi ta muốn bỏ cuộc.  

Hãy cầu nguyện cho những cặp hôn nhân gia đình. Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một chút khiêm tốn, bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ, bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ… Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và tưới bón tình yêu hạnh phúc gia đình.

Hãy mở lòng để đón nhận ơn Chúa.  Hãy dành cho Chúa một chỗ trong gia đình của ta, bạn nhé

***

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay trong những biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu… những gia đình buồn bã vì hiếm muộn vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

 Xin cho mỗi gia đình chúng con biết cố gắng gìn giữ tình yêu, biết nỗ lực xây dựng hạnh phúc và nhất là biết kết hiệp mật thiết với Chúa vì chỉ có Chúa mới mang lại tình yêu và hạnh phúc cho chúng con trong cuộc sống hôm nay và ngay cả trong cuộc sống đời đời mai sau. Amen.

Tổng hợp từ R. Veritas

--------------------------

 

TN 27-B38. HÔN NHÂN HAY NGÔN SỨ


Tác giả: Cố Lm. Đỗ Vân Lực, op.

(Mc 10:2-16)

 

Ngày nay nhiều người Công giáo vẫn ly dị, dù đã làm phép cưới đàng hoàng ở nhà thờ.  Thấy vậy, nhiều: TN 27-B38


Ngày nay nhiều người Công giáo vẫn ly dị, dù đã làm phép cưới đàng hoàng ở nhà thờ.  Thấy vậy, nhiều người đặt vấn đề về hiệu lực của bí tích hôn phối ? Họ không cần làm phép cưới nữa.  Chỉ cần tình yêu thôi.   Ðám cưới hay không, có khác gì nhau ?  Bí tích chẳng còn ý nghĩa và giá trị gì nữa !  Lễ nghi, giấy tờ v.v. chỉ là hình thức. 

Suy cho cùng, vấn đề không nằm ở chỗ đó. Vấn đề sâu xa hơn nhiều.  Ðức tin còn hay không ?  Còn tới mức nào ?    Có nên đánh giá hôn nhân dựa trên những hiện tượng tiêu cực không ?

Ðánh giá thấp bí tích hôn phối như thế, không phải vì người ta nhìn thấy vô số đổ vỡ nơi những cặp vợ chồng sống ngoài “phép đạo.”  Ðúng hơn, họ chỉ muốn biện minh cho thái độ và lối sống tự do của mình thôi.

Nếu nhìn đúng đắn, ai cũng phải nhận “có một nét thánh thiêng và đạo đức nào đó nơi cuộc kết hiệp tự nhiên giữa người nam và người nữ.”  Thực vậy, cuộc kết hiệp đó phát xuất từ nguồn gốc thánh thiêng,[1] đưa đến việc sinh dưỡng con cái cho Thiên Chúa, và cuối cùng đưa đôi phối ngẫu vào cuộc hiệp thông với Thiên Chúa.[2]

Nếu không có con mắt đức tin, không thể nhìn thấy hôn nhân như một “giao ước.”[3]   Nếu là một giao ước, hôn nhân sẽ mang nét thánh thiêng như giao ước giữa Thiên Chúa và Dân Người. Tình yêu hôn nhân diễn tả đặc biệt qua giao ước Thiên Chúa thiết lập với tuyển dân qua Abraham (St 17:1-2) và Môsê (Xh 19:5).[4]

  Hơn nữa, bí tích giao ước hôn nhân phát xuất từ giao ước Chúa Giêsu thiết lập trên thánh giá và canh tân trong bí tích Thánh thể.[5]  Hôn nhân Kitô giáo “đặc biệt vững chắc vì là một bí tích”[6] và “giao ước mới của Chúa Giêsu hiện diện năng động trong chính hôn nhân.”[7] Vì thế, “Giao Ước của Chúa không những gợi hứng cho đời sống hôn nhân, mà còn can dự vào đời sống đó, bơm sinh lực vào cuộc đời của các người phối ngẫu.  Giao ước đó còn “nhào luyện” tình yêu họ từ bên trong.  Họ yêu nhau không những như Ðức Kitô đã yêu, nhưng một cách huyền nhiệm, yêu với chính tình yêu của Ðức Kitô, vì Người ban Thần Khí cho họ ...”[8] 

Dĩ nhiên, như thế không có nghĩa, sau khi đưa nhau tới nhà thờ làm lễ cưới, người ta có thể “ăn no ngủ kỹ,” không cần cố gắng phấn đấu nữa.  Giao ước giữa Thiên Chúa và loài người đã phải trải qua một quá trình phấn đấu rất cam go mới hoàn thành được.  Chúa Giêsu cũng đã trả giá bằng chính mạng sống, mới có thể thiết lập và duy trì nổi giao ước giữa Người và Giáo hội.

Ðiểm độc đáo của giao ước hôn nhân Kitô giáo chói sáng nhờ việc Ðức Giêsu kết hiệp Thiên Chúa với dân Người trong một cuộc hiệp thông duy nhất.  Cuộc hiệp thông này sẽ biến thành Nước Trời vĩnh hằng.  Giao ước mới mang tính thể chất, chứ không chỉ chia sẻ đời sống thần linh của Chúa Giêsu và kết hiệp với Người trong những hành vi nhân linh.  Sau cùng, giao ước mới giúp họ chia sẻ với Chúa trong cuộc sống thể xác phục sinh nữa.[9]  Như thế, tình yêu Thiên Chúa đã nhập thể trong thực tại thể lý của đời sống hôn nhân.

Sở dĩ được nâng lên hàng bí tích, vì hôn nhân là dấu chỉ sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa Kitô và Giáo hội.[10]  Cuộc kết hiệp này chiếu sáng ý hướng cánh chung trong bí tích hôn phối.  Hôn nhân tham dự vào cuộc hiệp thông vĩnh hằng.  Ngay nơi trần gian, họ đã nếm trước hạnh phúc Nước Trời.  Nếu không, họ không đủ khả năng vượt qua những thử thách trong cuộc sống hôn nhân và gia đình.  Chính Ðức Giêsu đã phải chết để nâng hôn nhân lên hàng bí tích.[11]  Cũng thế, vợ chồng phải hy sinh cho nhau mới thể hiện được tất cả tính chất bí tích của hôn nhân, mầu nhiệm hiệp thông giữa Chúa Giêsu và Hội thánh.

Càng hiệp nhất sâu xa và bền vững, hôn nhân càng  “biểu hiện trước mặt mọi người sự hiện diện sống động của Ðấng Cứu Ðộ trong thế giới và bản  chất đích thực của Giáo hội qua tình yêu.”[12]  Do đó, hôn nhân là một chứng từ sống động nhất nói cho mọi người biết Thiên Chúa “yêu mến thế gian đến nỗi đã sai Con Một ...”[13]  Trong chiều hướng này, ÐGH Gioan Phaolô II đã hô hào: “Hỡi gia đình, hãy tin mình được gọi làm dấu chỉ chiếu sáng tình yêu Thiên Chúa.”[14]

Mục tiêu cao cả đó đã biến mất trong nhiều cuộc hôn nhân hôm nay. Con người quá ích kỷ.  Theo tác giả Elizabeth Marquardt, khắp thế giới, luật pháp và các kỹ thuật sinh sản có khuynh hướng định nghĩa lại tư cách làm cha mẹ qua những lối đặt quyền lợi người lớn trên nhu cầu trẻ em.  Hậu quả là ly dị  cha mẹ đơn chiếc gia tăng; càng ngày càng nhiều người hiến tặng trứng và tinh trùng ; phong trào ủng hộ hôn nhân đồng tính; và các dự án cho phép thụ thai bằng trứng và tinh trùng của những người hiến tặng để con cái có ba cha mẹ theo pháp lý.[15] 

Mọi bế tắc chỉ được khai thông khi con người biết mở rộng tâm hồn.  Không mở rộng tâm hồn, làm sao có thể chấp nhận và cộng tác với nhau ?  Trong một môi trường xã hội bon chen mãnh liệt hôm nay, nếu không tìm được sự nâng đỡ, tình bạn, tình yêu, mái ấm gia đình, con người không thể yên tâm xây dựng và phục vụ, nhất là những người nghèo khổ.  Nhưng làm sao có thể thực hiện tất cả những điều cao đẹp đó nếu không được Thiên Chúa trợ giúp đặc biệt qua bí tích hôn nhân ?  Sống đời hôn nhân, Kitô hữu đón nhận được ân sủng  để kiên cường sống trọn vẹn cam kết đời vợ chồng và hoàn thành cứu cánh đích thực của hôn nhân.[16]

Gia đình đổ vỡ kéo xã hội vào một khủng hoảng lớn.  Muốn canh tân xã hội, cần phải có hôn nhân như một phương tiện và nguồn phát sinh ân sủng. Thật vậy, “hôn nhân và gia đình là nền tảng cho một xã hội lành mạnh.”[17] 

Muốn xây dựng lại nền tảng đó, cần phải nêu cao vai trò ngôn sứ của hôn nhân trong gia đình.  Vợ chồng “không bị ràng buộc, nhưng được tô điểm, không bị cản trở nhưng được hỗ trợ bởi hôn ước bí tích”[18] để làm ngôn sứ từ trong gia đình đến ngoài xã hội.  Không những qua lối sống công bình, bác ái, phục vụ, tha thứ, nhưng còn nhờ những lời sự thật, họ là những nhà giáo dục đầu tiên và quan trọng nhất góp phần đào luyện con cái  thành các ngôn sứ tương lai.  Vai trò ngôn sứ tóm tắt tất cả sứ mệnh lớn lao của cuộc sống hôn nhân.  Chỉ khi ý thức được bản chất, vai trò và sứ mạng của mình, hôn nhân mới có thể hoàn thành trách nhiệm ngôn sứ mà thôi. 

Với vai trò ngôn sứ, hôn nhân đang thi hành công cuộc phúc âm hóa từ trong gia đình.  “Công bố Tin Mừng cần bắt đầu từ gia đình.”[19]  Con cái cần phải trở thành “những người lắng nghe Lời Chúa,” trước khi thành “những người chia sẻ Lời Chúa.”[20]  Muốn thế, như những thừa sai, cha mẹ phải nỗ lực gieo hạt giống Tin Mừng cho con cái.  Mùa màng tươi tốt sẽ trổ sinh trên toàn thế giới và Giáo hội . . .

Lạy Chúa, nhờ bí tích hôn phối, Chúa đã ban cho vợ chồng chúng con tràn đầy Thần Khí.  Hôm nay, xin Chúa tăng cường ân sủng để chúng con thi hành sứ mệnh ngôn sứ trong gia đình và ngoài xã hội.  Amen.

 lm đỗ vân lực, op. viết Ngày 08.10.2006           
 

[1] x. Mc 10:7-8; St 2:24.
[2] ÐGH Pio XI , Casti connubii, AAS 22 (1930) 570, pe, 208.80. 
[3] Gaudium et Spes, số 48.
[4] x. Cormac Burke, ‘Marriage Covenant’ trong Russell Shaw (ed.), Encyclopedia of Catholic Doctrine, tr. 409, Our Sunday Visitor Publishing Division: 1997.
[5] x. ÐGH Gioan Phaolô II, Familiaris consortio, 57, AAS 74 (1982) 149-50, OR, 21-28 Dec. 1981, 11.
[6] Canon 1056.
[7] Germain Grisez, Living A Christian Life, vol. 2, Franciscan Press: 1993, tr. 607.
[8] ÐGH Gioan Phaolô II, Address to the “Equipes Notre-Dame” (23.09.1982), 2, Inseg. 5.3 (1982) 543-44, OR, 15.11.1982, 6.
[9] Germain Grisez, Living A Christian Life, vol. 2, Franciscan Press: 1993.
[10] x. Ep 5:32; DS 327/702.
[11] Canon 1055.1.
[12] Gaudium et Spes, số 48.
[13] Ga 3:16.
[14] ÐGH Gioan Phaolô II, Cuộc Gặp Gỡ Các Gia đình,  ngày 20.10.2001.
[15] Zenit 30.09.2006.
[16] x. Cormac Burke, ‘Marriage Covenant’ trong Russell Shaw (ed.), Encyclopedia of Catholic Doctrine, tr. 409, Our Sunday Visitor Publishing Division: 1997.
[17] Doyle, Dennis M., The Church Emerging from Vatican II, Twenty-Third Publications: 1992, tr. 290.
[18] ÐGH Pio XI , Casti connubii, AAS 22 (1930) 570, pe, 208.80. 
[19] Doyle, Dennis M., The Church Emerging from Vatican II, Twenty-Third Publications: 1992, tr. 304.
[20] ibid.

--------------------------

 

TN 27-B39. GIAO ƯỚC TÌNH YÊU

 

Ngày nay, nhắc đến hai chữ “hôn thú” thì nhiều bạn trẻ chết rét.  Họ lo sợ đủ thứ.  Ở  Mỹ: TN 27-B39


Ngày nay, nhắc đến hai chữ “hôn thú” thì nhiều bạn trẻ chết rét.  Họ lo sợ đủ thứ.  Ở  Mỹ mà không có “3 C” – Car (xe hơi), Condo (nhà lầu), và Credit Card (thẻ tín dụng) – thì khó mà có đám cưới.  Chưa hết, lấy nhau rồi thì phải hy sinh, phải lo kinh tế gia đình, lo con cái, lo chiều cha mẹ hai bên.  Hết được tự do thoải mái, dzung dzăng dzung dzẻ như những ngày còn bồ bịch với nhau.  Ký vào tờ giấy hôn thú như ký vào tờ hợp đồng khổ sai chung thân!  Bởi vậy nên trước đám cưới thường có những buổi party thân mật với bạn bè để ghi nhớ những ngày vui độc thân.   

Mà họ lo sợ cũng phải.  Sống trong thời đại internet với những thay đổi đến chóng mặt, chúng ta thường bị cám dỗ bởi xu hướng “có mới nới cũ”.  Này nhé, xe chạy chừng 5-7 năm phải mua xe mới, máy laptop thì 3 năm lại phải thay, software nâng cấp liên tục, rồi điện thoại di động thì chừng 1-2 năm là đổi kiểu.  Công ăn việc làm và chỗ ở cũng thế, nếu đổi được thì đổi.  Đổi xe đổi nhà đổi việc xoành xoạch, riết rồi người ta dễ nghi ngờ: có cái gì thật sự là trường tồn vĩnh viễn không?  Ngay cả đời sống hôn nhân cũng thế: có thật sự là bách niên giai lão, là trăm năm hạnh phúc không? 

Ngày xưa lấy vợ lấy chồng công giáo thì không phải lo lắng về chuyện ly hôn ly dị.  Người ngoại đạo cũng hiểu như thế.  Nhưng ngày nay, nguyên tắc nhất phu nhất phụ, một vợ một chồng, là kỷ cương của hôn nhân công giáo bao đời nay, giờ cũng bị thử thách khá nặng nề.  Tỉ lệ người công giáo ly dị bỏ nhau ở nhiều nơi cũng không kém gì dân ngoại.  Có những cặp vợ chồng lấy nhau cả hai mươi năm cũng có nguy cơ rạn nứt, ông một nơi bà một nẻo.  Thế thì lời Chúa hôm nay: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9) xem ra khó quá!  Chúng ta phải hiểu lời cảnh cáo nghiêm khắc của Chúa Giêsu như thế nào đây?

 Giáo huấn của Chúa Giêsu về hôn nhân và ly dị cần phải được hiểu trong bối cảnh văn hoá xã hội của thời ấy.  Trong xã hội Do thái xưa, phụ nữ và trẻ em không được bình đẳng với nam giới.  Họ chỉ là tài sản của người chồng người cha.  Hôn nhân là một giao ước giữa chú rể (hoặc cha chú rể) với cha cô dâu.  Sau ngày đám cưới, cô dâu sẽ hoàn toàn thuộc về chồng cho đến chết, hoặc cho đến khi bị chồng ly dị.  Theo luật Môise, đàn ông có quyền “bỏ vợ” có khi chỉ vì những lý do cỏn con.  Sách Đệ nhị luật viết rằng: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với vợ, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà.” (Đnl 24,1). 

 Trong thời Chúa Giêsu, hai trường phái Hillel và Shammai tranh luận với nhau về lý do được phép ly dị.  Phái Shammai cho rằng chỉ trong trường hợp ô nhục, như ngoại tình hoặc lăng loàn mất nết, mới được bỏ vợ mà thôi.  Phái Hillel thì cho rằng, kể cả những chuyện làm người chồng mất mặt, như bếp núc vụng về, ăn mặc hở hang, nói năng rổn rảng, thân thể không sạch sẽ thơm tho, cũng có thể là lý do để bỏ vợ. 

 Khi chất vấn Chúa Giêsu, những người Biệt phái này muốn xem Ngài đứng về phe nào.  Câu trả lời của Ngài làm họ ngạc nhiên.  Chúa Giêsu bênh vực các phụ nữ vì họ không phải là những món hàng khi cần thì giữ không cần thì bỏ.  Ngài trích dẫn Sách Sáng Thế để cho thấy ly dị là một tình trạng bất toàn.  Thưở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ để trợ lực cho nhau, bổ khuyết cho nhau.  Đối với Chúa Giêsu, luật Thiên Chúa không thiên vị đàn ông hay đàn bà.  Chẳng qua là vì ông Môise đã nhượng bộ lòng chai dạ đá của dân chúng, nên mới cho phép đàn ông bỏ vợ.  Trong Tin Mừng Matthêu, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh rằng “ngoại trừ trường hợp dâm bôn (Hy lạp: porneia), ai bỏ vợ mà cưới người khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 5,32; 19,9).  Khi đưa ra luật cấm bỏ vợ, Chúa Giêsu muốn nâng cao phẩm giá của hôn nhân đã bị coi thường trong thời đại của Ngài.  Ngài muốn con người trở lại với những gì là căn bản trong đời sống hôn nhân: đó là trở nên một trong tình yêu.

 Ai cũng biết rằng đời sống hôn nhân chẳng bao giờ là chuyện dễ dàng luôn luôn thuận buồm xuôi gió.  Bởi vậy nên khi dẫn nhau đến bàn thờ, người ta mới thế hứa giữ lòng chung thủy với nhau “khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ để yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời.”  Hứa thì hứa vậy, nhưng rất khó giữ vì ít ai chuẩn bị kỹ càng để đi học làm vợ làm chồng, làm cha làm mẹ, mà cứ coi như là chuyện tự nhiên ấy.  Các lớp dự bị hôn nhân luôn bị kêu ca là lâu lắc thủ tục rườm rà.  Nhiều bạn trẻ bỏ nhiều tiền bạc và công sức để tổ chức đám cưới thật sang trọng hoàn hảo.  Nhưng họ đã chuẩn bị những gì để bước vào đời sống hôn nhân?

 Đám cưới một ngày, hôn nhân cả đời.  Ngày xưa người ta sống trong môi trường làng xã, môi trường cộng đoàn giáo xứ, ít ra nếu vợ chồng có xung khắc cũng còn có những người khác khuyên bảo nâng đỡ.  Ngày nay người ta sống khá độc lập, mạnh ai nấy sống đèn nhà ai nấy rạng. Khi không xen vào chuyện gia đình của người khác dễ bị xem là “nhiều chuyện.”  Bởi vậy nên để có đời sống hôn nhân bền vững trước thử thách, các cặp vợ chồng cần phải có thêm ít là “3 C” nữa, ngoài xe hơi, nhà lầu và thẻ tín dụng.  Đó là Communication (đối thoại chia sẻ), Cooperation (cộng tác), và Commitment (dấn thân).   

 Một cuốn sách bạn rất chạy vào thập niên 1980 ở Hoa Kỳ có cái tựa rất hấp dẫn “The Secret of Staying in Love”, tạm dịch là “Bí Quyết Để Yêu Hoài Yêu Mãi.”  Trong sách này, tác giả John Powell cho biết rằng chìa khóa của đời sống hôn nhân là cảm thông.  Mà cảm thông đòi hỏi đối thoại chia sẻ: Communication.  Nếu đôi vợ chồng không thành thực và thẳng thắn bầy tỏ tâm tư, nguyện vọng với nhau để luôn hiểu được nhau thì khó tạo cảm thông.  Thiếu thông cảm thường tạo hiểu lầm, nghi ngờ và ghen tuông, đưa đến bất hòa và đổ vỡ đáng tiếc.  Kế đến, xây dựng mái ấm gia đình cần sự cộng tác tích cực của cả hai bên: Cooperation.  Ông bà ta hay nói: “thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”.  Và cuối cùng là nỗ lực hy sinh dấn thân – Commitment.  Thiếu sự nhẫn nại kiên trì cần thiết, thiếu cam kết vào đời sống hôn nhân dễ đưa người ta đến chỗ bỏ cuộc khi cơm không lành canh không ngọt.

 Hôm nay, Lời Chúa thách đố những ai quan tâm đến đời sống gia đình, phải tìm cách làm sao để đời sống hôn nhân vợ chồng được luôn thăng tiến và bền vững.  Chúng ta cầu cho những ai đang sống đời vợ chồng và những ai chuẩn bị kết hôn:

 Xin cho họ bớt một chút nóng nảy, thêm một chút nhẫn nhục,
bớt một chút vêng vang, thêm một chút hiền hậu,
bớt một chút hẹp hòi, thêm một chút khoan dung,
bớt một chút ích kỷ, thêm một chút hy sinh,
bớt một chút tự ái, thêm một chút tha thứ,
bớt một chút ghen tương, thêm một chút tin tưởng,
bớt một chút đam mê, thêm một chút chịu đựng,
bớt một chút nản lòng, thêm một chút hy vọng.

Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và chăm bón tình yêu.  Amen.

(dẫn ý từ 1 Cor 13, 4-7)

 Antôn Phaolô, SJ.

--------------------------

 

TN 27-B40. CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN


BẤT KHẢ PHÂN LY

 

Bọn Biệt phái hôm nay đưa vấn đề ly dị ra hỏi Chúa Giêsu, không phải là để có thêm kiến: TN 27-B40


Bọn Biệt phái hôm nay đưa vấn đề ly dị ra hỏi Chúa Giêsu, không phải là để có thêm kiến thức hay tranh thủ ý kiến của Ngài, nhưng là để giăng bẫy gài Ngài. Một cái bẫy không kém phần thâm độc. Họ chọn đúng lúc có đông đảo dân chúng tụ tập xung quanh Chúa Giêsu để đòi buộc Ngài phải bày tỏ rõ lập trường. Uy tín của Ngài sẽ tùy thuộc vào cách giải quyết của Ngài. Mà theo những người Biệt phái, Chúa Giêsu sẽ không dễ gì thoát được cạm bẫy của họ. Nếu trả lời được phép, thì Ngài sẽ đi ngược lại lề luật của Thiên Chúa. Còn nếu trả lời không được phép, thì Ngài sẽ vi phạm điều Maisen qui định.

Thế nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần âm mưu của bọn Biệt phái bằng cách kéo họ về với điều Thiên Chúa muốn người ta thực hiện. Chúa Giêsu đã gợi lại: Khởi đầu cuộc sáng tạo con người, Thiên Chúa dựng nên người nữ, để làm vợ của người nam, nghĩa là làm người bạn đường, bình đẳng với người nam…

Để diễn tả ý tưởng này, Kinh Thánh cho thấy Thiên Chúa đã dựng nên người nữ, không phải bằng bụi đất, mà bằng chính xương thịt của người nam. Và trong quan niệm của người Do Thái, thì lồng ngực được cấu tạo bởi bộ xương sườn đó chính là trung tâm của sự sống con người. Như thế, giữa người nam và người nữ, giữa người vợ và người chồng, có một mối quan hệ mật thiết với nhau, quan hệ xương máu, quan hệ cuộc sống. Và trong ý định của Thiên Chúa, nam và nữ, vợ và chồng được tạo dựng để trở nên một huyết nhục. Do đó mà điều gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly.

Nhưng trong thực tế, Maisen đã cho phép ly dị. Theo Chúa Giêsu, thì việc làm của Maisen không có tính cách qui định về một lý tưởng phải theo đuổi, mà chỉ là một nhượng bộ bởi sự cứng lòng của người Do Thái. Thay vì thực hiện lý tưởng của khởi đầu cuộc sáng tạo, nghĩa là coi vợ mình như một người bạn đường, như một phần của cuộc sống mình, thì người ta đã coi vợ mình như là một phương tiện thỏa mãn những ước muốn ích kỷ, để rồi sẽ dẫy bỏ khi không cần thiết.

Sự ích kỷ đó đã phổ biến đến nỗi Maisen phải nhượng bộ, nhằm giải quyết sự yếu đuối của con người cùng thời với ông, đồng thời nó còn phản ảnh cho một quan niệm hôn nhân thời bấy giờ: Người vợ không được nhìn nhận là bình đẳng với người chồng.

Ngoài ra, có lẽ cũng nhằm sửa đổi cái nhìn của người ta về con người trong xã hội, mà ở đây Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ thái độ phải có đối với các trẻ nhỏ, vì trẻ nhỏ chính là mẫu mực cho những ai muốn vào nước Thiên Chúa. Mẫu mực ở sự đơn sơ vô tội đã đành, mà còn mẫu mực ở thái độ sẵn sàng đón nhận với tất cả sự chân thành.

Đoạn Tin Mừng vừa nghe thường được xử dụng trong lễ cưới, và câu nói của Chúa Giêsu: Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly, vốn được coi là nền tảng cho sự bền vững của gia đình Công giáo. Thế nhưng chúng ta đừng vội hiểu việc Thiên Chúa liên kết theo một ý nghĩa hoàn toàn pháp lý hay nghi lễ. Vợ chồng kết hợp với nhau không phải bằng một nghi lễ, mà bằng chính sự tôn trọng lẫn nhau, đặt mình trong kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa, bằng sự trở nên một huyết nhục, qua hành động, qua tình cảm, qua cuộc sống thường ngày, qua sự chọn lựa diễn ra trong từng giây từng phút.

Bởi đó, hãy sống việc Thiên Chúa liên kết hơn là coi đó chỉ là một nghi lễ có tính cách pháp lý mà thôi.

--------------------------

 

TN 27-B41. Suy niệm của Lm. Nguyễn Cao Siêu


Suy niệm:

“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly”

 

Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp: TN 27-B41


Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.

Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?

Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu vẫn tăng.

Sống với nhau suốt một đời trở thành ước mơ khó đạt.

Trong xã hội Do thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Người vợ là một thứ tài sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi ly dị vì một lý do cỏn con.

Trước câu hỏi: “Chồng có được rẫy vợ không?” Đức Giêsu kiên quyết nói không. Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế. Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần.

Lập trường của ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo của thời đó cũng như thời nay.

Điều này khiến các môn đệ của Đức Giêsu có lần bị sốc. Họ nói: “nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn” (Mt 19, 10). Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ nếu muốn.

Khi người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê, Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng.

Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.

Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời. Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.

“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp…”

Vậy trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau. Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên. Còn cần một bên thứ ba là Thiên Chúa, Đấng phối hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên chồng.

Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới, và tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người muốn bỏ cuộc.

Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ dàng.

Khi thịnh vượng, lúc gian nan; khi bệnh tật, lúc mạnh khỏe. Còn nhiều tình huống khác đe dọa hôn nhân: khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá nặng, khi đời sống vợ chồng trở thành như hỏa ngục… Những khi ấy, yêu thương và kính trọng nhau thật khó. Con người bị cám dỗ tìm giải pháp chia tay.

Chúng ta cầu cho những ai đã và sẽ kết hôn.

Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một chút khiêm tốn,

bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ,

bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…

Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.

Gợi ý chia sẻ:

1) Đâu là những hậu quả của việc ly dị? Việc ly dị ảnh hưởng thế nào trên xã hội và Giáo hội?

2) Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến việc vợ chồng chia tay nhau?

Lời nguyện:

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.

--------------------------

 

TN 27-B42. Một tình yêu giống như tình yêu của Chúa Giêsu

 

Vào ngày cưới, cô dâu và chú rể tuyên bố trước Thiên Chúa và với nhau, cũng như trước mọi: TN 27-B42


Vào ngày cưới, cô dâu và chú rể tuyên bố trước Thiên Chúa và với nhau, cũng như trước mọi người hiện diện rằng họ sẽ chấp nhận nhau dù tốt hay xấu, giàu hay nghèo, bệnh hoạn hay mạnh khỏe và họ sẽ yêu nhau cho đến chết. Một cuộc hôn nhân được giả thiết sẽ kéo dài cho đến suốt đời. Nhưng điều đó thì không luôn luôn xảy ra giống như vậy. Ngày xưa, khi các đôi hôn nhân Công giáo có vấn đề thì họ biết rằng họ phải tìm cách cố gắng để khắc phục nó. Cái điều cuối cùng mà họ nghĩ đến mới là ly dị. Bây giờ ly dị là điều đầu tiên mà các cặp hôn nhân nghĩ đến khi họ gặp một vấn đề.

Giáo Hội đã cố gắng tranh đấu để dủ lòng xót thương hơn là cứng nhắc về bí tích hôn phối. Điều đó có thể trình bày khi một cặp hôn nhân gặp một chướng ngại cho cuộc hôn phối hợp lệ ngay từ khi bắt đầu và Giáo Hội đã ban phép tiêu hôn. Điều này không phải là ly dị. Đó là một sự nhận biết bí tích hôn nhân hợp lệ đã không hiện hữu. Tiến trình để bảo đảm cho sự tiêu hôn thì lâu dài bởi vì Giáo Hội được ủy nhiệm bởi Đức Kitô để bảo vệ và đề xướng bản tính của hôn nhân là một Giao Ước suốt đời. Một Giao Ước không thể chia cắt, cũng không thể bị thiêu hủy, ngoại trừ có một lý do nghiêm trọng. Tuy nhiên khi quan sát thấy rằng một số những đôi hôn nhân không thể sống chung khi họ không thể tiêu hôn được. Những người Công giáo đã ly dị không được tái hôn và sẽ được rước lễ.

Tuy nhiên chúng ta phải gìn giữ hôn nhân theo viễn cảnh, hôn nhân không phát xuất nơi xã hội, cũng không được thiết lập bởi những thực hành thế tục. Hôn nhân là một sáng tạo của Thiên Chúa. Đó là giáo huấn của sách Sáng Thế Ký. Thiên Chúa muốn hôn nhân phản ánh chính tình yêu của Ngài đối với dân Người, không bao giờ suy tàn và tình yêu đó được ban cho đặc ân sự sống. Không thể không có khó khăn trong hôn nhân. Hôn nhân là một thách đố để trở nên giống Thiên Chúa, không có gì ngạc nhiên khi hôn nhân không dễ dàng.

Thiên Chúa thì trung thành, Người không chỉ yêu chúng ta kh chúng ta yêu Người. Người không xóa bỏ tình mến của Người dành cho chúng ta bởi vì chúng ta đã yêu một người khác. Thiên Chúa không thấy buồn sầu hay bực tức vì tội lỗi của chúng ta. Ngài không giận dữ khi chúng ta không làm điều vừa ý Ngài. Thiên Chúa không sợ Ngài sẽ mất thời gian để chăm sóc chúng ta khi chúng ta lâm cơn ốm nặng. Tình yêu của Thiên Chúa thì kiên nhẫn, quảng đại và luôn quan tâm. Trên hết, tình yêu Thiên Chúa không bao giờ suy suyển, tình yêu ấy là một lý tưởng thách đố tất cả mọi cặp vợ chồng.

Làm cha mẹ là một phần của đời sống hôn nhân. Có con cái đó là một ân phúc nhưng cũng có thể là có nhiều đòi hỏi đi kèm theo. Đừng ngạc nhiên, có con cái là trở nên giống Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã được kết trái. Tuôn trào từ Người là đặc ân của sự sống. Chúa Giêsu rất yêu thương những trẻ nhỏ. Nơi chúng, Người không chỉ thấy đó là hoa quả tình yêu giữa người chồng và người vợ, nhưng Người cũng còn thấy đó là sự tuôn trào sự sống từ nơi Cha thần linh của Người.

Chúa Giêsu là kiểu mẫu của tình yêu hôn nhân và của các bậc cha mẹ, đặc biệt là hy tế của Người trên thánh giá. Hy sinh cần thiết cho đời sống hôn nhân. Chỉ có tình yêu mới làm cho sự hy sinh trở nên có thể. Tình yêu đó phát xuất từ Chúa Giêsu, đặc biệt là từ Thánh Thể. Những đôi hôn nhân Công giáo phải cùng nhau lãnh nhận Thánh Thể với lời cầu nguyện trong tâm trí của họ: “Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho chúng con yêu mến lẫn nhau và yêu mến con cái của chúng con với một tình yêu mà Người đã tỏ bày cho chúng con, đặc biệt là qua đau khổ và cái chết trên thánh giá của Người. Xin cho tình yêu của chúng con chẳng bao giờ chết nhưng luôn tăng trưởng sâu xa và mạnh mẽ hơn qua từng năm tháng. Xin cho tình yêu của chúng con trở nên giống như tình yêu của Người”. Điều đó không dễ dàng nhưng sẽ có thể và nó sẽ trở nên đáng giá.

--------------------------

 

TN 27-B43. Đừng chia tay với người mình yêu

 

Hôn nhân là con đường thông thường của phần đông nhân loại. Có những người đã bước vào cuộc: TN 27-B43


Hôn nhân là con đường thông thường của phần đông nhân loại. Có những người đã bước vào cuộc đời hôn nhân và đang sống với một tổ ấm tươi đẹp, êm đềm và hạnh phúc. Cũng có những người đang kéo lê cuộc sống gia đình “cơm không lành, canh không ngọt”, một cuộc sống khổ đau không lối thoát.

Montaigne đã trình bày hôn nhân như một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con chim ở ngoài khao khát được vào, còn những con ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Ca dao Việt Nam cũng có câu ý tương tự: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”.

Cách đây không lâu, màn ảnh thành phố chúng ta có chiếu bộ phim mang tựa đề: “Chúng tôi muốn ly hôn” rồi một bộ phim khác mang tựa đề ngược lại: “Đừng chia tay người mình yêu”. Chắc chắn các bạn trẻ đã biết nội dung những cuốn phim này nói gì. Chúng đã nêu lên những lý khiến những đôi vợ chồng đưa nhau ra toà án để xin dị:

- Tại sao chị xin ly dị? Trước toà án, người vợ trả lời: “Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi ngủ”.

Một bà vợ khác trả lời: “Tại vì ông ấy hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu được”… và mỗi người đều có lý do không đâu cả, để bỏ nhau một cách dễ dàng, nếu như được phép ly dị.

Vậy có được phép ly dị không? Đây là một vấn đề thời sự, nhưng cũng là một vấn đề đã được đặt ra từ xa xưa: Từ thời Chúa Giêsu những người Biệt Phái Pharisiêu đã từng đặt vấn đề này để thử Chúa Giêsu, bởi vì ông Môsê đã cho phép họ được làm giấy ly hôn để đuổi người vợ nào không vừa mắt chồng ra khỏi nhà (Đnl 24,1-4). Điều này cho ta thấy số phận hẩm hiu của người phụ nữ trong chế độ “chồng chúa vợ tôi”.

Chúa Giêsu đã giải quyết thế nào? Ly dị là một trục trặc của tình yêu, nó không phải là vấn đề chính yếu. Cái chính yếu của hôn nhân là tình yêu hiệp nhất. Với Thiên Chúa không có vấn đề ly dị. Vấn đề ly dị là vấn đề của con người. Chúa Giêsu đã trả lời với họ: “Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà ông Môsê đã phải nhượng bộ cho phép các ông làm giấy ly hôn, chứ từ ban đầu, ý muốn của Thiên Chúa không phải như thế”.

Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt đâu là ý muốn của Thiên Chúa và đâu là ảnh hưởng của thời đại. Và ảnh hưởng của thời đại không những làm lu mờ, mà có khi còn làm mất cả ý muốn rõ rệt của Ngài. Thánh ý Thiên Chuá khi dựng nên con người có nam có nữ là để sống chung với nhau. “Đàn ông ở một mình không tốt”. Và Ngài đã dựng nên người đàn bà. Người đàn bà, trước tiên là hông ân của Thiên Chúa ban cho người đàn ông. Đây là quà tặng cao nhất mà Thiên Chúa ban cho người đàn ông, sau khi Ngài đã dựng nên cả vũ trụ đặt dưới chân của ông Ađam. Nhưng Ađam vẫn cảm thấy cô đơn, thiếu thốn, cho đến khi Ađam gặp được chiếc xương sườn cụt của mình là Evà, ông đã reo lên: “Đây đúng là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi”. Đó là hôn nhân đầu tiên. Từ đó “người đàn ông luôn luôn đi tìm chiếc xương sườn đã bị lấy mất, còn người đàn bà luôn luôn luyến tiếc nơi mình đã xuất phát” (Osty) để kết hợp với nhau thành một xương một thịt, một thân một thể. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.

Điều Chúa Giêsu muốn bảo vệ trước hết là phẩm giá con người. Con người càng thấp bé, càng bị hiếp đáp bao nhiêu, càng phải được bảo vệ bấy nhiêu. Trong chế độ “chồng chúa vợ tôi”, Chúa đã đòi phải trả lại cho phụ nữ quyền làm con người, phải nhìn phụ nữ theo ý muốn của Thiên Chúa. Phải nhìn chân giá trị của người phụ nữ như là người hỗ trợ, bổ túc và làm sung mãn cho người đàn ông. Vì vậy, hôn nhân phải đặt căn bản ở sự tương trợ lẫn nhau, tôn trọng giá trị của nhau. Chính sự hiệp nhất này làm cho hai người trở nên một và phát sinh hoa trái cho sự sống mới. Đó là những đứa con của tình yêu. Cha mẹ có yêu thương nhau thì mới yêu thương con cái là kết quả của tình yêu giữa vợ chồng với nhau. Cha mẹ không được bỏ rơi con cái. Phải đón nhận tất cả con cái Thiên Chúa đã ban cho, bởi vì các em bé là con người. Phải tôn trọng các em như con người, từ bào thai các em đã là hơi thở và là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Cha mẹ, vợ chồng có chung tình vẹn nghĩa với nhau mới có thể đảm bảo hạnh phúc cho con cái mình.

Sở dĩ khi xưa, ông Môsê đã chăm chước cho dân Israel được rẫy vợ là vì lòng dạ họ lì lợm, bướng bỉnh, chai đá. Còn ngày nay, Chúa Giêsu đã rút lại luật Môsê, chính thức thay thế nhừng gì là hủ tục trong Cựu ước bằng luật Tân Ước, chính thức xác nhận ý muốn của Thiên Chúa từ thuở ban đầu là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân. Hơn nữa, từ ngày Chúa Giêsu đến, từ ngày Ngôi Lời nhập thể làm người, hôn nhân đã tìm thấy lại tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bởi vì, việc kết hợp vợ chồng trong hôn nhân là biểu tượng, là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Đó là điều Thánh Phaolô đã nhiều lần nói đến trong thư gởi tín hữu Êphêsô: “Cũng như Đức Kitô không thể chia cắt với Hội Thánh, thì chồng cũng không thể chia ly với vợ”. Chính với tư cách là Hiền Thê của Chúa Kitô mà Hội Thánh buộc các con cái của mình khi lập gia đình phải tuân giữ định luật vẫn chi phối sự kết hợp giữa Hội Thánh với Chúa Kitô, như Hiền Thê với vị Hôn Phu của mình. Làm sao Hội Thánh có thể trở về với những nhượng bộ của thời Cựu Ước về hôn nhân được, khi mà Hội Thánh đã được nghe chính miệng Chúa Giêsu trả lời cho những người Biệt Phái Pharisiêu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”.

Thánh Phaolô (1Cr 7,10-11) nói rất rõ về điều này: “Ai đã kết hôn, thì tôi truyền –thực ra không phải tôi, mà là Chúa– là vợ không được lìa chồng, và giả như đã lìa chồng, thì phải ở độc thân, hay phải làm hoà lại với chồng, và chồng không được rẫy vợ”.

Hôn nhân là một định chế do chính Đấng Tạo Hoá thiết lập, là một giao ước có tầm vóc vững chắc, vĩnh viễn, nghĩa là một sự thoả thuận cá nhân không thể rút lui lại được. Vì lợi ích của vợ chồng, của con cái, của xã hội và của Giáo Hội nữa, nên mối dây liên kết thánh thiện của bí tích Hôn Nhân không lệ thuộc vào sở thích của con người, nghĩa là không còn được tự ý bỏ nhau, một khi đã thề hứa chung tình vẹn nghĩa, nên vợ nên chồng. Vì vậy, Chúa Giêsu còn nói rõ ràng rằng: phải liệt kê vào tội ngoại tình, khi người chồng hoặc người vợ bỏ nhau đi lấy người khác trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa chúc phúc cho mọi gia đình, nhất là các gia đình Kitô hữu mà Chúa đã thánh hiến một cách đặc biệt bằng bí tích Hôn nhân. Nhờ đó, những phẩm giá tự nhiên cũng như những giá trị thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân được bảo toàn, được cổ võ, được kiên cường và ngày càng tiến gần đến tình yêu trung thành và vĩnh cửu của Thiên Chúa.

--------------------------

 

TN 27-B44. Chú giải mục vụ của William Barclay


DÙ SAU NÀY TỐT XẤU RA SAO (10,1-12)

 

Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đi về phía Nam, Ngài đã ra khỏi xứ Galilê và vào trong địa phận xứ: TN 27-B44


Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đi về phía Nam, Ngài đã ra khỏi xứ Galilê và vào trong địa phận xứ Giuđê. Ngài chưa đến Giêrusalem nhưng từng bước từng giai đoạn, Ngài đang đến gần khung cảnh cuối cùng. Có vài người Pharisêu đến chất vấn Ngài về việc ly dị để thử Ngài. Có thể ẩn đàng sau câu hỏi này, còn có nhiều động cơ thúc đẩy khác nữa. Ly dị là một vấn đề nóng bỏng, một đề tài tranh luận của các Rabbi, và có thể họ thật lòng muốn biết ý kiến và nhận định của Chúa Giêsu trong vấn đề này. Cũng có thể họ muốn thử Ngài về phương diện giáo lý chính thống. Có lẽ Chúa Giêsu đã từng đề cập đến vấn đề này rồi. Trong Mt 5,31-32 chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đề cập hôn nhân và việc tái hôn, nên số người ấy mong Ngài tự mâu thuẫn với chính mình và sẽ gặp rắc rối vì chính những lời Ngài đã nói. Cũng có thể họ vốn biết Ngài sẽ trả lời như thế nào nên tìm cách đẩy Ngài vào chỗ thù địch với Hêrôđê, là người đã ly dị vợ để cưới vợ khác. Cũng có thể họ muốn được nghe Chúa Giêsu nói trái luật Môsê sẽ như Ngài đã từng làm, do đó, họ sẽ tố cáo Ngài là kẻ giảng tà giáo. Có một điều chắc chắn: vấn đề họ đặt ra không phải là vấn đề thuần lý, chỉ liên quan đến trường phái của các Rabbi mà thôi. Đó là một trong những đề tài tranh luận gay gắt trong thời Chúa Giêsu.

Về lý thuyết, không có gì cao hơn lý tưởng về hôn nhân trong Do Thái giáo. Trinh khiết vốn được xem như đức hạnh quan trọng nhất của mọi đức hạnh. “Chúng tôi nhận thấy rằng Thiên Chúa nhịn nhục đối với mọi tội, ngoại trừ tội không gìn giữ trinh khiết”. “Việc không giữ tiết hạnh khiến vinh quang Thiên Chúa quay đi”. “Mọi người Do Thái thà chết chứ không chịu phạm tội thờ ngẫu tượng, giết người hoặc tà dâm”. “Khi có ai ly dị vợ thuở thanh xuân của mình, thì cả đến bàn thờ cũng rơi nước mắt”. Lý tưởng đã nằm sẵn ở đó nhưng thực tế lại hụt hẫng quá xa.

Điểm cơ bản làm xáo trộn mọi sự ở đây là theo luật Do Thái, phụ nữ vốn bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền sử dụng của người đàn ông làm chủ trong gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị. Cùng lắm người vợ chỉ có thể xin chồng ly dị mình mà thôi. Phụ nữ bị chồng ly dị dù có thuận ý hay không, nhưng đàn ông có thể tự ý ly dị vợ. Lý do để một phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phong, hoặc khi người ấy xâm phạm tiết hạnh một trinh nữ, hoặc khi người chồng cáo gian vợ phạm tội trước khi kết hôn với nhau.

Luật về ly dị của người Do Thái vốn bắt nguồn từ Đnl 24,1. Đoạn sách này là nền tảng của toàn thể vấn đề. Khi một người nam cưới vợ, nếu nàng chẳng làm đẹp lòng chồng, bởi thấy nơi nàng một điều gì chướng, thì chồng được viết một tờ ly dị vợ rất đơn giản. Nó được viết như sau: “Đây là tờ giấy tôi viết để ly dị, cho ra khỏi nhà và cho (nàng) được tự do, có thể lấy ai tùy ý”. Về sau tờ ly dị được viết kỹ hơn, trau chuốt hơn “Vào ngày… tuần… tháng…năm… trên thế gian, theo cách đang tính đang thịnh hành tại thành phố..., bên bờ sông…, tôi là X. con trai của Y và dưới bất kỳ tên nào tôi được gọi ở đây, có mặt hôm nay… nguyên quán tại thành phố…, tự ý, không bị ai ép buộc gì, có từ bỏ, cho về và đuổi nàng Z. con gái của V. hoặc dưới bất cứ tên nào được người ta gọi mà từ trước đến nay vốn là vợ tôi. Hôm nay tôi đuổi nàng là Z. con gái của V. để nàng được tự do và có thể lấy ai tùy ý, chẳng ai có quyền ngăn cản. Đây là tờ ly dị, giấy đuổi, chứng chỉ ly hôn và theo luật Môsê, của Israel”. Vào thời Tân Ước, chứng từ này phải do một Rabbi đặc trách thảo ra. Sau đó, nó còn phải được một hội đồng gồm ba Rabbi phê chuẩn, rồi được lưu trữ tại Tòa Công Luận, nhưng nói chung thì việc ly dị vợ hết sức dễ dàng và thường thuờng do ý muốn của người đàn ông.

Nhưng vấn đề then chốt thực sự là việc giải thích luật theo Đnl 24,1. Câu ấy quy định người đàn ông có thể ly dị vợ nếu thấy nơi nàng điều gì chướng (bản Anh văn dịch là ô uế). Vậy họ phải cắt nghĩa câu này như thế nào? Trong vấn đề này xuất hiện hai trường phái tư tưởng. Trường phái Shammai giải thích vấn đề hết sức khe khắt, điều chướng (ô uế) là ngoại tình và chỉ có nghĩa là ngoại tình (tà dâm) mà thôi. Cho dù người đàn bà ấy xấu xa gian ác như Giêsabên, nhưng nếu người ấy không ngoại tình, không thể có chuyện ly dị. Thứ hai là trường phái Hillel giải thích câu quan trọng này theo nghĩa rộng rãi nhất. Họ bảo người vợ làm hỏng một đĩa đồ ăn, la cà ngoài phố, trò chuyện với đàn ông lạ, nói hỗn với bà con bên chồng và nếu đó là người hay to tiếng (họ lại định nghĩa to tiếng là đã nói lớn đến nỗi nhà hàng xóm có thể nghe được) –đó là những điều chướng. Rabbi Akiba còn đi rất xa để giải thích câu “nếu nàng chẳng làm đẹp lòng chồng” là “nếu người đàn ông thấy có người đàn bà nào đẹp hơn vợ mình”.

Bản tính con người vốn vậy, hễ điều gì lỏng lẻo hơn thì luôn luôn thắng thế hơn. Hậu quả là các lý do để ly dị hoàn toàn là những lý do nhỏ nhặt, hay chẳng có lý do nào cả lại là chuyện phổ biến tai hại. Sự việc vẫn tiếp diễn như thế nên vào thời Chúa Giêsu, phụ nữ thường ngần ngại không chịu tiến đến hôn nhân, vì hôn nhân quá bấp bênh. Khi Chúa Giêsu phán các lời ấy, Ngài đang đề cập một vấn đề nóng bỏng, và Ngài đã quan tâm đến phụ nữ mà giáng một đòn sấm sét hầu vãn hồi địa vị thích đáng phải dành cho hôn nhân.

Chúng ta cần ghi nhận một số điểm sau đây: Chúa Giêsu đã trích dẫn một quy tắc của Môsê, và Ngài thêm rằng sở dĩ Môsê đã quy định như vậy là “vì lòng các người cứng cỏi”. Câu này có một trong hai nghĩa sau đây. Có nghĩa là sở dĩ Môsê quy định như thế vì đó là điều tốt đẹp nhất người ta có thể trông mong nơi dân mà ông phải ban bố luật cho. Hoặc nó có nghĩa là sở dĩ Môsê quy định như vậy vì ông muốn cố gắng kiểm soát một tình hình lúc bấy giờ đã thoái hóa trầm trọng, và điều đó thật ra không hề có chuyện cho phép người đàn ông ly dị vợ, nhưng từ ban đầu, nó chỉ là một nỗ lực nhằm kiểm soát việc ly dị vợ đưa nó vào trong phạm vi một thứ luật lệ, khiến việc ly dị vợ gặp phải nhiều khó khăn hơn mà thôi. Dù sao Chúa Giêsu cũng đã vạch rõ, Ngài chỉ xem Đnl 24,1 như một quy định do một hoàn cảnh chứ không là một sự ràng buộc vĩnh viễn. Những chứng liệu Ngài trích dẫn còn lui về những thời xa xưa hơn. Để thêm uy quyền, Ngài nêu chuyện sáng tạo trời đất như trong Sáng Thế 1,27; 2,24. Theo quan điểm của Ngài, ngay trong bản chất của sự việc, hôn nhân vốn có tính cách vĩnh viễn, là sự kết hợp bền vững giữa hai người bằng một phương cách mà không bao giờ luật lệ, quy điều của con người có thể phá vỡ, cắt đứt được sự ràng buộc đó. Chúa Giêsu tin, trong cơ cấu của vũ trụ, hôn nhân là một sự kết hợp tuyệt đối vĩnh viễn, bất khả phân ly, chẳng có một quy tắc nào của Môsê nhằm vào một hoàn cảnh tạm thời lại có thể thay đổi được nó.

Chỗ khó hiểu trong phần tường thuật của Matthêu lại có một điểm khác hẳn. Trong Maccô Chúa Giêsu tuyệt đối cấm việc ly dị vợ và tái hôn. Trong Mt 19,3-9 Ngài vẫn tuyệt đối cấm tái hôn, nhưng về ly dị, thì có một trường hợp duy nhất được cho phép, là nếu có ngoại tình (hiểu theo Tin Lành). Hầu như chúng ta có thể chắc chắn rằng phần tường thuật trong Matthêu là đúng và dĩ nhiên ý đó cũng có cả trong Maccô nữa. Chính luật Do Thái dạy rằng sự kiện ngoại tình bắt buộc phải đưa đến việc hủy bỏ hôn nhân. Thật ra thì chính tội ngoại tình, bất trung, cũng đã cắt đứt sợi dây buộc chặt đôi vợ chồng trong hôn nhân rồi. Một khi đã phạm tội ngoại tình, thì trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất nên một đã bị tan vỡ, còn ly dị, chỉ là một sự kiện để chứng thực mà thôi. Bên Công Giáo hiểu được phép ly dị nếu là hôn nhân bất hợp pháp.

Yếu tính đích thực của đoạn sách này là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh tình trạng lỏng lẻo của đạo đức về hôn nhân và tình dục vào thời của Ngài, cần phải được hàn gắn, sửa đổi. Những kẻ chỉ muốn kết hôn để tìm lạc thú rằng hôn nhân cũng là trách nhiệm. Những kẻ xem hôn nhân chỉ là một phương tiện nhằm thỏa mãn các đam mê xác thịt phải nhớ đó là một sự liên hiệp thuộc linh. Chúa Giêsu đang xây một thành lũy chung quanh gia đình.

NƯỚC TRỜI THUỘC VỀ NH”NG NGƯỜI ĐÓ (10,13-16)

Các bà mẹ Do Thái muốn một Rabbi danh tiếng, có uy tín, chúc phúc cho con cái họ. Đó là điều hết sức tự nhiên. Đặc biệt là nhằm ngày thôi nôi cho chúng. Theo thói quen đó họ đã đưa nhiều trẻ nhỏ đến Chúa Giêsu.

Chúng ta chỉ hiểu được trọn vẹn vẻ đẹp sâu sắc của đoạn sách này nếu nhớ rằng sự việc đã xảy ra lúc nào. Phải luôn nhớ là Chúa Giêsu đang trên đường dẫn đến thập giá và Ngài biết rõ điều đó. Lúc ấy, bóng khổ nạn không rời khỏi tâm trí Ngài. Thế nhưng, cũng chính lúc ấy, Ngài đã dành thì giờ cho trẻ nhỏ. Ngay khi tâm trí Ngài bị căng thẳng như vậy, Ngài vẫn dành thì giờ để ẵm bồng chúng vào lòng, vẫn có thể mỉm cười với chúng và có lẽ cũng còn nô đùa một lúc với chúng nữa. Cũng chính vì thế mà các môn đệ Chúa đã tìm cách ngăn cản đám trẻ nhỏ lại, không phải vì họ là những con người thô lỗ, vô tâm. Nhưng thực sự họ chỉ muốn bảo vệ Chúa Giêsu. Họ không biết chuyện gì xảy ra, nhưng biết rõ là tấm thảm kịch đang ở truớc mặt và thấy rõ Chúa Giêsu đang trong sự căng thẳng. Họ không muốn Ngài bị quấy rầy, cũng không thể nào hiểu nổi Ngài muốn có trẻ nhỏ bên cạnh trong một hoàn cảnh như thế. Nhưng cả trong một tình huống như vậy, Chúa Giêsu vẫn phán “Cứ để trẻ em đến với Thầy đừng ngăn cấm chúng’.

Một cách ngẫu nhiên việc này cho chúng ta biết rất nhiều điều về Chúa Giêsu. Nó cho chúng ta biết Ngài là Đấng hay chăm sóc trẻ nhỏ mà trẻ nhỏ cũng mến Ngài. Ngài không thể là một người nghiêm nghị, âu sầu, chẳng biết vui vẻ gì. Gương mặt nhân từ của Ngài rạng rỡ như mặt trời vây. Chắc Ngài rất dễ mỉm cười, cũng thường vui vẻ reo cười. George Macdonald, bảo rằng ông không tin vào Kitô giáo của một người nếu trẻ em không tìm được một chỗ để quây quần vui chơi trước cửa nhà người ấy. Biến cố nhỏ bé, quý báu này đã chiếu cả một luồng ánh sáng của Chúa Giêsu vào loài người.

Ngài tiếp “Vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”. Trẻ nhỏ có gì mà Chúa Giêsu lại yêu thích và đánh giá cao như vậy”

1/ Có khiêm nhu như trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng cũng có vài đứa trẻ thích phô trương, nhưng trẻ như vậy rất hiếm và hầu như đó là kết quả sự hướng dẫn chúng cách sai lầm của người lớn. Thông thường trẻ nhỏ rất bối rối khi được đề cao, được đưa ra quảng cáo, nó chưa hề biết suy nghĩ bằng ngôn từ của địa vị, của tính kiêu ngạo, háo danh. Nó chưa được học hỏi để khám phá ra tầm quan trọng của chính nó.

2/ Có vâng phục như trẻ nhỏ. Thật ra trẻ nhỏ thường không chịu vâng lời, nhưng cũng thật nghịch lý là bản năng tự nhiên của trẻ nhỏ lại vốn hay vâng phục. Trẻ nhỏ chưa học biết để kiêu ngạo, để muốn được độc lập giả tạo, là điều gây ngăn cách giữa một người với đồng bào, đồng loại.

3/ Có lòng tin cậy của trẻ nhỏ. Điều này được thấy rõ trong những trường hợp: (a) Trẻ nhỏ thừa nhận uy quyền. Vào một giai đoạn nào đó, nó nghĩ rằng cha nó biết hết mọi sự, và cha nó bao giờ cũng đúng, cũng phải cả. Nhưng điều đáng xấu hổ cho chúng ta là chẳng bao lâu nó thoát khỏi tuổi đó, nhưng do bản năng, nó vốn biết rõ sự ngu dốt, bất năng, bất lực của nó và tin cậy nơi người mà nó tưởng là hiểu biết. (b) Trẻ nhỏ có sự tin cậy đối với người khác. Chỉ có trẻ nhỏ mới không thấy người khác xấu. Nó sẵn sàng kết bạn với người xa lạ. Một vĩ nhân đã nói, lời khen tặng lớn lao nhất đời ông là lần kia một đứa trẻ hoàn toàn xa lạ đến nhờ ông cột dây giầy giúp nó. Trẻ nhỏ chưa biết hoài nghi về thế giới, nó tin rằng mọi người đều tốt. Có khi niềm tin cậy đó đưa nó vào chỗ nguy hiểm, vì có nhiều kẻ hoàn toàn không xứng đáng, sẽ lạm dụng nó, nhưng dầu sao thì lòng tin cậy đó cũng hết sức đẹp đẽ.

4/ Trẻ nhỏ vốn mau quên. Nó chưa biết lẩm bẩm và chất chứa điều cay đắng trong lòng. Cả khi bị đối xử bất công, mà ai trong chúng ta lại không có lần tỏ ra bất công với con cái, nó cũng quên ngay, quên đến nỗi chẳng còn gì để tha thứ nữa.

Thật vậy Nước Thiên Chúa thuộc về những người như vậy.

--------------------------

 

TN 27-B45. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux


VẤN ĐỀ LY DỊ (10,1-12)

 

Nhiều lời khuyên bảo liên quan đến đời sống cộng đồng đã được Chúa Giêsu thực tại Caphanaum: TN 27-B45


Nhiều lời khuyên bảo liên quan đến đời sống cộng đồng đã được Chúa Giêsu thực tại Caphanaum, xứ Galilê (9,33). Chặng đường dài của xứ Palestin, từ bắc tới nam đã được vượt qua (c. 1a). chúa Giêsu đang tiến bước hướng về Giêrusalem. Giờ đây Ngài đang tiếp xúc với cư dân mạn nam Palestin, ở hai bên bờ sông Giođan; ở phía tây là Giuđê, những đồng hương Do Thái với Ngài, phía đông là người xứ Pêrê (hiện là Giocđani) thuộc dân ngoại. Maccô muốn chứng tỏ Chúa Giêsu đang rao giảng cho tất cả mọi người không phân biệt. Đám đông đang hiện diện và thế là Chúa Giêsu dạy dỗ họ (c. 1b). Ở đây có đủ mọi điều kiện cần thiết để sứ điệp của Ngài đạt đến quảng đại quần chúng.

Đám biệt phái lại mon men đến gần Ngài (c. 2a). Lần tranh luận cuối cùng giữa Chúa Giêsu và những kẻ nhiệt tình bảo vệ luật Môsê này đã xảy ra cách đây khá lâu (8, 11-12). Cũng giống nhu lần đó, lần này Maccô cũng ghi rõ những người Do Thái được số một này đến chất vấn Chúa Giêsu “để thử Ngài” (c. 2b). Cần phải nhớ rằng đàng sau những từ này, tác giả Phúc Âm muốn gợi lại thái độ của những người Israel vào thời còn ở hoang mạc lúc xuất hành từng biểu lộ sự cứng lòng với Môsê và với chính Thiên Chúa: “Ho thử thách Giavê bằng cách nói rằng: “Thiên Chúa có ở giữa chúng ta hay không?”. Còn ở đây thì họ giương bẫy gài Chúa Giêsu về vấn đề ly dị: “Chồng có được phép rẫy vợ không?” (c. 2c). Vào bước ngoặt của Kỷ nguyên Kitô giáo vấn đề “rẫy” vợ được các giáo sĩ Do Thái tranh luận sôi nổi. Hai trường phái nổi tiếng đối đầu đưa ra những ý kiến ngược nhau. Một bên là giáo sĩ Hillel, thuộc dạng biệt phái tự do thì chấp nhận rất nhiều lý do cho phép vợ chồng có thể chia tay nhau. Ngược lại, giáo sĩ Shamamai thuộc khuynh hướng nghiêm khắc thì chỉ chấp nhận một số giới hạn các trường hợp được phép “rẫy” vợ. Bởi vì theo luật Do Thái, chỉ đàn ông mới có quyền ly dị vợ mình, nên Shammai theo cách thức của mình, đã bảo vệ cho phụ nữ trong một xã hội thượng tôn nam giới. Chính vì được đánh giá là một bậc thầy tăm tiếng nên Chúa Giêsu đã được hỏi ý kiến xem Ngài ủng hộ phe nào. Bẫy gài giương ra rất rõ ràng: Người ta sẽ đánh giá Ngài thuộc loại theo chủ thuyết “buông thả” hay chủ thuyết “gò bó” trong vấn đề này. Họ muốn đóng khung Ngài hoặc trong phe này hoặc trong phe kia. Trước tiên Chúa Giêsu dẫn đối phương về tận nguồn gốc cuộc tranh luận: “Môsê đã răn dạy các ông điều gì?” (c. 3). Câu hỏi này dễ trả lời (c.4). Lời quy chiếu của đám biệt phái về luật Môsê cho thấy thói quen xưa kia xem việc ly dị là hợp pháp (x. Đnl 24,1). Luật pháp Israel (bắt nguồn từ Môsê?). Chỉ nhân đạo hóa chút ít tập tục này bằng cách buộc người chồng phải trao cho người vợ mà ông ta ly dị một tờ giấy xác nhận. Tuy nhiên Chúa Giêsu không phải là không biết rằng bởi vì theo chủ trương buông thả quá độ nên truyền thống Do Thái đã phạm tội thiên bị bênh vực cho riêng cánh đàn ông. Người đàn ông có thể rẫy vợ mình kể cả vì những lý do không đáng gì hết! Một câu trong sách Đệ nhị luật đã mở đường cho tất cả mọi sự lạm dụng: “Khi một người nam cưới vợ, nếu cô này chẳng được ơn trước mặt người chồng bởi người ấy thấy nơi nàng có điều gì tỳ vết, thì người ấy thảo một tờ giấy ly dị, trao vào tay cô ta và đuổi cô ta về lại nhà cha mẹ...” (Đnl 24,1). Sử gia Do Thái Flarius Joseph (thế kỷ I sau Công nguyên) xác nhận là phe Hillel đã dùng đoạn này trong Torah để ủng hộ quyền tự do ly dị của cánh đàn ông. “Kẻ nào muốn lỵ dị, vì bất cứ lý do gì (có vô số lý do mà đàn ông có thể nại ra) thì cứ viết ra một chứng thư xác nhận (Cổ văn Do Thái 4,8,23).

Ý thức được hiện có đủ lối cắt nghĩa về vấn đề này Chúa Giêsu liền bắt đầu cách phục hồi luật Môsê vào đúng mực độ của nó: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá nên ông Môsê mới viết điều răn đó” (c. 5). Chủ đề dân được chọn cứng lòng không nghe lời Chúa đầy dẫy trong luật sư. Các tiên tri đã không ngừng tố cáo tấn kịch này của Israel, một dân tộc luôn cố “chống lại ý Chúa”. Chính Chúa Giêsu cũng đã phàn nàn về “sự cứng lòng này” của đám biệt phái là những đại biểu ưu tú của dân (x. 3,5). Tuy nhiên, Chúa Giêsu dự tính xoáy sâu hơn vào tư tưởng Ngài. Cũng như trước đây khi đề cập đến luật Môsê về ngày Sabat (x. 2,23-28). Lần này Ngài cũng đi trở vượt qua truyền thống Do Thái để trở về với ý định ban đầu của Đấng Tạo Hóa (c. 6). Chúa Giêsu đi trở ngược dòng thời gian: khá lâu trước thời kỷ Đệ nhị luật, sách Sáng thế mà Ngài trưng dẫn (St 1,27) đã trình bày sự kết hợp nam nữ như là nền tảng vững chắc để xây dựng cộng đoàn nhân lọai chứ không phải để phá hủy. Được tạo dựng theo hai phái tính nam, nữ nên cả đàn ông lẫn đàn bà “đều là hình ảnh của Thiên Chúa”. Sự cao cả của việc hô kết hợp với nhau là ở đó. Chúa Giêsu đưa ra yêu muốn Đấng Tạo Hóa về sự kết hợp này: “Vì thế... cả hai sẽ thành một xương thịt” (c. 7-8). Quy chiếu này rõ ràng ám chỉ trình thuật thứ hai về cuốn tạo dựng (St 2,24). Bản văn này rất súc tích. Người nam và người nữ được kêu gọi xây dựng nên một tế bào gia đình độc lập. Sự kết hợp giữa họ tạo thành một đơn vị nền tảng, phát sinh do sợi dây tình yêu và tình dục. Được xây dựng trên ý định của Thiên Chúa nên đơn vị nguyên sơ này là một thực thể cần phải bảo vệ bằng mọi giá. Chúa Giêsu nhấn mạnh điều đó: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phố hợp, loài người không được phân ly!” (c. 9).

Như vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một tầm nhìn cao vời bất ngờ cho câu hỏi trên. Như sau này thánh Gioan nhận thức, nơi đây quả có một vị tiên tri còn cao cả hơn Môsê, nhà lập luận của dân riêng Chúa (Ga 1,17). Với quyền năng Thiên Chúa tràn đầy, Đức Mêsia đã đến phục hồi vũ trụ vào đúng trật tự Đấng Tạo Hóa muốn. Nếu có tham gia vào cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các bậc khôn ngoan (các giáo sĩ ưu tú lúc bấy giờ) Chúa Giêsu cũng không để mình bị rơi vào bẫy của các nhà luật học Do Thái cũng như vào chủ nghĩa vị luật của họ. Ngài xác nhận mạnh mẽ ý nghĩa nguyên thủy mà Thiên Chúa đã ban cho mối dây liên kết hôn nhân. Con đường Ngài mở ra mang tính cách đòi hỏi hơn các quan điểm nhân loại rất nhiều. Sự nghiêm khắc của con đường ấy không ngừng hạch sách các bạn hữu thân tình của Ngài. Như thường lệ, chính các môn đệ cũng ngỡ ngàng về lời dạy khắt khe của Thầy mình. Họ lợi dụng đám Biệt Phái rút lui để hỏi riêng Chúa Giêsu tại nhà (c. 10). Người ta có thể nghĩ rằng họ đai diện cho cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đang đương đầu với vấn đề ly dị nơi các thành viên của mình và đang tìm cách xác định tư tưởng của Chúa Giêsu về những trường hợp khó khăn, và Chúa Giêsu đã trở lại cho các môn đệ bằng một công thức đầy kinh ngạc (c. 11-12). Người ta có thể nêu ra hai nhận xét. Thứ nhất, ở đây liên quan đến việc tái hôn của những người đã ly dị, chứ không phải là một sự ly thân. Tình trạng này bị xem là “ngoại tình”. Đây là từ ngữ nghiêm khắc được các tiên tri dùng để bêu riếu Israel về việc họ “tương giao” với Thiên Chúa (x. Hs 1-3). Thứ hai là các từ ngữ được dùng cho thấy đàn bà cũng có quyền ly dị giống như đàn ông. Vào thời Chúa Giêsu, trường hợp này không hề có Thầy luật pháp Do Thái. Điều này cho thấy trường hợp này phát xuất từ luật Rôma. Khi soạn Phúc Âm cho các Kitô hữu đến từ gốc ngoại giáo, hẳn Maccô đã phải để ý đến các luật lệ Rôma.

Hai nhận xét trên đủ cho thấy rõ tư tưởng vững chắc của Chúa Giêsu về đề ly dị đã được Giáo Hội sơ khai áp dụng vào những tình cảnh mới. Vì thế không ngạc nhiên gì khi tư tưởng ấy vẫn còn áp dụng mãi đến ngày hôm nay. Giáo Hội luôn luôn phải đương đầu với những trường hợp hôn nhân bị “đứt đoạn” và vấn đề tái hôn. Dù sao trong tất cả những trường hợp này, người ta hãy nhớ rằng tư tưởng của Chúa Giêsu không xây dựng trên quan điểm “vị luật”, và Ngài luôn luôn rộng mở đón nhận những kẻ bị khai trừ và những người tội lỗi (x. 2,15-17).

CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRẺ EM (10,13-16).

Giữa lúc Chúa Giêsu đang dạy dỗ về phương cách để trở thành môn đệ Ngài (từ 8,34) thì Maccô lại lồng vào quang cảnh ngắn gọn sống động đầy tươi mát này: Chúa Giêsu tiếp đón các trẻ em. Trước đây, Chúa Giêsu đã từng biểu lộ quan tâm của Ngài đối với thế giới trẻ em (9,35-37). Để được đầu với những cao vọng nhóm Mười Hai, lúc đó Ngài đã tự xem mình là tôi tớ cho tất cả mọi người. Ở đây sứ điệp này được lặp lại với trọng điểm nơi khác một tí. Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết trẻ em là gương mẫu trong một trong việc tiếp nhận Nước Thiên Chúa.

Người ta mang trẻ em tới cho Ngài để được Ngài chạm vào chúng (c. 13a). không ghi rõ tuổi tác nhưng đây chắc chắn không phải là những đứa bé xíu. Từ ngữ Hy Lạp được dùng ở đây ám chỉ lứa tuổi từ 7-14. Cũng không thấy xác định rõ lý do tại sao “người ta” muốn Ngài chạm vào đứa trẻ em này. Thực sự rất nhiều lần chúng ta đã thấy nhiều người, nhất là các bệnh nhân chen nhau đến với Chúa Giêsu để chạm được vào vị lương y này (2,10; 5,25-28). Tuy nhiên các trẻ em này không phải là những bệnh nhân. Phải chăng những kẻ mang chúng đến với Chúa Giêsu chỉ muốn Ngài ban cho chúng một cử chỉ chở che?

Người ta rất cảm thấy chướng trước thái độ rõ ràng thù nghịch của các môn đệ (c.13b). Đây là một cử chỉ xua đuổi mạnh mẽ. Tại sao vậy? Vào thời Chúa Giêsu, người lớn thường có thái độ khinh thường trẻ em. Lũ trẻ lóc nhóc, hay đòi ăn này chẳng được xem trọng trong một thế giới đói nghèo. Thêm vào đó, đám trẻ thuộc cộng đoàn Do Thái này lại chưa biết gì đến lề luật Môsê nữa chứ. Cho nên người ta xem chúng như những kẻ “sống ngoài lề luật”. Chúng bị liệt vào hàng “bị khai trừ” giống như các bệnh nhân, phụ nữ và nô lệ v.v... Sự khinh bỉ mà các bạn thân của Chúa Giêsu biểu lộ đối với đám trẻ em làm Ngài xúc động mạnh: “Thấy thế, Ngài bực mình” (c.14a). Maccô từng nêu lên tia nhìn giận dữ của Chúa Giêsu (3,5) tuy nhiên chưa bao giờ ông tỏ cho chúng ta biết lý do sâu xa Ngài tức giận. Còn bây giờ thì lý do đã rõ (c.14b): đám trẻ em, cũng như những kẻ bị “khai trừ” khác, vẫn có chỗ trong Vương Quốc của Chúa Giêsu.

Cùng với Chúa Giêsu, Vương Quốc Thiên Chúa đã đến: đó là một trong những đề tài nổi bật được Chúa Giêsu ưa thích nhất trong lời công bố của Ngài (x.1,14-15). Giờ đây Ngài chỉ rõ đám trẻ em và “những kẻ giống như chúng” là những người được nhận lãnh Vương Quốc này. Tại sao vậy? Chúa Giêsu thường dùng lời nói tán dương “tinh thần của trẻ em”. Hẳn người ta đã nói nhiều đến sự ngây thơ vô tội của trẻ em. Người ta đã biến chúng thành kiểu mẫu luân lý mặc dù vẫn không phải luôn luôn cảnh giác được chiếc bẫy mà những kẻ trưởng thành khờ khệch thường hay rơi vào đó là một thứ “ấu trĩ chủ nghĩa” nào đó. Khoa học hiện đại, đặc biệt là khoa tâm lý chiến đấu đã cho thấy một cái nhìn bớt thơ mộng hơn về trẻ em. Một nhà thông thái như Frend chẳng hạn còn dám nói trẻ em là một thứ “tà vạy đa hình”: một sinh vật tàng ẩn, dưới dạng mầm non, mọi xấu xa của người lớn.

Vì thế không nên lý tưởng hóa việc Chúa Giêsu tiếp đón trẻ em. Nếu Chúa lấy trẻ em làm gương cho những người lớn bắt chước là bởi vì theo não trạng thời đó, trẻ em là những kẻ bé nhỏ, nghèo nàn và bị khai trừ. Chúng ta hãy đọc lại: vào thời Chúa Giêsu trẻ em trước hết là một “kẻ nghèo” bởi chúng hoàn toàn lệ thuộc vào người khác, đồng thời chúng cũng tỏ ra rất có khả năng lắng nghe và tin cậy, điều này những người lớn hầu như đã đánh mất! Chính thái độ sẵn sàng nơi trẻ em đã biến chúng thành tấm gương cho các tín hữu. Chúa Giêsu đã long trọng quả quyết điều này (c.15). Người ta nhận thấy rõ đây là nỗi ưu tư mà Chúa Giêsu không ngừng điều chỉnh cho tầm nhìn của các môn đệ bởi vì họ là những kẻ Ngài đang huấn luyện để đảm nhận trách nhiệm trong Giáo Hội. Họ phải bỏ đi những tham vọng “làm cha làm chú” (9,33-34) và phải trở nên “bé nhỏ” để có thể đón nhận Vương Quốc Thiên Chúa với lòng khiêm nhu và cởi mở tối đa.

Đoạn cuối trình thuật dễ thương này cho thấy Chúa Giêsu đã chuyển từ lời nói qua hành động. Ngài ôm đám trẻ và chúc lành cho chúng (c.16). Việc Chúa Giêsu trìu mến đám trẻ em – ít được yêu thương và thường bị ruồng bỏ này – mang đầy ý nghĩa sâu sắc. Theo Thánh Kinh cử chỉ “chúc lành” các giáo sĩ Do Thái thường làm, ám chỉ việc hiệp thông nhờ hành vi ban ân sủng của Thiên Chúa. Ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu mở rộng Nước Thiên Chúa cho đám trẻ em.

Mọi cử động trong quang cảnh trên hé mở cho thấy những gì đang xảy ra trong Giáo Hội của Maccô. Một số môn đệ nắm giữ quyền hành, chắc chắn đang bị cám dỗ muốn “ngăn cấm” không cho những kẻ bé nhỏ, nghèo khó, bị khai trừ, gia nhập vào đời sống của cộng đoàn. Tác giả Phúc Âm đặt lại trước mắt các vị ấy cử chỉ tiên tri của Chúa Giêsu: với tư cách là tôi tớ mọi người, Chúa Giêsu muốn người ta để cho những kẻ bị thế gian khinh dể “đến với Ngài”; và không chừng những kẻ này lại được mời gọi vào sống thân mật với Thiên Chúa... trước tiên đấy!

--------------------------

 

TN 27-B46. Chú giải của Noel Quesson

 

Đàn ông và đàn bà! Tại sao trai và Gái! Tại sao? Tính dục? Tại sao? Ai tình, khoái lạc, âu yếm: TN 27-B46


Đàn ông và đàn bà! Tại sao trai và Gái! Tại sao? Tính dục? Tại sao? Ai tình, khoái lạc, âu yếm, hôn nhân. Tại sao?

Tại sao cả thế giới sống động: thực vật, thú vật hay con người, đều được tạo ra theo "mẫu" này? Tại sao sinh vật phải gồm có hai “giống”, chia ra làm hai phần “đực và cái” khác nhau, nhưng được tạo ra “cho nhau". Tư tưởng con người không ngớt giao động về vấn đề này giữa phái Janséniste, và những người mệnh danh là lạc quan phóng khoáng, loại người đòi được tự do tình dục và ca tụng lạc thú như mục đích của con người.

Luân lý Kitô giáo trong những thế kỷ vừa qua, đã quá thổi phồng mặc cảm tội lỗi quanh vấn đề "Thanh sạch " và “không Thanh sạch”.

Tâm trạng con người hiện nay có khuynh hướng từ bỏ mọi khuôn mẫu và ca ngợi sự phóng khoáng: “Hãy làm điều bạn muốn làm, hãy làm những gì vừa ý bạn".

Đức Giêsu nghĩ gì về vấn đề này?

Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?".

Đó là câu hỏi đầy ác ý. Họ đặt ra để bắt bí Đức Giêsu, một câu hỏi nhằm gài bẫy. Dù Chúa có trả lời như thế nào đi nữa, thì Người cũng phải lãnh chịu một phần công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và chạm đến những gì thâm sâu nhất của con người. Không ai có thể trung lập trước câu hỏi, vì phải chấp nhận tình trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể. Những vết thương lòng rất khó lành. Câu hỏi do người Pharisêu nêu lên là đáng ngạc nhiên, vì giải đáp đã do luật đưa ra rồi. "Một người nào lấy vợ và đã cưới hỏi rồi, nếu xảy ra là vợ không được vừa mắt chồng nữa, vì chồng gặp thấy nơi nó có điều gì thô bỉ, vậy chồng đã viết cho nó lá thư, mà trao tay nó và đã thải hồi khỏi nhà mình" (Đnl 24).

Câu trả lời của luật pháp thật là rõ ràng: Sự ly dị là hoàn toàn hợp luật, vào thời Đức Giêsu, cũng như thời nay. Chúng ta cũng ngạc nhiên về sự giống nhau giữa những tình huống của các Kitô hữu đầu tiên và tình huống ngày nay mà chúng ta biết: Trong hầu hết các nước trên thế giới đều có luật chấp nhận ly dị và tái giá.

Người đáp: "Thế ông Môsê đã răn dạy các ông điều gì? Họ trả lời ông Môsê đã cho phép viết chứng thư ly dị mà rẫy vợ”.

Trả lời như thế thật là đẹp đẽ để giúp ta giữ thái độ khiêm nhường trước- những câu hỏi khó khăn. Những kiểu chú giải Kinh thánh "mang tính truyền thống" (nghĩa là chủ trương phải hiểu Kinh thánh theo nghĩa đen từng chữ một) thực sự chỉ đạt đến những điều ngây ngô và trẻ con. Hiển nhiên là mạc khải luôn tiệm tiến, và luân lý, giáo huấn cũng tiến bộ theo thời đại. Môsê, phần lớn chỉ lấy lại "luật theo tục lệ" của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly dị đã nằm trong truyền thống có cơ sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông đã cố sửa chữa những sở thích tùy tiện, bằng cách "hợp thức hóa", "quy định" và thiết lập một; “thủ tục". Ong muốn giới hạn sự ác bằng cách buộc phải theo thủ tục rõ ràng. Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này có thể được áp dụng rộng rãi hay là ngược lại: Có hai cách giải thích đối nghịch nhau vào thời Đức Giêsu. Thực vậy vấn đề là giải thích chữ "việc làm gây đụng chạm nặng" trong điều luật mà theo ý của Rabbi Shammai, phải hiểu từ này ám chỉ một tình trạng "vô luân trầm trọng" mà thôi, như thái độ ngoại tình. Trong khi trường phái kém khắt khe hơn của Rabbi Hillel đã hiểu rộng hơn, như đã lỡ để mất một bữa ăn bị cháy khét (Mischna Gittin IX 10).

Qua thí dụ này, chúng ta có thể kết luận rằng: "Tất cả những gì hợp pháp, không hẳn là hợp luân lý". Người Kitô hữu sống trong một thế giới đa dạng. Họ phải đủ sức chịu động để sống theo lương tâm của mình, dù điều đó có thể đưa tới một thái độ anh hùng theo Tin Mừng nào đó, đi ngược lại đa số. Nhưng nói cho cùng, đa số những đòi hỏi của Tin Mừng không yêu cầu chúng ta làm như thế cả sao? Thái độ bất bạo động không phải là một sự điên rồ sao? Tha thứ vô điều kiện, không phải là một lệch lạc sao? Tự nguyện sống nghèo không phải là một điều không tưởng sao? Chính trong bối cảnh ly dị trở thành hợp pháp như thế, mà Đức Kitô sắp bày tỏ lập trường đối với thời đại của mình.

Đức Giêsu nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn ấy”.

Lần này, đáng lẽ Người ta không nên dịch từ Hy Lạp “Sclérocardia" mà nên chuyển từ này sang tiếng Pháp thì mọi người sẽ hiểu: "Vì chứng bệnh "sơ cứng tim" của các người, mà Môsê đã cho phép ly dị". Đây là một chứng bệnh tim rất phổ biến, sự chai cứng của quả tim, sự cứng lòng. Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết thực sự yêu thương Người kia (người phối ngẫu). Có một áp lực xã hội rất mạnh (hãy làm như mọi người). Ngày nay cũng như thời xưa, thúc đẩy chúng ta chỉ cần những mối "tương quan lực lượng". Thí dụ; Thống kê chứng minh rằng ba phần tư những trường hợp ly dị trong năm năm đầu của cuộc hôn nhân xảy ra đối với những đôi vợ chồng đã ăn ở với nhau trước khi cưới. Khước từ "hôn nhân", khước từ "những tiêu chuẩn xã hội", không phải là bằng chứng của sự trưởng thành! Sống chung, ăn ở với nhau mà không làm đám cưới, thực ra điều đó có nghĩa gì? 'Không phải đó là giữ cảm tình ở một mức thiếu niên, và làm cho nó không vượt khỏi trình độ sơ đẳng sao? Không phải đó là giữ một lối thoát. Khước từ dấn thân thể sự, không "tự trao hiến" có nguy cơ cứ ở mãi trong tương quan thống trị giữa hai Người phối ngẫu sao? Tôi luôn phải làm chủ! Tôi phải tỏ ra tự do!

Coi chừng bệnh "chai tim" của bạn đó, Đức Giêsu đã cảnh giác như thế. Có cái gì đang núp ẩn dưới vẻ thân mật tự chủ, tự do? Tình yêu cho người kia, hay là tình yêu của tình bạn?

Còn thuở ban đầu, lúc tạo thành vạn vật, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ.

Luật căn bản của lứa đôi cần phải kiếm tìm, luôn nằm trong lãnh vực đó: Sự bổ túc của hai phái tính là một "sáng tạo", một "Thánh ý" của Thiên Chúa, được ghi khắc trong bản chất thâm sâu của người nam và người nữ.
Một lần nữa, Đức Giêsu không diễn tả bằng những từ luân lý được phép và bị cấm dù trên thực tế những điều này dẫn đến những thái độ rõ ràng. Người đưa ra một lý tưởng. Chúng ta không thể coi việc áp dụng luật là đủ. Đối với Đức Giêsu, cần phải có chiêm ngưỡng "dự án của Chúa về người nam và người nữ".

Trước những quan điểm xã hội, những luồng tư tưởng khác nhau, những chủ truơng "làm như mọi người", chúng ta quan niệm thế nào về tình yêu hôn nhân? Có phải quan niệm như một minh tinh điện ảnh nào đó? Như trong một bài hát nào đó trên máy thu thanh, dành cho những người bình dân? Đức Giêsu nói.. Hãy coi chừng! Trước tất cả những điều này, Thiên Chúa đã có một quan niệm về tình yêu và đã diễn tả quan niệm này trong sự sáng tạo của Người.

Vì thế người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.

Như vậy, Đức Giêsu đã tham chiếu bản văn sách Sáng Thế mà chúng ta đọc trong bài đọc một hôm nay. Chúng ta sẽ không bao giờ khám phá hết những kỳ diệu trong lời khẳng định phi thường của Sách Thánh: "Chúng ta hãy tạo con người theo hình ảnh của chúng ta, theo họa ảnh của chúng ta". Và Thiên Chúa đã tạo con người theo hình ảnh của Người, theo hình của Thiên Chúa, Người đã tạo ra con người nam và nữ (St 1,26-27). Không phải tình cờ mà bản văn Kinh thánh đã chuyển từ số ít ra số nhiều. Thiên Chúa là một trong ba ngôi, đã tạo nhân loại theo hình ảnh của Người, "nhiều” mà chỉ là “một". Từ nhiều người, khác nhau sâu xa, làm nên một. Đó là nguồn gốc của sự hiệp nhất trên thế gian, ngay từ lúc đầu cuộc sáng tạo.

Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con vinh quang của Chúa. Chúa đã tạo người nam và người nữ theo hình ảnh của Chúa. Oi, một giao ước mầu nhiệm thay! Lạy Chúa, là tình yêu chia sẻ, xin cho dân của Người nghị lực yêu thương.

Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.

Chỉ có Thiên Chúa sống động trong ta, mới có thể làm được những gì mà chúng ta coi như bất lực. Bí tích hôn phối đúng là một hồng ân, một quà tặng nhưng không, để chữa bệnh con người không biết yêu thương như Thiên Chúa của giao ước hằng thương yêu. Sự bất khả phân ly của hôn nhân như Đức Giêsu đã tuyên bố, đi ngược lại chuẩn mực thông thường của chúng ta, không thể trở nên dịp cho chúng ta xét đoán hay lên án những gia đình gặp khó khăn: Chúa Kitô không kêu gọi chúng ta làm việc đó! Sự bất khả phân ly là lời thề hứa sâu sắc nhất của tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cảm tạ Chúa đã nói lại điều đó cho chúng con, dù đó là điều khó sống theo, nhưng nhờ sự thương khó và thập giá Chúa, xin cứu giúp tình yêu chúng con. Xin làm cho chúng con biết yêu thương như Chúa.

Ai rẫy vợ mà lấy người khác, là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ chồng để lấy người khác thì cũng phạm tội ngoại tình.

Sự đối xung hoàn hảo của hai kiểu nói song hành này, rất có ý nghĩa.

Đối với Đức Giêsu, sự hỗ tướng cần trọn vẹn: Người nam và Người nữ đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Trong thế giới mà các tương quan thống trị đang thắng thế như hiện nay, Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải biết yêu thương người phối ngẫu. Và Người cho chúng ta "sức mạnh" để yêu thương như thế, dù có gặp khó khăn.

Sự hiệp nhất đời sống lứa đôi là do Chúa muốn, không phải chỉ từ "lúc đầu”, không phải "một thiên đường đã mất" trong quá khứ. Đây là đường đi hằng ngày mà nơi đó "Thiên đàng đã tìm lại" đang xây dựng, nơi cuối cùng chúng ta sẽ trở nên hình ảnh của Thiên Chúa "Ba" mà là "Một".

--------------------------

 

TN 27-B47. Chú giải của Fiches Dominicales


HỌ CHỈ LÀ MỘT XƯƠNG MỘT THỊT

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1) Từ cuộc tranh luận "khi đi đường”

 

Đã hai lần (và sẽ còn một lần thứ ba nữa) Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Trên: TN 27-B47


Đã hai lần (và sẽ còn một lần thứ ba nữa) Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, Người tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan.

"B.Standaert nhận xét như sau: "Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ: Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích luật này luật nọ trong Kinh Thánh, ông- nhìn nhận chỉ có một nền tảng duy nhất cho đời sống luân lý Kitô giáo là việc noi gương Đức Kitô. Những trình thuật quan trọng loan báo số phận của Con người thật ra không gì là khích lệ, nhưng chính từ đinh mệnh Đức Kitô, ta sẽ hiểu được những đòi hỏi thực tế của Kitô giáo. Do đó, ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống đó có những đòi hỏi quyết liệt, không khoan nhượng”. Ông nhận xét tiếp: "Theo Maccô trình bày, noi gương Đức Kitô là chìa khoá của tất cả đời sống luân lý. Sự tương cận giữa đời sống Đức Giêsu và đời sống người Kitô hữu mà Maccô đề ra vẫn là gương mẫu cho nỗ lực tìm hiểu đời sống Kitô giáo. Maccô mời gọi ta suy nghĩ lại cả những thực hành, hoạt động, bi kịch và ước vọng của ta dưới ánh sáng duy nhất của tấn thảm kịch mà Đức Giêsu đã trải qua: "bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại" (9. 31) ("L'evangile selon Marc", Cerf, trang 78-79 và 81).

- Có lẽ ở Giuđê, nơi dân cư là người Do thái sống chung quanh thủ đô Giêrusalem, Đức Giêsu chạm trán với nhóm Pharisêu. Nhóm này muốn thử thách Người nên đặt vấn nạn về vấn đề ly hôn: "Chồng có được phép rẫy vợ không? " Vào thời đó, việc chồng rẫy vợ trên nguyên tắc được mọi người chấp thuận. Sách Đệ Nhị luật 24,1 có viết: "Nếu một người đàn ông đă lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”? Người ta chỉ bất đồng ý kiến về lý do mà người đàn ông viện ra để rẫy bỏ vợ mình.

+ Phái bảo thủ, muốn bênh vực quyền lợi cho người đàn bà trong xã hội do đàn ông thống trị, (môn phái Shammai) chỉ nhận duy nhất một lý do là hợp pháp: đó là thói lăng loàn bất trị của người vợ, hoặc một hành động khiến có thể nghi ngờ lòng chung thuỷ của nàng.

+ Phái tự do (môn phái Hillel) cho phép rẫy bỏ vợ bất cứ vì lý do nào, thí dụ như vô sinh, hiếm muộn, gặp được người đàn bà khác mình thích hơn, hoặc chỉ vì nấu ăn dở.

Nhóm Pharisêu tự hỏi xem Đức Giêsu sẽ gia nhập phái nào? Nhưng họ cũng biết quá rõ, cho dầu chọn môn phái nào, Người cũng bị sập bẫy. Vì người ta sẽ chụp mũ Người là “cứng cỏi” hoặc là "buông thả" đối với Lề Luật thánh, và như vậy, không ai còn tin giáo huấn của Người.

- Nhưng Đức Giêsu không rơi vào cạm bẫy của họ. Người trả lời bằng một câu hỏi: "Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? Khi dùng từ truyền dạy, Người buộc những người chất vấn phải nhìn nhận công khai, đó không phải "một lệnh truyền" của Môsê, mà chỉ là một nhân nhượng vì lý do nhân đạo. Họ thú nhận: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”.

Bấy giờ, Đức Giêsu nại đến một quyền lực cao trọng hơn quyền lực của Môsê trong việc cắt nghĩa Lề luật. Như những lần tranh luận về ngày Sabát, ở đây, Đức Giêsu cũng nại đến ý Thiên Chúa từ thuở ban đầu: "Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, vì thế người đàn ông sẽ "lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Việc rẫy vợ, dù rằng có trao tờ ly hôn chỉ là một nhân nhượng, nó không huỷ bỏ ý muốn ban đầu của Thiên Chúa, và tính cách vĩnh viễn của hôn ước. "Vì thế họ sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".

J. Hervieux giải thích: "Ra đời trước sách Đệ nhị luật rất lâu, sách Sáng Thế mà Chúa trích dẫn, đã trình bày sự phối hợp người nam người nữ như nền tảng vững chắc, trên đó nhân loại được xây dựng chớ không bị hủy diệt. Con người được tạo dựng có nam có nữ nên cả hai phái tính đàn ông và phụ nữ đều là "hình ảnh của Thiên Chúa". Sự cao quí của việc kết hợp nam nữ là ở đó. Đức Giêsu rút ra kết luận mà Đấng Tạo Dựng mong muốn: "Vì lý do cả hai thành một xương một thịt". Lời lẽ thật hết sức rõ rệt. Đàn ông và phụ nữ ơn gọi làm nên một tế bào gia đình tự lập. Đôi uyên ương họ tạo lập trở nên một đơn vị nền tảng, phát xuất do mối tương quan tình yêu và giới tính. Cái đơn vị hàng đầu này, được tạo lập do ý định của Thiên Chúa, là một thực thể cần được bảo vệ bằng mọi giá. Đức Giêsu cương quyết nhắc nhủ điều đó "Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" ("L'evangile de Marc", Centurion, trang 141-142).

2) Đến cuộc chuyện vãn thân mật "ở nhà".

Thay vì bị mắc vào âm mưu của các luật sĩ, Đức Giêsu cương quyết tái xác định ý nghĩa sự phối hợp hôn nhân do Thiên Chúa sắp đặt tự nguyên thuỷ; Người không làm luật, Người chỉ đề nghị một thái độ đạo đức cơ bản: đó là đặt mình vào kế hoạch của Đấng tạo thành. Người mở ra con đường khắt khe hơn quan điểm thường tình của người phàm. Cũng thế, vừa khi trở về nhà, (nơi biểu trưng cho những giáo huấn mà Đức Giêsu dạy dỗ riêng các môn đệ) các môn đệ thay thế cho nhóm Pharisêu đặt câu hỏi: Và Đức Giêsu trả lời họ: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác, là phạm tội ngoại tình, đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác cũng phạm tội ngoại tình”.

Ta thấy, khi chuyển lời Chúa đến địa chỉ mới là những Kitô hữu gốc ngoại giáo, thuộc thế giới Hy-lạp, nơi mà luật pháp cho phép phụ nữ cũng như đàn ông được quyền tự ý ly dị, Maccô cũng để ý đến hoàn cảnh đặc biệt này. Ông lần lượt nêu ra trường hợp người chồng, rồi người vợ, lìa bỏ người bạn đời của mình; dù cho phía nào gây ra cuộc phân ly cũng sẽ có "ngoại tình" nếu đi lấy người khác, nghĩa là nếu kéo theo cuộc phối hợp khác.

J.Hervieux nhận xét: "ý kiến cứng rắn của Đức Giêsu về vấn đề ly dị được áp dụng cho Giáo Hội sơ khai trong bồi cảnh mới mẻ. Đem áp dụng cho Giáo Hội hôm nay cũng không là điều đáng ngạc nhiên. Giáo Hội luôn phải đối mặt với những trường kết hợp vợ chồng bị đổ vỡ rồi tái tạo. Dù sao đi nữa, ta phải luôn nhớ rằng ý kiến của Đức Giêsu không dựa trên quan điểm “ duy luật” và Người luôn dang rộng tay đón tiếp những người bị khai trừ và những kẻ tôi lỗi” (Sđd, trang 142).

Tiếp ngay sau giáo huấn này, là việc một số cha mẹ dẫn con họ đến với Đức Giêsu để “Người đặt tay trên chúng” và họ chạm phải phản ứng thô bạo của các môn đệ: các ông thẳng tay đuổi chúng.

Ta dễ hiểu phản ứng của các môn đệ, nếu ta nhớ rằng vào Đức Giêsu. Trẻ nhỏ thường bị người lớn khinh thường. Tất cả những chú nhóc chen chúc nhau trong cộng đồng Do thái đều mù tịt về luật Môsê, chúng bị liệt vào hạng “bị khai trừ”, như bệnh nhân, phụ nữ và nô lệ.

Bực tức trước thái độ như thế, Đức Giêsu lợi dụng cơ hội này để dạy về thái độ tinh thần mà người môn đệ của Nước Trời phải có: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”. "Nếu Vị Tôn Sư nêu trẻ nhỏ ra làm gương mẫu cho người lớn bắt chước, chính là theo quan niệm của thời đó, vì chúng nhỏ bé, nghèo khó, bị khai trừ. Như đã nói, vào thời Đức Giêsu, trẻ nhỏ là "người nghèo": chỉ là một sinh vật hoàn toàn lệ thuộc vào người khác. Nhưng trẻ nhỏ cũng là dấu chỉ sống động cho khả năng biết lắng nghe và tin tưởng. Chính khả năng dễ hoà nhập của trẻ nhỏ là một tấm gương cho các tín hữu. Đức Giêsu long trọng quả quyết điều đó(câu 15). Bởi vậy, ta nhận ra rằng Đức Giêsu luôn lo lắng để uốn nắn cái nhìn của các môn-đệ, mà Người đang đào tạo để trở thành những người lãnh trách nhiệm trong Hội Thánh. Họ cần phải bỏ tính tự cao tự đại (9,33-34), phải trở nên nhỏ bé để đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn khiêm nhượng và rộng mở " (Sđd trang 142).

BÀI ĐỌC THÊM.

1) Do bản tính yếu đuối của con người.

(H.Vuillez, trong "Dieu si proche. Année B", DDB, trang 158-159).

"Do bản tính yếu đuối của con người" đó là câu nói cửa miệng để biện minh cho luật lệ và quy chế. Không có nó, con người sẽ đi về đâu? Có lẽ xã hội sẽ do những người mạnh nhất, hoặc những kẻ xấu nhất thống trị. Luật lệ là điều cần thiết dù ở thời đại nào, hay trong nền văn minh nào cũng vậy. Đó là lời thú nhận về những giới hạn của thân phận con người.

Trả lời cho nhóm Pharisêu có ý gây hấn và đầy ác tâm, Đức Giêsu vạch một luống cày để gieo hạt giống cho sự sống vĩnh cửu. "Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà Môsê đã ban hành luật như thế, kể cả luật hôn nhân, để các ông khỏi chìm xuống sâu hơn, đúng hơn để các ông giữ được độ cao và biết đâu, các ông có thể sẽ muốn vươn lên cao hơn”.

Một cái nhìn đầy tin tưởng đối với nhân loại! Người không lợi dụng điểm yếu của họ. Người khơi dậy điều tốt nhất nơi họ, điều làm cho một tạo vật nên giống hình ảnh của Đấng Sáng Tạo, tức lương tri và trí tuệ mở rộng vô biên đến tận cõi trời vĩnh phúc.

Như vậy, Đức Giêsu dẫn đối thủ của Ngài về với ý định đầu tiên mà cũng là cuối cùng của Thiên Chúa, đó là con người sống hoà hợp với nhau và với vũ trụ. Thiên đường tại thế và Nước Trời. Giữa hai thế giới ấy, những yếu đuối của con người đọc coi là "sự cứng cỏi của con tim”, là trái tim từ chối đập theo nhịp của Thiên Chúa. Là từ chối hoạt động cho sự hòa hợp trong vũ trụ theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo".

2) Những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân: đường lối khả thi để xây dựng cuộc sống gia đình.

(Lettre des Evêques aux Catholiques de France", Cerf, trang 93).

Để xem xét mục vụ về bí tích Hôn nhân, chúng ta phơi thực quan tâm đến những điều kiện thực tế hiện nay của đời sống lứa đôi: cuộc sống tạm bợ, bấp bênh về tương lai, bất ổn về đời sống lứa đôi không ngừng gia tăng, đổi thay của thân phận phụ nữ, những vấn đề do việc điều hoà sinh sản đặt ra. Khi để ý đến những điều kiện này, ta có thể trình bày những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân như một đường lối khả thi để xây dựng đời sống lứa đôi và gia đình. Một đường lối khả thi, nghĩa là đi theo nó, đôi vợ chồng không bị bỏ rơi nhưng, nhờ sự nâng đỡ của một nhóm hay một cộng đoàn Kitô hữu, chính họ được mời gọi để hiểu rằng Lời Đức Kitô dạy về tình yêu nhân loại đáp ứng được điều sâu thẳm nhất mà cũng mỏng giòn nhất nơi con người".

--------------------------

 

TN 27-B48. Suy niệm của Guy Marin

 

Những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu xem người ta có thể huỷ bỏ mối liên hệ hôn nhân không: TN 27-B48


Những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu xem người ta có thể huỷ bỏ mối liên hệ hôn nhân không. Chúng ta biết câu trả lời rồi. Trước nỗi khó khăn mà giáo lý này đặt ra, phản ứng đầu tiên của chúng ta là chúc dữ cho những kẻ đặt câu hỏi ấy. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Không hài lòng với việc làm cho Chúa Giêsu phải lúng túng, các ông còn phá rầy chúng tôi, báo hại cả ngàn năm sau nữa. Ước gì họ không bao giờ nêu lên câu hỏi này và Chúa Giêsu chẳng bao giờ phải trả lời cả! Như vậy các nhà chức trách trong Giáo hội sẽ có một khoảng không gian để xoay sở và các Kitô hữu có một khoảng không gian để sống.

Chúng ta có thể thực sự nghĩ như thế không? Chúng ta có thể nghiêm túc nghĩ như vậy không, nếu chúng ta tin vào Lời Chúa? Chắc chắn là không. Chúng ta không có quyền lựa chọn trong Tin mừng những gì hợp với chúng ta hoặc tuyên bố rằng lời này lời nọ không phải là lời của Tin mừng. Thực ra tội ở địa đàng lại không phải là khẳng định cái gì tốt hoặc xấu theo ý chúng ta chứ không theo ý Thiên Chúa đó sao?

Có được phép rẫy vợ không?

Vào thời Chúa Giêsu, việc rẫy vợ thường được chấp nhận nơi người Do thái. Người chồng có quyền rẫy vợ và điều này bao giờ cũng cho phép người chồng được tái giá. Người vợ không có quyền này. Những cuộc tranh cãi thường liên quan đến những lý do khiến người chồng sử dụng quyền rẫy vợ: tuỳ theo trường phái đó có thể là vì người vợ xấu nết hoặc làm cháy một món ăn. Bởi vậy trong Tin mừng thánh Mátthêu, câu hỏi gần với thực tại hơn: “Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?”

Thánh Marcô nêu lên ý xấu của những kẻ nêu câu hỏi, đó là “để làm cho Ngài lúng túng”. Người ta đưa ra cho Chúa Giêsu một câu hỏi để gài bẫy Ngài, tương tự như câu hỏi về việc trả thuế cho Xêda vậy. Trả lời câu hỏi ấy xem ra rất khó về nhiều phương diện. Ngài phải tránh nói ngược với luật Môsê cho phép ly dị. Khó khăn khác nữa: lúc bấy giờ Chúa Giêsu ở trên lãnh thổ của Hêrôđê, và ông này vừa mới cho chém đầu Gioan Tẩy giả vì đã trách ông về cuộc hôn nhân bất hợp pháp của ông (6,17). Đây không phải là một địa điểm dễ dàng để nói sự thật. Và Ngài có thể bị chống đối bởi những thính giả thuộc phái đàn ông kiên quyết bảo vệ quyền được rẫy vợ. Phản ứng của các môn đệ cho thấy rõ điều này: “Nếu không thể rẫy vợ được thì thà đừng cưới vợ còn hơn” (Mt 19,10). Khi trả lời, xem ra Chúa Giêsu phải mạo hiểm lắm.

Chúa Giêsu đề nghị một cái nhìn đức tin.

Trước hết, Chúa Giêsu đưa ra cho mấy người Pharisiêu một câu hỏi về lệnh truyền của Môsê và sau đó Ngài giải thích câu trả lời của họ: đây là một sự nhượng bộ. Nhưng Ngài sẽ không để mình bị giam hãm trong một cuộc tranh cãi về những gì được phép và không được phép. Ngài mời gọi các thính giả của Ngài hãy có cái nhìn đức tin hướng về Thiên Chúa và về con người từ bản văn của sách Sáng thế. “Lúc ban đầu khi Thiên Chúa tạo nên nhân loại, Ngài đã làm ra họ có nam có nữ…” Chúa Giêsu khẳng định rằng việc phân biệt phái tính không những là một sự kiện tự nhiên nhưng còn là ý muốn của Thiên Chúa nữa. Giới tính không do bởi ngẫu nhiên, cũng không do bởi sự việc trà trộn những giống loại sinh vật, nhưng do ý muốn của Thiên Chúa. Ở đây ta thấy có giáo huấn về con người. Con người không phải là một hòn đảo, nhưng là một hữu thể tương quan. Con người cần thiên nhiên để có thức ăn, áo mặc. Tuy nhiên, nỗi cô đơn của họ vẫn không được lấp đầy; họ cần một kẻ ngang hàng, với người này họ có thể chia sẻ mọi sự. Và Thiên Chúa ban cho con người người phụ nữ. Để triển nở theo ý định của Thiên Chúa, con người cần phải liên hệ với thiên nhiên, với tha nhân và đặc biệt là với một người phối ngẫu.

Kinh thánh rút ra những hậu quả từ việc sáng tạo này. Khi người nam và người nữ rời bỏ cha mẹ để gắn bó với nhau và trở thành một thân xác, thì họ tự do chấp nhận làm theo điều Thiên Chúa muốn về họ. Quả thật, theo quan niệm Kinh thánh, việc sáng tạo vẫn còn tiếp tục chứ không phải chỉ là một tác động lúc ban đầu mà thôi. Như vậy mối dây liên hệ vợ chồng không do bởi lề luật cũng không do bởi sự lựa chọn của cha mẹ, nhưng do Thiên Chúa sáng tạo hành động trong sự ưng thuận của đôi vợ chồng. Sự kết hợp này từ Thiên Chúa mà đến, vì vậy nên nó không thể bị cắt đứt được.

Sứ điệp không tưởng

Nếu cứ nhìn vào thực tại hiện nay: vô số những cuộc ly dị, ly thân, tái giá, không kể những cặp nam nữ chung sống với nhau ngoài hôn nhân thì trong Tin mừng này lại chẳng là không tưởng ư? Nó không tưởng theo nghĩa là nó đề nghị một lý tưởng mà các Kitô hữu được mời gọi theo đuổi phải triệt để cậy dựa vào Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nơi họ một quả tim mới.

Một điều chắc chắn là các nhà chức trách của Giáo hội cũng như dân Kitô không thể chối bỏ một giáo huấn như thế được. Đàng khác, không ai được kết án những anh chị em mà đã thất bại trong quan hệ hôn nhân. Chúng ta vừa buộc phải theo lý tưởng được Chúa Giêsu đề nghị và buộc phải có tình thương huynh đệ đối với những kẻ đã phạm lỗi. Trong cuộc thi Olympic không phải tất cả các lực sĩ đều lãnh huy chương, nhưng mục đích của hết thảy mọi người trong họ đều là đạt cho được huy chương.

--------------------------

 

TN 27-B49. Hãy để trẻ nhỏ đến cùng thây


 (Mc.10:2-12)

 

Chuyện kể rằng: Vào một buổi tối mùa dông, trời mưa tuyết nhè nhẹ, trên ngã tư đường, Lawrence TN 27-B49


Chuyện kể rằng: Vào một buổi tối mùa dông, trời mưa tuyết nhè nhẹ, trên ngã tư đường, Lawrence dừng xe vì đèn đỏ, cô trông thấy một mụxì ke ãm đứa con thơ run lập câp.

Sau khi đèn xanh bật lên,cô đạp ga lái tiếp, nhưng tiếng lương tâm nhắc cô:ỂHãy trở lại chỗ cũ cứu cứu đứa nhỏỂ. Cô trỡ lại và nói với người đàn bà bế con rằng:ỂNày chị, hãy bế baby đến nhà mẹ tôi, bà sẽ giúp đỡ chịỂ. Cô lập lại 3, 4 lần, nhưng gười đàn bà vẫn nhìn Lawrence một cách không hiểu. Sau đó cô viết địa chỉ của mẹ và nhét vào tay người đàn ba xì ke.

Sang hôm sau người đàn bà xì ke tìm đến trước cửa nhà bà Lorraine, Đứa bé bồng trên tay run cầm cập, xổ mũi, tiêu chảy và mệt mã vì cơn xì ke đang hành hạ. (Con của người nghiện xì ke, thường là bị lây bệnh ngay từ khi còn trong lòng mẹ). Bà Lorraine vội vàng ãm đứa bé, đưa vào nhà và tìm cách chạy chữa. Cả bà mẹ cũng được săn sóc chạy chũa và biến đổi sau vài tháng sửa trị. Đần dần, tiếng vang của bà lan rộng ra khắp chốn. Người ta đem đến cho bà nhiều (20) đứa xì ke khac. Đôi lúc nhà bà hết cả tiền ăn, nhưng bà đã cố gắng dàn xếp ổn thỏa. Trong vòng 16 năm, bà đã giúp đến 600 em xì ke ma tuý.

Câu chuyện hợp với chủ đề hôm nay mà Chúa Giêsu đã nhắc đến:ỂHãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời thuộc về nhữbg kẻ giống như chúngỂ. Chúa đã ôm chúng và chúc lành cho chúng với tất cả miềm thương mến, Qua lối sống của chúng, chúng đã truyền đạt đến chúng ta đức tính đơn sơ, hiền lành và chân thật la đức tính Chúa yêu thích. Cổ nhân có câu:ỂCuộc đời trẻ nhỏ giống như tờ giấy trắng để chúng ta viết lênỂ. Dấu vết của bà Lorraine là dấu vết tuyệt vời mà bà đã viết lên muôn ngàn con trẻ. Chúng ta hãy để lại những lưu bút mà Chúa Giêsu đã để lại trên cuộc đời .

Cung, CMC

--------------------------

 

TN 27-B50. CHUNG THUỶ


LỜI CHÚA:

Bài đọc1: St.2,18-24: Cả hai nên một thân thể.

Bài đọc 2: Dt.2,9-11: Đấng thánh hóa và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc.

Phúc âm: Mc.10,2-16: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ.

SUY NIỆM:

 

Một quan nước Lỗ là Thu Hồ Tử cưới vợ được năm ngày, vua đã ra lệnh đi công tác ở nước Tần. TN 27-B50


Một quan nước Lỗ là Thu Hồ Tử cưới vợ được năm ngày, vua đã ra lệnh đi công tác ở nước Tần. Năm năm sau ông được phép về thăm mẹ và vợ. Khi về gần đến nhà, ông thấy một thiếu nữ xinh đẹp đang hái dâu bên đường. Ông giở trò ong bướm:

-Này em, hái dâu cực nhọc sao bằng có người chồng làm quan. Anh là quan có nhiều vàng bạc. Nếu chịu lấy anh, em không phải vất vả nữa.

Người thiếu nữ vẫn thinh lặng, nhìn ông cách khinh bỉ.

Về đến nhà, ông chào mẹ. Nhưng khi vừa thấy vợ, ông choáng váng, vì đó chính là người thiếu nữ hái dâu lúc nãy.

Câu chuyện trên đây nói về Lời Chúa Giêsu dậy trong Tin Mừng hôm nay. Vợ chồng phải chung thuỷ với nhau trọn đời, phải giữ luật đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn của Thiên Chúa, vì “lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ: vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn phải là hai, nhưng là một xương thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly” (Mc.10,69).

Ngày xưa trong Do Thái giáo, sự trinh khiết vẫn được xem như đức hạnh quan trọng nhất của mọi đức hạnh: “Chúng tôi nhận thấy rằng Thiên Chúa nhịn nhục đối với mọi tội, trừ tội không gìn giữ trinh khiết. Việc không giữ tiết hạnh khiến vinh quang của Thiên Chúa bỏ đi. Mọi người Do Thái thà chết chứ không chịu phạm tội thờ hình tượng, giết người hoặc tà dâm; khi có ai ly dị vợ thuở thanh xuân của mình, thì cả đến bàn thờ cũng rơi nước mắt”.

Nhưng “lý tưởng đẹp hơn thực tại”, đời sống thực tế đã hụt hẫng quá xa! Điểm xáo trộn ở đây là phụ nữ bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền xử dụng của người đàn ông làm chủ gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị. Người đàn ông có thể tự ý ly dị vợ, dù cho người vợ có thuận ý hay không. Còn người phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phong cùi hoặc khi người xâm phạm đến tiết hạnh một trinh nữ.

Ở đây chúng ta không thấy có sự bình đẳng giữa người nam và người nữ. Trong khi đó cả nam lẫn nữ đều là phàm nhân hay thay đổi đổi thay, chẳng hạn đối với nàng:

Ngày trước nàng dạ nàng thưa,
Nói năng dịu ngọt cho vừa lòng anh!
Anh tưởng hoa nở trên cành,
Bao giờ cũng đẹp, tươi xanh bốn mùa!
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Nên anh ngọt lại cho vừa lòng nhau.
Bây giờ chẳng hiểu gì đâu,
Nàng mang chứng bệnh cứng đầu lặng câm!
Mặt mày thì cứ hằm hằm,
Nàng trợn một cái, ta bầm mấy hôm v.v.



Trong khi đau xót tiêu cực đối với người vợ, người đàn ông cũng không thiếu những đam mê oái oăm làm xé nát con tim nồng nàn:

Bồ là phở nóng tuyệt vời,
Vợ là cơm nguội đáy nồi hẩm hiu.
Bồ là nơi tỏ lời yêu,
Vợ là nơi trút bao nhiêu bực mình.
Bồ là rượu ngọt trong bình,
Vợ là nước ở ao đình nhạt pheo.
Nhìn bồ đôi mắt trong veo,
Trông vợ đôi mắt nhăn nheo gườm gườm.
Bồ tiêu thì chẳng tiếc tiền,
Vợ tiêu một cắc thì liền kêu hoang v.v.


Thêm vào những sự đó là những vấn đề trung lập sẽ đi vào yếu tố tâm lý “yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Thậm chí cả những vấn đề tốt lành trước kia nay cũng trở nên xấu nốt. Đối với nàng trước kia anh là Hoàng tử , bây giờ anh chỉ còn là thằng hề. Đối với chàng trước kia em là Nàng tiên giáng trần, bây giờ en chỉ còn là mớ giẻ rách v.v.

Với luật Môisen cho phép và với tình thế khó khăn trong sự trung tín, mà trung tín là nhân đức quan trọng, nên những người biệt phái đến hỏi thử Chúa Giêsu để tìm mọi cơ hội bắt bẻ Chúa. Họ hỏi để gài bẫy Chúa về ly dị:

Nếu trả lời không được phép ly dị thì Chúa Giêsu sẽ bị kết án là người đi ngược với luật Môisen, vì Môisen cho phép người ta ly dị khi người vợ làm điều ô nhục, họ viết tờ ly hôn cùng với hai người làm chứng để ly dị vợ mình. Đồng thời trả lời như thế lại xúc phạm đến vua Hêrôđê, vì ông đã ly dị vợ mình chính để cưới lấy Hêrôđia vợ của anh mình.

Nếu trả lời được phép ly dị thì Chúa Giêsu sẽ bị gán cho là người tự do, phóng khoáng, lãng mạn. Bất cứ lý do gì cũng là cớ ô nhục để ly dị, như vậy là phá vỡ chương trình ban đầu của Thiên Chúa.

Cuối cùng Chúa đã làm sáng tỏ vấn đề bằng những lời rất khôn ngoan: “Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môisen đã viết ra điều đó”. Nhưng trong lúc khởi đầu cuộc sáng tạo là một nam một nữ (St.1,27): “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.

Như vậy một khi đã kết hôn, chúng ta không những phải tìm mọi cách để giữ lòng chung thuỷ trong tình yêu, mà còn phải làm thế nào cho tình yêu luôn tươi thắm như thuở ban đầu và phát huy càng ngày càng gia tăng: “Hôm nay hơn hôm qua và kém ngày mai”. Hãy quảng đại bỏ qua những khó chịu và làm nổi bật giá trị đạo đức của nhau. Tính nết sẽ làm ngọt ngào con tim hơn là nhan sắc. Gia sản Nước Trời mới là kho tàng chính yếu lớn lao của gia đình. Phiêu lưu mộng mơ quang cảnh Thiên Đàng hơn là những cuộc du lịch vòng quanh thế giới. Hai người cùng nhìn về quê trời hơn là chỉ nhìn nhau hoặc là nhìn về những thú vui tạm bợ ở trần gian. Được như thế gia đình mới có đức có hậu trong mối tình chung thuỷ và hấp dẫn nhau cả về phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên.

Br.Thiện Mỹ, CMC

--------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây