Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 30-B Bài 151-168 Xin cho con được sáng mắt

Thứ bảy - 23/10/2021 08:05
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 30-B Bài 151-168 Xin cho con được sáng mắt
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 30-B Bài 151-168 Xin cho con được sáng mắt
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 30-B Bài 151-168 Xin cho con được sáng mắt
----------------------------

TN 30-B151: ĐẾN VỚI CHÚA.. 1
TN 30-B152: XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY.. 3
TN 30-B153: HAI MẶT.. 5
TN 30-B154: SÁNG NIỀM TIN.. 6
TN 30-B155: XIN CHO CON NHÌN ĐƯỢC.. 8
TN 30-B156: CHÚA GIÊSU, ĐẤNG KHAI SÁNG.. 12
TN 30-B157: CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B. 14
TN 30-B158: BI ĐÁT.. 16
TN 30-B159: ÁNH SÁNG ĐỨC TIN.. 18
TN 30-B160: “TẦM NHÌN” LÀ GÌ?. 20
TN 30-B161: KHI CẦU NGUYỆN TA PHẢI XIN GÌ TRƯỚC HẾT.. 21
TN 30-B162: NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ.. 23
TN 30-B163: HÒA ĐIỆU XÓT THƯƠNG.. 27
TN 30-B164: CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B.. 30
TN 30-B165: MÙ LÒA.. 33
TN 30-B166: THẤY VÀ KHÔNG THẤY ĐƯỢC.. 34
TN 30-B167: CẦN ĐƯỢC YÊU THƯƠNG.. 37
TN 30-B168: LÒNG TIN CỦA ANH ĐÃ CỨU ANH.. 39

-----------------------------

 

TN 30-B151: ĐẾN VỚI CHÚA


Bông hồng nhỏ

 

Hai anh bạn khiếm thị ngồi trò chuyện vui vẻ. Một anh hớn hở khoe: Tớ mới quen nhỏ kia dễ TN 30-B151



Hai anh bạn khiếm thị ngồi trò chuyện vui vẻ. Một anh hớn hở khoe:

Tớ mới quen nhỏ kia dễ thương lắm.
Đẹp nữa?
Ừ, đẹp.
Sao cậu biết?
Nghe giọng nói dịu dàng của nhỏ là tớ biết.
Người khiếm thị cảm nhận bằng đôi tay và thính giác của họ rất tốt.

Hôm nay, anh mù Bartimê vẫn ngồi ăn xin bên vệ đường ngoài thành Giêrikhô như mọi ngày. Từ lâu anh đã nghe danh tiếng của Thầy Giê-su và những khao khát mong mỏi được gặp. Bởi thế, vừa nghe nói Đức Giê-su Nadarét đang đi qua, anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,47). Tiếng kêu của anh không át được tiếng đám đông ồn ào. Nghe anh kêu, đám đông chẳng động lòng thương giúp đỡ lại còn quát nạt bắt anh im đi. Càng bị cấm cản, khao khát trong anh càng mãnh liệt, anh tin rằng chỉ có Thầy Giê-su mới cho anh nhìn thấy ánh sáng, vì thế anh càng kêu lớn tiếng hơn. Đám đông thờ ơ với nỗi bất hạnh của anh nhưng Thầy Giê-su thì lưu tâm đến anh. Thầy nghe anh kêu xin tha thiết, Thầy hiểu khát khao cháy bỏng trong anh. Và Thầy đáp lại khát mong của con người đáng thương này. Thầy Giê-su đã đứng lại và nói với đám đông: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10,49). Thầy đã để cho đám đông gọi anh. Đó có phải là những người mới đây thôi đã quát nạt, ngăn cản anh đến với Thầymà nay lại đến với anh mù mà bảo: “Cứ yên tâm đứng dậy, Thầy gọi anh đấy!”. Ở đây ta thấy có một sự thay đổi và đón nhận. Nếu như hằng ngày ta nhìn thấy anh mù cầm gậy mò mẫm trên con đường để đi ăn xin, hẳn ta sẽ phải hết sức kinh ngạc trước phản ứng của anh khi Thầy gọi và “Anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su” (Mc 10,50). Có bao giờ ta dứt khoát vứt bỏ tất cả những gì ta có để đến với Chúa? Khi nghe Tình Yêu gọi mời tha thiết, ta có đứng phắt dậy, rời bỏ lề đường quen thuộc để đến cùng Chúa?

Thầy Giê-su gọi anh mù đến với Thầy. Anh đã đến với Thầy và để cho Thầy thấy tất cả những bất toàn, yếu đuối nơi mình. Anh làm cho Thầy rung động với tất cả con tim. Tâm hồn Thầy cảm thấu nỗi đau, sự bất hạnh mà anh đã gánh chịu suốt bao nhiêu năm qua. Thầy hiểu anh cần điều gì nhưng vẫn hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (x.Mc 10,51). Nỗi khát khao vỡ òa thành lời cầu xin tha thiết. Thầy Giê-su đã chữa lành cho anh không chỉ bằng tình thương và quyền năng mà còn vì lòng tin mãnh liệt nơi anh. Đám đông đã không nhận ra một con người đáng thương đang ở giữa họ nhưng trái tim của Thầy Giê-su đã yêu thương anh từ rất lâu rồi. Thầy đã cho anh được sáng mắt lại còn cho anh đi theo. Có ai hạnh phúc hơn anh? Bây giờ, anh càng xác tín hơn niềm tin vào Thầy Giê-su và “đi theo Người trên con đường Người đi”.

Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Con xin đến với Chúa với tất cả những yếu đuối và bất toàn nơi con: mù lòa, câm điếc, bại tay,… Con để cho Chúa nhìn thấy con đáng thương mà không ngại ngùng xấu hổ. Bởi con tin vào trái tim đầy thương cảm của Chúa, ánh mắt yêu thương của Chúa nhìn con, đón nhận con và chữa lành con. Xin Chúa giúp con sau khi được Chúa xót thương cũng biết yêu thương anh chị em mình, để từng ngày con vui say trên con đường theo Chúa. Amen.

----------------------------

 

TN 30-B152: XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY


Lm. Simon Trần Văn Đức

Kính thưa ông bà và anh chị em,

 

Sự bất hạnh đáng thương của con người chính là mù lòa. Bởi mù, nên họ không thể nhìn thấy những TN 30-B152


Sự bất hạnh đáng thương của con người chính là mù lòa. Bởi mù, nên họ không thể nhìn thấy những vẻ đẹp của thiên nhiên, nhất là vẻ đẹp của những người thân yêu… Thế nhưng, cái đáng thương hơn mù lòa thể xác đó là cái mù lòa nơi tâm hồn. Người mù tâm hồn là họ mù nhưng họ không chấp nhận mình mù. Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của nhưng đam mê thể xác mà không nhận ra cái sai trái của mình để mà sửa đổi. Họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình để rồi gây nên biết bao nhiêu là đau khổ cho những người chung quanh.

Thực tế cho thấy, trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,… chúng ta có thấy thủ phạm là người mù không? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường nghiện ngập ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, chúng ta có bắt gặp bóng dáng những người khiếm thị nào không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham ô, có lẽ chúng ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người có cả hai mắt sáng tỏ!!! Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai đây? Người mù hay người sáng?

Hôm nay, Thánh sử Marcô thuật lại cho chúng ta thấy một người mù tên là Bartimê đang ngồi ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Không biết anh có thuộc nhóm “Hội Người Mù” hay không! Song thiết tưởng anh là một con người chân thành khiêm tốn. Anh biết rõ thân phận của mình, nên anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời của anh thanh thoát an lành. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cuộc đời của anh, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính từ bên trong ra bên ngoài.

Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, ánh sáng niềm tin. Vì thiếu ánh sáng niềm tin nên cả đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu suốt cuộc hành trình đời mình mà không nhận ra Chúa Giêsu là ai. Chỉ có anh mù Bartimê lại “thấy tỏ tường” Chúa Giêsu là ai. Bởi anh biết, cho nên khi anh van xin Chúa không phải danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” – một danh xưng mà cả dân Do Thái đều hiểu đó là tước hiệu Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế. Đám đông càng ngăn cản thì anh càng can đảm kêu to hơn: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”, anh tin chắc rằng chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mới phục hồi sự sáng mắt cho anh. Do đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu cho anh đúng mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu anh không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, thì anh đã không xin Ngài điều này.

Dẫu biết rằng, anh chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được diễm phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta bàn tán nói về con người của Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật “Phúc cho những ai không thấy mà tin“. Cũng vì lẽ đó mà anh được phục hồi sự sáng mắt thể lý, quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn. Điều đã được Chúa Giêsu khẳng định: “Đức tin của anh đã chữa anh”.

Kính thưa ông bà và anh chị em,

Chúng ta điều có đôi mắt thể lý sáng, đó là hồng ân Chúa ban cho chúng ta nên chúng ta phải biết quý trọng và cảm tạ Chúa. Thế nhưng, nhìn lại cuộc đời của mình, chúng ta thấy hổ thẹn trước anh mù Bartimê,đôi mắt tâm hồn của chúng ta nhiều khi trở nên mù lòa thực sự.

Vì mù lòa mà nhiều người trong chúng ta, nhất là các bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá tự do về giới tính, quan hệ nam nữ cách bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác.

Vì mù lòa mà nhiều người đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen đã hủy hoại thanh danh không chỉ cho bản thân mình, mà còn ảnh hưởng xấu đến gia đình, bạn bè.

Vì mù lòa một chút bổng lộc ở thế gian, mà nhiều người đã bán mình làm tôi cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại tha nhân.

Vì mù lòa cố chấp mà nhiều người sống bất khoan nhượng với gia đình, với sớm làng gây ra biết bao nhiêu là chia rẽ….

Xem ra anh mù Bartimê thật có phúc vì anh ý thức được sự mù lòa của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn năn đích thực, chứ không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy nuối tiếc về sự mù lòa tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình.

Ước gì chúng ta luôn khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng Tin Mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.

-------------------------

 

TN 30-B153: HAI MẶT


Lm Vũdình Tường

 

Cuộc sống thường có hai mặt, phải và trái. Điều này không có nghĩa là phải trái luôn trái nghịch TN 30-B153


Cuộc sống thường có hai mặt, phải và trái. Điều này không có nghĩa là phải trái luôn trái nghịch nhau. Trong nhiều trường hợp phải trái bổ túc nhau làm cho sự kiện hoặc vật thể trở nên trọn vẹn hơn. Hai mặt phải trái của lá cây, hai mặt phải trái của xấp vải, hai mặt phải trái của tờ giấy. Phúc Âm hôm nay đưa ra nhiều hình ảnh phải trái xem ra có vẻ trái nghịch nhau. Cảnh trái nghịch rõ nhất là ánh sáng và bóng tối, hình ảnh người mù ngồi vệ đường và hình ảnh người sáng mắt theo Đức Kitô, hình ảnh đám đông ngăn cản anh đến gặp Đức Kitô và hình ảnh một mình anh cô đơn giữa đám đông ồn ào. Hình ảnh đám đông coi thường anh và hình ảnh Đức Kitô tỏ lòng xót thương anh. Đa số chúng ta thích chọn theo í kiến của đa số, í kiến của đám đông và bị ảnh hưởng đám đông lôi kéo. Người mù chọn đứng riêng bởi anh biết rõ anh muốn gì. Anh chọn theo thiểu số, thực ra một mình anh một í và điều đó khiến anh tách biệt khỏi đám đông. Đám đông dùng sức mạnh đa số lấn át anh, cấm anh lên tiếng. Anh đã không im tiếng, trái lại, anh còn la to hơn trước. Bị xã hội chê cười, chối bỏ và anh đã sống cảnh đó trong bao năm. Anh nhất quyết gặp Đức Kitô để có đời sống mới tốt lành hơn. Anh biết đám đông không giúp anh, mình anh không đủ khả năng thay đổi kiếp sống đoạ đầy nên anh quyết tâm gặp Đức Kitô xin Ngài giúp. Nghe người ta ồn ào nói về Đức Kitô, anh biết Ngài sắp đi ngang qua và anh lên tiếng nài van: ‘Lậy Đức Kitô, con Vua Đavít, xin thương đến con’ c.47.

Chúng ta không biết bởi đâu anh mù biết Đức Kitô thuộc dòng dõi vua Đavít nhưng vương hiệu hoàng tộc đó đóng vai trò quan trọng vào cuối đời của Đức Kitô. Đám đông đón Ngài vào thành thánh Jerusalem như một quân vương thắng trận trở về. Philatô đối chất Đức Kitô là Vua dân Do Thái và tấm bảng ghi phía trên đầu thập tự ‘Vua Dân Do Thái’. Chúng ta cũng không rõ từ đâu anh mù nhận biết danh tánh Đức Kitô và tin chắc Đức Kitô có thể làm cho anh sáng mắt. Có lẽ anh nghe người ta nói nhiều về Đức Kitô và lòng anh ao ước được gặp Ngài và mong Ngài chữa mắt cho. Anh bị mù mắt, mù thể lí nhưng tâm linh anh không mù, mắt tâm linh anh sáng, nhận biết Đức Kitô, con vua Đavít, tâm anh tỏ bởi anh nhận biết sự thật. Xã hội coi khinh anh nhưng không thể cấm anh đến gặp Đức Kitô, nghe tiếng anh kêu gào Đức Kitô lên tiếng cứu anh. Đám đông trước là rào cản cấm anh lên tiếng, giờ họ lại hỗ trợ khuyến khích anh. Nghe tiếng Đức Kitô mời gọi anh vui mừng nhảy như sáo đến gặp Ngài. ‘Anh muốn ta làm gì cho anh?’ Đức Kitô hỏi thế. Anh biết rõ điều anh cần, anh xin cho được sáng mắt. Lời xin thật rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc. Có người xin được quyền thế, kẻ xin được giầu sang, kẻ xin được chức tước. Anh xin rất thực tế. Xin được sáng mắt và Đức Kitô đã thoả mãn lòng anh mong ước. Hành động vất áo choàng là dấu chỉ từ nay anh sống cuộc sống mới, trong sáng, thanh tao, không còn lệ thuộc vào chiếc áo choàng che nắng, chắn mưa nhưng anh có Đức Kitô dẫn đường, có bầu trời trong xanh bao bọc và đồng hành với môn đệ Đức Kitô. Đức Kitô trên đường vào thành thánh và cũng nơi đây Ngài trải qua đau khổ, cứu độ nhân trần. Người mù giờ sáng mắt chứng kiến những đau khổ Đức Kitô trải qua vì Ngài đến ban hy vọng, ủi an, xoá tan bóng tối. Chính anh cảm nhận điều đó trong đời và tiếp tục chứng kiến lòng nhân từ Đức Kitô qua đau khổ Ngài tự nguyện lãnh nhận.

Chúng ta tự xét mình xem mình là người dẫn người khác đến Đức Kitô hay là rào cản ngăn người khác đến nhận ơn lành Chúa.

---------------------------

 

TN 30-B154: SÁNG NIỀM TIN


Lm. Jos. DĐH.

 

Cầu được ước thấy, xin một cho mười, xin vật chất, cho cả tinh thần, xin được yêu thương, cho cả TN 30-B154


Cầu được ước thấy, xin một cho mười, xin vật chất, cho cả tinh thần, xin được yêu thương, cho cả hạnh phúc, thoáng nghe, không khác gì chuyện giả tưởng. Khuynh hướng tự nhiên, nghe chuyện tiếu lâm, chuyện phiếm, người ta dễ vui cười hơn chuyện bi ai. Thực tế lại cho thấy nếu tâm trạng thoải mái, gia đình bình an, hạnh phúc, là người ta vui, và có thể tự tin cười nhỏ cười to được rồi. Không phải đợi đến lúc đói lả, người ta mới cần ăn, cần uống. Chẳng ai áp đặt phải có đèn cao áp, có mặt trời toả rạng, mới xua tan được bóng đêm sợ hãi. Tương quan giữa cha mẹ con cái, không ai quy định phải có bao nhiều tài sản, mới cần báo đáp ơn nghĩa cha mẹ, hay phải trung thành phụng dưỡng mấy năm mới được gọi là con thảo con hiếu.

Cổ nhân có câu: người đã biết nuôi chí thì không nghĩ tới hình. Một trong những nét đẹp của lòng nhân ái là tự do sống lý thật tình ngay, ý thức mình phải chung tay góp sức xây dựng gia đình giầu mạnh. Người mù tên Bartimê đã minh chứng anh không hề ở trong tăm tối mù mịt, dù ngày ngày ngồi bên vệ đường chờ của bố thí nuôi thân, anh vẫn đủ sáng suốt tuyên xưng Đức Giêsu là con vua Đavít, Đấng thiên hạ hằng trông đợi. Cũng như biết bao người bình thường khác, chúng ta hôm nay đang ước mơ hay đang tìm kiếm hạnh phúc ? Lúc này Đức Giêsu xuất hiện, chúng ta sẽ xin ơn thông sáng, xin lòng thương xót, hay chúng ta chưa nghĩ ra nhu cầu cần thiết để xin ?

Tiền nhân chúng ta gợi lên một lý lẽ vô cùng khúc triết: Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên. Niềm tin là một động lực giúp người ta sống giây phút hiện tại, chuẩn bị bước tiếp những bước kế tiếp ở tương lai. Niềm tin chính là sức mạnh nội tại, khai thông mọi bế tắc, hoà hợp giữa lý và tình trong tương quan tin yêu. Tại thành Giêricô năm xưa, cơ hội cho dân thành, cho từng hoàn cảnh, nhưng niềm vui rõ nhất, phép lạ đặc biệt nhất, cũng là niềm tin sáng rõ nhất nơi anh mù Bartimê, được Đức Giêsu thực hiện. Ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn điện, là thứ ánh sáng phổ thông, nhằm giúp người ta bước đi không sợ vấp té. Thứ ánh sáng kỳ diệu và cần thiết mà nơi anh mù Bartimê, Đức Giêsu đã khai mở, đã cho chúng ta biết chính Ngài là sự sáng niềm tin ban ơn cứu độ.

Sở hữu được ánh sáng ban ngày, ban đêm, cảm nhận được nhiều khuôn mặt xinh đẹp, thấu biết được người tài trí, giầu sang, chức quyền, cả người xưa và người hôm nay vẫn chưa thể coi đó là hạnh phúc thật ! Ánh sáng tự nhiên là thứ ánh sáng giúp người ta phân biệt đẹp xấu, cũ mới, dơ bẩn, sạch sẽ. Ánh sáng niềm tin chất chứa sự bình an tâm hồn, giúp ta cảm nhận mình được yêu, thôi thúc ta biết thực thi đức ái, và hướng ta tới hạnh phúc thật trong Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót. Đối tượng của Đức Giêsu tại trần thế này không phải là người mù, người què, câm điếc hay kẻ nghèo đói, Ngài chiếu sáng niềm tin cho cả thành phần thông thái, tội lỗi, đạo đức. Mỗi người cần nghiêm túc nhận biết mình là ai, đang cần gì, chính nhờ ánh sáng niềm tin, chúng ta mới đủ mạnh dạn thưa: “hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót con”.

Danh hoạ Leonardo da Vinci có câu: khi tâm hồn không hợp tác với đôi tay, không thể có nghệ thuật. Khi người kitô hữu không sống niềm tin, việc mến Chúa yêu người và đến nhà thờ cũng chỉ là lý thuyết, giả tạo. Nếu chỉ lập lại lời thưa: “xin Thầy cho con được sáng”, nhiều người sẽ nói tôi đã thưa, tôi đã xin điều đó từ khi còn trẻ. Đức Giêsu không hỏi anh mù có thật lòng muốn được sáng, hay muốn được tiền của, Ngài đã nói cho đám đông hôm đó cùng nghe: “được, đức tin của anh đã cứu chữa anh”. Nói theo ngôn từ hôm nay, anh Bartimê được “cả chì lẫn chài”, dù anh ta chỉ mơ ước được xem thấy, Đức Giêsu đã cho anh ta sáng cả niềm tin, và anh ta đã sống tin yêu theo Ngài làm môn đệ.

Câu hỏi và câu trả lời giữa Chúa Giêsu và anh Bartimê không có gì phức tạp, nhu cầu được xem thấy của bệnh nhân và khả năng chữa trị của thầy thuốc, theo công bằng là tiền trao cháo múc, hoặc ăn có mời làm có khiến. Tình yêu và ơn cứu độ là sứ mạng Chúa Giêsu mời gọi tất cả cùng hiệp thông, nhận lãnh ; nén bạc, hoàn cảnh, mỗi người tuy khác nhau, phần vinh phúc có Chúa làm gia nghiệp sẽ không thay đổi. Người ta không thể trồng cây ở nơi thiếu ánh sáng, thì cũng chẳng ai nuôi dạy trẻ chỉ một chút ít nhiệt tình. Ánh sáng mở mắt người mù tối là nhu cầu thiết thực, thì sự sáng niềm tin là điều kiện không thể thiếu giúp ta tự giác trở nên nhỏ bé, biết thân thưa: “lạy Đức Giêsu Kitô xin thương xót con”. Đức Giêsu vẫn đang hỏi từng người chúng ta: “anh muốn Tôi làm gì cho anh” ? Ngài cần chúng ta minh chứng bằng ánh sáng của niềm tin, cho dù ta không câm điếc thể lý, niềm tin chúng ta vẫn cần lớn lên và rạng rỡ trong tình mến yêu cậy trông. Amen.

--------------------------

 

TN 30-B155: XIN CHO CON NHÌN ĐƯỢC


Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

 

Chuyện chúa Giêsu chữa sáng mắt người mù thành Bethsaida (Mc 8:22-26), và người ăn mày TN 30-B155


Chuyện chúa Giêsu chữa sáng mắt người mù thành Bethsaida (Mc 8:22-26), và người ăn mày Bartimaeus (Mc 10:46-52) trên đường rời Jericho là những chuyện quá rõ ràng ở thời Giáo Hội sơ khai ai cũng biết. Nhưng trong Giáo Hội ngày nay, câu chuyện lại có những ý nghĩa đặc biệt khác.

Mù bẩm sinh hay vì bệnh tật, chấn thương không cần chữa trị mà người bệnh vẫn có lại được thị giác, nhìn được sự vật một cách bình thường thì đúng là phép lạ, y khoa hiện đại không thể hiểu nổi.

 THEO CHÚA ĐI VÀO JERUSALEM ĐẾN TẬN CHÂN THÁNH GIÁ

Tên người ăn mày mù được chúa Giesu chữa lành mắt (Mc 10:46-52) thực ra không phải là Bartimaeus, mà chỉ là ám hiệu anh ta là “con trai  ông Timaeus”. Câu chuyện Bartimaeus là trọng điểm Tin Mừng Mac cô (Mc 8:22-10:52). Chúa Giêsu bắt đầu hành động ở thành Bethsaida và chữa sáng mắt một người mù khác (Mc 8:22-26). Cả hai chuyện này cho thấy phép lạ chúa làm, không chỉ liên quan đến việc phục hồi thị giác  mà còn nói lên lý tưởng cao cả của người môn đệ. Bartimaeus đến không phải chỉ để nhìn và tin vào chúa Giêsu, nhưng còn “đi theo Người trên đường về Jerusalem,….đến tận chân Thập Giá”(Mc 10:52).

Câu chuyên Mac Cô kể cũng tương tự như chuyện hai người mù trong Tin Mừng Mathiêu (Mt.20:29-34) và Luca (Lc 18:35-43) lúc chúa Giêsu vào thành Jericho, nhưng hai thánh sử  này không nêu tên của người mù.

Qua câu chuyện Mac cô kể, ta thấy Chúa Giêsu đã làm một cuộc hành trình dài và gian khổ từ Bắc Galilée đổ xuống thung lũng phì nhiêu của sa mạc rồi lại trèo lên vùng đồi núi hiểm trở Judea để vào Jerusalem.

 TIN THÌ SẼ ĐƯỢC

Khi Chúa Giêsu vừa ra khỏi Jericho, Bartimaeus nghe thấy tiếng xôn xao của đám đông, thì cảm thấy cơ may của mình đã gần. Anh quyết không để mất cơ hội hiếm có này! Từ  lề đường, anh kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giêsu, con Vua David, xin thương đến tôi !” Một vài người đang vây quanh Chúa lúc đó cảm thấy bực mình, vì tên ăn mày dơ dáy đã quấy rầy thầy mình, bèn quát anh ta, biểu ‘câm miệng lại’.

Tên ăn mày này đã quấy rầy, làm bực mình gì nhỉ?  Bartimaeus đơn giản chỉ muốn mọi người hiểu là anh ta có quyền được nhìn thấy Chúa và tham gia vào cảnh chung vui cùng Chúa. Nếu những người trong đám đông đó đã nghe tiếng đồn về quyền năng làm phép lạ của Chúa thì tại sao họ lại không tử tế với tên ăn mày kém may mắn này là đem hắn lại với Chúa để Chúa chữa lành mắt cho hắn?

Cuối cùng Bartimaeus đã được toại nguyện. Khi nghe thấy lời kêu cầu của tên ăn mày, chúa Giêsu đã không từ chối lời cầu của anh, phá vòng vây các môn đệ và gọi người ăn mày, thì anh ta liền vất bỏ áo ngoài, bước lại gần Chúa.

– Anh muốn tôi làm gì cho anh? Chúa hỏi người ăn mày mù.

– Thưa Thầy, xin Thầy cho tôi được nhìn thấy. Anh ta trả lời.

Ngay lúc đó anh ta liền nhìn thấy được mọi sự. Cái nhìn của anh lúc này không phải chỉ bằng con mắt trần, nhưng với tất cả tâm hồn. Đây là điều rất quan trọng. Dù Bartimaeus mù, không nhìn thấy nhiều điều, nhưng nay anh đã thấy và đã biết chúa Giêsu là ai. Việc “Nhìn biết chúa Giêsu là ai” chính là chủ đích của niềm tin. Nó dẫn chúng ta đến với Chúa và trở thành tín hữu, môn đệ của Chúa. Kết thúc câu chuyện, Bartimaeus -sau khi có lại thị giác- đã lên đường theo Chúa Giêsu. Thánh Mac cô chỉ kể lại là anh ta theo Chúa đi vào Jerusalem, nhưng chúng ta có thể hiểu chắc chắn là Bartimaeus đã theo Chúa tới tận chân Thánh Giá.

 Ý NGHĨA NGỤ NGÔN NGƯỜI MÙ: THẤY VÀ TIN

Cảm thông  nỗi cô đơn của những kẻ bị người đời hất hủi chính là đặc thù của công tác mục vụ của chúa Giêsu. Những câu chuyện về phép lạ, chữa lành bệnh được kể lại trong Phúc Âm không đơn giản chỉ là lật ngược lại một bất toàn về thể xác. Trong câu chuyện “người mù nhìn được”, chúng ta thấy có một liên đới rõ ràng giữa hai tác động “Nhìn Thấy và Tin”.  Phép lạ Chúa làm đã giúp người được khỏi bệnh tăng niềm tin của mình hơn cả mức độ lành bệnh thể xác.

Các môn đệ của Chúa đã không có được một viễn kiến đúng mức. Chúng ta cũng vậy. Qua những câu chuyện ngụ ngôn người mù, chúng ta mới thấy chúng ta thiếu sót  trong việc tìm hiểu ý nghĩa những đau khổ mà chúng ta phải chịu. Chúng ta nhìn nhưng như mù không còn khả năng nhận thức sự việc một cách chính xác, giống như  nhìn cánh rừng mà không để ý đến cây để hiểu rằng chính cây đã làm nên cánh rừng. Đây chỉ là một cách phân tích đơn giản mà thôi. Sâu xa hơn là chúng ta coi tật mù của chúng ta là tất nhiên, và không cần tìm hiểu gì hơn nữa. Tính kiêu căng, tự cao tự đại chính là nguồn gốc của mọi mù lòa. Chúng ta cần có phép lạ để điều chỉnh lại nhãn quan của chúng ta.

Vậy thì, những khía cạnh nào của Giáo Hội, của xã hội và của vền văn hóa  trong thời đại chúng ta hiện nay cần phải điều chỉnh, sửa đổi và canh tân? Đâu là điểm mù lòa của chúng ta? Đâu là những bất toàn chính yếu của những cái nhìn thiển cận và  xa vời? Chúng ta có ưa độc thoại hơn là đối thoại, thích phản đối hơn học hỏi nơi người khác dù họ đối nghịch hoặc bất đồng với  ta? Chúng ta có thích tẩy chay hơn là tham gia vào những sinh hoạt ở chung quanh ta không?  Chúng ta có thường xuyên bực bội, tức giận, ngoan cố và hẹp hòi như hiện nay không? Chúng ta có thường nói chẳng ai có nhận xét, phán đoán và xác định  bằng chúng ta? Chỉ có ta là đúng!

Chúng ta có hành sử như những người đã ngăn cản tên ăn mày không cho hắn gặp Chúa không? Vì ngạo mạn, hỗn xược, độc tài, thích chỉ trích của chúng ta, chúng ta có dám đem bạn bè, đồng nghiệp và những người chúng ta không ưa hay ghét bỏ đến trước mặt Chúa không? Tại sao chúng ta không làm được như vậy, khi chúng ta biết đời chúng ta sẽ thế nào nếu không có Chúa Kitô ?

 LỜI KẾT: HÀN GẮN, SỬA ĐỔI VÀ CÁCH NHÌN

Lấy một thí dụ, phá thai là một vết thương trầm trọng nhất, ảnh hưởng không những cá nhân người phụ nữ / người mẹ và gia đình họ là nguồn cung cấp nơi trú ngụ cho thai nhi, mà còn ảnh hưởng đến cả một xã hội và nền văn hóa họ đang sống, bởi vì chính người dân  là những người tạo dựng  nên xã hội và bảo vệ  xã hội. Đức thánh cha Biển Đức XVI, dịp khai mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế giới tại Sydney, Úc Châu ngày 17-7-2008 đã nói về việc bảo vệ sự sống như sau:

“…Và vì vậy, chúng ta cần phải suy nghĩ xem những người nghèo và người già, người di dân và những người không có tiếng nói, họ đứng ở vị thế nào trong xã hội chúng ta.  Phải chăng là những bạo động trong gia đình đang hành hạ những người vợ, người mẹ và con cái ? Phải chăng bụng người mẹ là vùng không gian thánh nhưng đầy kinh dị của con người đã trở thành nơi bạo hành ghê gớm nhất, không giấy mực nào diễn tả hết được?”

Giáo Huấn Công Giáo đã dạy: “con người và nhân phẩm là thánh thiêng không ai có quyền xâm phạm”. Chúng ta phải có cái nhìn hoàn hảo về điều mà chúng ta phải cố gắng làm hàng ngày nếu chúng ta tuyên nhận chúng ta là người “Phò Sự Sống”.

Chống đối phá thai và rút ống thở cũng như chúng ta không được thờ ơ trước cảnh thống khổ của người nghèo, cảnh bạo động và bất công trong xã hội. Chúng ta phải nhìn tổng quát vấn đề rồi phân tích, không thể hời hợt và khiếm diện được.

Phò sự sống là chống lại bất cứ cái gì đi ngược lại sự sống con người, như giết người, ám sát, hủy giệt sự sống, phá thai, rút ống thở hoặc tự hủy hoại mình…Chúng ta thẳng thắn chống lại bất cứ cái gì gọi là vi phạm phẩm giá con người như phá hủy một phần thân thể, làm tổn thương/hành hạ thể xác hoặc tinh thần, cố tình tuyên truyền ảnh hưởng ý muốn của người khác, bất cứ cái gì xúc phạm đến nhân phẩm, chẳng hạn như  điều kiện sống dưới tiêu chuẩn, bắt bớ giam cầm người trái phép, trục xuất người, bắt làm nô lệ, làm gái mãi dâm, buôn người, buôn đàn bà trẻ nít, và những điều kiện làm việc ô nhục trong đó con người chỉ là dụng cụ sản xuất, không phải là con người tự do và có trách nhiệm. Tất cả những điều đó và còn nhiều hơn nữa đang hủy hoại sự sống và đầu độc xã hội loài người.

Đức Hồng Y Tổng Giám mục Boston Sean O’Malley mới đây đã viết: “Khả năng thay đổi lòng người của chúng ta và giúp cho họ hiểu biết phẩm giá mạng sống con người từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết có liên hệ trực tiếp đến khả năng thăng tiến tình yêu và hiệp nhất trong Giáo Hội, bởi vì việc tuyên xưng Sự Thật của chúng ta bị cản trở khi mà chúng ta chia rẽ và đánh phá lẫn nhau.”

Phò sự sống là một trong những phương cách biểu lộ xâu đậm nhất của Bí Tích Thanh Tẩy: Chúng ta dám đứng lên vì chúng ta là con cái sự sáng, chúng ta có lòng bác ái, lại khiêm nhường và đầy xác tín, dám nói sự thật một cách mạnh mẽ và  cương quyết trước cường quyền mà không bao giờ để mất niềm vui và hy vọng.

Phò sự sống không phải là hoạt động vì đảng phái chính trị hay một khía cạnh đặc biệt nào đó của một trào lưu. Nó là bổn phận của tất cả mọi người, dù ở bên tả, hay bên hữu hoặc trung lập. Nếu chúng ta phò sự sống, chúng ta phải tham gia tích cực vào nền văn hóa sự sống ở chung quanh ta, không nên coi thường và chê bai nó. Chúng ta nhìn tha nhân như Chúa Giêsu nhìn và, chúng ta phải yêu mến sự sống của mọi người, ngay cả sự sống của những người đối nghịch với ta.

Khi chúng ta ý thức được những vấn đề làm cho ta bị mù quáng, không nhận biết ra Chúa, đồng thời làm tê liệt khả năng hành động hữu hiệu của chúng ta, thì hãy cầu khẩn Chúa xin Người chữa lành chúng ta !  -“Lạy Chúa, xin cho con  được nhìn thấy.”  Và, khi thị giác của chúng ta đã được điều chỉnh, chúng ta hãy đứng dậy và vui vẻ bước theo Chúa trên bước đường hướng về Vương Quốc Nước Trời.

KINH CẦU CHO ĐƯỢC SÁNG MẮT

Origen (185-253) NTC chuyển ngữ.

Lạy Chúa Giêsu,
Xin hãy chạm mắt tôi tớ Chúa,
Như Chúa đụng mắt người mù.
Chúng con sẽ thấy tỏ rõ…
  … mọi sự hữu hình và vô hình.
Xin Chúa hãy mở rộng mắt tôi tớ Chúa,
Để chúng con ngắm nhìn…
…Không phải thực tế bây giờ,
Nhưng là ơn phúc Chúa ban sắp tới.
Xin Chúa hãy mở mắt tâm hồn tôi tớ Chúa
Để chúng con chiêm ngưỡng Chúa…
Trong Chúa Thánh Linh,
Qua Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa
Đầy quyền năng và vinh hiển muôn đời. Amen.

------------------------------

 

TN 30-B156: CHÚA GIÊSU, ĐẤNG KHAI SÁNG


Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

 

Người ta thường nói “đôi mắt” là cửa sổ của tâm hồn. Nếu chúng ta nhìn đời bằng đôi mắt màu TN 30-B156


Người ta thường nói “đôi mắt” là cửa sổ của tâm hồn. Nếu chúng ta nhìn đời bằng đôi mắt màu hồng thì tràn đầy hạnh phúc, bằng ngược lại thì trước mắt ta là cả một bầu trời đen tối. Theo một thống kê đầu năm 2018, ước tính vào năm 2020 thế giới sẽ có khoảng 11,2 triệu người có đôi mắt mù loà do bệnh. Mù đôi mắt nói lên tình trạng khổ cực, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bên cạnh cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của sự mù loà tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh mà trang Tin Mừng hôm nay đề cập tới.

Thưa anh chị em, trong quan niệm của người Do thái thời bấy giờ, bệnh tật và mù loà là hậu quả của tội. Quan niệm này đã xua đuổi người mù ra ngoài lề xã hội. Chính vì thế,  khát vọng thâm sâu của anh mù Bartimê được bộc lộ ngay trong lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Anh không xin tiền, không xin bánh, nhưng xin sáng mắt để được thấy. Anh xác tín rằng, mù mắt đưa con người vào tình trạng đau khổ tột cùng không chỉ dừng lại trên thân xác nhưng còn xoáy sâu vào trong tâm hồn. Chúa Giêsu, Đấng khai sáng cho anh. Người nói: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn nhìn ra con đường phải đi, công việc phải làm và có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Còn một thứ mù loà khác đáng thương hơn mà Chúa Giêsu đã có lần mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Đây là tai họa của trí năng, của tâm hồn: thứ mù loà này làm cho con người nhìn thấy cái rơm, cái rác của người khác, còn cái xà trong mắt mình lại không thấy. Những người bị mù loà thể xác còn có hy vọng chữa trị được, họ thường được người khác yêu thương, giúp đỡ. Còn những người mù tâm hồn, họ mù nhưng không chấp nhận mình mù, không những khó chữa mà hậu quả của nó là huỷ diệt chính mình và bị người khác tránh xa ghét bỏ.

Có một câu chuyện kể rằng, một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Câu chuyện trên cho thấy thân phận bi đát của người mù. Mù thể xác đã thế, mù tâm hồn còn đáng thương hơn. Ngày nay trước những khám phá kỳ diệu của khoa học kỹ thuật, con người hiện đại lại đang bị mù tối trong tâm hồn vì kiêu căng, tự mãn, không chấp nhận sự hiện hữu của Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng: khoa học càng khám phá ra những điều kỳ diệu lại càng chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa trong vũ trụ, vạn vật. Vì thế, chúng ta hãy bắt chước anh mù Bartimê đặt niềm tin vào Chúa và vào lòng thương xót của Người. Xin Người khai sáng và mở mắt tâm hồn chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tình yêu và bình an của Người.

“Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt. Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi. Con mù lòa, bên vệ đường hành khất. Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài”. Amen.

------------------------

 

TN 30-B157: CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B.


Lm. Antôn

 

Phải nói rằng trong chuyến hành hương Đất thánh vừa qua, tôi đã nhớ đến và cầu nguyện cho tất TN 30-B157


Phải nói rằng trong chuyến hành hương Đất thánh vừa qua, tôi đã nhớ đến và cầu nguyện cho tất cả mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ. Tôi cám ơn Chúa đã cho tôi có cơ hội đến viếng thăm nơi Chúa đã sinh ra, sống, chết và sống lại, và Giáo triều Rô-ma. Cuộc hành hương này làm cho đức tin của tôi vững mạnh thêm. Cuộc hành hương Đất thánh có 2 phần.  Phần thứ nhất ở khu vực Giê-ru-sa-lem và tôi có dịp viếng thăm và dâng Thánh lễ ở những nơi như hang động nơi Chúa sinh ra, nơi Chúa chịu thương khó và chết cho nhân loại.  Tôi có dịp đi đàng Thánh giá trên con đường năm xưa mà chính Chúa đã vác thập giá trên con đường dốc đến đồi Can vê để chịu chết. Như chúng ta đã biết, Chúa đã bị đánh đòn và ngã xuống đất nhiều lần vì đau đớn và khó nhọc. Ngày nay, họ đã xây và lót gạch, nhưng vào thời xưa đây là con đường sỏi đá. Thật sự tôi cảm nghiệm được vì yêu thương và muốn cứu rỗi chúng ta, cho nên Chúa đã hy sinh vác thập giá là tội lỗi của nhân loại chúng ta. Tôi được đến thăm nơi Chúa thương khóc dân thành Giê-ru-sa-lem vì cứng đầu và từ chối ân sủng của Chúa đem đến, nơi Tông đồ Phê-rô đã chối Chúa ba lần, cũng như nơi Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh thể và Chức Thánh, và sau đó chiêm ngưỡng con đường Chúa đã bị lôi đi đến dinh Cai-pha và Hê-rô-đê. Rồi tôi được đến tắm tại Biển Chết.

Phần thứ hai tại Đất Thánh, tôi được viếng thăm Na-za-rét nơi Chúa được sống trong tình yêu thương của Thánh Cả Giu-se và Mẹ Maria, cũng như hội trường nơi Chúa thường đến để thờ phương và giảng dạy.  Trong những ngày kế tiếp, tôi đi thăm biển hồ Tiberia nơi Chúa sống với các Tông đồ và làm nhiều phép lạ, cũng như đến hang động Chúa đã cầu nguyện.  Tiếp đến, tôi đi thăm viếng đề thờ Thánh Giu-se, dâng giáo xứ và mọi gia đình lên cho Thánh Cả để Ngài gìn giữ che chở như Ngài đã gìn giữ che chở Đức Maria và Chúa Giê-su.  Tôi đã đến thăm nơi Chúa làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu để giúp cho đôi tân hôn qua khỏi sự khó khăn, và cũng nơi đây tôi cầu nguyện xin Chúa ban ơn lành cho các gia đình trong giáo xứ luôn yêu thương, hòa thuận và trung thành với giao ước hôn nhân.

Sau đó, tôi đáp máy bay đến thăm Giáo đô Rô-ma nơi có rất nhiều nhà thờ, trong đó có nhà thờ của Đấng đáng kính Hồng y Phan-xi-cô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.  Chúng ta biết, tại Rô-ma này có rất nhiều dấu tích của những vị thánh, những người như chúng ta, đã sống Lời Chúa và làm chứng cho Chúa.  Nhiều người đã chịu bắt bớ, giam cầm, hành hạ cho đến chết vì Chúa Ki-tô.  Vì thế, đã sinh ra hoa trái tốt là những người tin vào Chúa, những người có lòng bác ái và quảng đại.  Họ đã giúp Giáo hội xây những nhà thờ to lớn và kiên cố để thờ phượng, nhất là làm sáng danh Chúa, và để lại những bằng chứng về lòng xác tín của họ cho chúng ta ngày nay.  Và cũng nơi đây, tôi cảm nghiệm được lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội của họ, và lòng hy sinh, bác ái và quảng đại, cũng như công sức và lòng hy sinh phục vụ của họ.

Đây là vài dòng vắn tắt kể lại cho ông bà anh chị em về cuộc hành hương Đất Thánh và Giáo đô của Giáo hội Công giáo chúng ta, với niềm hy vọng nhỏ nhoi là tăng thêm lòng xác tín của chúng ta vào Chúa, để chúng ta can đảm sống Lời Chúa dạy và có lòng bác ái, quảng đại như những tín hữu xưa.  Họ đã trở thành những chứng nhân anh dũng cho chúng ta ngày nay noi theo.

Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết về phép lạ Chúa chữa người mù Ba-ti-mê tại Giê-ri-cô.  Thật đáng tiếc vì tôi không được viếng thăm nơi này trong cuộc hành hương.  Bình thường thì chúng ta ít để ý tới sự quan trọng và cần thiết của đôi mắt, nhưng khi bị đau mắt hay mờ mắt chúng ta mới thấy sự cần thiết to lớn của đôi mắt. Anh Bartimê là một thanh niên bị mù, bị xã hội ruồng bỏ và ngồi ăn xin ở cổng thành Giêricô. Anh ao ước được nhìn thấy. Thế nhưng năm tháng đi qua, không ai có thể giúp anh được, anh phải lang thang đi xin ăn để sống qua ngày.

Hôm nay nghe biết Chúa Giêsu đi qua, anh mạnh dạn kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh đã nghe được từ những người chung quanh quyền năng của Chúa và anh tin Chúa sẽ cứu chữa anh. / Hôm nay, anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, anh chỉ ao ước một điều là xin Chúa chữa anh được nhìn thấy.  Cho nên, khi nghe được tiếng Chúa gọi, anh đã vội vã chạy đến Chúa.  Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ lòng tin sâu xa và mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, và chính vì niền tin này Chúa Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.

Còn chúng ta ngày nay thì sao?  Không có người nào hiện diện trong nhà thờ này mù lòa thể xác, thế nhưng chúng ta hãy thành tâm tự hỏi có bị mù về tinh thần không?  Trong xã hội hôm nay có rất nhiều cám dỗ lôi cuốn có thể làm cho chúng ta mù, hay có mắt mà không nhìn thấy như cờ bạc, rượu chè, gian lam, ích kỷ, tự cao, lười biếng, cứng lòng, và những điều này có sức tàn phá cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn.  Do đó, muốn được chữa lành, phải mau mắn, như người mù trong bài Tin mừng, chạy đến Chúa Giêsu kêu cầu Người thương cứu chữa.  Chúng ta tin Chúa Giêsu muốn giúp và chữa lành cho chúng ta như Chúa đã giúp người mù. Không ai có thể cứu giúp chúng ta, ngoại trừ Chúa Giêsu.

Có một câu chuyện về người đàn ông cứng lòng và rất khó tính, luôn phê bình, chỉ trích người khác.  Vì ích kỷ, ông không bao giờ giúp đỡ hay quảng đại, và vì tự cao, cho nên ông không bao giờ nhìn thấy điều gì tốt nơi người khác, nhất là những người không đồng ý hay làm theo ý của ông. Bất cứ họ làm một việc gì kể cả việc tốt, thì ông cũng phải cố tìm cho ra một lý do để chỉ trích, phê bình, hay cố tìm một khía cạnh, một nguyên do để chống đối. Ông thường khinh thường và hay bắt lỗi những ý kiến, những công việc của người khác, và tệ hơn nữa còn thường hay rỉ tai nói xấu người khác. Thế rồi một ngày kia, được người vợ thúc đẩy dự buổi tĩnh tâm, và được nghe linh mục cắt nghĩa về đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, ông bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp, không nhận ra được những công việc tốt lành, không nhận ra được tấm lòng của những người khác, và ông đã không sống trong ân sủng của Chúa.

Xin Chúa ban cho chúng ta sự can đảm và niềm tin của người mù, thành tâm và nhất quyết tìm đến Chúa để Người hoàn lại ánh sáng, hoàn lại hạnh phúc, hòa thuận cho cá nhân, gia đình và ban cho mọi người trong giáo xứ chúng ta tình yêu thương hiệp nhất, để chúng ta trở thành những nhân chứng của Chúa, có tấm lòng hy sinh, bác ái và quảng đại chân thật xây dựng giáo xứ và làm sáng danh Chúa.  Đó là Tin mừng chứa đựng trong Lời Chúa mà chúng cử hành hôm nay.

------------------------

 

TN 30-B158: BI ĐÁT


Lm. Thái Sơn

 

Thiết tưởng, diễn tả sự đau thương, buồn khổ, phũ phàng…, có xu hướng tiêu cực. Chuyện vui kể TN 30-B158


Thiết tưởng, diễn tả sự đau thương, buồn khổ, phũ phàng…, có xu hướng tiêu cực. Chuyện vui kể rằng:

Việt Nam và Lào là hai nước anh em, thế nhưng một sự thật bi đát là: Cái gì tệ nhất ở Việt Nam cũng gán cho cái mác Lào. Xin đơn cử một vài ví dụ:

Đôi dép mang xấu nhất là đôi dép Lào. Bệnh thì có bệnh lang ben, hắc Lào. Thứ thuốc hút gớm nhất cũng là thuốc Lào. Cơn gió khắc nghiệt nhất cũng gọi là gió Lào…

Có một người Lào sang Việt Nam làm việc, trong chuyến công tác tại “Hà Lội”. Tại trạm dừng xe buýt, người Hà Lội kia phát hiện là đôi dép mình không cánh mà bay. Ông ta la lên: “Thằng lào, thằng lào lấy dép tao?”.

Thưa các bạn!

Lời Chúa Chúa Nhật 30 Thường Niên B mô tả một nhân vật với hoàn cảnh thật bi đát, đó là người ăn xin mù bên vệ đường thành Giêrikhô.

Như diều gặp gió, chỉ nghe nói Đức Giêsu đi ngang qua đây, người ăn xin mù liền kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10,47).

Dân gian có câu: “Khó hai bàn tay, giàu đôi con mắt”. Thật vậy, đôi mắt quý giá và quan trọng vô cùng đối với cuộc sống con người ở mọi thời đại và mọi nơi mọi lúc.

Đối với người khiếm thị cuộc sống của họ thật sự khó khăn, thiệt thòi và bi đát. Đến nỗi tác giả Lâm Bình đã ngậm ngùi và xót xa khi diễn tả bài thơ “HOA TÂM”:

Sinh ra con vốn thua người
Nhìn đời chỉ với trái tim dẫn đường
Quanh con là bốn bức tường
Cuộc đời thong thả giọt vương giọt sầu.

Những ngày cha mẹ buồn rầu
Thuốc thang cũng cạn ruột đau thắt hầu
Con đành câm lặng chôn sâu
Nỗi buồn thăm thẳm mưa Ngâu chờ thời.

Thưa các bạn!

Thế nhưng, rất nhiều người trong số người mù đã không chịu khuất phục trước số phận, mà vẫn vươn lên làm chủ cuộc sống của mình, trở thành người có ích cho Giáo Hội hay xã hội.

Người mù ăn xin đã “vươn lên” bất chấp mọi rào cản, như bị đám đông quát nạt bảo anh ta im đi, và khi Chúa gọi anh thì anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.

“Áo choàng” đối với người ăn xin là tài sản quan trọng nhất, ban ngày làm áo che thân, ban đêm làm mềm đắp, vậy mà “vất đi” nói lên niềm tin vững chắc vào Thầy Giêsu sẽ cho cái mới tốt hơn.

“Đứng phắt dậy” đối với người khiếm thị quả là hiếm có, diễn tả hành vi mau chóng, lanh lẹ và gấp gáp. Tin tưởng sẽ tìm thấy lối đi trong sáng và yên vui nơi Đức Giêsu, vốn là đường, là sự thật, và là sự sống.

Vua Đavít đã mờ mắt với bà Batseva, và được tiên tri Nathan mở mắt cho ông, để rồi vua Đavít thật bi đát ca khen: “Chúa làm cho ngọn đèn của con sáng tỏ, Ngài soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù” (Tv 18,29).

Dù là mù thể lý hay mù tâm trí, xin cho “bạn & tôi” biết “vươn lên” tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, mạnh mẽ vất bỏ “áo choàng” của những gì làm cản trở đến với Chúa, và can đảm “đứng phắt dậy” thoát khỏi con đường tội lỗi, nhất là cái nhìn của đôi mắt khiến con sa ngã, đi vào lối tối tăm mù mịt và bi đát. Amen.

-----------------------------

 

TN 30-B159: ÁNH SÁNG ĐỨC TIN


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Sống trên trần gian, mỗi chúng ta đang là những người mò mẫm đi tìm Chân lý. Cuộc tìm kiếm TN 30-B159


Sống trên trần gian, mỗi chúng ta đang là những người mò mẫm đi tìm Chân lý. Cuộc tìm kiếm này kéo dài liên lỉ suốt đời. Để đạt được Chân lý, cần phải nhờ Đức tin soi sáng dẫn đường. Nếu không có ánh sáng Đức tin, chúng ta khó nhận ra đâu là con đường giúp ta đạt được đích điểm của cuộc đời. Thiếu Đức tin, cuộc sống này sẽ trở thành tối tăm, vô nghĩa.
 
Anh Bartimê, người thanh niên mù ở thành Giêricô đại diện cho những người đang đi tìm kiếm Chân lý. Dù khiếm thị về thể lý, anh lại tỏ ra sáng suốt khi nhận định người đang đi ngang qua là Đấng có thể giúp anh nhìn thấy: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh đã kêu cầu Đức Giêsu với tước hiệu “con vua Đavít”, là tước hiệu được các ngôn sứ  loan báo và muôn dân mong đợi. Đây vừa là lời van xin, vừa là lời cầu nguyện với tâm tình tín thác cậy trông. Người mù thành Giêricô nài xin lòng thương xót của Chúa, vì anh chắc chắn Chúa Giêsu có quyền năng chữa lành và ban cho anh những điều anh đang mong đợi. Là một người ăn xin, hôm nay, khi gặp Đức Giêsu, anh không cầu xin tiền bạc như mọi ngày, mà cầu xin được sáng mắt.
 
Cuộc tìm kiến Chân lý của anh Timê gặp nhiều khó khăn cản trở. Một trong những cản trở đó là đám đông. Anh muốn đến với Chúa, nhưng dư luận quần chúng ngăn cản. Họ nghĩ rằng, người thanh niên mù này không xứng đáng đến gần Chúa. Ước vọng đến với Chúa có nguy cơ bị bóp nghẹt và nhấn chìm bởi đám đông. Anh bị đám đông coi thường vì thân phận của anh là một người mù ăn xin. Dư luận đám đông cũng rất đa chiều và bất ổn định. Họ vừa ngăn cản anh đến với Chúa, nhưng vừa nghe lời Chúa gọi anh mù, họ lại động viên anh hãy vững tin, vì Người gọi anh. Để đến được với Chúa, chúng ta phải thận trọng tỉnh táo trước những trào lưu khác nhau của môi trường xung quanh. Anh Bartimê đã vượt lên những rào cản của đám đông và cuối cùng, anh đã đạt được những điều anh xin. Không chỉ được chữa lành về thể xác, anh còn được cảm hóa và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu và đi theo Người.
 
Chúa Giêsu đến trần gian để đem ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ này được diễn tả như sự khai sáng tâm hồn để chiêm ngưỡng vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia diễn tả ơn cứu độ bằng hình cảnh một cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ lầm than và trở về cố hương. Trên con đường trở về này, mọi người đều tưng bừng ca hát và nhảy múa để tôn vinh Thiên Chúa và thể hiện niềm vui. Họ gồm đủ các thành phần, kể cả những người bị bỏ rơi và khinh thường trong xã hội (Bài đọc I). Tâm tình vui mừng vì được giải phóng, phải là tâm tình của mỗi tín hữu chúng ta, mặc dù đang phải trải qua nhiều mất mát, gian truân của gánh nặng cuộc đời. Thiên Chúa quyền năng đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài là nguồn mạch hạnh phúc và bình an. Lòng tín thác vào Chúa sẽ đem lại cho chúng ta niềm hân hoan phấn khởi.
 
Cuộc sống trần gian là một cuộc kiếm tìm Chân Lý. Mỗi ngày sống ở đời giúp ta gần Chúa hơn. Tuy vậy, nếu thiếu kiên định, chúng ta sẽ bị dao động bởi đám đông cuộc đời, giống như cây sậy phất phơ trước gió, nghiêng ngả trước những dư luận và tin đồn, chao đảo niềm tin.
 
Xung quanh chúng ta, có nhiều anh Bartimê đang mù lòa thể lý và tâm linh, rất cần được chúng ta nâng đỡ và chỉ cho biết con đường kiếm tìm Chân lý. Mỗi Kitô hữu đều có bổn phận nói về Chúa cho những ai đang đi tìm kiếm Ngài.
 
Xin Chúa mở con mắt tâm hồn chúng ta, để nhờ đó, chúng ta nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài giữa cuộc đời. Xin Ngài ban cho chúng ta ánh sáng Đức tin. Amen.

---------------------------

 

TN 30-B160: “TẦM NHÌN” LÀ GÌ?


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Ngày nay, người ta hay nói đến hai chữ “tầm nhìn”. “Tầm nhìn” hình như nó đã trở thành mốt của TN 30-B160


Ngày nay, người ta hay nói đến hai chữ “tầm nhìn”. “Tầm nhìn” hình như nó đã trở thành mốt của những người thích ăn to nói lớn, muốn chứng tỏ mình là người nhìn xa trông rộng.

Thực ra, người xưa cũng đã có khái niệm về hai chữ tầm nhìn, nhưng dùng đơn giản là từ “lo xa”. Một người nông dân biết dự trữ lương thực cho tháng ba ngày tám, biết dành tiền tới tháng 9 để cho con cái đến trường, biết tiết kiệm phòng lúc ốm đau, biết lo chuyện cưới vợ gả chồng cho con cái sau này… chính là người biết lo xa mà ngày nay gọi là có tầm nhìn.

Không lo xa thì nước tới chân chạy chẳng kịp. Người biết lo xa là người khôn ngoan. Người biết nhìn xa trông rộng là người không bao giờ thất bại. Nhưng lo xa hay tầm nhìn đôi khi cũng sai lầm, cũng thất bại. Biết lo xa, hay có tầm nhìn đúng phải là người có lý trí sáng suốt, có mưu lược khôn ngoan thì mới định liệu trước sự việc. Điều nào cần làm và điều nào không nên làm.

Cuộc đời con người thành công hay thất bại đều dựa trên “tầm nhìn” đúng hay sai. Điều quan yếu phải có tầm nhìn trong sáng để không bị tham sân si làm mờ con mắt. Đừng thấy cái lợi trước mắt mà không thấy cái hại liền sau. Nhiều người làm ăn gian dối thì có lợi trước mắt nhưng công việc lại chẳng bền lâu. Nhiều người chỉ biết nghĩ cho mình nên chẳng có bạn bè trợ giúp khi gặp hoạn nạn. Con người cần phải có cái nhìn đắc nhân tâm để sống có ích cho cuộc đời.

Chúa Giê-su luôn có tầm nhìn vì ích lợi của con người. Cuộc đời Ngài luôn nhìn thấy nhu cầu khốn khổ của tha nhân để chạnh lòng thương xót và làm xoa dịu nỗi đau cho con người. Phúc âm nhiều lần nhắc đến 2 từ “Ngài nhìn” thấy và chạnh lòng thương. Từ cái nhìn chạnh lòng đầy thương cảm ấy mà Ngài đã làm tất cả để xoa dịu nỗi đau cho những ai mà Ngài gặp gỡ trên đường.

Bài phúc âm hôm nay tường thuật về việc làm đầy tình thương của Chúa Giê-su. Ngài chạnh lòng thương và ban lại ánh sáng cho đôi mắt mù lòa của người thanh niên tên là Bartime. Chúa đã nhìn thấy thiện chí của anh, hay có thể nói Chúa đã nhìn thấy đức tin của anh, nên Chúa đã chữa khỏi bệnh mù lòa cho anh. Từ nay anh có thể thấy mọi sự, nhất là anh thấy cả quyền năng của một vì Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn con người.

Con người mù lòa thể xác thì khổ cho bản thân, nhưng mù lòa tâm hồn thì gây thiệt thòi không chỉ cho bản thân mà còn cho tha nhân. Lãnh đạo mà mù quáng thì làm nghèo đất nước. Cha mẹ không lo xa thì con cái lầm than. Bản thân thiếu tầm nhìn thì không có tương lai.

Thế nên, chúng ta cần xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng của chân lý, của sự thiện để chúng ta sống với cái nhìn trong sáng, chân thật về cuộc đời. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.

------------------------

 

TN 30-B161: KHI CẦU NGUYỆN TA PHẢI XIN GÌ TRƯỚC HẾT


Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

Anh chàng mù Ba-ti-mê ngồi bên vệ đường thành Giê-ri-cô đã xin Đức Giê-su điều gì, câu hỏi TN 30-B161


Anh chàng mù Ba-ti-mê ngồi bên vệ đường thành Giê-ri-cô đã xin Đức Giê-su điều gì, câu hỏi thật ngớ ngẩn! Vì rõ ràng anh ta xin được sáng mắt chứ còn điều gì nữa: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”! Thế nhưng ta cũng nên lưu ý: trước cả khi mở miệng xin được nhìn thấy, anh đã khẩn khoản kêu xin một điều khác còn quan trọng hơn nhiều: “Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vit, xin rủ lòng thương tôi!” Được nhìn thấy là ngọn, là kết quả của được xót thương là gốc, là nguyên nhân!; chỉ vì tranh thủ được lòng trắc ẩn của thầy Giê-su mà anh mù mới đạt được điều anh hằng mơ ước là được nhìn thấy. Vì cho tới lúc đó, anh thực sự chưa biết nhiều về ông thầy Giê-su đang đi qua; thiên hạ đồn rằng: ông rất đáng kính và hay làm phép lạ, tuy nhiên, cho dầu có là bậc thầy đáng kính tới mấy, nhưng nếu ông không đoái hoài, không xót thương mình thì cũng kể bằng không! Anh chưa hề có bất cứ một bằng chứng nào về đức độ từ nhân của thầy; nếu Ngài không rủ thương thì mọi sự đâu vẫn hoàn đó, và ước vọng cháy bỏng của anh sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực; chính vì lẽ đó mà anh kêu gào cho bằng được lòng thương xót, bất chấp nhiều người “quát nạt bảo anh im đi”.

Tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa là điều căn bản nhất của niềm tin Ki-tô hữu, chứ không phải tin vào sự hiện hữu của Ngài (điều này không may đã trở thành nỗi ám ảnh trước trào lưu vô thần của một số người). Biết bao lần chúng ta được Giáo Hội dạy cho biết: Thiên Chúa yêu thương nhân loại nói chung, yêu từng người nói riêng vô ngần; Người yêu từ ngàn xưa, yêu bất chấp các yếu đuối tội lỗi của con người. Về phần mình, Ki-tô hữu có trong tay bằng chứng không thể chối cãi về tình yêu tuyệt đối đó: cái chết Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. Lý thuyết là như thế, nhưng ta vẫn cần tra vấn mình như sau: Ki-tô hữu chúng ta thường có thái độ nào trong cầu nguyện?

Nhiều người xưng mình là Ki-tô hữu, nhưng lại thường xuyên hoài nghi, ngờ vực tình yêu nhân ái vô bờ bến của Thiên Chúa! Điều này đôi khi được diễn tả qua việc bề ngoài xem ra rất ư là đạo đức: họ cầu khẩn van xin Đức Mẹ và các Thánh cầu bầu cho, với hậu ý là: chưa chắc Chúa đã thật sự hết lòng xót thương mình. Tiến trình cầu nguyện của nhiều ‘người có đạo’ thông thường vẫn theo trình tự như sau: tới trước mặt Chúa qua trung gian một vị quan thầy quyền thế nào đó, nếu dọn trước được một số lễ vật lót đường thì càng tốt, hay ít nhất cũng sửa sang lại trong ngoài sao cho xứng đáng hơn, rồi khẩn khoản trình bày chi tiết điều mình muốn xin… Trong trình tự này, ít có ai dành thời giờ để gợi nhớ cho mình điều Đức Giê-su đã từng khảng định: “Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước cả khi anh em cầu xin” (Mt 6:8). Nói cách khác, nếu có một tiền đề nào cần phải làm trước khi quì gối cầu nguyện thì đó chính là: xin được con gia tăng tin tưởng tín thác vào Thiên Chúa nhân ái và hay xót thương! Hãy dành cho việc này nhiều thời giờ và nỗ lực hơn để chính mình xác tín, rồi loan báo cho mọi người biết về lòng nhân lành và hay thương xót của Chúa Cha; nhất là khi những gì đang xảy ra quanh ta hầu như muốn bịt miệng không cho phép ta gào lên điều đó! Nói cách khác, noi gương chàng Ba-ti-mê mù lòa, hãy can đảm và kiên định kêu gào cho bằng được điều căn bản nhất của niềm tin chúng ta: ‘Xin cho con thấu hiểu và xác tín được lòng Chúa từ nhân, bất chấp những tang thương đang tràn ngập quanh con’.

Trong cùng triền tư tưởng đó, lời cầu xin “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được…” sẽ còn mang một nội dung khác nữa: xin cho được thấy, được nhận ra ‘lòng nhân lành của Chúa’ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong những biến cố rất là phi lý và bất công, nơi mà ta không thể nhận thấy bất cứ một biểu hiện nào của từ nhân và yêu thương.

Sau hết câu nói của Đức Giê-su “lòng tin của anh đã cứu anh” cũng hé cho thấy niềm tin đó hệ tại điều gì: tin Đức Giê-su là mạc khải về Chúa Cha từ nhân, và tin Thiên Chúa hay xót thương đứng đàng sau mọi biến cố cuộc đời. Tin đây phải hiểu là tin tưởng phó thác; cầu nguyện với lòng tin tưởng như thế thật có sức mạnh biết bao!

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy con biết cầu nguyện trong Người, vì con “không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng rên siết khôn tả! Và Thiên Chúa, đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8:26-27). Vâng! Con xin Người biến mọi lời cầu nguyện của con thành diễn đạt một niềm tín thác tuyệt đối vào Chúa Cha từ nhân và hay xót thương. Xin cho con mãi duy trì được thái độ này, bất chấp mọi nghịch cảnh có thể xảy đến. A-men.

-----------------------

 

TN 30-B162: NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ


Lm. Văn Hào

 

Năm 1945, khi cuộc chiến thế giới kết thúc, những người lính trẻ từ chiến trường phương xa lần TN 30-B162


Năm 1945, khi cuộc chiến thế giới kết thúc, những người lính trẻ từ chiến trường phương xa lần lượt trở về cố hương. Tại nhà ga Verona bên Ý, một đám người đang tụ tập để nóng lòng chờ mong những cuộc hội ngộ. Giữa đám đông, có một bà cụ đứng đó một mình. Bà cũng đang ngong ngóng đợi chờ người con thân yêu sau nhiều năm tháng biền biệt đi xa. Lúc đoàn tầu cập bến, người ta thấy có một chàng thanh niên mù cũng đang quờ quạng kiếm tìm một ai đó. Cuối cùng người lính mù cũng lần mò tìm được người mẹ thân yêu, đang đứng co ro ngóng đợi. Chàng trai ôm chầm lấy bà cụ òa khóc nức nở và nói: “ Mẹ ơi, đôi mắt con đã bị mù hoàn toàn rồi. Con không còn thấy gì nữa, nhưng con đã tìm thấy mẹ bằng trái tim của con”. Người mù thành Giêrikhô mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại cũng đã tìm đến với Đức Giêsu không phải bằng đôi mắt của thân xác, nhưng với đôi mắt của cõi lòng.

Giêrikhô, chặng đường tiến vào đất hứa

Giêrikhô được mệnh danh là thành phố mặt trăng, nơi tôn thờ một vị thần của đêm đen. Trong thuật ngữ thánh kinh, Giêrikhô còn là biểu tượng của cuộc hành trình sa mạc tiến vào đất hứa. Ngày xưa, Giôsuê đã đánh chiếm Giêrikhô để mở đường đưa dân Do Thái đi vào miền đất mà Đức Chúa Giavê đã hứa ban. Đức Giêsu chữa lành anh chàng mù thành Giêrikhô hôm nay cũng diễn bày quyền năng và lòng thương xót của Ngài trước khi đi thụ nạn, khai mở cho chúng ta một vùng đất hứa mới, đó là ơn cứu độ và ánh sáng vĩnh cửu. Ngài sẽ đẩy lùi bóng tối tội lỗi của đêm đen để đưa dẫn chúng ta tiến vào bình minh của một ngày mới, đó là ngày ‘Thiên Chúa viếng thăm dân Người’. Đức Giêsu là nguồn sáng vĩnh hằng. Ngài đến để giải cứu chúng ta thoát khỏi sự mù lòa trong tội lỗi và sự chết. Đây là sứ điệp mà trình thuật phép lạ hôm nay gợi mở.

Sau những lần được loan báo về viễn ảnh Thập giá cùng với những bài học về sự từ bỏ và về tinh thần khiêm tốn phục vụ, các học trò của Đức Giêsu dường như vẫn chưa hiểu. Con mắt đức tin của họ vẫn còn đóng khép lại khi đối diện trước Thập giá và cái chết. Chúa Giêsu hôm nay muốn khải thị sâu xa hơn về chân dung cứu thế của Ngài qua việc chữa lành anh mù. Ngài muốn vạch dẫn con đường rộng mở để các môn sinh có thể trở nên những môn đệ Ngài cách đích thực và tiếp tục dấn bước theo Ngài.

Bóng tối và sự mù lòa

Có một bài thơ được khắc trên ngôi mộ của một người mù xấu số. Bài thơ viết như sau : “Đôi mắt tôi mù lòa tựa đêm đen. Thế giới ánh sáng đã vĩnh viễn khép lại. Chung quanh tôi chỉ còn bóng tối đầy kinh khiếp. Tôi như một phế nhân bị vất bỏ hoàn toàn. Hằng ngày tôi chẳng còn làm được gì, ngoài việc ngồi xếp chân trên đất với đôi tay giang rộng để van nài sự bố thí của những người qua lại. Cuộc sống tôi như một chuỗi đêm đen bất tận. Thật khốn khổ thân tôi.” Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng có dịp đến thăm những mảnh đời bất hạnh tại các mái ấm dành cho người khiếm thị, như mái ấm Nhật Hồng ở Thủ Đức, mái ấm Thiên Ân ở quận Bình Tân… Thế giới của người mù là cả một thế giới huyền bí, nhưng đầy ắp bi thương và xót xa. Thầy Nguyễn Quốc Phong là một cựu tu sĩ dòng Don Bosco cũng bị mù từ năm ba mươi tuổi và đã lập mái ấm Thiên Ân để đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thầy chia sẻ: “Tôi bị tai nạn và trở nên mù lòa hoàn toàn, giữa tuổi xuân đang hừng hực sức sống. Tôi đã từng rơi vào tuyệt vọng chán chường và khá nhiều lần bị cám dỗ toan tính tự tử. Nhưng giữa đêm đen kinh hoàng, tôi đã nghe được tiếng Chúa gọi, giống như Ngài đã gọi anh mù năm xưa ở Giêrikhô. Hằng ngày, tôi vẫn lập đi lập lại lời thánh thi giờ kinh tối để diễn bày niềm tin vào Chúa: ‘Khi ánh sáng chìm vào đêm tối, lời kinh dâng tiến Chúa càn khôn’. Thầy đã mở mái ấm Thiên Ân để sẻ chia bất hạnh với những con người sống trong nghiệt ngã giống như Thầy. Quả thật, sự mù lòa luôn gắn liền với bóng tối và sự khốn cùng.

Đó là sự mù lòa thể lý. Nhưng còn nhiều dạng thức mù lòa khác còn khiếp sợ hơn rất nhiều. Chúa Giêsu từng cảnh báo: “ Người mù mà dắt người mù sao được, cả hai sẽ rơi xuống hố” (Mt 15, 14), hoặc “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi, để ngươi thấy rõ, mới có thể thấy cái rác trong mắt người anh em ” (Mt 7, 3-4 ). Đây là những dạng mù lòa thiêng liêng mà chúng ta dễ thường hay mắc phải.

Có một anh chàng bị mù từ nhỏ. Mắt anh không thấy gì. Người ta kể cho anh những chuyện xảy ra ở trong xóm hay ngoài phố, anh không tin vì anh không thấy. Một vị lương y thương tình chữa cho anh. Anh dần dần thấy được lờ mờ những cảnh vật chung quanh, thấy con đường làng nho nhỏ trước mắt, thấy được cánh đồng bát ngát xa xa. Người ta nói với anh còn nhiều cảnh tượng hùng vĩ khác, còn có cả những rặng núi trùng trùng cao ngất, còn có cả biển rộng mênh mông xa tít chân trời… anh vẫn nhất định không tin, vì anh chưa thấy. Vị lương y buồn bã và thở dài nói với anh: “Này anh bạn, con mắt thân xác anh đang từ từ mở ra, nhưng con mắt tâm hồn của anh vẫn còn khép chặt lại, do sự kiêu ngạo và cố chấp nơi anh.”

Đây là dạng thức mù lòa của những người biệt phái năm xưa mà Chúa nói khá nhiều lần khi Ngài gọi họ là ‘những kẻ dẫn đường mù quáng’ (Mt 23, 16; 17; 19; 24). Sự mù quáng tăm tối nơi đầu óc họ chính là con đẻ của tính kiêu ngạo, luôn coi mình là nhất, luôn lấy mình làm thước đo để định giá người khác. Tính phê bình chỉ trích và hay kết án người này người nọ, nhất là qua những xì xầm to nhỏ chẳng khác gì thái độ của năm chàng mù đi xem voi mà chắc hẳn chúng ta đều biết. Đức Thánh Cha Phanxicô từng nói trong đại hội tu sỹ trẻ thế giới tháng Chín vừa qua rằng, việc chỉ trích và xầm xì (gossip) như thế chẳng khác gì khủng bố, khi người ta đang âm thầm thả những trái bom để tàn phá danh dự lẫn nhau. Người Pharisiêu ngày xưa cũng hay làm thế. Anh chàng biệt phái lên đền thờ cầu nguyện chỉ để khoe những thành tích đạo đức cá nhân mình và chê bai mọi người: “Lạy Chúa, con không như người thu thuế tội lỗi kia, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con đóng góp một phần mười huê lợi của con…” Sự mù lòa được thể hiện rất rõ nơi thói kiêu ngạo và thích kết án tha nhân giống như vậy. Có lần một phóng viên trên máy bay hỏi Đức Thánh Cha về quan điểm của Ngài đối với những người đồng tính, Ngài trả lời rất khôn ngoan: “Tôi là ai mà dám phán xét họ”. Mù lòa tâm linh chính là tự đóng khung mình trong pháo đài kiêu ngạo để phán xét mọi người. Thiên hạ vẫn thường nói “Điếc hay ngóng, ngọng hay nói. Người dốt lại thích khoe chữ”. Càng nói nhiều khoe khoang nhiều, càng lộ cái dốt của mình ra cho người ta thấy. Tính kiêu ngạo và sự mù lòa tâm hồn đi đôi với nhau.

Cần được chữa lành

Chúng ta hãy học thái độ của anh chàng mù trong bài Tin mừng hôm nay. Tiến trình được chữa lành nơi anh gồm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là anh ý thức sự mù lòa nơi bản thân. Anh chàng đã cảm nhận rất sâu thân phận bi thương của mình nên đã nhiều lần gào thét thật to giữa đám đông: “Lạy ông Giêsu, xin thương xót tôi – Kyrie eleison”. Cũng vậy, chúng ta cần phải ý thức về tình trạng tội lỗi và sự mù lòa nơi tâm hồn chúng ta. Người mù hôm nay đã kiên nhẫn la to lên khá nhiều lần đến độ dân chúng bực bội và quát nạt bảo anh ta câm mồm lại. Nhưng không, lời kêu cứu đó được lặp đi lặp lại và đã chạm đến cõi lòng của Đức Giêsu. Nỗi bất hạnh lớn nhất của người mù là mình bị mù nhưng cứ tưởng người khác cũng mù giống như mình. Cần phải biết và ý thức sâu xa sự mù lòa nơi chính bản thân chúng ta. Giai đoạn thứ hai, Chúa Giêsu gọi anh ta lại. Anh đã đứng lên và vất bỏ áo choàng anh đang mặc. Đây là một hình tượng tuyệt đẹp nói lên quyết tâm của chúng ta trong cuộc hành trình đức tin, một thái độ cương quyết dứt bỏ quá khứ tội lỗi. Chúng ta sẽ không được chữa lành nếu chúng ta vẫn còn đeo bám vào những gì cũ kỹ, như chiếc áo choàng của anh mù năm xưa, làm cản che tầm nhìn chúng ta hướng về Đức Giêsu. Giai đoạn cuối cùng là anh mù đã đến với Chúa và mở lòng ra với Ngài: “Thưa Thầy, xin cho tôi được nhìn thấy.” Chúa Giêsu đã chạm đến anh và chữa lành cho anh. Đây là mô thức cho cuộc hành trình đức tin của chúng ta đến với Đức Giêsu. Chúng ta nghe tiếng Ngài gọi. Chúng ta hãy can đảm đứng dậy vứt bỏ đi tấm áo choàng sờn cũ. Chúng ta mạnh dạn đi đến để tiếp cận Ngài, để gặp gỡ Ngài. Ngài sẽ sờ chạm đến và chữa lành cho chúng ta.

Kết luận: Sự ghê sợ của gương mù

Trong một buổi hội thảo về gia đình, vị linh mục nọ đã chia sẻ một kinh nghiệm quý báu. Ngài nói với cử tọa rằng Ngài được mời đi xức dầu cho một em bé ở cô nhi viện. Sau khi lãnh nhận bí tích, em đã tâm sự với Ngài như sau: “Thưa Cha, xin Cha gửi tới mẹ con những lời trăn trối sau cùng của con. Con không nguyền rủa mẹ con cho dù con chỉ có một người mẹ trác táng và hư hỏng. Con cũng không biết bố con là ai. Con ra đời chỉ là kết quả những phút giây truy hoan tội lỗi của mẹ con với một người đàn ông nào đó. Mẹ con thay tình nhân như thay áo. Bà đã gượng gạo nuôi con đến khi con được 8 tuổi và vất con vào đây như một cục nợ. Những năm tháng ở với mẹ, con chỉ thấy nơi bà một con người độc ác, ích kỷ, thích ăn chơi và hưởng thụ, luôn nói những lời đay nghiến, nhiều khi còn muốn con chết quách đi cho xong. Giờ đây con sống cô đơn ở cô nhi viện. Con không oán trách bà ấy, cũng không nguyền rủa cha con. Con chỉ tiếc là con không có được những người cha người mẹ tốt lành và có được một mái ấm gia đình đơn sơ như bao đứa trẻ khác”.

Đứa bé thều thào trong sự nghẹn ngào đau xót. Vị linh mục nhìn thấy những giọt nước mắt vọt trào từ đôi mắt đẫm lệ của đứa trẻ thơ, và vài giọt máu từ từ bắt đầu rỉ ra. Thằng bé lịm chết dần, mang theo bao nỗi xót xa còn vương đọng nơi tâm hồn của một đứa bé thơ vô tội nhưng cuộc đời đầy ắp những bất hạnh.

Cả hội trường thổn thức và xúc động lắng nghe. Vị linh mục kết luận: “Hỡi các bậc làm cha làm mẹ, mỗi ngày quý vị hãy quỳ gối xuống trước mặt Chúa để sám hối và thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin Chúa trợ giúp để chúng con đừng bao giờ trở nên gương mù cho con cái mình.”

Ai làm cớ cho một người bé mọn đây phải sa ngã, thà cột cối đá vào cổ nó mà xô xuống biển còn hơn”. Mù lòa thân xác đã là ghê sợ, nhưng trở nên gương mù cho người khác phạm tội còn kinh tởm hơn rất nhiều. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ nói như thế. Ước gì lời Chúa hôm nay lay động con tim mọi người, nhất là những người làm cha làm mẹ trong các gia đình, để chúng ta đừng bao giờ trở thành người mù dẫn đường cho những người mù khác, đặc biệt cho con cái chúng ta.

---------------------------

 

TN 30-B163: HÒA ĐIỆU XÓT THƯƠNG


Trầm Thiên Thu

 

Trong âm nhạc có những giai điệu đẹp khiến lòng người mê say. Điệu thức là hệ thống âm thanh TN 30-B163


Trong âm nhạc có những giai điệu đẹp khiến lòng người mê say. Điệu thức là hệ thống âm thanh kết hợp với nhau theo một quy luật nhất định, trong đó có âm thanh ổn định và không ổn định, âm thanh ổn định nhất gọi là chủ âm. Có hai loại điệu thức: điệu thức trưởng và điệu thức thứ, với “màu sắc” khác nhau. Chỉ bảy nốt, nhưng liên kết khéo léo sẽ có giai điệu đẹp, điều này tùy vào tài năng âm nhạc của nhạc sĩ.

Như đã nói, có những giai điệu đẹp, nghe hoài không chán; ngược lại, có những giai điệu không muốn nghe lại lần thứ hai. Giai điệu có thể đẹp hơn nếu được hòa âm khéo léo, tính tế.

Tuy nhiên, giai điệu đẹp nhất và tuyệt vời nhất chắc chắn chỉ có giai điệu yêu thương, giai điệu của lòng thương xót. Giai điệu đó sẽ đẹp hơn khi nó trở nên hòa điệu, và nó còn là Mối Phúc thứ năm trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương ” (Mt 5:7).

Ngôn sứ Giêrêmia loan báo: “Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Israel! Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo” (Gr 31:7-8). Hành động của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, hành động phát xuất từ lòng thương xót vô biên của Ngài. Điều này không là chế độ “xin – cho”, mà là hành động của sự động lòng trắc ẩn, cũng không phải là lòng thương hại mà là tình thương xót vô điều kiện mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Đầu óc “bã đậu” của chúng ta không thể nào suy thấu!

Ai có đi tù rồi mới biết thế nào là hạnh phúc khi được ra tù, được trả tự do. Niềm vui đó khó tả vì nó quá lớn lao. Dân Israel cũng không thoát khỏi cảm giác kỳ lạ đó, họ sung sướng đến nỗi phải bật khóc. Ngôn sứ Giêrêmia nói trước: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng” (Gr 31:9). Và tất nhiên, điều tiên báo đó đã được ứng nghiệm chính xác.

Tác giả Thánh Vịnh cũng mô tả cảnh tượng kỳ diệu đó: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:1-2). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó được, thế nên chính họ đã hân hoan thốt lên: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3).

Tác giả Thánh Vịnh cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:4-6). Giống như “luật nhân quả” vậy, ai cười rồi sẽ khóc, ai sướng trước sẽ khổ sau. Ngược lại, ai khóc trước sẽ cười sau, ai vất vả rồi sẽ được hưởng kết quả. Một trong Bát Phúc cũng đề cập vấn đề này: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Vâng, Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí minh và chí công!

Còn chúng ta là phàm nhân đầy tội lỗi vì quá yếu đuối, hứa rồi quên, hối rồi phạm, đứng rồi lại ngã. Cứ thế, cứ thế,… Chu kỳ của chúng ta là những chuỗi sám hối và đền tội. Tuy nhiên, vì bất xứng nên Thiên Chúa tuyển chọn một số người thay chúng ta dâng của lễ đền tội. Người đó được chọn không phải vì xứng đáng, mà vì Thiên Chúa muốn hành động theo kế hoạch thương xót của Ngài. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:1-5).

Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:4-6). Được CHỌN thì cũng được TRAO trọng trách, vì không phải được chọn để ung dung tự tại, tìm sự an nhàn cá nhân mà “vô tư” bỏ quên những người khác, nhưng phải quên mình, dấn thân, hy sinh vì những người khác. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!

Với tinh thần đó, trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ Tư theo thông lệ vào ngày 15-5-2013, ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở các giáo sĩ mục phải cẩn thận tránh xa cám dỗ để có thể trở nên mục tử hữu hiệu, và phải bảo vệ đàn chiên khỏi nguy hiểm. Sử dụng từ ngữ rất “mạnh”, ví von thực tế, thậm chí có thể gây “sốc” với một số người, ĐGH Phanxicô nói: “Nếu chúng ta đi với người giàu, là chúng ta đang đi về phía hư vô, chúng ta sẽ trở thành chó sói, chứ không phải người chăn chiên. Ngài cũng thúc giục tín hữu Công giáo cầu nguyện cho giám mục và linh mục”.

Phải vậy thôi, bởi vì ngày xưa chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo mà không sợ “đụng chạm” bất cứ ai: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Ngài cảnh báo để thức tỉnh những người “tai to, mặt lớn” (đại diện mà!), và đặc biệt là để thương xót những “con chiên”, không muốn chúng bị sập bẫy của lũ sói hoặc cáo!

Trình thuật Mc 10:46-52 (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43) nói về anh mù Ba-ti-mê ở Giê-ri-khô, liên quan hệ lụy thương xót với Đức Kitô.

Hôm đó, Chúa Giêsu và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Thầy với trò và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Có thể vì anh ta quá khổ sở vì mù lào, cuộc đời chỉ là đêm đen dày đặc, nên anh ta muốn thoát khỏi cảnh khổ đó, nhưng không phải anh ta “cầu may” theo kiểu “có bệnh thì vái tứ phương”, mà chắc chắn anh ta thực sự có lòng tin thật lớn đối với Chúa Giêsu. Anh ta chỉ nghe người khác nói về Ngài chứ anh ta có biết gì đâu. Vậy mà anh đã tin, tin thật, không chút hồ nghi.

Thấy anh ta la lối om sòm, kêu gào nhức tai quá, nhiều người đã quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng với điệp khúc van xin: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Những người quát nạt anh ta chỉ là những người chảnh, xấu bụng, không hề biết chạnh lòng thương trước cảnh khổ của người khác. Họ đã không thương anh ta thì thôi, lại còn đâm bị thóc, chọc bị gạo. Quá chảnh!

Nhưng mặc kệ, anh ta vẫn tin tưởng và van nài. Anh ta mù mắt mà sáng hồn, kiên trì cầu nguyện. Còn chúng ta, tuy mắt sáng (và còn đẹp nữa), thế mà lại mù hồn. Đã vậy thì chớ, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà như “ra lệnh” cho Chúa vậy. Thật thế, cầu xin mãi không được thì nản lòng, bỏ cuộc, chứng tỏ đức tin chúng ta quá mong manh. Cầu nguyện kiểu như vậy chỉ là ích kỷ!

Nghe tiếng cầu xin chân thành, Chúa Giêsu đứng lại và bảo gọi anh ta lại. Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”. Chỉ chờ có thế thôi, anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh. Anh ta nói ngay: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Thế là ngay lập tức, anh ta nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Anh ta XIN và ĐƯỢC, Chúa Giêsu LẮNG NGHE và ĐÁP LẠI. Chúa Giêsu và anh mù Ba-ti-mê đã cùng hòa điệu thương xót. Thật tuyệt vời biết bao!

Mỗi người trong chúng ta đều là một nốt trong bản tổng phổ thương xót. Một nốt nhỏ đó không là gì, nhưng thiếu nốt đó thì không thể hòa điệu trọn vẹn. Tương tự, mỗi nhạc công trong một dàn nhạc cũng chẳng là gì nếu tách riêng, nhưng họ vẫn thực sự quan trọng khi hoàn tất nhiệm vụ của mình trong dàn nhạc. Cuộc sống thật kỳ lạ, có những điều bé nhỏ, xem chừng quá đỗi bình thường, nhưng chính những điều bé nhỏ đó lại chứng tỏ một tình yêu thương lớn lao.

Lạy Thiên Chúa, xin mở mắt đức tin cho con để con nhìn thấy Ngài trong tha nhân, nhất là những con người hèn mọn và đau khổ. Xin giúp con biết thể hiện lòng thương xót để con làm trọn bổn phận của một nốt nhỏ trong bài Trường Ca Yêu Thương của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

-------------------------

 

TN 30-B164: CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_B


Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.

 

Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta và mong muốn chúng ta luôn sống bình an, vui mừng TN 30-B164


Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta và mong muốn chúng ta luôn sống bình an, vui mừng, hạnh phúc và trong ân sủng của Chúa mãi mãi. Nhưng chúng ta thành tâm thú nhận rằng nhiều khi chúng ta mù quáng chạy theo những cám dỗ của vật chất, thú vui thế gian, sống trong sự lầm lạc, tội lỗi theo ý của chính con người chúng ta. Để đưa con người chúng ta quay trở về, hay để mở con mắt tâm hồn chúng ta, Chúa muốn chúng ta hãy thành tâm lắng nghe lời kêu mời của Chúa, nhận ra sự bất an và đau khổ mà chúng ta tự tạo cho mình, thành tâm đến với Chúa để được Chúa chữa lành. Các Bài Đọc lời Chúa hôm nay biểu lộ quyền năng, và tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người chúng ta, qua những trường hợp và hoàn cảnh khác nhau, để chúng ta nhận được ơn sủng và chữa lành của Chúa.

Trong Bài Đọc I, khi dân Do thái mù quáng sống trong lầm lạc, và không chịu nghe lời các ngôn sứ dạy bảo, quay trở về sống trong tình yêu và ân sủng của Chúa, họ đã bị ngoại bang xâm lăng và giày xéo. Kết quả là dân Do thái đã bị mất nước và bị đưa đi lưu đày nô lệ. Nhưng tình yêu thương của Thiên Chúa không bao giờ cạn cho dân Do thái, dân riêng của Chúa, cho dù họ phản bội và tội lỗi đến đâu, Chúa đã sai các ngôn sứ tới để khuyên bảo và kêu gọi họ giữ vững niềm tin và trông cậy, và Ngài sẽ giải thoát, đưa họ về quê hương làm lại cuộc đời. Là những Ki-tô hữu, chúng ta tin một cách vững chắc vào tình yêu thương và lòng nhân từ của Chúa cũng sẽ không bao giờ cạn cho chúng ta, dù chúng ta sống trong hoàn cảnh và tình trạng nào.

Trong bài đọc 2, chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Ngài chọn và gởi các thượng tế đến để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Các thượng tế thay Thiên Chúa lo lắng và chăm sóc phần hồn cho dân qua mọi thời đại. Nhưng vị Thượng Tế cao cả nhất là chính Người Con Một của Ngài, là Chúa Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người, và sứ mạng của Chúa Giê-su Ki-tô là mang ánh sáng và tình yêu thương của Thiên Chúa Cha đến cho con người trần gian chúng ta đang sống trong tội lỗi và tối tăm. Và qua Người Con Một này, Thiên Chúa muốn con người chúng ta đón nhận tình yêu của Chúa, để sống trong an mạnh, vui mừng và hạnh phúc hồn và xác.   

Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giê-su Kitô đã chữa lành cho một người mù thành Giê-ri-cô. Với một niềm tin mạnh mẽ, anh mạnh dạn vượt qua mọi trở ngại, đến xin Chúa chữa lành cho anh được thấy. Tin mừng còn cho chúng ta biết anh bị mù chứ không điếc, cho nên anh đã được nghe người ta nói về Chúa Giêsu và quyền năng của Ngài, và anh có lòng tin mạnh mẽ Ngài là Đấng có thể cứu chữa anh. Chúng ta thấy anh đã không chút ngần ngại và biết nắm lấy cơ hội để lên tiếng cầu xin với Chúa: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”

Ông bà anh chị em thân mến. Qua câu chuyện chữa lành sự đui mù thể xác, Chúa Giê-su cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta biết Ngài cũng có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn.

Có một câu chuyện về người đàn ông cứng lòng và rất khó tính, luôn phê bình, chỉ trích người khác. Vì ích kỷ, ông không bao giờ giúp đỡ hay quảng đại, và vì tự cao, cho nên ông không bao giờ nhìn thấy điều gì tốt nơi người khác, nhất là những người không đồng ý hay làm theo ý của ông. Bất cứ họ làm một việc gì kể cả việc tốt, thì ông cũng phải cố tìm cho ra một lý do để chỉ trích, phê bình, hay cố tìm một khía cạnh, một nguyên do để chống đối. Ông thường đưa ra những lý lẽ: Người đó phải có ý đồ đen tối hay dấu diếm gì, hay được cái gì lợi trong đó. Và ông thường khinh thường và hay bắt lỗi những ý kiến, những công việc của người khác, và tệ hơn nữa còn thường hay rỉ tai nói xấu người khác.

Thế rồi một ngày kia, được người vợ thúc đẩy dự buổi tĩnh tâm, và được nghe linh mục cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, ông bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp, không nhận ra được những công việc tốt lành, không nhận ra được tấm lòng của những người khác, và ông không sống trong ân sủng của Chúa.

Ông bà anh chị em thân mến. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác, vì sự đui mù tâm hồn này ngăn cản chúng ta không nhìn thấy sự thật, không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy những điều tốt đẹp của những người chung quanh, và không nhận ra tình yêu, ơn sủng của Chúa. Tật đui mù này lại thường hay lây lan. Chính vì thế là những Ki-tô hữu, mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: “Tôi có bị đui mù về tâm hồn hay không?” Nếu có, thì chúng ta hãy thành khẩn kêu cầu Chúa cứu chữa chúng ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúng ta nhận thấy người mù có một sự ao ước, khát vọng mãnh liệt và mong chờ được đối diện với Chúa để được Chúa chữa lành. Sự khát vọng này đã giúp anh vượt qua mọi trở ngại để được gặp Ngài. Chúng ta cũng tự hỏi “Chúng ta có một sự ao ước, một khát vọng mãnh liệt được gặp Chúa Giêsu như anh không?” “Chúng ta có sẵn sàng vượt mọi trở ngại trong cuộc sống để được đối diện và gặp Chúa không?”

Qua cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và anh mù, chúng ta cũng còn thấy được quyết tâm và niềm tin vững mạnh của anh. Anh không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa. Khi Chúa Giêsu đứng lại và nói với người ta gọi anh mù đến. Phản ứng của anh mù ra sao? Chúng ta thấy phản ứng của anh rất rõ ràng và quyết liệt: “Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.” Và khi nghe Chúa Giêsu hỏi: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Anh mù đáp không một chút do dự và mạnh mẽ thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy.” Tức khắc, anh nhìn thấy được, cũng như nhìn thấy con đường Chúa đang đi, và cũng từ lúc đó, anh quyết định đi theo con đường Chúa đi.

Chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy được con đường Chúa đi, và nhất là thấy được tình yêu thương bao la của Chúa cho chúng ta, để chúng ta có một niềm tin vững chắc vào Chúa, và can đảm đi theo con đường con đường Chúa chỉ bào, để chúng ta trở thành ánh sáng Chúa Ki-tô, dẫn dắt người khác đến với Chúa, và luôn sống trong an mạnh, hạnh phúc và trong ân sủng tình yêu thương của Chúa.

--------------------------

 

TN 30-B165: MÙ LÒA


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Có nhiều thắc mắc chúng ta khó trả lời. Tại sao Chúa lại để cho người này, người kia mù lòa TN 30-B165


Có nhiều thắc mắc chúng ta khó trả lời. Tại sao Chúa lại để cho người này, người kia mù lòa, câm điếc hay bất toại? Nếu chỉ nhìn vào cuộc sống tự nhiên, chúng ta không tìm được câu trả lời thích đáng. Chính vì thế, nhiều người cảm thấy bất hạnh. Chúa Giêsu đã đến như một nguồn ánh sáng làm cho chúng ta nhận biết được giá trị của những bất toàn trong đời sống.

Phúc âm hôm nay tả cảnh Chúa chữa lành cho người mù ăn xin vệ đường. Anh mù đến van xin Chúa rằng: Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu đáp: Được, đức tin của anh đã chữa anh. Anh đã được thấy và thấy rõ hơn cả những người nghĩ mình có mắt sáng. Biết bao người có mắt sáng chung quanh anh. Họ trông thấy Chúa nhưng họ không nhìn biết Chúa. Họ đâu có nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ đâu có tin Chúa có quyền phép vô cùng. Anh mù đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, Đấng có thể chữa anh. Chúa đã chữa mắt thể xác và cả mắt tinh thần cho anh.

Chúng ta có mắt sáng nhưng không phải chúng ta nhìn thấy mọi sự. Có nhiều điều xảy ra chung quanh mà chúng ta không thấy. Đôi khi mắt chúng ta bị che khuất bởi sự ích kỷ, lòng hẹp hòi, sự ghen tương, lòng hận thù, chúng ta không nhận ra được sự tốt lành nơi người khác. Chúng ta có những điểm mù trong cuộc sống. Điểm mù của con mắt tinh thần làm chúng ta không nhận ra nhân phẩm xứng đáng của anh chị em.

Truyện kể người ta thấy một em bé gái mù lòa, mặt mày hốc hác, quần áo rách rưới đứng co ro ở một góc đường để xin ăn. Cô bé trông bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, ốm o bệnh hoạn. Lúc ấy, một ông ăn mặc sang trọng lái xe ngang qua đó trông thấy cô bé nhưng ông chẳng thèm nhìn đến lần thứ hai. Khi lái xe về đến nhà, thoải mái trong căn hộ ấm cúng với vợ con. Trước mâm cơm thịnh soạn, hình ảnh cô bé bỗng hiện ra rõ rệt trong đầu ông. Ông thở dài và phàn nàn cùng Chúa: Tại sao Chúa để cho những hoàn cảnh đáng thương như thế xảy ra trên cõi đời này?  Hình ảnh cô bé cứ ám ảnh ông, không chịu được sự dằn vặt ông trách Chúa: Chúa phép tắc vô cùng, tại sao Chúa không làm cái gì để giúp cô bé nghèo khổ đáng thương ấy. Lúc ấy, tự thâm tâm ông nghe tiếng Chúa phán cùng ông rằng: Ta đã làm rồi chứ sao lại không.  Điều này  Ta dành cho con đó. Ta đã dựng nên con mà.

Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con quan chiêm những kỳ công của Chúa. Xin cho con mắt đức tin của chúng con mở sáng để chúng con nhìn được hình ảnh Chúa nơi anh chị em của chúng con.

----------------------------

 

TN 30-B166: THẤY VÀ KHÔNG THẤY ĐƯỢC


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Hôm thứ bảy, ngày 3/10/2015, trước ngày khai mạc Thương Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, Toà TN 30-B166


Hôm thứ bảy, ngày 3/10/2015, trước ngày khai mạc Thương Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, Toà thánh đã sa thải một Đức Ông người Balan tên Charamsa, là nhân viên trong Bộ Giáo Lý Đức Tin. Ông đã công khai nhận mình chung sống với một người bạn trai đồng tính. Ông tổ chức họp báo lên tiếng chống đối quan điểm của Giáo hội về vấn đề đồng tính, đồng thời gây sức ép lên Thượng Hội Đồng đang họp bàn về gia đình. Sự việc một linh mục phá giới vẫn thường xảy ra, tuy nhiên sự kiện linh mục Charamsa lại được báo chí thế giới và Việt nam khai thác triệt để. Các báo chí đã chạy những tựa bài giật gân để đánh lạc hướng sự kiện kiểu như: “linh mục bị cắt chức vì đồng tính”. Giáo hội chưa bao giờ kỳ thị người đồng tính, nhưng luôn thông cảm và tìm ra đường hướng mục vụ để giúp đỡ họ sống tốt, sống thánh ngay trong tình trạng của mình.

Sự thật của việc Toà thánh sa thải vị linh mục Chamasa không phải vì quan điểm của ông, cũng không phải vì ông đồng tính, nhưng là vì ông đã vi phạm lời hứa sống độc thân khiết tịnh, ông hãnh diện giới thiệu bạn tình của mình với báo chí. Ông lớn tiếng cáo buộc Vatican “dối trá” nhưng thực ra chính ông là kẻ dối trá. Ông đã không sống theo lời cam kết khi thụ phong linh mục, ông vừa muốn nổi danh trong giáo hội, vừa muốn sống như một người ngoài Công giáo, vừa muốn là linh mục lại vừa muốn có bạn tình. Vì thế ông đã biến mình trở thành con cờ của truyền thông.

Sống trong một xã hội thật giả lẫn lộn cùng với truyền thông vô lương tâm, thiếu trách nhiệm, nhiều người như bị lạc lối, bị hoang mang, chúng ta cần tỉnh táo sáng suốt để nhìn thấy sự thật.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, thì có một người mù tên là Bartimê đến xin với Chúa Giêsu: Lậy Thầy, xin cho tôi được nhìn thấy. Câu chuyện trên mang nhiều ý nghĩa. Trước hết, Giêricô là một thành phố được nhắc đến như một chốn tối tăm tội ác, là hang ổ của gian dối và tội phạm. Chúa Giêsu là ánh sáng, là chân lý và sự thật đã đi ngang qua nơi ấy để đem ánh sáng đến cho vùng này.

Anh mù ngồi bên vệ đường là hình ảnh của những con người bị mù thể xác và bị mù tối cả trong tâm hồn. Tình trạng của anh hết sức tồi tệ: rách rưới bẩn thỉu, ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng dường như không ai quan tâm. Khi nghe biết Đức Giêsu Nazareth đi ngang qua, anh đã kêu lên: Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Lời kêu xin này cho thấy con mắt đức tin của anh đã bắt đầu hé mở. Anh gọi Đức Giêsu là con vua Đavít, tức là anh đã tin Ngài chính là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo, là Đấng cứu thế. Đức tin của anh vừa hé mở thì đã bị bóng tối của những người chung quanh lấn lướt. Họ quát nạt anh, cấm không cho anh nói, nhưng anh vẫn kiên trì kêu to hơn: Lạy con vua Đavít xin dủ lòng thương tôi.

Dù những người khác cố tình dập tắt đức tin của anh, nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy anh, ánh sáng của tình thương và ơn cứu độ đã dừng lại trên anh. Chúa Giêsu đã đứng lại và truyền gọi anh đến với Ngài. Anh vất chiếc áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Vất lại đàng sau chiếc áo choàng, có nghĩa là anh đã chấp nhận vứt bỏ lại đang sau quá khứ mù tối của mình, vứt bỏ chiếc áo hôi hám bẩn thỉu là con người cũ để bước đến với Chúa Giêsu là ánh sáng và chân lý.

Mặc dù biết được sự thiện chí, sự khao khát trong tâm hồn của anh, nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn để anh phải công khai nói lên ước nguyện của mình, khi Ngài hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Người mù đáp lại: Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được. Anh không xin được thấy một cách chung chung, nhưng anh xin cho tôi thấy được, và Chúa đã cho anh được thấy. Anh thấy Chúa Giêsu và anh tin vào quyền năng của Ngài. Chúa đã mở mắt thể lý để anh có thể thấy mọi vật mọi loài, nhưng quan trong hơn, Chúa đã mở mắt tâm hồn để anh nhận biết Ngài không chỉ là con vua Đavít mà còn là chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban lại cho anh không chỉ ánh sáng cho đôi mắt, nhưng Ngài còn cho anh ánh sáng chân lý đức tin. Tác giả kết luận câu chuyên bằng lời nhận xét: Anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Con đường Chúa Giêsu đi là con đường sự thật và chân lý: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Anh Bartimê đã bước theo con đường và giáo huấn của Ngài là bước theo sự thật và sống theo cách sống của Ngài, trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Con đường Chúa Giêsu đi là con đường lên Gierusalem để hoàn tất thánh ý của Thiên Chúa Cha muốn. Thiên Chúa muốn Ngài yêu thương tới cùng, phục vụ cho tới cùng và đón nhận thập giá với tình yêu mến và vâng phục Chúa Cha trọn vẹn, để quy tụ và đưa mọi người về với Thiên Chúa.

Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc một đã nói trước về niềm vui hân hoan khi Đấng Cứu thế con vua Đavít sẽ đến, nay đã ứng nghiệm. Ngài là đấng quy tụ mọi kẻ tản mác trở về, đem lại niềm vui hân hoan cho họ. Ngài sẽ cứu họ khỏi cảnh tối tăm cùng cực của nô lệ và giải thoát họ khỏi sự ràng buộc bởi đau khổ bệnh tật xác hồn: Ngày ấy kẻ đui mù què quặt, kẻ mang thai, người ở cữ đều được Thiên Chúa quy tụ về, Ngài sẽ dẫn họ trên đường ngay nẻo chính họ sẽ không còn bị vấp ngã nữa.

Ngày hôm nay chúng ta đang sống trong thời đại của ánh sáng văn minh, sự tiến bộ của khoa học, nhưng có rất nhiều người vẫn đang bị mù loà. Không chỉ mù mắt, mà người ta còn nói đến nhiều tình trạng mù khác: mù chữ, mù thông tin. Nhưng điều đáng nói hơn là mù chân lý, mù sự thật và mù tối trong đức tin. Noi gương anh Bartimê, chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin Ngài: Lậy Thầy, xin cho con thấy được.

Xin, để thấy được con người thật của mình- Vì nhiều người ngày này đang sống với cái mặt nạ tốt đẹp bên ngoài, nhưng bộ mặt thật thì lem luốc. Họ hào nhoáng rộng rãi vui vẻ với bạn bè nhưng lại hẹp hòi với cha mẹ, vợ con trong gia đình. Xã hội ngày nay trọng hình thức thì cũng đồng thời tạo ra những con người sống hình thức bên ngoài nhưng giả dối bên trong. Nhận ra con người thật của mình để biết mình đang đi con đường nào, đúng hay sai, để cùng với ơn Chúa mỗi người tự điểu chỉnh bản thân cho đúng hướng hơn.

Xin thấy được tình trạng của gia đình mình, thấy những nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Nhiều người vì bận rộn với cuộc sống với cơm áo gạo tiền, khiến họ bỏ rơi việc chăm sóc cho các thành viên của gia đình. Nhiều gia đình đang bị bóng tối của bạo lực, của bất trung bao trùm khiến cho gia đình không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Nhiều bậc cha mẹ đã để gia đình mình sống trong bóng tối của gian dối, qua những kiểu làm ăn thiếu lương thiện.

Noi gương anh Bartimê, xin Chúa mở mắt để mỗi người nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa trong cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện và chờ đợi chúng ta mở cửa lòng để cho Ngài bước vào. Ngài vẫn kề bên mỗi người để giúp chúng ta giải gỡ những khó khăn và giúp chúng ta thành công. Vì thế đừng bao giờ tỏ ra vô ơn trước ân huệ của Thiên Chúa.

Sống trong một xã hội bị ảnh hưởng bởi truyền thông xấu, bị tuyên truyền nhồi nhét sai lạc, gian dối, khiến cho nhiều người lầm lẫn, hồ nghi về chân lý đức tin, về giáo hội của mình. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để nhìn thấy sự thật và dám lên tiếng bênh vực cho sự thật. Xin mở mắt đức tin để chúng ta nhận ra chân lý và giáo huấn của Chúa, giúp chúng ta biết dùng Lời Chúa và giáo huấn của Ngài để đánh giá mọi sư việc xảy đến trong xã hội cũng như cho bản thân.

Tiền bạc của cải và sự ích kỷ cũng đang làm cho nhiều người trong chúng ta trở nên mù loà, khiến nhiều người không còn nhìn thấy sự hiện diện và những nhu cầu của anh em đang cần chúng ta giúp đỡ. Xin Chúa mở mắt để chúng ta có thể nhìn thấy những nỗi thống khổ của anh em để biết chia sẻ và trao tặng. Xin đừng bao giờ để chúng ta mù loà làm ngơ trước nỗi bất hạnh của họ.

Sau cùng xin Chúa mở mắt tất cả chúng ta để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Lời Chúa và bước đi theo Chúa trên con đường thập giá, nhờ đó chúng ta có thể trở nên môn đệ đích thật của Chúa Giêsu. Amen.

------------------------

 

TN 30-B167: CẦN ĐƯỢC YÊU THƯƠNG


Lm. Jos. DĐH

 

Truyện dân gian “Mù xem voi”, miêu tả 5 ông mù đi xem voi thật đáng thương. Ông mù nào TN 30-B167


Truyện dân gian “Mù xem voi”, miêu tả 5 ông mù đi xem voi thật đáng thương. Ông mù nào cũng muốn khẳng định khả năng tiên đoán của mình ! Dù mắt không sáng, mỗi ông thầy bói ấy, nhất quyết giữ lập trường của mình về hình ảnh chú voi, vì thế mà đã xảy ra xung đột cãi vã, đánh nhau…. Truyện “mù xem voi” gợi lên giá trị sâu sắc về việc đánh giá sự vật, hiện tượng, không nên chủ quan, cứng ngắc. Tính sâu sắc của ngụ ngôn còn cho thấy : con người luôn giới hạn, cần được yêu thương hơn là oán trách, mọi người hãy đón nhận nhau, giúp nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề hơn là độc tài, bảo thủ ý kiến riêng của mình.

Sáng mắt mà sống như mù lòa, không nhìn thấy gì nhưng lại cho mọi người cảm nhận “anh ta” thật sáng suốt, đúng là nghịch lý mà Tin mừng hôm nay nói tới. Sống trên đời, ai cũng vận dụng đôi tai để nghe, đôi mắt để nhìn, nhằm giúp tâm trí phân biệt tốt xấu, phải trái. Nhờ nghe, nhìn, hiểu, người ta phát hiện ra ai cũng cần được yêu thương. Giữa đám đông đầy xáo trộn, nhiều người sáng mắt nhưng họ chỉ nhận biết Đức Giêsu là Vị Thầy thỉnh thoảng làm phép lạ. Anh mù Bartimê tuy không có lợi thế nhìn, nhưng nhờ nghe, anh ta tin, và anh tuyên xưng “Đức Giêsu là Con Vua Đavit” !

Người xưa nói rằng : người ta bà con vì tình vì nghĩa, không ai bà con vì tiền vì bạc. Trong khi ai cũng muốn bà con với Thầy Giêsu, chẳng thấy ai bà con tình nghĩa gì với người mù bên vệ đường, còn có nhiều người la mắng “hãy im đi”. Kinh nghiệm cho thấy : già cần sức khỏe, trẻ cần kiến thức, đói nghèo cần cơm bánh để sống, anh mù Bartimê cần được sáng mắt, chứ không tiền của. Thực tế thì hôm nay ai trong chúng ta đây cũng là bà con của Chúa Giêsu rồi. Chúng ta đầy tình nghĩa, đầy tình yêu thương, mỗi chúng ta còn đang thiếu một thứ, có thể là hạnh phúc, là bình an, là Nước Thiên Chúa.

Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu đến trần gian để thực thi sứ mạng yêu thương cứu độ, Ngài muốn là bà con, là anh chị em với mọi người không phân biệt sang hèn, đau ốm khỏe mạnh, tội lỗi thánh thiện. Đám đông dân chúng ở Giêricô hôm nay không thể hiện được mơ ước họ đang cần Đức Giêsu đáp ứng điều gì ! cũng trong những con người tội nghiệp ấy, anh mù là đại diện kẻ cần được yêu thương kêu xin Chúa ban cho ơn được sáng, được thấy.

Ngày hôm nay, có thể người ta từng cười châm biếm những ông mù diễn tả hình thù con voi, từng coi thường đám đông Do-thái cản đường cản lối anh mù Bartinê ! Thực ra, mù không nhìn thấy là đau khổ, mắt tinh tai thính mà không thấy, không biết, Đức Giêsu là ai có gì là phúc đâu ? Nhưng để thế hệ sau không cười, không khinh thường chúng ta là những kẻ “mờ mờ ảo ảo”, trước hết mỗi chúng ta phải chứng minh được con người ai cũng cần được tình yêu thương. Dù không mù lòa câm điếc, không ích kỷ hồ đồ với anh chị em sống bên cạnh mình, không giả điếc làm ngơ trước sự hiện diện của tình yêu, Ngài cũng không thể chấp nhận ta lấp lửng với hạnh phúc chân thật được rộng rãi ban.

Hiện tại Đức Giêsu không vào thành Giêricô, nhưng môn đệ của Ngài vẫn vào thành, vào từng giáo xứ, từng gia đình, từng tâm hồn. Đức Giêsu không thích chúng ta ngốc nghếch kiểu “hỏi sư mượn lược, vào chùa xin thịt chó” ! Đức Giêsu hôm nay chúng ta có thể gặp ở mọi nơi, điều đáng quan tâm là ta có nghe, có biết, có nhìn thấy Chúa Giêsu vẫn là Thầy là Chúa, như anh mù Bartimê tuyên xưng không ? Đúng hơn, Đức Giêsu vẫn đang hỏi từng người chúng ta : “anh muốn Ta làm gì cho anh” ? Vì Ngài biết, tuy ta không mù, không điếc, không câm, nhưng ta vẫn cần được chăm sóc yêu thương!

Triết lý cuộc đời vẫn gợi lên nhiều bài học : bạn có thể tìm được sức mạnh ngay cả trong những khiếm khuyết của bạn. Anh mù Bartimê đã khiến đám đông bừng tỉnh, khi mắt tâm hồn anh không hề mù tối, tai anh ta thính đến độ biết Đức Giêsu là ai, miệng anh ta hoàn toàn tự do tuyên xưng niềm tin của mình. Có một ước mơ gặp Đức Giêsu không khó, giữ được mơ ước Đức Giêsu sẽ chữa lành cho những khiếm khuyết của ta, và quyết tâm thực hiện mơ ước của mình như anh mù Bartimê quan trọng hơn nhiều.

Thành ngữ có câu : khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giầu nghèo ba mươi tết mới hay. Mỗi chúng ta nên chứng minh cho mọi người biết mình là con cái Chúa, không thể sống mà thiếu tình yêu thương, không thể im lặng khi tai mắt và tâm hồn ta hoàn hảo không khiếm khuyết. Anh mù được sáng mắt không phải vì anh ta giầu, hay gặp may, mà chính là do anh ta biết thưa với Đức Giêsu điều cần thưa : “hỡi Ông Giêsu Con Vua Đa-vít, xin thương xót tôi”. Và Chúa đã trả lời cho anh bằng một ngôn ngữ cụ thể : “được, đức tin của anh đã cứu chữa anh”. Các bạn hãy cùng tôi gặp Đức Giêsu, hãy thể hiện niềm tin, hãy thực hành khao khát của mình đi, Ngài sẵn lòng đáp ứng điều ta kêu cầu đó. Amen.

--------------------------

 

TN 30-B168: LÒNG TIN CỦA ANH ĐÃ CỨU ANH


Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

 

Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXX Thường Niên, năm B hôm nay TN 30-B168


Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXX Thường Niên, năm B hôm nay kể lại cho chúng ta câu chuyện người mù ăn xin được sáng mắt. Trước hết, chúng ta được mời gọi tạ ơn Chúa, vì đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng, và cùng cầu xin Chúa cho đôi mắt của chúng ta, nhờ lòng tin, không chỉ nhìn mọi sự như những sự vật « tự nhiên », chẳng hạn thế giới sáng tạo, hay chỉ nhìn mọi sự có trong cuộc sống như những sự vật để hưởng thụ tùy thích, nhưng còn như những dấu chỉ nói cho chúng ta về những kì công của Thiên Chúa, về sự hiện diện của Thiên Chúa, về tình yêu và lòng thương xót của Chúa, như lời Thánh Vịnh diễn tả :

Chỉ có Người làm nên những kỳ công vĩ đại,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

(Tv 136, 4)

Một người mù đang ngồi ăn xin
Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô tương đối ngắn, nhưng lại có nhiều chi tiết về lí lịch và hoàn cảnh của người mù ăn xin :

Anh tên là Ba-ti-mê
Anh là con ông Ti-mê.
Anh ngồi bên vệ đường, gần thành Giê-ri-cô
Người mù ăn xin ở bên vệ đường, gần thành Giê-ri-cô có một tên riêng, anh có cha có mẹ, anh thuộc về một gia đình. Như thế, nỗi bất hạnh và khốn khổ của anh liên quan đến nhiều người, nhất là của những người thân yêu. Và chúng ta có thể nói, nỗi bất hạnh và khốn khổ của anh cũng là nỗi bất hạnh và khốn khổ của những người thân nữa, bởi vì cuộc sống của chúng ta tất yếu có sự liên đới.

Nơi phép lạ chữa lành dành cho anh mù Ba-ti-mê, chúng ta hãy nhận ra, để cho mình được đánh động và được cuốn hút bởi sự liên đới của Thiên Chúa dành cho loài người bệnh tật và đau khổ, trong đó có chính chúng ta và những người thân yêu của chúng ta, nơi trong Đức Giê-su Ki-tô và nhất là nơi Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh.

* * *

Bài Tin Mừng còn nêu bật lên lòng khao khát được sáng mắt, và chắc chắn đó cũng là lòng khao khát của bất cứ người mù nào trong cuộc đời này. Và cùng với lòng khao khát, là lòng tin, lòng tin nơi Đức Giê-su, là Đấng có thể làm cho anh sáng mắt, vì Người là Ánh Sáng, là Đường Đi và là Sự Sống, như sau này anh sẽ nhận ra Chân Lý toàn vẹn về Người.

Khi nghe nói, Đức Giê-su đang đi tới, anh kêu lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”
Và anh càng kêu lớn tiếng bất chấp bị người ta quát nạt bảo im đi: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”
Lòng khao của anh đã làm cho Đức Giê-su chạnh lòng: “Gọi anh ta lại đây!” và cũng làm cho nhiều người cảm thương: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến với Đức Giê-su. Và khi nghe Người hỏi đích thân: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.
Anh mù Ba-ti-mê đã trở nên sáng mắt, nhờ lời sau đây của Đức Giê-su: « Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh ». Về phương diện thể lí, đây là một biến cố lạ lùng, gây ấn tượng. Nhưng lời của Đức Giê-su mời gọi chúng ta vượt qua sự lạ lùng thể lí ở bên ngoài, để hiểu và cảm nếm ơn chữa lành của Chúa ở mức độ đức tin và ơn cứu độ. Xin Chúa Thánh Thần cũng khơi dậy nơi chúng ta lòng khao khát được chữa lành và lòng tin mạnh mẽ nơi Ngôi Vị của Đức Giê-su và thưa với Người :

Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con ! Lạy Chúa, xin cho con thấy được !

Ơn gọi của đôi mắt
Sáng mắt là điều quan trọng, nhưng để sống bình an và hạnh phúc với người khác, và nhất là với những người thân yêu và với Chúa, anh còn phải sáng lòng nữa, để nhìn ra nhận ra ân huệ, tình bạn và tình yêu của người khác và của Chúa, nhận ra sự hiện diện của người khác và của Chúa. Bởi vì, chúng ta sống không chỉ bằng những vẻ đẹp bên ngoài, nhưng còn bằng sự hiện diện của nhau, bằng vẻ đẹp của tâm hồn, bằng vẻ đẹp và những điều cao quí đến từ Thiên Chúa nữa và của chính Chúa nữa. Sáng mắt rồi, nhưng đôi mắt sáng của anh Ba-ti-mê có đi tìm Chân, Thiện, Mỹ là chính Chúa hay không, hay lại đi tìm những điều gì khác chóng qua, gian dối, sự dữ, sự xấu, làm cho mình trở nên mù quáng. Hơn nữa, con người đâu có nhìn thấy mãi, vì anh mù được sáng mắt trở lại, một ngày kia, mắt anh sẽ khép lại mãi mãi. Và đôi mắt của chúng ta cũng sẽ như thế. Bằng chứng là, từ tuổi trung niên trở đi, mắt chúng ta không còn sáng như xưa !

Ngoài ra, anh mù Ba-ti-mê được Chúa chữa cho sáng mắt, nhưng đâu phải để đứng đó mà nhìn, nhưng còn phải bước đi nữa, còn phải lựa chọn đường đi nữa. Và anh sẽ phải lựa chọn và bước đi trên con đường nào : con đường của Chúa dẫn đến sự sống hay những con đường khác, dẫn đến đau khổ cho mình và cho người khác, và cuối cùng là sự chết đời đời ?

Đức Giê-su nói với anh : « Anh hãy đi. Lòng tin của anh đã cứu anh ». Như thế, lòng tin làm cho anh thấy được và bước đi, không phải chi thấy được mọi sự như những sự vật để thụ hưởng hay loại bỏ, nhưng như là quà tặng, là kỉ niệm nói lên sự hiện diện của ai đó, là ơn huệ của Thiên Chúa, là dấu chỉ nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa. Lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy được những con người ở vẻ bề ngoài và như đối tượng để thỏa mãn nhu cầu của lòng ham muốn, nhưng như là những ngôi vị tự do, như là hình ảnh của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa, là anh chị em của mình, có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng. Và lòng tin làm cho anh thấy được, không phải chỉ thấy sự thật trần trụi ở bình diện hành vi, nhưng còn nhìn ra sự thật về ngôi vị, sự thật về một con người bất hạnh đang đau khổ. Bởi vì, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có ơn gọi không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng là nhận ra những thực tại vô hình.

Đi theo Đức Ki-tô
Chính vì thế mà, ngay sau khi được chữa lành, nhìn thấy được, anh Ba-ti-mê liền đi theo Đức Giê-su:

Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

(c. 52)

Điều này cho thấy, đức tin không chỉ làm cho anh nhận được chữa lành đôi mắt, để thấy sự vật, nhưng còn làm cho anh « thấy được » những điều vô hình ; vì nhờ đức tin, anh nhận ra Đức Ki-tô là ánh sáng, là đường, là sự thật và là sự sống, là ơn cứu độ.

Và ở bình diện này, mọi người chúng ta được mời gọi đón nhận ngay hôm nay hiệu quả chữa lành và cứu độ của đức tin : nhờ tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, và nhất là nơi Đức Ki-tô chịu đóng đinh, chúng ta được giải thoát khỏi sự nghi ngờ tình thương và lòng bao dung của Thiên Chúa, mặc cảm tội lỗi, gây chết chóc và hay bị ma quỉ lợi dụng để nhận chìm chúng ta trong bóng tối của tuyệt vọng.

* * *

Xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, để lòng chúng ta cũng được chữa lành bởi Lời Chúa, khỏi những sự nghi ngờ, ray rứt, và khỏi bệnh mù quáng, không nhận ra Chúa là ánh sáng, và là đường dẫn đến sự sống, không nhận ra anh em, chị em của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, là người thân của Đức Ki-tô, là người anh chị em của mình trong Gia Đình Mới, nơi đó chúng ta đã được ơn sinh ra, lớn lên và được ban ơn kêu gọi dâng hiến cuộc đời để xây dựng.

------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây