Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 32-B Bài 151-173 Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiêu hơn ai hết

Thứ sáu - 05/11/2021 19:48
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 32-B Bài 151-173 Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiêu hơn ai hết
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 32-B Bài 151-173 Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiêu hơn ai hết
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 32-B Bài 151-173 Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiêu hơn ai hết
----------------------------

TN 32-B151: TẠI TÂM... 1
TN 32-B152: DÂNG CHO CHÚA VỚI TẤM LÒNG BIẾT ƠN.. 3
TN 32-B153: LÒNG QUẢNG ĐẠI 6
TN 32-B154: CHUYỆN ÍT – NHIỀU.. 8
TN 32-B155: NGHÈO MÀ HẠNH PHÚC.. 13
TN 32-B156: HIẾN DÂNG TÌNH YÊU.. 14
TN 32-B157: SỐNG ĐỨC ÁI VẸN TOÀN.. 16
TN 32-B158: HŨ ÂN SỦNG KHÔNG VƠI, VÒ ĐỨC TIN KHÔNG CẠN.. 17
TN 32-B159: BÁC ÁI 21
TN 32-B160: NIỀM TIN CỦA HAI BÀ GÓA PHỤ.. 22
TN 32-B161: SUY NIỆM CHÚ GIẢI TIN MỪNG – CHÚA NHẬT 32 TN_B.. 27
TN 32-B162: KINH SƯ VÀ BÀ GÓA.. 32
TN 32-B163: TẤM LÒNG BÀ GÓA.. 36
TN 32-B164: CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_B. 39
TN 32-B165: TẤM LÒNG.. 41
TN 32-B166: QUẢNG ĐẠI 44
TN 32-B167: Lòng tốt việc tốt 46
TN 32-B168: Những cách cho trong cuộc sống. 49
TN 32-B169: Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng. 52
TN 32-B170: Suy niệm của Lm. Anfonso. 54
TN 32-B171: Quảng đại với Thiên Chúa. 56
TN 32-B172: Đồng tiền bà góa nghèo. 61
TN 32-B173: Giá trị thực. 63

--------------------------

 

TN 32-B151: TẠI TÂM


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Coi chừng Luật Sĩ giả hình, Bên ngoài áo thụng, tâm linh hẹp hòi. Công trường ưa được đua đòi TN 32-B151


Coi chừng Luật Sĩ giả hình,
Bên ngoài áo thụng, tâm linh hẹp hòi.
Công trường ưa được đua đòi,
Hội đường ghế nhất, gương soi mắt trần.
Kinh dài giả bộ lắm vần,
Gia tài nuốt hết, chia phần thù lao.
Chúa ngồi đối diện lối vào,
Bỏ tiền cúng hiến, đồng hào cắc xu.
Người giầu dâng cúng đền bù,
Có người bà góa, vài xu bỏ thùng.
Chúa vời môn đệ đến cùng,
Hãy xem, bà góa, bao dung tấm lòng.
Bà còn túng thiếu ăn đong,
Dám cho tất cả, sạch trong túi tiền.
Chắt chiu mong mỏi cửa thiền,
Tinh thần nghèo khó, cõi thiên tìm về. 

Luật sĩ là những người có học thức và thông hiểu luật lệ. Họ có quyền giải thích và thêm bớt các chi tiết của bộ luật. Hôm nay Chúa cảnh cáo: Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Có lẽ họ nói một đường, làm một nẻo hoặc nói mà không thực hành, nên Chúa đã trách cứ họ. Họ ưa được người ta chào hỏi và thích xuất hiện giữa đám đông. Họ mong muốn tìm chút vinh hoa cho đời tạm này. Chúa Giêsu tố cáo họ là chỉ thích tỏ lộ ra bên ngoài cái không có trong tâm hồn.

Các luật sĩ là những kẻ kế thừa lãnh đạo dân chúng. Họ được dân chúng kính trọng và được xem là những người đạo đức. Họ đã cố gắng chu toàn các chi tiết luật lệ do chính họ suy diễn ra hơn là giữ chính luật. Họ lạm dụng sự tin tưởng và qúy mến của dân chúng để tìm mối lợi cho chính mình. Chúa Giêsu đã vạch trần những sự giả dối của họ.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nghe những lời các luật sĩ giảng dạy, nhưng đừng bắt chước họ vì họ nói mà không làm. Đọc tới đây chúng ta cũng thấy giật mình vì như chính Chúa đang nói với chúng ta. Nhiều lần chúng ta cũng đã khuyên dạy người này người kia làm điều này, thực hiện điều nọ, nhưng chính chúng ta lại không làm được. Nhất là những người có trách nhiệm giảng dạy như giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và các thầy dạy hay các bậc phụ huynh, chúng ta phải cố gắng không ngừng sống những gì mình giảng dạy. Thực tế cuộc sống, chúng ta phải chấp nhận rằng chúng ta là những con người yếu đuối hay sa ngã phạm tội. Chúng ta còn khoảng cách rất xa với lý tưởng. Như thánh Phaolô dạy: Điều tốt tôi muốn tôi không làm. Điều xấu tôi không muốn, nhưng tôi cứ làm. Chúng ta chỉ có một Thầy dạy tuyệt hảo đó là Chúa Giêsu Kitô.

Giả như khi chúng ta đi khám bác sĩ. Bác sĩ khuyên chúng ta hãy bỏ hút thuốc. Hút thuốc sẽ có hại cho sức khỏe và dễ bị ung thư phổi. Trong khi đó bác sĩ vẫn phì phèo điếu thuốc. Hỏi rằng chúng ta có phải nghe lời ông bác sĩ không? Các Bác sĩ dựa vào những khám phá của khoa học và hậu qủa sẽ xảy ra. Chính bác sĩ không thực hành được. Chúng ta không vì thế mà không nghe lời khuyên của bác sĩ.

Thực hành những lời khuyên đúng, sẽ có ích lợi cho chúng ta. Các vị bề trên giảng dạy đúng đường lối của Chúa, chúng ta có bổn phận lắng nghe, tuân giữ và thực hành. Chúa sẽ nhìn thấu tận tâm can của con người. Chúa Giêsu đã quan sát và biết được đáy lòng của người đàn bà góa, cho dù bà chỉ bỏ có hai đồng tiền vào hòm. Chúa khen bà thật tâm đã bỏ tất cả những gì bà có. Chúng ta sẽ lãnh nhận phần thưởng nếu chúng ta thực hành các điều Chúa dạy với cả tấm lòng thành.

---------------------

 

TN 32-B152: DÂNG CHO CHÚA VỚI TẤM LÒNG BIẾT ƠN


Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

 

Cuộc sống tại Việt Nam có nhiều điều nghịch lý: Người đi đường có thể đứng hàng giờ để xem TN 32-B152


Cuộc sống tại Việt Nam có nhiều điều nghịch lý: Người đi đường có thể đứng hàng giờ để xem một tai nạn hoặc một cuộc đánh lộn xảy ra, rất nhiều người quay film, nhưng không có ai ra tay giúp nạn nhân hoặc can ngăn cuộc đánh lộn. Người ta dễ dàng đãi bạn bè ăn nhậu, nhưng lại tiếc khi biếu bố mẹ già tấm bánn. Người ta có thể la cà tại quán cà phê, quán nhậu mấy tiếng đồng hồ không sốt ruột, nhưng tham dự thánh lễ chừng 50 phút họ kêu lễ lâu. Người ta bỏ ra vài trăm ngàn hay bạc triệu cho một bữa nhậu, cho đó là rẻ, còn khi bỏ tờ năm mươi ngàn vào thùng nhà thờ thì thấy quá lớn.

Hôm nay, Lời Chúa chỉ cho chúng ta biết việc dâng cúng như thế nào là đẹp lòng Chúa. Hai câu chuyện trong bài đọc một và bài Tin Mừng có những điểm giống nhau. Bài đọc một kể câu chuyện bà góa nghèo thành Sarepta quảng đại dâng tặng cho người của Thiên Chúa cả phần lương thực cần thiết nuôi sống mẹ con bà. Lúc đó, hạn hán xảy ra trong khắp đất Israel, mùa màng thất bại, dân chúng rơi vào cảnh đói kém. Trên đường vào thành Sarepta, tiên tri Êlia thấy có một bà góa nghèo đang nhặt củi. Ông xin bà cho ông chút nước và một chút bánh để ăn cho đỡ đói. Người đàn bà này dù cũng đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo, bà thưa thật với Êlia: “Thưa ông, tôi chỉ còn một nắm bột và một chút dầu chỉ đủ cho mẹ con tôi ăn một bữa rồi chết thôi”.Dù biết hoàn cảnh bà như vậy, nhưng vị tiên tri vẫn yêu cầu bà cứ làm và trước hết đem cho ông bánh và nước, còn phần bà, Chúa sẽ làm cho hũ bột không cạn và bình dầu không vơi. Bà góa này đã tin vào lời của ông Êlia và làm như ông chỉ dạy. Thiên Chúa đã trả lại cho bà theo như sự tin tưởng và lòng quảng đại của bà. Thiên Chúa đã nuôi sống mẹ con bà đúng như lời vị tiên tri đã nói: “hũ bột không cạn và bình dầu không vơi”.

Người đàn bà Sarepta này đã dám cho đi phần ăn cuối cùng của mẹ con bà, bà dám cho đi cả những gì bà đang rất cần cho cuộc sống. Bà không quan tâm cũng không tính toán cho tương lai của mẹ con bà vì bà tin vào lời Êlia và nhận ra Thiên Chúa ở nơi con người đang ngửa tay xin bà chút nước và miếng bánh. Bà cũng tin rằng, bà cứ quảng đại với người khác, Thiên Chúa sẽ quảng đại với bà; bà cứu giúp người khác, Thiên Chúa sẽ cứu giúp mẹ con bà. Vì nghĩ và tin như thế bà đã  đón rước Êlia về nhà và Thiên Chúa đã nuôi sống gia đình bà, bà đã cho đi và Thiên Chúa đã trả lại cho bà vượt quá sự mong đợi của bà.

Nếu như câu chuyện bà góa Sarepta muốn nói đến việc quảng đại đối với người khác, thì câu chuyện Tin Mừng Marcô hôm nay thuật lại sự quảng đại của một bà góa đối với nhà Chúa. Việc dâng cúng cho Thiên Chúa cho thần linh là việc làm luôn có trong các tôn giáo. Trong các tôn giáo khác, khi dâng cúng cho thần linh, các tín đồ dâng cúng để làm cho thần linh bớt giận, để lấy lòng thần linh. Nhiều người khi dâng cúng còn mang tâm trạng của người đời, vì họ coi việc dâng cúng như để đút lót, hối lộ cho thần linh theo kiểu “tốt lễ, dễ kêu”. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải vậy.

Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên tất cả mọi loài mọi vật và là đấng quan phòng chăm lo cho tất cả mọi vật, mọi loài và từng người. Mọi sự đều thuộc về Chúa, đều là của Chúa, Thiên Chúa là đấng đầy tràn và không thiếu thốn điều gì. Như thế, việc người tín hữu dâng cúng hay dâng tặng lại cho Thiên Chúa, cho nhà của Chúa không phải là việc bố thí cho Chúa, cũng không phải là dịp để kể lể ghi công ghi sổ nợ cho Thiên Chúa, mà phải là một thái độ chân thành, dâng lên Thiên Chúa với tâm tình biết ơn.

Bà góa nghèo trong Tin Mừng đã làm với tâm tình như thế, bà được Chúa Giêsu khen và còn lấy để làm gương cho các tông đồ. Lúc đó, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi quan sát đám đông bỏ tiền vào thùng. Có những người giàu có bỏ vào đó số tiền khá lớn, Chúa Giêsu không khen những người này, vì thái độ và cách thức của họ khi dâng cúng làm giảm bớt giá trị của lễ họ dâng cúng. Những người biệt phái và những người giàu trong câu chuyện khi dâng cúng họ đặt nặng hình thức bên ngoài để cho mọi người phải biết, phải thấy việc họ làm. Khi dâng cúng vào đền thờ, họ thiếu một thái độ quan trọng, đó là lòng biết ơn về tất cả những gì Chúa đã ban cho họ. Trái lại, họ bỏ tiền vào đền thờ như thể họ là người bố thí cho đền thờ, bố thí cho Thiên Chúa, mua chuộc Thiên Chúa. Khi đóng góp vào nhà thờ với thái độ huênh hoang như thế, thực ra họ đang đi mua lời khen từ nhừ những người chung quanh hơn là vì lòng yêu mến Thiên Chúa.

Có một bà góa nghèo, chẳng ai quan tâm đến bà vì dáng vẻ khắc khổ bên ngoài của bà. Hơn nữa, trong xã hội Do Thái lúc đó, bà góa là tầng lớp thấp kém trong xã hội, những người lệ thuộc và phải đón nhận sự trợ giúp của cộng đồng. Bà góa này lặng lẽ bước đến bên thùng tiền, móc hết trong ruột tượng của mình được hai đồng kẽm, tương đương một phần tư xu. Bà bỏ vào thùng để dâng cho Chúa, rồi lặng lẽ biến mất vào đám đông. Thế nhưng, trong mắt của Chúa Giêsu, bà không hề bị biến mất, trái lại bà còn được nêu lên như một tấm gương cho các môn đệ của Chúa. Hai đồng kẽm chẳng đáng là gì so với người giàu, nhưng lại là một món tiền lớn, là cả một gia tài của bà góa nghèo. Bà không tiếc gì đối với Chúa vì bà tin rằng cuộc sống của bà và mọi sự của bà đều là của Thiên Chúa, do Thiên chúa ban cho bà, nuôi sống bà. Vì thế, bà sẵn sàng dâng lại cho Chúa của tích góp ít ỏi của mình với lòng chân thành biết ơn Thiên Chúa. Bà đang phải sống nhờ người khác giúp đỡ, nhưng bà còn tin mạnh mẽ rằng, chính Thiên Chúa đang nuôi sống bà mỗi ngày qua những người quảng đại. Vì thế, bà cũng không cần phải tính toán gì với Chúa, vì tất cả những gì bà tích góp được cũng là của Chúa ban.

Trước mặt Thiên Chúa việc dâng nhiều hay dâng ít không quan trọng cho bằng việc dâng lên Chúa với tâm tình nào. Chúa Giêsu đã khen bà góa và còn kể bà là người đã bỏ vào thùng nhiều nhất. Vì các người khác dâng cúng những của dư thừa, nhưng bà góa này còn dâng cho Chúa cả tương lai và cuộc sống của bà cho Chúa, bà dâng cho Chúa tất cả những gì cần thiết để nuôi sống bản thân.

Ngày nay trong các giáo xứ có rất nhiều người quảng đại với công việc chung của nhà Chúa, sẵn sàng hy sinh bớt những chi tiêu của nhà mình để dành điều tốt nhất cho nhà Chúa. Cũng có rất nhiều người có tấm lòng rộng mở bằng việc chia sẻ với các anh chị em khó khăn. Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay vẫn muốn chúng ta mỗi khi dâng tặng cho Chúa hoặc chia sẻ với anh em túng nghèo, chúng ta cần có một ý hướng ngay lành, có mục tiêu trong sáng và nhất là luôn mang trong mình tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Chúng ta dâng tặng lại cho Chúa hoặc chia sẻ với anh em vì tin rằng mọi sự chúng ta có, ta được là do Thiên Chúa ban. Vì vậy, việc dâng cúng cho Thiên Chúa là ta lấy chính của Chúa đã ban để dâng lại cho Chúa với lòng biết ơn chân thành. Cũng vậy, chúng ta chia sẻ với anh em vì tin rằng Chúa yêu thương chúng ta nhiều, cho chúng ta có cơ hội và khả năng nhiều hơn các anh chị em khác. Vì vậy, việc chia sẻ cũng là việc làm tri ân Thiên Chúa và lòng thành của mình nghĩ tới anh chị em.

Nhưng điều sâu xa hơn Chúa muốn nơi chúng ta là dám sống phó thác, tin tưởng vào Chúa, dám đặt trọn đời sống ta trong tay Chúa. Dù Chúa ban cho chúng ta có của dư dật hoặc túng thiếu, một khi ta dám quảng đại với Thiên Chúa và với anh em, thì Thiên Chúa không quên việc chúng ta làm và Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của chúng ta. Cần gạt bỏ khỏi mình lối sống hình thức, giả tạo với Chúa và phô trương với mọi người, mà không có sự chân thật bên trong. Cũng cần cảnh giác với các phong trào từ thiện như là dịp để đánh bóng tên tuổi của mình hay của nhóm mình mà thiếu đức bác ái thật sự. Vì bác ái Kitô giáo không chỉ là việc bố thí, cho đi những của dư thừa, cũng không phải là công tác từ thiện xã hội, mà là sự chia sẻ ngay cả những cái mình đang cần đang dùng. Việc dâng tặng cho Chúa và giúp đỡ anh em là vì nhận ra Chúa là chủ mọi loài và anh em là hình ảnh của Thiên Chúa.

Xin Chúa giúp chúng ta theo gương bà góa trong Tin Mừng hôm nay dám sống quảng đại với Chúa và anh em, phó thác hoàn toàn cuộc sống hiện tại và tương lai cho Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.

----------------------------

 

TN 32-B153: LÒNG QUẢNG ĐẠI


Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao tấm lòng quảng đại của hai bà goá nghèo. Bà góa thời Cựu TN 32-B153


Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao tấm lòng quảng đại của hai bà goá nghèo. Bà góa thời Cựu ước, tiên tri Êlia gặp ở cửa thành Sarephta. Bà đã hi sinh cho vị tiên tri một chiếc bánh nhỏ. Còn bà góa thời Tân ước, Đức Giêsu gặp ở cửa đền thờ Giêrusalem, Bà dâng cúng đồng tiền nhỏ vào Đền thờ.

Thế thì, do đâu mà hai bà goá này được đề cao trong Thánh kinh?. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì đâu! Một đồng xu nhỏ chẳng có giá trị là mấy! Thế nhưng, hai bà được đề cao là do lòng quảng đại biết cho đi. Bởi vì, chiếc bánh nhỏ mà bà goá cho vị tiên tri, là cả sự sống còn lại của mẹ con bà. Đồng xu nhỏ của bà goá nghèo dâng vào Đền thờ là cả tài sản của bà.

Bài đọc I ghi lại: Khi ấy, cả xứ Sarephta gặp nạn đói lớn, do hạn hán mất mùa, nên lương thực cạn kiệt. Bà goá nghèo chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu ăn. Bà đi kiếm củi về nhà làm một chiếc bánh nhỏ cho hai mẹ con ăn lần cuối rồi nằm chờ chết.

Thế mà, khi tiên tri Êlia ngỏ lời xin bà chiếc bánh ấy, chiếc bánh trong hoàn cảnh lúc này thật cần thiết cho sự sống biết bao, vậy mà bà sẵn sàng nhường phần cho vị tiên tri. Chính việc chia sẻ tấm bánh trong lúc đói kém như vậy, đã làm nổi bậc lên tấm lòng quảng đại biết cho đi, nhưng rồi Chúa không thua lòng quảng đại, đã bù đắp cho bà hủ bột sẽ không vơi và bình dầu sẽ không cạn.

Chúng ta biết nền tảng của Đạo Chúa là yêu thương: Kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như Chúa yêu. Mà đặc tính của yêu thương là trao ban, là hi sinh. Thương ít thì cho ít, thương nhiều thì cho nhiều.

Và của cho không bằng cách cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý bằng của ít lòng nhiều. Và của cho quý nhất chính cái mình đang cần thiết. Như bà goá xứ Sarephta, chỉ còn chiếc bánh cuối cùng dành cho hai mẹ con bà, nhưng vì yêu thương bà sẵn sàng cho đi hết. Và bà goá ở Giêrusalem cũng thế, dù chỉ dâng trong đền thờ một đồng xu nhỏ, nhưng đó là cả gia tài của bà.

Từ việc Đức Giêsu quan sát bà góa nghèo dâng tiền trong đền thờ, cho chúng ta thấy Chúa quan tâm tới những người bé nhỏ, nghèo hèn.

 Tin Mừng ghi lại: Có lắm người giầu có dâng cúng nhiều tiền trong đền thờ, vậy mà Chúa chẳng để ý, mà chỉ quan tâm đến một người nghèo hèn nhất. Quả thật, Chúa như người mục tử nhân lành, bỏ chín mươi chín con chiên béo tốt để đi tìm một con chiên lạc bé nhỏ. Như người phụ nữ đốt đèn tìm cho bằng được một đồng tiền nhỏ bị đánh rơi.

Biết bao người giầu sang Chúa không nhìn, mà chỉ nhìn người phụ nữ nghèo nàn, gầy còm rách rưới.

Biết bao người dâng cúng những đồng tiền lớn trong đền thờ mà Chúa chẳng khen, mà chỉ khen một người phụ nữ nghèo, dù chỉ dâng hai đồng xu nhỏ.

Lời khen ấy Chúa nói rõ với các môn đệ: “Trong những người bỏ tiền vào hòm, chỉ có bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết, vì bà đã dâng hiết những gì mình có”.

Thì ra, Chúa đánh giá không dựa theo số lượng nhưng theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng. Một tấm lòng quảng đại biết cho đi tất cả những gì cần thiết cho đời sống mình.

Anh chị em thân mến,

Mỗi lần tham dự Thánh lễ, là chúng ta đi dâng của lễ cho Chúa. Bởi vì, vị linh mục chủ tế mời gọi “Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi và của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận”. Như vậy, anh chị em dâng lễ vật gì cho Chúa?.

Các tín hữu thời sơ khai mỗi lần đi dâng lễ họ đều mang của lễ dâng cho Chúa. Ai có thứ gì thì mang dâng cho Chúa thứ đó. Chắc chắn, Chúa không đòi chúng ta nhiều, nhưng đòi hết những gì chúng ta có để dâng cho Ngài.

Anh chị em thử nghĩ xem, mỗi ngày có 24 giờ. Mỗi tuần có 168 giờ, nhưng thử hỏi chúng ta dành cho Chúa, dành cho việc sống đạo được bao nhiêu giờ?.

Trong khi đó điều răn thứ Ba Chúa dạy: Giữ ngày Chúa Nhật, ấy thế mà, có những người làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật.

Thậm thí, dành cho Chúa một giờ đi tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật, nhưng có người lại đi trễ về sớm, chưa kể lo ra chia trí khi ít khi nhiều, khi nào cũng có.

Lẽ ra, tất cả những gì chúng ta có đều là của Chúa, thì xin dâng lại cho Chúa, để tùy Chúa sử dụng theo thánh ý Ngài. Thế nhưng, thực tế đôi khi chúng ta còn tính toán với Chúa nhiều lắm.

Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ, với tất cả ý thức, chúng ta dâng của lễ tấm lòng lên cho Chúa. Dâng bánh rượu là hoa màu ruộng đất và công lao khó nhọc, để Chúa biến thành Mình và Máu thánh Chúa cho chúng ta.

Dâng những vui buồn, những thành công thất bại, dâng cả những tội lỗi, dâng những người đau khổ, bệnh tật, dâng cả thế giới và các linh hồn trong luyện ngục, để rồi Chúa sẽ ban lại ơn bình an theo như lòng chúng ta ước nguyện.

Noi gương hai bà góa nghèo được đề cao trong Thánh kinh. Xin Chúa thương giúp chúng ta biết sống quảng đại với Chúa, và quảng đại với nhau, như Chúa đã không ngừng quảng đại với chúng ta. Amen.

-----------------------------

 

TN 32-B154: CHUYỆN ÍT – NHIỀU


Trầm Thiên Thu

 

Giàu hoặc nghèo đều sinh ra tay trắng. Sướng hay khổ cũng chết vẫn trắng tay. Đó là chân lý TN 32-B154


Giàu hoặc nghèo đều sinh ra tay trắng
Sướng hay khổ cũng chết vẫn trắng tay

Đó là chân lý bất biến muôn thuở mà ai cũng biết. Sinh ra và lớn lên, cuộc sống mỗi người đều khác nhau về mọi phương diện, nhưng giống nhau về cái khoản “tay không” lúc đến (sinh) và lúc đi (chết), dù cả đời vốn liếng NHIỀU hay ÍT.

Thật “thú vị” với cách nói của người Việt: Giàu sang và nghèo hèn. Ai “giàu” thì thường cũng được coi là “sang”, còn ai “nghèo” thì thường bị coi là “hèn”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có khi “giàu” mà không “sang”, hoặc “nghèo” mà không “hèn”. Điều đó còn tùy nhân cách của người đó. Thể thụ động ĐƯỢC hoặc BỊ của Việt ngữ rất độc đáo – “được” dùng cho cái tốt, “bị” dùng cho cái không tốt, ngoại ngữ không thể lột tả hết tình trạng thụ động như Việt ngữ.

Chắc hẳn không ai muốn nghèo, và càng chắc chắn hơn là chẳng ai muốn hèn. Cũng vậy, ai cũng muốn mình giàu và sang. Nhưng người chịu cảnh “đời hèn” khác hẳn với người “sống hèn”. Người nghèo bị coi là hèn, nhưng có thể người đó không hề sống hèn; còn người giàu luôn được coi là sang, nhưng chưa hẳn đã “sống sang” mà thậm chí còn “sống hèn”. Đó mới là chuyện đáng nói!

Trong cuộc sống đời thường, người ta thường khôi hài thực tế: “Đi xe khỏe hơn đi bộ, đi bộ ngộ hơn đi xe”. Nhưng thật ra chưa chắc ai hơn ai! Tiền nhân cũng đã phân tích và xác định rõ ràng, như một dạng cảnh báo mà thực tế đã chứng minh:

Chớ thấy áo rách mà cười

Những giống gà nòi lông nó lơ thơ

Đề cập động tác “đi” là ngụ ý phải sử dụng đôi chân – theo nghĩa đen. Tuy nhiên, theo nghĩa bóng thì người ta không chỉ “đi” bằng đôi chân mà còn phải “đi” bằng cái đầu. Hơn thua nhau là “cách đi” – nhanh hay chậm không thành vấn đề mà là không “bán đồ nhi phế”, quyết tâm kiên trì tới cùng.

Trình thuật 1 V 17:10-16 cho biết một “sự lạ” về chuyện ít – nhiều khá thú vị thế này…

Vào một ngày nọ, ông Êlia đi Xarépta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống” (1 V 17:10). Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (1 V 17:11). Bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1 V 17:12). Nhưng ông Êlia liền nói: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà” (1 V 17:13). Rồi ông nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa: “Hũ bột sẽ KHÔNG VƠI, vò dầu sẽ CHẲNG CẠN, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).

Không hề đắn đo hoặc so hơn tính thiệt, bà góa liền làm theo lời ông Êlia nói. Điều đó chứng tỏ bà ấy có lòng tin mạnh mẽ, vì bà ấy tin ông Êlia nói thật, đặc biệt là bà ấy vững tin vào lời Chúa hứa. Và phép lạ đã xảy ra đúng như vậy: Bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, y như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà tuyên phán. Quả thật, bà góa này nghèo khổ nhưng vẫn “sống sang”, vẫn quên mình, trọn lòng yêu thương và bác ái vô điều kiện.

Cách bác ái của bà góa lá cấp độ yêu thương cao nhất, như vậy mới thực sự là bác ái. Bình thường thì chúng ta chỉ ở mức BỐ THÍ (cho để tránh bị quấy rầy) hoặc CÔNG BẰNG (dư thì cho, thậm chí là cho đồ thừa). Còn BÁC ÁI là CHO CÁI MÀ MÌNH VẪN CẦN, yêu thương vô điều kiện – vì người chứ không vì mình. Người nào thực sự sống đức bác ái mới đúng là thánh nhân. Quả thật, không hề đơn giản như chúng ta tưởng hoặc suy luận!

Đấng yêu thương là Thiên Chúa, luôn chạnh lòng thương xót, động lòng trắc ẩn, và chính Ngài cũng là nguồn sống: “Ngài là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Thật vậy, cũng chính Ngài “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7b-9). Thiên Chúa yêu quý và tôn trọng những người nghèo khổ và hèn mọn, không thích “quen thân” với những người giàu có và sang trọng. Còn chúng ta? Có thể trả lời ngay và dám trả lời thật?

Đó là tình yêu của Thiên Chúa, và Con-Tim-Yêu của Chúa Giêsu như thế đấy – chúng ta gọi Trái-Tim-Yêu đó là Thánh Tâm, là Lòng Chúa Thương Xót, bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót (Ep 2:4), là Đấng “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10). Thiên Chúa cao sang là thế, uy quyền là thế, giàu có là thế, nhưng Ngài lại chỉ thân thiện với những người bị xã hội xa lánh, ruồng bỏ. Ai sống như Ngài mới đích thực là đệ tử của Ngài, nếu không thì chỉ là giả hình, lẻo mép. Sự thật có thể làm “mất lòng” như thế đấy!

Mạnh mẽ minh định, Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9:24). Ngài vào đó không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. Thế nhưng “Ngài đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành” (Dt 9:26a). Hai dạng ít – nhiều khác nhau.

Và rồi Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vào kỳ kết thúc thời gian, Ngài đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9:26b). Con Thiên Chúa đã chịu chết để cho phàm nhân chúng ta biết thân phận mình cũng phải chết, chết cho tội lỗi: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Chính Đức Kitô đã “tự hiến tế chỉ một lần để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9:28a). Và Ngài sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này “không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Ngài” (Dt 9:28b).

Vậy ai là người trông đợi Đức Kitô giáng lâm? Đó là các tín nhân – những người tín thác vào Chúa. Ai tín thác vào Chúa thì phải sống đức tin, ai muốn sống đức tin thì phải yêu thương tha nhân. Tuy nhiên, yêu tha nhân không phải là chỉ yêu thương người cùng phe với mình, người giàu sang, người có địa vị, người có quyền thế,… mà PHẢI thành tâm yêu thương những người khốn cùng trong xã hội, kể cả kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44), “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em,28 hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:27-28). Yêu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động cụ thể. Đó là cách thể hiện đức tin, là thực hành Lòng Chúa Thương Xót, và cũng là thực hành Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.

Ngày xưa, trong một lần giảng dạy, Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ƯA dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, THÍCH được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ƯA chiếm ghế danh dự trong hội đường, THÍCH ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ NUỐT hết tài sản của các bà goá, lại còn LÀM BỘ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12:38-40). Các chữ “Ưa – Thích – Nuốt” đáng quan ngại biết bao! Đọc lời trực ngôn này của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta nghĩ Ngài nói người khác chứ mình không hề liên quan. Nếu thế thì “lầm to”, bởi vì Ngài nói thẳng với mỗi chúng ta chứ chẳng trừ ai ráo trọi. Có thể chúng ta không tỏ vẻ vênh vang ra mặt, nhưng chúng ta có cách thể hiện “ta đây” một cách rất tinh vi, rất khó có thể nhận ra. Và rồi nếu có bị người khác phát hiện thì lại biện hộ với đủ lý do và rất đúng quy trình.

Có thể mỗi nước, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc khác nhau về văn hóa và phong cách, nhưng hẳn là vẫn có “nét” nào đó tương tự. Tại Việt Nam, người xưa thường mặc khăn đóng và áo dài, nhất là những người có chức có quyền, nhưng họ có hai loại áo dài: Một loại có vạt trước ngắn (vạt sau dài), một loại có vạt sau ngắn (vạt trước dài). Áo gì kỳ vậy, và để làm gì với loại áo “đặc biệt” đó?

Người xưa cũng mưu mô đáo để đấy, vạt nào dài và vạt nào ngắn đều có đặc dụng của nó. Khi đứng trước vua chúa hoặc ông quan lớn hơn mình, họ mặc áo-dài-có-vạt-trước-ngắn và vạt-sau-dài. Nghĩa là họ phải khom lưng, phải qụy lụy, chịu “lép vế”, chịu luồn cúi,… cần có vạt trước ngắn để không vướng víu, vạt sau dài để che chắn “khu nhạy cảm”. Nhưng khi đứng trước đám dân đen, họ mặc áo-dài-có-vạt-sau-ngắn và vạt-trước-dài. Nghĩa là họ ưỡn ngực, cao ngạo, vênh vang, hống hách, truyền lệnh, thị uy, hét ra lửa,… cần có vạt trước dài để che chắn và vạt sau ngắn để không vướng víu.

Và chính mỗi chúng ta cũng thường “sử dụng” hai loại áo ấy để… “đối phó” – nói văn hoa là “tùy cơ ứng biến”. Nhưng những loại “áo đặc biệt” đó ngày nay là loại “siêu trang phục”, khó phát hiện vạt nào dài và vạt nào ngắn!

Kinh Thánh cho biết rằng, một hôm Đức Giêsu vào Đền Thờ và ngồi đối diện với thùng tiền (hòm tiền, giỏ tiền) dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó thế nào. Có lắm người giàu bỏ thật NHIỀU TIỀN, họ ngó quanh rồi hãnh diện “giơ cao, thả mạnh”. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma, bà lúi cúi đến gần thùng tiền rồi bước đi nhanh, sợ người khác nhìn thấy, bởi vì bà… ngại lắm, thậm chí bà còn “sợ” bị người ta phát hiện mình bỏ ÍT TIỀN vô cái thùng to đùng kia.

[Xin được mở cái ngoặc bé xíu: Theo Hy ngữ, đồng tiền kẽm gọi là “lepton” (số ít, “lepta” là số nhiều). HAI đồng kẽm có giá trị bằng MỘT quadrans, tương đương 1/4 đồng xu Rôma – đơn vị tiền tệ nhỏ nhất của đế quốc Rôma thời đó. Khi tiền đó được lưu hành ở Palestine, một lepton trị giá khoảng “sáu phút làm công” theo mức lương trung bình mỗi ngày].

Chúa Giêsu quan sát thấy “phong cách” của mỗi người khác nhau, Ngài liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng NHIỀU hơn ai hết” (Mc 12:43). Quá “sốc”! Quá khó nghe! Thế nhưng lại hoàn toàn đúng, vì “mọi người đều rút từ TIỀN DƯ BẠC THỪA của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, TẤT CẢ NHỮNG GÌ BÀ CÓ để nuôi sống mình” (Mc 12:44). Có lẽ vóc dáng của bà không cao lớn nhưnh tấm lòng của bà to lớn quá!

Có thể có những người trong chúng ta vẫn ảo tưởng khi đi làm từ thiện hoặc làm những việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái” hoặc “việc tông đồ”, cho rằng như vậy là “oai” lắm, nhưng đôi khi lại chỉ là “chiếc áo tàng hình”. Lời Chúa hôm nay khiến chúng ta phải tự minh định lại động lực thúc đẩy mình hành động. Xét để Sửa là tốt!

Trên website CWN (ngày 29-10-2012) có đăng một tin ngắn về việc TGM Socrates Villegas, TGP Lingayen-Dagupan (Philippines), viết thư gởi các linh mục thuộc giáo phận của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh: “Chư huynh linh mục thân mến, CÁC BÍ TÍCH KHÔNG ĐƯỢC CỬ HÀNH ĐỂ LẤY TIỀN. Thương mại hóa sự thánh thiêng là BUÔN THẦN BÁN THÁNH (practice of simony). ĐÓ LÀ TỘI LỖI”. Một giám mục cương quyết như vậy mới đúng là chủ chăn đích thực của Thiên Chúa, chỉ vì lợi ích cho chính Thiên Chúa và nhân dân của Ngài. Tin tức đã cũ nhưng ý tưởng vẫn luôn mới nguyên!

Quả thật, đó là một trong những điều khiến chúng ta phải “giật mình” mà phải “tự xét mình” một cách nghiêm túc hơn, trước khi Đức Kitô đến thế gian lần thứ hai để xét xử – vì lúc đó không thể chấn chỉnh chi được nữa!

Lạy Thiên Chúa muôn trùng cao cả, con thành tâm xin lỗi Chúa, xin giúp con biết noi gương Con Chúa là sẵn sàng chia sẻ mọi nỗi đau của những con người hèn mọn hằng ngày ở xung quanh con, bằng cách mở rộng tấm lòng và mở rộng đôi tay, tất cả chỉ để vinh danh Chúa chứ không vì tiếng tăm riêng đời này, để cứu các linh hồn, và để đền tội riêng của con ngay ở đời này. Ngài ở đâu thì xin cho con cũng được ở đấy. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

------------------------

 

TN 32-B155: NGHÈO MÀ HẠNH PHÚC


Anna Cỏ May

 

Được sống trong nhà cao cửa rộng, đầu đủ mọi tiện nghi, có một công việc thuận lợi là điều TN 32-B155


Được sống trong nhà cao cửa rộng, đầu đủ mọi tiện nghi, có một công việc thuận lợi là điều ai cũng mong ước. Nhưng liệu đó có phải là hạnh phúc thật không? Hạnh phúc không chỉ đến từ việc lãnh nhận hay sở hữu nhưng hạnh phúc còn đến từ sự chia sẻ, trao ban.

Hôm nay, Tin Mừng theo Thánh sử Mác cô đã cho chúng ta một hình ảnh tuyệt đẹp về sự dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của một người nghèo. Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài thấy có lắm người giàu có bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, giá trị một phần tư đồng tiền Rôma (x.Mc 12, 41-42). Ngài đã thấy nhiều người cùng chung một hành động là bỏ tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Thế nhưng giá trị đồng tiền lại khác nhau. Những người giàu có bỏ vào số tiền dư thừa nhưng bà goá nghèo chỉ bỏ một đồng tiền nhưng lại là cả một gia tài đối với bà. Bà bỏ đồng tiền của mình một cách không chần chừ và với niềm tin tưởng phó thác vào tình yêu Thiên Chúa. Bà không có ai chăm sóc, phải tự nuôi sống mình, phải tiết kiệm dành dụm nên bà đã dùng tiền đó để chuẩn bị cho cuộc sống đời sau. Bà biết mình không còn sống được bao lâu ở trần gian, chỉ còn hy vọng là sống hạnh phúc trên Nước Trời. Bởi vậy, Chúa Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì nuôi thân” (Mc 12, 43-44).

Ngày nay, có nhiều kiểu người giàu. Người giàu trong sự chắt chiu và tiết kiệm; có người giàu nhờ sự bất chính trong làm ăn nhưng cũng có người giàu trong sự công chính. Có rất nhiều người giàu biết chia sẻ tinh thần Phúc Âm, là yêu người thân cận như chính mình (x.Mc 12, 31). Song, cũng có người chia sẻ với mọi người vì hư danh giữa đời. Vậy người giàu nào sẽ vào Nước Trời? Ngược lại người giàu có là những người nghèo. Có người nghèo vật chất lẫn tinh thần nhưng có người nghèo vật chất nhưng lại quảng đại bao dung với người nghèo và cần nhu cầu hơn mình. Cái nghèo vật chất không đáng sợ cho bằng cái nghèo Nước Trời. Bà goá nghèo đã đón nhận cái nghèo và sự cô đơn ở trần gian nhưng bên trong tâm hồn bà lại là một sự giàu có Nước Trời. Trong Tám mối phúc, Chúa Giê-su đã nói: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Bà goá nghèo đã hưởng trọn mối phúc chúc lành của Chúa Giê-su.

Lạy Chúa, cuộc sống khác biệt giữa người giàu và người nghèo luôn tiếp diễn. Hạnh phúc ảo và hạnh phúc thật vẫn còn đó. Xin cho mỗi người chúng con biết đón nhận cuộc sống hiện tại của mình. Dù nghèo hay giàu, xin cho chúng con cũng biết tin tưởng, phó thác và thực thi tinh thần Phúc Âm là mến Chúa yêu người. Amen.

-----------------------------

 

TN 32-B156: HIẾN DÂNG TÌNH YÊU


Bông hồng nhỏ

 

Người ăn xin bước tập tễnh trên con đường bụi mù mịt, tay cầm cái nón lá, lấy chút gió mát giữa TN 32-B156


Người ăn xin bước tập tễnh trên con đường bụi mù mịt, tay cầm cái nón lá, lấy chút gió mát giữa trưa hè nóng nực. Người thanh niên vai mang balô đạp xe qua. Thấy ông, anh dừng xe lại, mở balô như muốn tìm kiếm thứ gì. Người ăn xin như chờ một vận may.

Thưa ông. Cháu chỉ có chai nước này, ông uống cho mát ạ.

Nói rồi anh nở nụ cười dễ mến, nhìn ông. Ông đưa tay đón lấy, rồi mở nước uống vài ngụm.

Cám ơn cậu! Cậu đã cho tôi thứ tôi cần nhất lúc này.

Giá trị của lòng bác ái không hệ tại ở vật chất được trao ban nhưng hệ tại ở tình yêu được trao tặng.

Trong âm thanh rộn ràng của những đồng tiền dâng cúng bỏ vào hòm, bước chân rộn rã của những người vào Đền Thờ, Thầy Giê-su chọn một chỗ ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Ở đây, Thầy lặng lẽ quan sát cách người ta bỏ tiền vào thùng. Trong đám đông, có một người rất đặc biệt, đó là một bà goá nghèo. Bà này bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, giá trị một phần tư đồng xu Rôma (x.Mc 12, 42). Thầy gọi các môn đệ lại gần để xem, dạy các ông biết đâu là lòng yêu mến Thiên Chúa thật sự. Các kinh sư luôn cầu nguyện lâu giờ, nắm rõ Lề Luật nhưng họ lại sống xa rời Thiên Chúa. Họ đã không yêu mến Thiên Chúa thật tâm. Bởi vậy, Thầy Giê-su đã lên án họ và dạy các môn đệ của mình phải coi chừng lối sống ấy. Còn bà goá nghèo tuy chỉ bỏ vào hai đồng tiền kẽm để dâng lên Thiên Chúa nhưng lại được Thầy Giê-su khen ngợi và lấy làm gương cho các môn đệ. Điều quan trọng không phải là số tiền ta đã dâng cúng nhiều hay ít, công trạng ta lập được ra sao nhưng điều cần thiết nhất và quan trọng nhất là ở lòng mến Chúa. Nếu ta dâng cúng thật nhiều tiền, bố thí thật nhiều tiền để cho người khác biết, chỉ ham hư danh thì tất cả những điều ta làm đó chẳng là gì cả, vì ta đã chẳng có lòng mến Chúa và yêu người thật sự. Thế nhưng, trong hoàn cảnh túng thiếu của mình, ta vẫn quảng đại dâng lên Thiên Chúa với lòng yêu mến chân thành thì Thiên Chúa đã chúc phúc cho ta. Ai biết phó thác nơi Thiên Chúa quan phòng, tin tưởng vào Chúa thì sẽ tìm được hạnh phúc trong chính tâm hồn mình.

Bà goá nghèo đã bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Trong cái nghèo của mình, bà có thể giữ cho mình chút tiền ít ỏi ấy để sống qua ngày. Thiên Chúa biết rõ tình trạng của bà và Ngài sẽ chẳng trách tội. Nhưng chính lòng quảng đại của bà, niềm phó thác trọn vẹn cả cuộc sống và sự sống của mình nơi bà đã trở thành của lễ tuyệt đẹp dâng lên Thiên Chúa. Bà nghèo thật nhưng bà rất giàu tình yêu. Ta có giàu tình yêu Chúa như bà goá nghèo không? Ta có dâng tất cả tài sản, tất cả cuộc sống, và dâng cả sự sống mình cho Thiên Chúa?

Lạy Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu! Cảm tạ Chúa đã cho con diễm phúc được làm con của Chúa, được sống trong tình yêu quan phòng của Chúa. Phận làm con, con phải thờ phượng và kính mến Chúa trên hết mọi sự. Xin cho con biết yêu mến đời sống cầu nguyện, khao khát làm đẹp lòng Chúa và nhất là, xin cho đời sống của con được thống nhất. Xin cho con nhớ rằng chính lúc con yêu thương anh chị em mình là lúc con đang thờ phượng Chúa và làm vinh danh Chúa. Con xin hiến dâng chính mình con cho Chúa. Amen.

-------------------------------

 

TN 32-B157: SỐNG ĐỨC ÁI VẸN TOÀN


Lm. Jos. DĐH.

 

Trong ứng xử hàng ngày, ít nhiều chúng ta cũng chịu ảnh hưởng bởi quan niệm khá chủ quan: đàn TN 32-B157


Trong ứng xử hàng ngày, ít nhiều chúng ta cũng chịu ảnh hưởng bởi quan niệm khá chủ quan: đàn bà rậm tóc thì sang, đàn ông rậm tóc chỉ toan nặng đầu ; khô chân gân mặt, đắt tiền cũng mua ; chữ tốt xem tay, người hay xem khoáy. Xã hội từ xa xưa vẫn kính trọng người tài đức, vị nể các đại gia, sợ kẻ quyền thế, chính sự tương đối về hình thức, nội dung, hay giá trị của “phẩm và lượng”, vẫn đầy nguy cơ làm sai lệch đi tính chuẩn mực khách quan. Hình dáng diện mạo, bằng cấp trình độ, phong cách sống, hoặc mục đích hướng tới, cũng chỉ là nét đẹp bên ngoài so với sự xinh đẹp an bình trong tâm mỗi người. Thật giả lẫn lộn, tốt xấu, không dễ kiểm chứng, cũng vì vậy mà bậc sinh thành thường nhắc con cháu lưu ý đến thời gian: thức khuya mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân.

Bầu khí đến trường của học sinh sinh viên có phải là đến lĩnh hội kiến thức, hay chỉ là đến cho hết ngày hết tháng hết năm ? Khởi đầu ngày mới, ai cũng có quyền mơ ước thành công, niềm vui, hạnh phúc, điều đó sẽ tuỳ vào cách sống, ý chí quyết tâm của mỗi người. Hàng ngày, hàng tuần, người kitô hữu chúng ta đến nhà thờ cầu nguyện, xin ơn, tạ ơn, nhưng đâu phải là không có tình trạng đến vì thói quen, đến với Chúa, gặp Chúa hay không, vấn đề lại phức tạp hơn nhiều ! Trước khi nói tới việc sống đức ái, Chúa Giêsu cảnh giác đám đông về tính chất thật giả, cái đẹp bắt mắt, đáng sợ: ăn mặc diêm dúa, phung phí tài sản công, phóng khoáng trong suy nghĩ, ưa chuộng hình thức bề ngoài.

Xã hội thời nào cũng kêu gọi tấm lòng vàng, đề cao chữ tình chữ nghĩa, hãy chung sức chung lòng xoá đói giảm nghèo, sống công bình, chống tham nhũng, chủ trương dân giầu nước mạnh, loại bỏ những phần tử tiêu cực, thích an nhàn, thụ hưởng,.. Nối tiếp truyền thống: giầu tình giầu nghĩa mới cho là giầu, Chúa Giêsu chỉ dẫn các môn đệ sống niềm tin cụ thể rõ ràng, sống yêu thương như bà goá nghèo. Phép tính “cộng trừ”, mọi người đều thuần thục từ khi có trí khôn, còn phép tính về “đức ái, đức độ”, giầu tình, giầu nghĩa”, Chúa Giêsu mời gọi con người hãy “học và hành” theo tinh thần của bà goá. Của cho không bằng cách cho, lời chào cao hơn mâm cỗ, chúng ta đã nghe, còn “tấm lòng” vĩ đại của bà goá lớn hơn mọi giá trị vật chất tiền bạc, hẳn chúng ta chỉ rõ khi Chúa Giêsu khai thông.

Kinh nghiệm của người xưa cho rằng: thừa tiền thì đem mà cho, đừng đi xem bói đem lo vào mình. Còn các triết gia lại quả quyết: lòng tốt là một vòng tuần hoàn, khi trao ban, nó sẽ trở về với bạn, khi gieo hạt giống lương thiện, nó sẽ cho hoa thơm trái ngọt. Chúa Giêsu không đóng khung lòng tốt, không văn hoa mỹ từ, trau chuốt câu cú vần điệu, Ngài cho thấy tấm lòng vàng khởi đi từ việc biết sống trọn vẹn đức ái. Tính cao đẹp của người goá phụ nghèo không phải vì bà có hai đồng tiền giá trị hơn người, mà do cách sử dụng số tiền đó trọn vẹn với cả trái tim của bà. Chúa Giêsu không khiển trách người ta công đức ít hay nhiều, không khen hai đồng xu, Ngài khích lệ mọi người đừng ngại sống đức ái chân thật với anh chị em của mình.

Đường đông phố vui mà sao vẫn buồn, tài cao đức lớn, sẻ chia tiền của nhiều như các đại gia, cho đi không tiếc như các luật sĩ biệt phái, thế mà Chúa không động lòng ! Trong khi nỗi cô đơn của một goá phụ, với hai xu bé nhỏ tưởng không thuyết phục được ai, ấy vậy mà Chúa rất vui, Ngài lý giải cho thấy tấm lòng của goá phụ đó thật sống động. “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết”. Điều hết sức ngạc nhiên là người lắm tiền nhiều của, người ăn mặc sang trọng, người đọc kinh cầu nguyện nhiều giờ, Chúa không khen, Ngài lại chú ý đến người phụ nữ nghèo hèn, chỉ với số tiền nhỏ bé, bà goá đã cho đi với cả tấm lòng thành.

Sống đức ái vẹn toàn, sống tinh thần người môn đệ Đức Kitô, sống trọn vẹn ơn gọi làm công dân nước Chúa, thật là khó, làm sao ta có thể hoàn thành sứ mạng bằng khả năng công sức của mình ? Sống đức ái là sống hết tình, hết mình, sống như chỉ có hôm nay là ngày cuối, sống bằng niềm tin được chia sẻ của người goá phụ: thương nhau nước đục cũng trong, ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ !  Giầu nghèo, tốt xấu, vui buồn lẫn lộn, kẻ thánh thiện người tội lỗi, chúng ta phân biệt, nhìn thấy, xã hội con người cần chúng ta chia sẻ, hành động cứu giúp các anh chị em có hoàn cảnh đáng thương. Chúa cần chúng ta có tấm lòng, cần mỗi chúng ta luôn sống tình nghĩa, cũng là sống đạo làm người, sống đạo làm con Chúa cách trọn vẹn với một tình yêu cụ thể chân thành. Amen.

-------------------------

 

TN 32-B158: HŨ ÂN SỦNG KHÔNG VƠI, VÒ ĐỨC TIN KHÔNG CẠN


 Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét”  (Dt 9,27)

 

Phận con người là phải chết một lần. Điều đó cũng có nghĩa là ta cũng chỉ sống có một lần trên TN 32-B158


Phận con người là phải chết một lần. Điều đó cũng có nghĩa là ta cũng chỉ sống có một lần trên trần gian này. Con người ta, nhất là bên Đạo Phật, người ta tin có luân hồi, tin có kiếp trước, kiếp sau, nhưng người công giáo chúng ta, theo lời Chúa dạy, chúng ta chỉ sống có một lần, chết một lần; sau đó là chịu phán xét.

  Sau khi phán xét, một là ta được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời, nếu ta sống tốt lành và thánh thiện; hai la ta phải xuống hỏa ngục đời đời kiếp kiếp, nếu ta sống gian ác và xấu xa. Điều đó xảy ra vào ngày sau hết. Lúc này không có luyện tội nữa. Đó gọi là phán xét chung.

  “Phán xét chung sẽ diễn ra khi Đức Ki-tô quang lâm. Chỉ có Chúa Cha mới biết ngày giờ; chỉ một mình Người quyết định khi nào sự kiện này sẽ xảy ra. Người quyết chung thẩm về toàn bộ lịch sử. Bấy giờ chúng ta sẽ thông hiểu ý nghĩa tối hậu của toàn bộ công trình sáng tạo, mầu nhiệm cứu độ và những con đường kỳ diệu Thiên Chúa quan phòng đã dẫn dắt mọi sự đến cùng đích tối hậu của chúng. Phán xét chung cho ta thấy Chúa công chính sẽ chiến thắng mọi bất chính của thụ tạo và tình yêu của Người mạnh hơn sự chết” (GLCG, số 1040).

  Cuộc phán xét chung này là một Sứ Điệp, gởi đến con người chúng ta. “Sứ điệp về phán xét chung mời gọi con người sám hối, trong khi Thiên Chúa còn cho “thời gian thi ân, thời gian cứu độ” (x. 2Cor 6,2). Sứ điệp này nhắc nhở chúng ta kính sợ Thiên Chúa, khuyến khích ta dấn thân cho sự công chính của Nước Trời; loan báo “niềm hy vọng hồng phúc” (x. Tt 2,13); ngày Đức Giê-su ngự đến “để được tôn vinh giữa dân thánh của Người và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đã tin” (GLCG, số 1041).

  Bây giờ, khi chưa đến ngày sau hết, nếu ta chết, xác thì đem chôn hay hỏa táng, sẽ trở về cát bụi; còn linh hồn ta sẽ trở về với Chúa, để chịu phán xét. Đây gọi là phán xét riêng.

  Ta hãy xem giáo lý của Giáo Hội dạy thế nào về sự chết: “Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế; kết thúc thời gian Thiên Chúa thi ân và thương xót, để con người sống cuộc đời trần thế này theo ý Chúa và quyết định số phận tối hậu của mình. Khi chấm dứt “cuộc đời trần thế duy nhất này”, chúng ta sẽ không trở lại với những cuộc sống trần thế khác. “Con người chỉ chết một lần” (Dt 9,27); không “đầu thai” sau khi chết”. (GLCG, số 1013)

  Theo đó, ta chỉ sống có một lần và chết một lần; không có “đầu thai” sống kiếp thứ hai, cho nên còn được sống ngày nào trên trần gian này ta phải cố gắng hết sức mình; đừng chần chừ, đừng lẫn nữa, đừng phí thời gian ân sủng Chúa ban khi còn sống. Hãy ra sức làm việc lành và nên thánh để chuẩn bị cho ta cuộc sống mai hậu, cuộc sống đời đời của mình. Có thể nói, đời ta chỉ có một lần, một lần sống và một lần chết. Cái “một lần” nó quan trọng làm sao !!!!!!! Một lần là đi đooong hay một lần là hạnh phúc mãi mãi, ta phải chuẩn bị và quyết định cho chính mình.

   Ta sống trên đời này, giỏi lắm cũng 100 năm gì đó, rồi ai cũng phải chết. Phận con người là phải chết, không có “lý sự” gì cả; không có sao, không có giăng, không có “on đơ” chỉ cả. Khi chết, chưa phải là hết, ta còn chịu phán xét nữa cơ. “Ngay khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị phạt đời đời, tùy theo đời sống của mình trong tương quan với Đức Ki-tô; linh hồn hoặc phải trải qua một cuộc thanh luyện; hoặc được phúc trên trời, hoặc sa địa ngục vĩnh viễn” (GLCG số 1022).

  Linh hồn phải trải qua một cuộc thanh luyện trong luyện ngục. Luyện ngục, nơi được gọi là cuộc thanh luyện cuối cùng; vì khi sống trên trần gian này, ta cũng đã được thanh luyện rồi. Ta được thanh luyện qua những khó khăn, qua những vất vả, qua những gian nan; qua những vu khống, qua những khinh khi, qua những bệnh tật, qua những thất bại; qua những thua thiệt,…Nếu ta biết dùng những cơ hội đó để thanh luyện con người của mình. Ta mà biết lợi dụng những cơ hội đó càng nhiều bao nhiêu, thì ta sẽ càng ít ở trong luyện ngục bấy nhiêu.

  “Những người chết trong ân nghĩa Chúa nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc thiên đàng” (GLCG, số 1030).

  Ở nơi luyện ngục, hình phạt cũng chẳng kém nơi hỏa ngục. Có khác chăng là nơi luyện ngục có ngày ta được ra; còn trong hỏa ngục thì đời đời kiếp kiếp. Ta cứ tưởng tượng luyện ngục như một nhà tù. Mà ở tù thì có sung sướng bao giờ.Nơi đây, ta không tự mình làm gì để cứu độ cho chính mình nữa: ta không cầu nguyện được; ta không dâng lễ được, vì còn thân xác, còn miệng lưỡi, còn tay chân đâu nữa mà đến nhà thờ, mà đọc kinh hay lần hạt gì nữa. Hoàn toàn trông chờ nơi người thân, nơi gia đình, nơi Giáo Hội. Bởi đó, trong tháng 11 hay mỗi ngày, ta hãy để ý mà cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, anh chị em hay những ân nhân của ta đã qua đời, để các ngài được hưởng lòng thương xót của Chúa, mà sớm được về quê Trời.

  Những người đang ở trong luyện ngục là những người không có gì để đáp lễ. Ta mà cầu nguyện giúp cho họ thì ta mới là người có phúc. Có phúc đây, không phải là họ sẽ đáp lễ cho ta, mà chính Chúa sẽ đáp lễ, sẽ ban phần thưởng cho ta khi kẻ chết sống lại (x. Lc 14,13-14)

  Nghĩ đến điều này, ta cũng phải tự lo cho chính mình khi còn đang có cơ hội sống trên trần gian này. Ta còn có cơ hội đi dâng lễ; ta còn có cơ hội đọc kinh, lần hạt,….Ta hãy tận dụng tất cả. Nếu ta tận dụng được 90 hay 99%, thì ta sẽ chỉ ở trong luyện ngục mà đền có 10 hay 1% thôi. Ta mà ỷ y, đã có gia đình; đã có Giáo Hội cầu cho rồi, nên chỉ cố gắng 1 hay 10% thôi, thì ta sẽ ở trong luyện ngục mà đền đến 90 hay 99% thì cũng hơi mệt đấy.

 Đành rằng có người khác cầu, nhưng đâu phải cầu bao nhiêu là ta lãnh được hết bấy nhiêu đâu. Chúa ban cho ta được chút này hay chút đó, ta không có quyền đòi hỏi gì cả. Cũng như đâu phải người nhà đem cho tù nhân bao nhiêu là họ được hưởng hết bấy nhiêu đâu; cai tù cho bao nhiêu là tốt bấy nhiêu mà. Bởi đó mà ta phải ra sức chuẩn bị cho mình càng nhiều bao nhiêu càng chắc ăn, càng tốt bấy nhiêu, phải không bạn !

Nếu chúng ta là những người tín hữu Ki-tô, mà không được vào Nước Trời thì tiếc lắm thay !!!!!!!

Là Tu Sĩ mà không được vào thiên đàng thì tiếc biết mấy !!!

Là Linh Mục mà không được vào Nước Chúa thì tiếc lắm lắm !!!

Do đó, ngay từ bây giờ, dù là ai ta cũng phải cố gắng, làm sao cho “hũ bột ân sủng của ta không vơi; vò dầu đức tin của ta không cạn”. Ta phải cầu nguyện.

Không phải cứ đọc kinh, lần hạt, dâng lễ là đương nhiên ta sẽ lên thiên đàng thẳng cẳng. Ta đọc kinh, ta dâng lễ, ta lần hạt là để ta nhận được nhiều ân sủng của Chúa và làm cho đức tin của ta thêm mạnh mẽ, để với ơn Chúa, cùng với đức tin, chúng ta sống tốt lành và làm những việc thiện. Làm sao cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời mà hũ bột ơn Chúa của ta không vơi; vò dầu đức tin của ta không cạn thì phúc cho ta biết mấy !

“Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xóa bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người”(Dt 9,28).

Chúng ta là những người trông đợi Chúa để được cứu dộ, nên ta phải siêng năng cầu nguyện, đọc kinh, dâng lễ, để hũ bột ân sủng của ta không vơi; vò dầu đức tin của ta không cạn. Với đức tin và ân sủng Chúa ban, ta sẽ dần dần nên thánh nên thiện, để sau khi chết, ta chỉ chịu thanh luyện thời gian ngắn trong luyện ngục, sau đó được lên thiên đàng và ngày sau hết, ta được phục sinh thì cả xác lẫn hồn của ta được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa trên thiên đàng.

Đó không là ước mơ; đó không là mục tiêu tối hậu của ta sao ! Bởi đó ngay từ bây giờ, ta hãy quyết định và chuẩn bị để làm cho ước mơ đó thành sự thật nơi cuộc sống và nơi con người của ta.

-----------------------------

 

TN 32-B159: BÁC ÁI


Lm Vũdình Tường

 

Khi nói về việc bác ái, làm phúc bố thí chúng ta thường nghĩ về người nghèo cần bữa cơm ấm TN 32-B159


Khi nói về việc bác ái, làm phúc bố thí chúng ta thường nghĩ về người nghèo cần bữa cơm ấm bụng, cần áo che thân. Điều này rất đúng. Về phương diện vật chất, không có gì sai. Miếng cơm, manh áo thoả mãn nhu cầu vật chất, không thoả mãn nhu cầu tinh thần và tâm linh. Xã hội hiện nay có người cần ai đó lắng nghe tâm sự của họ. Như thế họ cần thời gian của bạn. Người khác cần có người ngồi bên để họ cảm thấy bớt cô đơn. Như thế họ cần sự hiện diện của bạn. Người khác nữa thất bại trong thương trường, học vấn, tìm công ăn việc làm, họ chán nản, cần hỗ trợ tinh thần của bạn để họ tiến lên. Kẻ khác nữa mất tinh thần, chán sống. Như thế họ cần đến sức sống của bạn. Người khác nữa cần được đối xử công minh. Như thế họ cần tiếng nói công lí của bạn. Người khác nữa cần được đối xử tử tế như thế họ cần đến lòng khoan dung của bạn. Người khác nữa cần giúp bỏ được tật xấu nghiện ngập như thế họ cần đến sự cảm thông của bạn. Đừng ép họ uống thêm li rượu, dù là rượu mời, tránh cơ hội dẫn đến xì ke, ma tuý. Như thế bác ái bao trùm nhiều lãnh vực trong cuộc sống. Có người lâu ngày không đến nhà thờ, gặp lại họ, dù bạn thành tâm cũng nên tránh hỏi hay nói những câu làm cho họ cảm thấy áy náy. Họ đứng chỗ đông người nhưng cảm thấy lạc lõng, họ cần bạn là người tạo cho họ gây lại mối liên hệ với cộng đoàn.

Hôm nay Kinh thánh nhắc đến hai goá phụ, một đói, một nghèo. Cả hai đều nghèo về vật chất và cả hai đều rộng lượng, giầu tinh thần, giầu bác ái. Lối sống và hành động của hai bà hoàn toàn trái ngược với lối sống đài các, xa hoa của nhà lãnh đạo tôn giáo, người có chức, có quyền, có thế trong dân thời đó. Họ chú trọng đến việc quan trọng hoá chính mình qua cách ăn mặc; đối với xã hội họ đòi hỏi được coi trọng và nơi công cộng mong được trọng vọng. Hành động của họ chứng tỏ họ nghèo về tinh thần. Họ dùng vật chất, hào nhoáng bề ngoài mong khoả lấp cái nghèo khó tinh thần bên trong. Hai bà goá hành động khác hẳn. Phúc âm không nhắc đến tên của các bà và do đó chúng ta có thể hiểu dụ ngôn này áp dụng cho tất cả những ai sống tinh thần nghèo khó vì nước trời.

Bà thứ nhất tạm gọi là bà đói, bà đi kiếm củi về nấu bữa cháo cuối cùng cho con ăn trước khi chết, bởi hạn hán dài hạn và nhà không còn gì để ăn. Trên đường về bà gặp người ăn xin. Người này đòi bà nấu cho ông ăn trước rồi sau đó mới đến lượt gia đình bà. Điều ông đòi hỏi có vẻ hơi quá đáng nhưng ngạc nhiên thay bà chấp thuận điều ông yêu cầu. Có lẽ bà thông cảm cái đói khát của người khách lạ như chính gia đình bà đang trải qua. Dầu gì đây cũng là bữa ăn cuối cùng, no hơn một chút, hay đói hơn một chút cũng vậy thôi. Bà vẫn biết xã hội bà không đòi hỏi goá phụ nghèo phải giúp đỡ người khác nhưng bà giúp vì sâu thẳm trong tim bà có lòng nhân ái, muốn giúp đỡ người khác trong khả năng của mình. Quan trọng hơn hết bà coi việc bác ái chính là chia sẻ quà tặng Chúa ban. Tất cả những gì bà có đều là của Chúa ban và bà trao tặng cho người khác để làm Sáng Danh Chúa. Người khách lạ ăn một mình, không ăn chung với gia đình bà cho biết người đó là khách, không phải là thành viên của gia đình. Bà đâu ngờ hành động bác ái cuối cùng trong đời lại trở thành hành động cứu sống cả gia đình trong cơn nguy khốn. Thiên Chúa ban ân sủng của Ngài cho mỗi người một kiểu, một cách. Bà chỉ nhận ra điều đó sau khi đã thi ân và nhận biết thùng bột trong nhà không bao giờ cạn, chai dầu ăn trong tủ không bao giờ vơi cho đến khi mưa thuận, gió hoà. c.16.

Bà đói trong sách Các Vua chương 17 và bà goá nghèo trong Phúc Âm, người dâng cúng hai đồng xu vào nhà thờ, cùng chung quan niệm về cuộc sống, chung cung cách hành động. Bác ái và yêu thương phát xuất tự tấm lòng. Đức Kitô đã khen bà goá bỏ hai đồng xu vào tiền công quỹ bởi bà cho đi đồng xu bà cần. Có người cho nhiều của hơn nhưng cho đi đồng tiền tiết kiệm, tiền để dành chi tiêu vào việc không tên; còn bà goá cho đi đồng xu dùng để mua cơm bánh nuôi thân. Điều này cho biết cung cách và động lực dẫn đến việc thực thi bác ái rất quan trọng. Bác ái xuất phát tự tim là điều Đức Kitô trông đợi môn đệ Ngài thực hiện với tha nhân. Xin ơn khiêm nhường và thật thà trong lòng.

--------------------------

 

TN 32-B160: NIỀM TIN CỦA HAI BÀ GÓA PHỤ


Bác sĩ Ng Tiến Cảnh

Bà Góa Phụ ở Zarephath (1V 17: 10-16)

*Ông đã chỗi dậy và đi Zarephath. Ông đến cửa thành thì ở đó có một góa phụ đang mót củi. Ông gọi bà ấy và nói: “ Xin bà cho tôi ít nước trong bình để tôi uống”. Khi bà đi lấy nước thì ông lại kêu bà và nói: “Xin bà cho tôi một mẩu bánh!” Bà nói: “Lạy Thiên Chúa hằng sống, Chúa của ngài, tôi chẳng còn gì cả ngoài nắm bột trong vò và ít dầu trong chóe. Nay tôi đi mót vài que củi về để nấu thức ăn cho tôi và con tôi ăn rồi chết!” Elijah bèn nói với bà: “Đừng sợ, cứ đi và làm như lời bà nói. Nhưng trước hết hãy làm một cái bánh nhỏ và đem ra cho tôi, rồi sau đó hãy làm cho bà và con bà.  Vì Thiên Chúa, Chúa của Israel đã phán thế này:

Vò bột không vơi,
Chóe dầu không vợi,
Cho đến ngày Thiên Chúa ban mưa trên mặt đất”

*Thế là bà đã làm theo lời Elijah, và bà đã có đủ ăn cho bà, cho Elijah và cả nhà suốt cả năm. Quả thực vò bột không vơi, chóe dầu không vợi, đúng như lời Thiên Chúa đã phán qua Elijah.

Đồng xu của người góa phụ nghèo (Mc 12: 41-44)

*41 Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dân cúng đền thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền cúng ra sao. Có nhiều người giàu có bỏ thật nhiều tiền. 42Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá bằng một phần tư đồng bạc Roma.43Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa phụ nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. 44Thực vậy, mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà bỏ vào đó, còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó; bà đã bỏ tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”.

                                *********

 

Câu chuyện trong sách Các Vua (1V 17:10-16) và bài Tin Mừng Mac cô (Mc 12: 38-44) cho chúng TN 32-B160


Câu chuyện trong sách Các Vua (1V 17:10-16) và bài Tin Mừng Mac cô (Mc 12: 38-44) cho chúng ta thấy sự can đảm, lòng đại lượng và niềm tin của hai bà góa phụ.

    Hành động của các bà buộc chúng ta phải tự xét mình và hiểu cảnh đói khổ của những người nghèo túng để có thái độ quảng đại thích ứng. Từ đó chúng ta áp dụng vào cuộc sống chúng ta qua  tông thư Bác Ái Trong Sự Thật của Biển Đức XVI.

NIỀM TIN CỦA ELIJAH

    Khi đọc Elijah và Elisha trong Sách Các Vua 1 và 2, chúng ta không thể bỏ qua chuyện bà góa ở Zarephath. Câu chuyện Elijah và người đệ tử là Elisha đã cố gắng làm cho dân Israel nhận biết và yêu mến Lời Chúa !

    Theo đoạn sách Các Vua (1V 17:8-16) Thiên Chúa tiếp tục thử thách Elijah. Bài đọc Sách Các Vua hôm nay bắt đầu với câu 10, nhưng cần phải đọc từ câu 8 để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của câu chuyện. Câu 8 nói: “Bấy giờ Giavê / Thiên Chúa đến với ông và nói:…”Nhưng Elijah vẫn không đứng dậy đi cho đến khi nhận được sứ điệp của Chúa. Đối với chúng ta, chúng ta cần biết Chúa và lắng nghe lời Chúa trước khi thi hành sứ vụ.

    Đoạn Chúa nói với Elijah hãy đi Zarephath (c.9) là một phần đất của Sidon. Câu 9 gồm 3 mệnh lệnh: “Hãy chỗi dậy”, “Hãy đi” và “Hãy ở đó”. Thiên Chúa đã thử Elijah qua 3 mệnh lệnh trên bằng những đức tính Tin, Cậy, Vâng Lời, Sẵn Sàng và Cam Kết. Khi Thiên Chúa truyền cho Elijah “chỗi dậy” không phải chỉ có hành động chỗi dậy thể xác mà cả tinh thần nữa. Đối với Elijah, vâng lời Chúa là kết qủa thức tỉnh của chính tâm hồn ông.

    Mệnh lệnh thứ hai: “Hãy đi Zarephath”, là một cuộc du hành cam go, nhọc nhằn và nguy hiểm. Zarephath là một địa danh khô cằn, lại nằm trong đất Sidon thuộc Nữ Hoàng Jezebel rất ác độc. Elijah đến đó không phải để nghỉ ngơi thư dãn!

    Mệnh lệnh thứ ba: “Hãy ở đó” là một thách đố lớn đối với sự cam kết, lòng tin cậy và tầm nhìn của ông, là người đang tìm cách phục vụ Thiên Chúa. Lương thực của Elijah sẽ do một góa phụ nghèo và tuyệt vọng cung cấp. Bà đang phải đối đầu với nạn đói trong một nước dân ngoại là dân Sodon lúc đó đang kình chống Chúa của Israel.

    Ân nhân của Elijah lúc đó không phải là người giàu sang, có nhà cao cửa rộng để có thể chia sẻ đầy đủ cho ông nơi ăn chốn ở ngon lành; trái lại bà quá nghèo phải đi kiếm củi ở cổng thành về nấu thức ăn vì nghèo không có dầu để đốt.

    Thiên Chúa đã ra lệnh cho những con quạ đem thức ăn đến cho Elijah trong sa mạc (1V17:1-7) thì nay lại ra lệnh cho bà góa phụ nuôi ông. Tại Zarephath, người góa phụ nghèp đó đã nghe theo lời chỉ dẫn của Elijah như lời Chúa truyền. Bà ta biết rõ quyền năng của Thiên Chúa nên cả hai mẹ con bà và Elijah đã có đủ thức ăn để sống.

 BÀ GÓA PHỤ VÀ TIÊN TRI ELIJAH

    Bà quả phụ nghèo lại quảng đại và tốt lành cùng với sự trung thành của Elijah nên Thiên Chúa đã làm cho niềm tin của ông thêm vững mạnh, khuyến khích khả năng mục vụ của ông, dùng ông để an ủi người goá phụ và con trai của bà. Với chúng ta, Thiên Chúa sẽ giúp vượt thắng mọi yếu đuối, thất bại và lo âu sợ hãi. Thiên Chúa đã cho chúng ta quá mức tưởng tượng.

CHỈ CÓ HAI XU THÔI !

    Một bà quả phụ nghèo nữa trong Tin Mừng Mac Cô (Mc 12:38-44) cũng cho chúng ta một bài học. Chúa Giêsu đã ca tụng của lễ của bà và xác định giá trị của lễ đó rất rõ ràng. Nó không ở số lượng mà ở tấm lòng mình muốn dâng cho Chúa. Bà bỏ một xu vào rổ tiền thì túi bà trống rỗng chẳng còn gì nữa. Bà đã lấy tất cả gia sản, tất cả lòng bà mà hiến cho Chúa. Người giàu có, dù họ cho Chúa nhiều gấp trăm nghìn lần bà này nhưng họ vẫn còn dư thừa ở nhà, trong túi. Tiền họ cho Chúa chỉ là bạc lẻ. So sánh hai trường hợp này thì một xu của bà góa bằng cả ngàn đồng của người giàu có, vì một xu đó là giá mạng sống của cả gia đình bà.

    Chúa Giêsu ca tụng người đàn bà này có quá đáng không? Chúa có tiểu thuyết hóa người nghèo không? Ít ai dám mơ ước vươn lên thành triệu phú từ sự khốn cùng, nghèo khổ, vô gia cư vô nghề nghiệp. Chẳng có ai vui sướng vì sống nhờ vào trợ cấp chính phủ, an sinh xã hội; cũng chẳng có ai cảm thấy hạnh phúc đi lục thùng rác và hãnh diện là mình không có tiền trả tiền điện nước hàng tháng, tiền thuê nhà đang bấp bênh sắp bị đuổi trong những tháng ngày mùa đông giá lạnh?

    Người đàn bà trong Tin Mừng nghèo vì là góa phụ. Bà hoàn toàn phụ thuộc vào chồng, nay chồng đã mất. Thảm kịch chính của bà là mất người nương tựa để sống. Bà phải sống nhờ vào lòng quảng đại của thân nhân và cộng đồng.

    Hai xu của người góa phụ là tất cả gia sản của bà. Bà chẳng hy vọng gì vươn lên  thành giàu sang phú quí, tiền dư bạc thừa. Cuộc sống của bà thật bấp bênh. Bà nghèo tiền nhưng lại giầu niềm tin vào lòng Chúa thương xót. Bà hoàn toàn tin tưởng vào ân sủng của Thiên Chúa.

    Chúa Giesu ca tụng bà góa phụ nghèo nhưng Chúa không kết án người giầu có. Ngài chỉ nói “họ khó có thể vào được nước thiên đàng” (Mc 10:23). Vấn đề quan trọng không ở chỗ họ có bao nhiêu tiền để trong ngân hàng hoặc của chìm của nổi ở đâu đó mà ở chỗ họ dành được gì cho đời sau.

    Họ có giúp đỡ những người nghèo khổ, có làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn không? Có nuôi ăn những người đói, giúp áo quần cho người trần chuồng, có cung cấp nơi ăn chốn ở cho người vô gia cư không? Có dùng tiền của mình có để xây đắp văn hóa sự sống không? Cuộc sống của chúng ta có quay cuồng chung quanh tiền bạc hay dựa vào Thiên Chúa là đấng có thể làm cho chúng ta trở nên giàu có? Chúng ta có sống như những chủ nhân ông hay sử sự như người quản gia? (Mt18:23-35).

    Người góa phụ quyết định bỏ một xu vào rổ tiền là sạch túi, nhưng bà vẫn tin tưởng vào Chúa, vào sự giúp đỡ của tha nhân. Gương sáng của bà là tuyệt đối tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa: Bà Yêu Chúa và Chúa thương mến bà. Bà là quản gia không phải là chủ nhân cái gia sản thanh bần của bà. Người góa phụ nghèo này đã dạy chúng ta biết phụ thuộc vào Thiên Chúa.

THAY LỜI KẾT: BÁC ÁI TRONG SỰ THẬT

 Chúng tôi dùng bốn đoạn ngắn gọn của tông thư Bác Aí Trong Sự Thật / Caritas in Veritate của Biển Đức XVI làm kết luận cho bài suy niệm Tin Mừng hôm nay.

1- “Việc tìm kiếm tình yêu và sự thật đã được Chúa Giêsu Kitô làm cho trở nên tinh khiết và hết vẻ nghèo nàn mà loài người chúng ta đã tạo ra, và Ngài tỏ cho chúng ta biết một cách trọn vẹn mối tình tiên khởi và kế hoạch để có một đời sống thực mà Thiên Chúa đã sửa soạn cho chúng ta. Trong Chúa Kitô, bác ái trong sự thật đã trở thành Khuôn Mặt Con Người của Ngài, kêu gọi chúng ta phải yêu thương những người anh chị em huynh đệ của chúng ta trong sự thật của kế hoạch của Người. Thực vậy, Người chính là Sự Thật (Ga 14:6).”

23-“Một sự kiện đơn thuần phát sinh ra từ vấn đề thụt lùi kinh tế, mặc dù tự nócó tính tích cực, cũng không thể giải quyết được những vấn đề phức tạp về tiến bộ của loài người, ngay cả ở những quốc gia phát triển tiền tiến, những quốc gia đã có nền kinh tế phát triển rồi hay những quốc gia còn nghèo đói đang khốn khổ không phải do sự bóc lột cổ điển, nhưng vì những hậu quả tiêu cực về phát triển do tính bất thường và thiếu cân bằng của nó.”

42-“ Từ lâu người ta thường nghĩ rằng dân nghèo thì phải dậm chân tại chỗ ở một thời kỳ cố định nào đó về phát triển, và vui vẻ chấp nhận sự trợ giúp từ thiện của các quốc gia phát triển. Đức Phaolo VI đã cực lực chống đối ý nghĩ đó trong tông thư Sự Phát Triển Muôn dân / Populorum Progressio. “ Ngày nay những tài nguyên vật chất có sẵn để cứu giúp những dân tộc nghèo khổ đó khỏi cảnh khó nghèo đang có tiềm năng to lớn hơn xưa, nhưng phần lớn lại nằm trong tay của những dân tộc ở những quốc gia phát triển, là những người được hưởng lợi nhiều hơn nhờ sự giải phóng biến đổi về vốn và lao công. Do đó những hình thức thịnh vượng đang lan tràn trên toàn thê giới không thể bị kìm hãm lại bởi những kế hoạch có tính cục bộ của những kẻ chỉ muốn bảo vệ phe nhóm hay để phục vụ cho lợi ích riêng tư.”

75-“Trong khi những người nghèo trên thế giới vẫn tiếp tục gõ cửa nhà những người giầu có, thì thế giới giàu sang lại không biết lắng nghe những tiếng gõ cửa ấy, bởi vì lương tâm họ không còn phân biệt được thế nào là con người. Thiên Chúa đã tỏ lộ cho con người tự biết mình. Lý trí và niềm tin cùng làm việc với nhau để chứng minh cho chúng ta biết cái gì là tốt nếu chúng ta muốn được biết nó. Theo luật tự nhiên thì lý trí sáng tạo sẽ chiếu rọi trước, để chúng ta nhận ra vẻ cao cả vĩ đại của chúng ta, đồng thời cũng cho biết cả cái cùng khổ của con người đến độ chúng ta không còn nhận ra được tiếng gọi của sự thật luân lý.”

-----------------------------

 

TN 32-B161: SUY NIỆM CHÚ GIẢI TIN MỪNG – CHÚA NHẬT 32 TN_B


Lm. Inhaxiô Hồ Thông

1V 17: 10-16

 

Bài Đọc I thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà cho vị ngôn TN 32-B161


Bài Đọc I thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà cho vị ngôn sứ Ê-li-a tất cả phần còn lại của mình trong thời kỳ đói kém để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa.

Dt 9: 24-28

Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái ca ngợi việc Đức Giê-su đã tận hiến một lần cho tất cả để vĩnh viễn tiêu hủy tội lỗi và thánh hóa những ai tin vào Ngài.

Mc 12: 38-44

Tin Mừng thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa nghèo khổ, bà cho tất cả những gì mình có. Xét về lượng, hai đồng xu dâng cúng của bà thật là khiêm tốn, nhưng về phẩm, của dâng này chất chứa biết bao lòng yêu mến và niềm tin của bà đối với Chúa.

BÀI ĐỌC I (1V 17: 10-16)

Trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, hai cuốn sách Các Vua chứa đựng một số lượng lớn những giai thoại ngoạn mục; tập truyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sa minh họa rõ nét nhất điều này. Được lưu truyền lâu dài trong dân gian trước khi được biên soạn, những chuyện tích này được thêu dệt thành những chuyện sử thi.

Cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rép-ta minh chứng về tấm lòng quảng đại của những người nghèo và chuẩn bị cho câu chuyện Tin Mừng về tấm lòng quảng đại của một bà góa. Hơn nữa, hoàn cảnh, nơi chốn, các nhân vật đem lại cho câu chuyện một tầm mức tôn giáo.

Hoàn cảnh của ngôn sứ Ê-li-a

Ngôn sứ Ê-li-a sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên, trong vương quốc miền Bắc, dưới triều đại vua A-kháp (874-853 tCn). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình trong một hoàn cảnh rất gian nan. Vua A-kháp cưới công chúa I-da-ven ngoại giáo. Bà hoàng hậu này rất sùng đạo thờ thần Ba-an nên tìm mọi cách loại bỏ việc phụng thờ Đức Chúa trong vương quốc Ít-ra-en, trong khi vị ngôn sứ ra sức bảo vệ việc phụng thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.

Ngôn sứ Ê-li-a tuyên sấm trước vua A-kháp một cơn hạn hán sẽ giáng xuống xứ sở vì tội thờ ngẫu tượng. Cơn hạn hán này sẽ kéo dài trong suốt ba năm. Ngôn sứ Ê-li-a rời miền Sa-ma-ri, nơi không dung thứ ông vì lòng oán hận của hoàng hậu I-da-ven đối với ông; ông đến tá túc ở phía bắc sông Gio-đan, bên con suối vẫn còn nước chảy. Nhưng khi con suối này cạn khô, ngôn sứ Ê-li-a ra đi tìm một nơi lánh nạn khác. Ông đi về miền duyên hải Phê-ni-xi ngoại giáo và đến làng Xa-rếp-ta, cách địa hạt Xi-đôn khoảng mười lăm cây số về phía đông và ở lại đó.

Cuộc gặp gỡ của vị ngôn sứ với một bà góa xứ Xa-rếp-ta

Một bà góa xứ Xa-rếp-ta nhận ra người khách lạ xin bà một chút nước và miếng bánh là một người Do thái, vì thế bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh”.

Được định vị vào trong bối cảnh sứ vụ của ngôn sứ Ê-li-a, tình tiết này mang đến một lời chứng đáng chú ý khác về những người khiêm hạ mà các ngôn sứ Cựu Ước luôn luôn nói đến. Nhưng ngoài ra, tình tiết này nêu bật sự tương phản giữa thái độ của một bà góa nghèo ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta, bà bày tỏ trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa khi phó thác vào lời hứa của vị ngôn sứ của Ngài, với cách hành xử của một người phụ nữ ngoại đạo khác, hoàng hậu I-da-ven, bà này dùng quyền lực và sự giàu có của mình để lôi kéo dân Chúa sa vào tội bội giáo. Bà góa ngoại giáo xứ Xa-rếp-ta sẽ được trích dẫn trong Tin Mừng như báo trước cuộc hoán cải của lương dân (Lc 4: 25-26).

Mặt khác, được định vị vào trong khung cảnh của cuộc khủng hoảng tôn giáo khắp vương quốc Ít-ra-en, cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rép-ta cung cấp cho vị ngôn sứ một dịp chứng tỏ rằng chính Đức Chúa – chứ không phải thần Ba-an – là Đấng phân phát đích thật những của cải trần gian. Chính Ngài ban cho những ai tin tưởng phó thác vào Ngài, ngay cả vào lúc túng thiếu.

BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28)

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái tiếp tục chứng minh chức tư tế của Đức Ki-tô cao trọng hơn bội phần chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước. Tác giả định vị viễn cảnh trên hai bình diện: bình diện “trên trời”: Đức Ki-tô vinh quang là Đấng Trung Gian bên cạnh Chúa Cha, và bình diện “dưới thế”: chức vụ trung gian đòi hỏi Đức Ki-tô phải vượt qua cuộc Tử Nạn.  Như trước đây, tác giả sử dụng những so sánh của mình, mặc nhiên hay minh nhiên – nghi lễ Đền Tội ở đó vị thượng tế Cựu Ước dâng hy lễ lên Thiên Chúa để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình và toàn thể cộng đoàn con cái Ít-ra-en vì đã trót phạm trong năm qua.

Chức vụ cao trọng của Vị Thượng Tế Tân Ước

Vào ngày đại lễ Đền Tội, để lời chuyển cầu của mình có thể thấu đến Thiên Chúa chừng nào có thể, vị thượng tế Cựu Ước vào tận nơi cực thánh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, “do bàn tay người phàm làm ra”; trong khi Đức Ki-tô “đã vào chính cõi trời”. Vị thượng tế Cựu Ước không thể đến tận nơi Thiên Chúa ngự, nhưng chỉ đến chỗ mà xưa kia đặt Hòm Bia Giao Ước, biểu tượng nơi ở cõi thế của Đức Chúa; trong khi Đức Ki-tô “đứng trước mặt Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta”.

Phẩm chất cao trọng của Hy Lễ Tân Ước

Vị thượng tế Cựu Ước dâng máu của tế vật chứ không phải máu của chính mình, trong khi Đức Ki-tô dâng máu của chính mình. Thế mà người ta có thể dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần. Vì thế, hiến lễ tự nguyện và tự hiến của Đức Giê-su có một hiệu quả dứt khoát. Những hy lễ được vị thượng tế Cựu Ước hằng năm dâng lên để xin ơn tha thứ tội lỗi, trong khi hy lễ của Đức Giê-su có giá trị cho mọi thời và mọi thế hệ.

Một thế giới mới không bóng dáng tội lỗi

Việc Đức Ki-tô nhập thể đã đặt Ngài vào trong mối liên đới với các tội nhân, nhằm tiêu diệt tội lỗi, như sấm ngôn về người tôi trung của Đức Chúa “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53: 12). Việc Đức Ki-tô xuất hiện vào Ngày Quang Lâm sẽ không còn bất kỳ liên hệ nào với tội lỗi. Đức Ki-tô sẽ phục hồi một thế giới không bóng dáng của sự chết và tội lỗi. Ngài sẽ cứu độ những ai trông cậy vào Ngài.

TIN MỪNG (Mc 12: 38-44)

Mới đây, những người Biệt Phái đã ca ngợi nhân cách của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Mc 12: 14). Tiếc thay họ đã sử dụng lời ngợi ca này để gày bẫy Đức Giê-su, nhưng lời ca ngợi này càng minh chứng đây là nhân cách thường hằng của Ngài mà đoạn Tin Mừng hôm nay bày tỏ rõ nét nhất.

Khi đặt hai lời dạy của Chúa Giê-su bên cạnh nhau: tránh xa thói giả hình của người Biệt Phái (12: 38-40) và noi gương cách sống đạo của một bà góa (12: 41-44), thánh Mác-cô muốn nêu bật sự tương phản giữa cách sống đạo của các kinh sư, tiêu biểu cho thành phần trí thức có quyền thế và địa vị, với thái độ khiêm hạ và quảng đại của một bà góa, đại diện cho thành phần hèn mọn nhất.

Tránh xa thói giả hình của những kinh sư (12: 38-40):

Các kinh sư là những người học rộng biết nhiều về Kinh Thánh và về truyền thống các tiền nhân, vì thế họ là những nhà chú giải có thẩm quyền. Nhưng vì tự hào và tự phụ về kiến thức của mình, họ tự hình thành nên một giai cấp tách biệt quần chúng. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su thẳng thắn vạch mặt chỉ tên họ và phác họa chân dung của họ với vài nét tiêu biểu mang tính châm biếm: “Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cổ nhất trong đám tiệc”.

Nhưng lời tố cáo nghiêm khắc nhất mà Ngài gởi đến các kinh sư chính là: “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa”. Bản văn không nói cho chúng biết làm thế nào những kinh sư nuốt hết tài sản của các bà góa. Phải chăng họ đã khai thác sự nhẹ dạ cả tin của những người hiền lành chất phát mà thu góp tiền của cho riêng mình? Hay họ lợi dụng uy tín của những người giải thích lề luật có thẩm quyền mà giải thích lề luật theo chiều hướng có lợi cho mình? Hoặc với tư cách những nhà thông luật, họ biết rất rõ luật Mô-sê lên án nghiêm khắc những ai ức hiếp mẹ góa con côi và hứa cơn thịnh nộ của Đức Chúa (Xh 22: 21), nhưng lại nhắm mắt làm ngơ trước thực trạng bất công của những kẻ có thế có quyền hà hiếp bóc lột những người thấp cổ bé miệng? Chúng ta không biết chính xác, nhưng quả thật, ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm khắc tố cáo thái độ này rồi: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi” (Is 10: 1-2).

Về đời sống tôn giáo, “họ còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”. Việc đọc kinh cầu nguyện lâu giờ là một nhu cầu tâm linh tất yếu của bất cứ tín hữu đạo hạnh nào; nhưng điều đáng nói ở đây chính là “họ làm bộ” chứ không thực tâm, chỉ cốt phô trương nếp sống đạo hạnh của mình trước mặt người đời. Quả thật, họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách để ai cũng phải thấy rằng họ là những người đạo hạnh. Ngay từ bài diễn từ trên núi của Ngài, Đức Giê-su đã lên án nghiêm khắc thói đạo đức giả này rồi: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt 6: 5).

Đức Giê-su kết thúc những lời lên án thói giả hình của kinh sư như sau: “Cho nên, họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” mà Ngài đã khai triển trong phần kết thúc dụ ngôn “Người đầy tớ trung thành đợi chủ trở về”: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều… Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12: 47-48).

Lời kết án của Đức Giê-su xem ra quá cứng rắn, nếu không muốn nói vơ đũa cả nắm, bởi vì ngay trước đoạn Tin Mừng này, thánh Mác-cô kể cho chúng ta một người kinh sư thành tâm thiện chí tìm kiếm Nước Thiên Chúa đến nổi Đức Giê-su đã khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (12: 34). Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận tính lịch sử của đoạn Tin Mừng này, chính vì sự xung đột giữa Đức Giê-su và những giai cấp lãnh đạo Do thái đã dẫn đến cuộc Tử Nạn của Ngài. Nhưng đoạn Tin Mừng này khó thoát khỏi ảnh hưởng của những cuộc khẩu chiến giữa Giáo Hội tiên khởi và Hội Đường Do thái khi Tin Mừng được biên soạn.

Tuy nhiên, khi đoạn Tin Mừng được công bố trong cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, nó mang tính thời sự và vẫn tiếp tục mang tính thời sự xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội tại thế. Việc Đức Giê-su lên án nghiêm khắc thói giả hình của các kinh sư là những lời nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài. Đến phiên mình, các môn đệ của Ngài sẽ là những người có nguy cơ đi lại lối mòn xưa cũ của những người kinh sư này, tự hào tự phụ vì đã được sống mật thiết với Thầy, đã nhận được trực tiếp lời giáo huấn của Thầy, nên đòi hỏi được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong các cộng đoàn Ki-tô hữu. Các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh xa đừng để mình rơi vào những thói giả hình của các kinh sư này bằng cách noi gương cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa nghèo. Sứ vụ của họ phải là phục vụ một cách khiêm tốn và vô vị lợi… Đây là bài học mà các môn đệ của Đức Giê-su sẽ không bao giờ được quên.

Noi gương cách sống đạo của một bà góa (12: 41-44):

Xét về hình thức, thánh Mác-cô đã nối kết rất khéo hai lời dạy khác nhau của Đức Giê-su vào cùng một đơn vị. Lời dạy về các kinh sư đóng lại với việc lên án “nuốt hết tài sản của các bà góa”, thì cũng chính “một bà góa” mở ra lời dạy thứ hai. Xét về nội dung, việc liên kết hai lời dạy thành một đem lại một bài học nhớ đời. Các môn đệ phải tránh xa cách sống đạo giả hình của các kinh sư, những người đại diện hàng lãnh đạo của dân Chúa chọn; trái lại cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa, đại diện hạng người rốt hết, lại trở nên mẫu gương cho các môn đệ Ngài noi theo.

Khi cùng với các môn đệ đang ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng, Đức Giê-su quan sát thấy nhiều người giàu có đến dâng cúng những món tiền lớn, nhưng Ngài chỉ để ý đến một bà góa nghèo đến dâng cúng hai đồng xu. Theo Kinh Thánh, các bà góa được liệt vào số những người nghèo nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24: 17-22). Số tiền bà bỏ vào thùng dâng cúng chẳng đáng là bao so với những món tiền lớn của những người giàu có. Nhưng Chúa Giê-su không đánh giá của dâng cúng dựa trên số lượng mà trên chất lượng. Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải ghi khắc điều này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút ra từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Của dâng cúng của bà góa này, xét về số lượng, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng xét về chất lượng, lại chất nặng đức tin, đức cậy và đức mến của bà, vì bà đã đặt mọi ngày sắp đến của mình vào tình yêu quan phòng của Chúa.

Dung mạo của bà góa này là dung mạo sau cùng xuất hiện trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Giáo huấn của Ngài đã bắt đầu với “Phúc cho những người nghèo khó” và kết thúc với lời ca ngợi một người nghèo khó biết cho tất cả những gì mình có để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa và để Thiên Chúa trở nên tất cả cho cuộc đời mình.

------------------------

 

TN 32-B162: KINH SƯ VÀ BÀ GÓA


Jorathe Nắng Tím    

 

Có thể nói : hai nhân vật, đúng hơn là hai tầng lớp trong xã hội được Đức Giêsu nêu lên và làm TN 32-B162


Có thể nói : hai nhân vật, đúng hơn là hai tầng lớp trong xã hội được Đức Giêsu nêu lên và làm nổi bật trong đọan Tin Mừng Máccô 13,38- 44 mà Giáo Hội chọn cho Chúa Nhật 32 hôm nay là Kinh Sư và Bà Góa. Chúng ta cùng chia sẻ và suy niệm điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta qua hai nhân vật này.

Chúng ta thừa biết : Kinh Sư là những người lãnh đạo trong xã hội tôn giáo thời Đức Giêsu. Gọi là xã hội tôn giáo, vì xã hội Do Thái được hướng dẫn và điều hành bởi tôn giáo Do Thái và Luật Môsê ảnh hưởng sâu đậm trong mọi lãnh vực sinh hoạt của người Do Thái. Do Thái giáo không chỉ bao trùm xã hội Do Thái ở thời Đức Giêsu, mà ngay hôm nay, tôn giáo ở quốc gia Do Thái cũng vẫn giữ vai trò trọng yếu và có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng. Nói một cách dễ hiểu hơn : tâm thức của người Do Thái là tâm thức tôn giáo, và tâm thức này mang yếu tố quyết định mọi sinh hoạt xã hội, chính trị.

Chính trong xã hội tôn giáo này, những người lãnh đạo tôn giáo giữ vai trò rất quan trọng và có nhiều quyền quyết định trên đời sống người khác. Ở vào vị thế ngất ngưởng quyền lực, tất nhiên họ được mọi người, kể cả những người không ưa thích, kính phục phải nể sợ, trọng vọng, phục dịch.

Hình ảnh về Kinh Sư trong Tin Mừng thì không thiếu, nhưng hầu hết đều là những hình ảnh tiêu cực như trong Tin Mừng Mátthêu chương 23 : Họ nói mà không làm, dậy người khác mà không giữ (x. Mt 23,2-3); “họ bó gánh nặng mà chất lên vai người ta, mà chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào ; họ làm việc cốt để thiên hạ thấy” (Mt 23,4- 5) ; họ diêm dúa, khoe khoang : “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài ; họ ưa ngồi chỗ cao nhất trong đám tiệc, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là Thầy” (Mt 23, 5-7). “Khốn cho các ngươi, hỡi các Kinh Sư và Pharisêu giả hình ! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào !” (Mt 23,13) “Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn đường mù qúang !” (Mt 23,16) “Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (Mt 23,24). “Các ngươi rửa sạch bên ngoài chén diã, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ” (Mt 23, 25); “bên ngoài  thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác !”(Mt 23, 28), “các ngươi đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ” (Mt 23, 31).

Tin Mừng Máccô hôm nay sau khi chấm phá vài nét về Kinh Sư như : “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi…, chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 13,38-39), đã đặt trọng tâm vào việc các Kinh Sư chiếm đoạt tài sản của những ngườI được xem là nhỏ bé, yếu đuối, nghèo khổ nhất trong xã hội, đó là các bà goá.

Câu 40 của đọan Tin Mừng đã nặng lời vạch trần và lên án việc làm bất công, bất chính của Kinh Sư : “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người  ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12,40).

Câu 40  được tiếp nối như lời giải thích mức độ nặng nề của việc chiếm đoạt tài sản cỏn con, ít ỏi của người nghèo khổ, bằng vẽ lên chân dung của bà góa nghèo và tấm lòng quảng đại của bà: “Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ… Có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, giá trị một phần tư đồng xu Rôma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ và nói : Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Qủa vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi mình”. (Mc 12, 41-44).

Đức Giêsu đã xác định rất rõ : bà góa nghèo, vì có những bà góa giầu, do thừa hưởng tài sản của chồng đã qua đời. Bà góa nghèo này đại diện cho giai cấp thấp hèn trong xã hội của bất cứ thời nào và ở đâu. Goá bụa là thân phận đáng buồn của phụ nữ, khi mất chồng, bởi mất chồng thì nương tựa vào ai, đơn thân đơn chiếc, tự mình xoay sở để tồn tại. Cảnh góa bụa còn kéo theo nhiều phức tạp, khó khăn, khốn khổ trong gia đình cũng như ngoài xã hội và số phận của người goá bụa thường vất vả, hẩm hiu, mà cảnh nghèo là điều làm họ tội nghiệp hơn cả.

Đức Giêsu đã can đảm nói cho mọi người biết có những Kinh Sư giả hình: “nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh lâu giờ” (Mc 12,40). Vạch trần sự thật không mấy tốt đẹp của giai cấp lãnh đạo ở thời nào và ở đâu cũng là một liều lĩnh dễ mất mạng. Ở đây Đức Giêsu đã chấp nhận tất cả rủi ro có thể đến với Ngài, để cảnh báo các môn đệ và đám đông đi theo Ngài cơn cám dỗ của tham lam của cải và thói giả hình trong việc thờ phượng :

Thói tham lam của cải:

Lòng tham của con người thì không đáy, nên bất cứ ai, ở bất cứ địa vị, vai trò nào đều bị cám dỗ làm giầu. Và khi cơn cám dỗ làm giầu nổi sóng, thì người ta không còn biết ai là người có thể rút tiả tiền bạc, và ai là người phải chừa ra, không nên lợi dụng. Bằng chứng là Kinh Sư trong Tin Mừng Máccô hôm nay, tuy là người có của, có danh, được cơ chế lo ăn lo mặc, và mọi người trọng vọng, nể sợ, nhưng vẫn tìm nuốt tài sản của những bà goá nghèo kiết xác, túng bấn mạt rệp. Họ không thương hại cả những người nghèo không còn gì để sống, những bà goá nghèo đơn thân, cơ cực với hiện tại bấp bênh, và tương lai  mù mịt.

Hình ảnh người nắm giữ quyền lực tận thượng tầng của cơ chế  nhẫn tâm vơ vét, chiếm đoạt đến đồng tiền cuối cùng ki cóp để sống qua ngày của người nghèo “tận số” ít nhiều cũng làm sôi lên trong chúng ta cảm xúc giận dữ trước bất công. Cũng chính những bất công này phá hoại tất cả mọi tương quan giữa người với người và tạo nên cảnh hỗn loạn dẫn đến tình trạng bành trướng đến chóng mặt của bạo lực trong xã hội loài người.

Cùng với việc cảnh báo thói tham lam của cải, và tội chiếm đoạt tài sản của người nghèo nơi Kinh Sư, Đức Giêsu đã tuyên dương lòng quảng đại của người đàn bà goá bụa nghèo khó. Với Ngài, bà goá nghèo đã cho nhiều hơn tất cả mọi người, vì bà đã cho chính bản thân mình.

Cho đi là việc làm khó, vì đòi quên mình, hiến mình, như bà goá nghèo đã quên cái túng thiếu cùng cực của mình, mà dâng vào Đền Thờ hai đồng tiền kẽm bé nhỏ, “nhưng là tất cả tài sản và tất cả những gì bà có để nuôi  sống mình” (Mc 12,44). Đức Giêsu cũng muốn nói lên một sự thật trong đời sống, đó là người nghèo thường quảng đại hơn người giầu. Họ dễ cho đi, vì dễ quên mình, bởi không bị  của cải, tiền bạc trói buộc, bao vây.

Thói giả hình trong phụng tự :

Đức Giêsu nhiều lần trong Tin Mừng đã tỏ ra ngao ngán thói giả hình. Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến nỗi ngao ngán ấy, nhưng đi xa hơn, khi Ngài cứng rắn lên án thói giả hình trong việc thờ phượng : “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 40).

Qủa thực, giai cấp Kinh Sư đã bị Đức Giêsu nhiều lần nặng lời lên án và hầu như lần nào Đức Giêsu cũng nhấn mạnh thói giả hình của họ. Theo Ngài, giả hình sẽ làm con người xa Thiên Chúa và xa anh em mình, bởi tương quan từ đó sẽ hoàn toàn xây trên gian dối, khi không còn gì là thật, là đúng, là chính xác. Và một khi tương quan không thật, người ta không thể tiếp tục giao lưu, liên đới với nhau, vì  bất cứ gian dối nào cũng sẽ dẫn đến đổ vỡ, tai họa.

Ở đây, điều làm Đức Giêsu bực bội và lên án, đó là Kinh Sư đã giả hình ngay  khi làm việc thờ phượng Thiên Chúa, trá hình ngay trước mặt Thiên Chúa là Đấng thông biết mọi sự và thấu suốt mọi cõi lòng. Người giả hình quên rằng Thiên Chúa không có mặt nơi gian dối, cũng như không hiện diện trong tâm hồn kẻ  giả hình, vì Thiên Chúa là Sự Thật và gian dối thuộc về ma qủy.

Chia sẻ Tin Mừng với tâm hồn cởi mở để đón nhận ý Chúa và ơn Chúa,  công việc đầu tiên chúng ta phải làm là nhìn mình trong nhân vật Chúa cảnh cáo, như Kinh Sư ở đây, để biết mình còn nhiều yếu đuối, ngạo mạn, gian tham, bất công, bất chính ; còn nặng trí trá giả hình, đóng kịch, hoá trang ngay trong khi phụng sự Chúa, để thay đổi tư duy, và cải thiện lối sống. Đừng quên rằng : Đức Giêsu lên án Kinh Sư giả hình cũng là trách móc chúng ta chưa đủ chân thành với Chúa và anh em, nên việc chúng ta phải làm là can đảm soi mình trong gương “người khác” để khiêm tốn sửa đổi, khẩn khoản lòng xót thương, và nài xin ơn thứ tha, hơn là dựa hơi Đức Giêsu ném đá người khác ; diễn dịch lời quở trách của Đức Giêsu để miệt thị, khinh bỉ anh em ; đồng hoá các Đấng Bậc trong Giáo Hội với Kinh Sư để soi mói, bôi bác, coi thường, bất hợp tác.

Với tâm tình của người có tội cần lòng thương xót và ơn tha thứ, chúng ta cầu nguyện cho nhau, cho mọi thành phần Dân Chúa ý thức và sống Yêu Thương – Hiệp Thông – Tương Trợ như các chi thể của một Thân Thể duy nhất.

--------------------------

 

TN 32-B163: TẤM LÒNG BÀ GÓA


JM. Lam Thy

 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao 2 bà goá: Một bà trong bài Sách Thánh (Bài đọc 1 – 1V 17 TN 32-B163:


Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao 2 bà goá: Một bà trong bài Sách Thánh (Bài đọc 1 – 1V 17, 10-16), một bà trong bài Tin Mừng (Mc 12, 38-44). Câu chuyện bà goá xứ Sa-rép-ta giúp đỡ ngôn sứ Ê-li-a có nhiều điểm rất đáng suy gẫm: Khi nghe ngôn sứ Ê-li-a xin nước, bà đã mau mắn lấy nước cho ngài, nhưng khi ngài xin bánh, thì bà nói: “Có ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết.” (1V 17, 12). Bà đã sống trong cảnh lầm than cùng cực, chỉ còn một chút dầu, một chút bột để làm bánh cho 2 mẹ con ăn bữa cuối cùng rồi chờ chết. Cứ tưởng bà trả lời như vậy, thì bà sẽ không nhường chút bột và dầu ấy cho ngôn sứ, nhưng thật lạ lùng, bà lại sẵn sàng nhịn ăn mà nhường chút lương thực cuối cùng ấy cho “người của Đức Chúa” là ngôn sứ Ê-li-a.

Tới bài Tin Mừng (Mc 12, 38-44), Thánh sử Mac-cô trình thuật việc Đức Giê-su lên án các kinh sư giả hình chỉ thích phô trương bộ vó bên ngoài, huênh hoang nơi lỗ miệng, còn trong lòng thì rỗng tuếch (Mc 12, 38-40). Tiếp liền theo đó là câu chuyện một bà goá nghèo bỏ vào thùng tiền quyên góp cho nhà thờ 2 đồng tiền kẽm là tất cả tài sản của bà. Có một điều rất thú vị là khi nhìn vào đám người kinh sư Pha-ri-sêu “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” lại là những người “nuốt hết tài sản của các bà goá”. Thế đấy!

Để có được bộ vó bảnh choẹ, đám người chỉ thích ăn trên ngồi trước “nói mà không làm” lại đi bóc lột tận xương tuỷ các bà goá. Trong khi đó thì một bà goá nghèo đã “rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.” Chỉ trong một đoạn văn ngắn, Thánh Mac-cô trình thuật Lời dạy của Đức Giê-su nêu bật hai hình ảnh trái ngược: Một bên là  hình ảnh đám kinh sư chỉ chú trọng phô trương hình thức sang trọng oai vệ bề ngoài, chỉ thích “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” nhưng “họ nói mà không làm” (Mt 23, 2-3), vì thực chất họ chỉ là thứ “thùng rỗng kêu to”. Còn một bên là thái độ đạo đức đích thực nơi người góa phụ. Bà đã bỏ nhiều hơn ai hết, vì mọi người lấy tiền của dư thừa bỏ vào, còn bà thì lấy tất cả của độ thân mà dâng cúng.

Chuyện bà goà chân thành giản dị dùng hết số tiền mình có dâng cúng vào đền thờ hoặc như bà goá Sa-rep-ta dùng ngay bữa ăn cuối cùng của 2 mẹ con để đãi “người của Đức Chúa”, còn mình thì sẵn sàng nhịn đói chờ chết, khác xa – nếu không muốn nói là đối nghịch hẳn – với hạng người xúng xính trong bộ vó sặc sỡ, lòe loẹt. Chẳng cần đi sâu vào nhận xét hành động bộc lộ nội tâm, cứ nhìn cái vẻ bề ngoài đơn sơ chất phác của các bà goá, so với cái vỏ hào nhoáng kênh kiệu của đám kinh sư, cũng đã thấy được bản chất của giai cấp mà họ là đại diện. Mấu chốt vấn đề chính là ở sự chân thành và lòng tin tưởng hay nói cách khác là tình yêu. Chỉ vì tình yêu mà hai bà goá sẵn sàng dâng hiến đến đồng tiền, nắm bột cuối cùng của đời mình. Cũng vì thiếu tình yêu nên đám kinh sư “bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 4), sẵn sàng “nuốt hết tài sản của các bà goá”  (Mc 12, 40).

Nói đến Tình yêu là nói đến “cho” và “nhận”. “Cho” và “nhận” là 2 khái niệm tương phản về mặt ý nghĩa, hành động, nhưng lại đồng nhất về mục đích: Tình Yêu – Tình yêu nhận về (eros) và Tình yêu cho đi (agape). Tình yêu nhận về là tình yêu chiếm hữu (amor concupiscentiæ), vị kỷ (vì mình), thường giới hạn ở giới tính (tình yêu nam nữ); Tình yêu cho đi là tình yêu vị tha (vì người – amor benevolentiæ), là tình yêu mở rộng đến không còn giới hạn (bác ái), và như thế chính là đích điểm tột cùng của tình yêu: Thiên Chúa Tình Yêu (“Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. Eros vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với agape.” – Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 1).

Thiên Chúa luôn “cho đi” một cách nhưng không, Người không hề đòi sự đáp trả; nhưng với con nguời thì có khác: cho đi nhưng cũng muốn nhận về nhiều hơn. Cứ nhìn xem cảnh cứu trợ nạn nhân thiên tai (bão lụt, động đất…), nạn nhân chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật…, cũng thấy không ít cảnh “cho” mà vẫn muốn “nhận” về hoặc một lời tri ân, hoặc một tấm bằng khen, một sự nổi tiếng, thậm chí có nhiều khi còn “cho tay mặt, bắt tay trái”, hoặc của cho là của bá tính nhưng lại nhận là của mình (“mượn đầu heo nấu cháo”) rồi thì xà xẻo, đục khoét, rút ruột… đủ kiểu. Rất thích “cho” nhưng là cho những của dư thừa, hoặc “mượn đầu heo nấu cháo”, cốt để khoe sự giàu sang, tính tình hào phóng, thương người. Song song với kiểu cho như vậy thì lại muốn “nhận” về đủ thứ lợi lộc, như vậy thì chẳng phải là “cho tay mặt bắt tay trái” đó sao? Nếu chẳng vậy thì Đức Ki-tô đã không dạy: “Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo”  (Mt 6, 3-4). Như vậy, cho hay nhận chỉ là những hành vi được thực hiện bởi một động lực nhắm đến một mục đích nào đó. Hành vi ấy có thể xuất phát từ động lực nội tâm với mục đích thực thi Lời Chúa (“Tốt hơn hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giớ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.” – Lc 11,41), nhưng cũng có thể xuất phát từ một động lực ngoại tại (ham chuộng hư danh, tham vọng quyền thế…), hoặc nhắm đến một mục đích khác (tranh bá đồ vương về chính trị, tranh quyền đoạt lợi về kinh tế…).

Suy cho cùng, thì con người chỉ là một thụ tạo đi từ “không” đến “không” (từ tro bụi lại trở về với bụi tro). Sự hiện diện của con người trên trái đất chính là nhờ vào Tình Yêu Thiên Chúa ban tặng. Vì thế, con người cần phải ý thức đến ngay chính thân xác mình cũng chỉ là món quà Tình Yêu do Thiên Chúa ban tặng. Thân xác ấy có tồn tại trên thế gian này nhiều lắm cũng chỉ là “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát) mà thôi. Cái thân xác ấy chỉ là phù du, vậy thì những danh vọng tạo được hoặc những của cải vật chất do chính thân xác ấy làm ra, thì cũng chỉ là những hư danh, những ảo ảnh, những thứ phù phiếm chóng qua mà thôi. Nhận chân được vấn đề, con người sẽ thấy được là mình đã “nhận về” từ Thiên Chúa tất cả (từ con người đến cuộc sống trần thế của mình) và mình phải có bổn phận đáp trả. Thiên Chúa không đòi hỏi sự đáp trả, vậy thì con người đáp trả bằng cách nào đây? Đó chính là “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8).

Chính 2 bà goá trong các bài đọc hôm nay đã làm như vậy. Và như thế, 2 bà tuy không đọc vanh vách Thánh Kinh, nói thao thao Lề luật như các kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu, nhưng đã sống Lời Chúa một cách sinh động hơn ai hết. Nói đến sống Lời Chúa thì không gì bằng đến với hiện thân Lời Chúa mặc xác phàm: Ngôi Lời nhập thể. Bài Đọc II (Dt 9, 24-28) trong Thánh  lễ hôm nay đã nói rất rõ: Ngôi Lời Giê-su Ki-tô đã “lấy máu mình lập Giao Ước mới” (“Bởi vậy, Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa.”  – Dt 9, 15). Vì lòng thương yêu, Người đã đến trần gian lần thứ nhất thực hiện Giao Ước Mới bằng cách lấy chính Máu Thịt mình làm của Lễ Hy Sinh để cứu chuộc nhân loại, và “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9, 28).

Thánh Phao-lô đã rất chí lý khi đem chính bản thân đặt vào những giả thiết về tất cả mọi hành vi của con người – đặc biệt là hành động “cho” (bố thí) – khi thực hiện mà thiếu tình yêu thì cũng chẳng ích lợi gì (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẵng ích gì cho tôi.” – 1Cr 13, 3). Cuối cùng, Thánh nhân khẳng định: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (1Cr 13, 13). Để được nên như người bạn trung thành tuyệt đối của Đức Ki-tô (Ki-tô hữu), thì mọi Ki-tô hữu hãy nhìn lại mình xem khi bố thí mình có “cho tay phải biết việc tay trái làm”, có “cho tay mặt bắt tay trái”, có thích “nhận về” hơn là “cho đi” hay không? Đồng thời cầu xin Chúa ban cho một đức tin vững mạnh, một lòng mến chân thành, để sống và hành động trong mọi việc, ở mọi nơi, trong mọi lúc, với tất cả tấm lòng “mến Chúa yêu người”, chớ không phải để được đề cao, để được ghi tên, khắc tuổi trên bảng vàng, bia đá cho người đời ca tụng.

Lời khuyên cuối cùng và thiết thực nhất dành cho kẻ viết bài này, xin được chia sẻ với anh em xa gần, đó là: “Đừng xoè tay ra nhận, rồi nắm lại khi phải cho đi” (Hc 4, 31), mà “hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch” (Lc 11, 41). Ấy cũng bởi vì chính Ngôi Lời đã dạy: “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35) và Người đã thực hiện bằng Hy tế Thập giá trên đồi Can-vê. Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin đẩy xa những gì cản bước tiến chúng con, trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng con được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

---------------------------

 

TN 32-B164: CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_B.


Lm. Antôn

 

Có câu chuyện về một người đàn bà sinh năm 1774 tại thành phố New York. Người đàn bà này TN 32-B164


Có câu chuyện về một người đàn bà sinh năm 1774 tại thành phố New York. Người đàn bà này có tên là Elizabeth Bayley. Năm 19 tuổi bà kết hôn với một thương gia tên là William Seton, cho nên bà có tên là Elizabeth Seton.Hai vợ chồng đạo Tin lành và có tất cả 5 người con. Sau đó, người chồng bị chứng bệnh lao phổi. Bác sĩ khuyên vợ chồng qua sống ở nước Ý, hy vọng khí hậu ấm ở đây sẽ giúp bệnh lao của ông thuyên giảm. Nhưng bệnh tình của ông càng ngày càng trầm trọng hơn và qua đời 2 năm sau đó. Nhờ sự quảng đại giúp đỡ của một gia đình người Ý Công giáo, bà và người con gái trở về Hoa kỳ. Sự quảng đại của gia đình người Ý này là động lực thúc đẩy bà Elizabeth tìn hiểu đạo Công giáo. Hai năm sau đó bà và các con được rửa tội theo đạo Công giáo. Sự gia nhập đạo Công giáo của bà và các con làm cho thân nhân và bạn bè xửng sốt, tức giận và từ bỏ bà.

Không nản chí, bà đã đi dạy học để nuôi 5 đứa con.  Và để tóm tắt, sau khi các con trưởng thành và lập gia đình, bà đã trở thành một nữ tu và là vị sáng lập chi nhánh dòng Các Nữ Tì Bác Ái ở Hoa Kỳ. Và chính dòng này đã khởi đầu cho hệ thống trường học Công giáo mà chúng ta thấy hiện nay. Có lần bà đã tâm sự rằng, “Tôi chỉ muốn tránh sự bon chen của xã hội, trong một cuộc sống đơn giản để cầu nguyện, nhưng Thiên Chúa đã muốn tôi làm việc khác, do đó tôi phải vâng theo thánh ý Chúa hơn là ý tôi.”  Trong suốt thời gian này, bà đã hy sinh và cố gắng phát triển và củng cố đời sống của dòng, cũng như đặt một nền tảng vững chắc cho hệ thống giáo dục Công giáo.  Bà Elizabeth Seton qua đời năm 46 tuổi và được Đức giáo hoàng Phao-lô Đệ lục phong thánh ngày 4 tháng 9 năm 1975. Vị thánh đầu tiên của Giáo hội Công giáo Hoa kỳ.

Bà Elizabeth Seton khi còn sống chỉ là một goá phụ đơn sơ, nhưng đã dâng hiến tất cả những gì có trong cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, trở thành một con người phi thường lạ lùng, trở thành một khí cụ của Chúa, và là một món quà quí giá của Giáo hội, góp phần vào việc xây dựng Giáo hội và làm sáng danh Chúa. Như bà Elizabeth Seton, 2 người đàn bà góa trong những bài Kinh thánh hôm nay, đã hy sinh dâng hiến tất cả những gì mình có cho Chúa, với tấm lòng chân thành, vui mừng và yêu mến, và đã được Chúa trả công bội hậu. Cả ba bà góa đã dâng cho Chúa những gì cần thiết cho cuộc sống chứ không phải sự dư thừa.

Bài đọc 1 cho chúng ta biết, tiên tri Êlia bị đói khát trong lúc trốn tránh sự thù nghịch đã gặp bà góa ở xứ Sa-rep-ta và được bà cứu giúp.  Bà góa này đã dùng tất cả số bột bà còn lại để nuôi sống bà và đứa con trong cơn khốn khó, làm một chiếc bánh nhỏ cho ông ăn. Và Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh hạn hán đói khổ.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết câu truyện Chúa Giêsu gặp một bà góa trong đền Thờ Giêrusalem.  Bà đã dâng cúng vào đền thờ hai đồng kẽm là tất cả tài sản và là số tiền vừa đủ để nuôi sống bà.  Bài Tin mừng cho chúng ta biết Chúa đã vinh danh và khen bà dâng cúng nhiều hơn những người giàu có khác.
Chúng ta thường nghe nói của cho không bằng tấm lòng người cho.  Cho những gì cần thiết với  tấm lòng quảng đại, chân thành yêu thương và vui mừng, thì còn quý trọng hơn.  Hai bà góa còn được vinh danh vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và nhà Chúa, như những sự hy sinh quảng đại đóng góp và dâng cúng của chúng ta ngày nay.  Hay nói một cách khác, các bà được đề cao nhờ lòng mến Chúa và yêu người, thành tâm để thánh ý và kế hoạch của Chúa được thể hiện một cách thực tế trong cuộc sống con người trần gian.  Chính lòng yêu mến chân thành đã làm cho lòng quảng đại của hai bà góa có giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa.

Như chúng ta đã từng nghe có 3 mẫu người cho. Mẫu người thứ nhất là những người giúp, cho hay đóng góp với thái độ khó chịu và bực tức.  Mẫu người thứ hai cho, giúp hay đóng góp một cách miễn cưỡng vì bổn phận, và mẫu người thứ ba đóng góp với thái độ hy sinh, vui mừng và quảng đại vì ý thức những gì có là do Chúa ban, cho nên muốn có đời sống tạ ơn và làm sáng danh Chúa.

Nhìn vào cuộc sống hôm nay và trong xã hội này, chúng ta ai cũng hiểu biết rằng tiền bạc rất cần thiết cho cuộc sống. Nên tiền bạc tự nó không xấu, rất hữu ích và giúp cuộc sống có giá trị.  Tiền bạc trở nên tốt hay xấu là do mục đích con người xử dụng nó.  Nếu xử dụng vào những việc xấu thì sẽ đem lại sự xấu cho chính mình, gây tai hại cho gia đình và xã hội.  Nhưng nếu được dùng vào những công việc tốt và bác ái thì đem lại những lợi ích cho chính mình, cho người khác, và nếu dùng vào việc thiêng liêng làm sáng danh Chúa như đóng góp, dâng cúng cho việc bác ái, cho việc xây dựng nhà thờ, thì tôi tin chắc chắn sẽ làm đẹp lòng Chúa và sẽ được Chúa trả công.

Vì yêu thương và muốn cứu độ chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Người là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người.  Và vì yêu thương con người tội lỗi chúng ta, Chúa Giê-su đã hiến dâng tất cả cuộc đời của Người trên thập giá như là một hy lễ để cho chúng ta được sống. Và cũng chính Chúa Giê-su, còn dâng chính Thân Thể Người cho chúng ta trên bàn thờ, như là của ăn nuôi sống linh hồn và bảo đảm cuộc sống vĩnh cửu cho chúng ta. Và cũng vì lòng nhân từ và quảng đại, Chúa ban cho chúng ta rất nhiều ơn lành hồn xác hơn lòng chúng ta mong ước.  Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương 2 bà goá trong Kinh thánh lời Chúa hôm nay có tấm lòng bác ái và quảng đại giúp đỡ, cho đi, đóng góp và dâng cúng với tấm lòng hy sinh và vui mừng, vào những việc đẹp lòng Chúa và làm sáng danh Người. Chúng ta tin Chúa sẽ trả công bội hậu cho chúng ta.

---------------------------

 

TN 32-B165: TẤM LÒNG


Lm. Giuse Nguyễn

 

Nhớ lại năm đi thử tại Họ đạo vùng quê, lúc đó cha sở đang xây nhà thờ nên có lần tôi được cùng TN 32-B165


Nhớ lại năm đi thử tại Họ đạo vùng quê, lúc đó cha sở đang xây nhà thờ nên có lần tôi được cùng với cha đi xin tiền ở một Giáo xứ lớn vùng Sài Gòn. Sau Thánh lễ, chúng tôi chia nhau ra đứng tại các cửa ra vào nhà thờ và cổng nhà thờ để nhận tiền của những ai muốn dâng xây dựng nhà thờ. Khi đứng xin tiền, có hai hình ảnh làm cho tôi phải suy nghĩ. Hình ảnh thứ nhất là của những người cho quá nhiều. Lúc đó đối với tôi, 500 ngàn là lớn lắm! Vậy mà có người móc trong túi ra 2 tờ năm trăm, có người 4 tờ, thậm chí có người 10 tờ. Lúc đó tôi bị choáng ngợp vì người ta quá giàu. Hình ảnh thứ hai là của những người cho ít ỏi. Có người cho 10 ngàn, có người cho 20 ngàn, có người cho 100 ngàn rồi lấy lại 50. Chính những người cho những đồng tiền ít ỏi này khiến tôi suy nghĩ: “Có 10 ngàn, 20 ngàn mà cũng bỏ vào, gặp mình là mình không bỏ đâu, người ta cười chết!” Vậy mới thấy được tấm lòng của người ta, có bao nhiêu cho bấy nhiêu, không sợ người khác chê cười. Có một hình ảnh mà cho tới bây giờ tôi vẫn không thể nào quên được. Đó là một ông già bán cà rem, quảy cái thùng tới trước cửa nhà thờ, dừng lại xin tôi một tờ bướm. Sau khi xem xong nội dung của tờ bướm, ông ta bỏ thùng cà rem xuống, móc cái bọc trong túi quần ra, đếm, vuốt những đồng tiền lẻ nhàu nát rồi đến nói với tôi: “Quê tui ở Vị Thanh, gần nhà thờ này nè! Thấy dưới quê mình lên xin tiền xây nhà thờ mà tui không có nhiều. Thôi từ sáng tới giờ bán được bao nhiêu tui gởi hết, coi như tui gởi tấm lòng về quê vậy!” Thực sự là tôi nói tiếng cám ơn không nỗi, vì “tấm lòng” của ông quá nặng. Tôi không biết chính xác ông bỏ bao nhiêu, nhưng có lẽ chỉ vài chục ngàn, một thùng cà rem của ông. Thế mới thấy, thời nào cũng vậy, tấm lòng mới là thứ quý giá, mới đánh động người khác, và cũng là thứ có giá trị nhất. Phụng vụ lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều đó.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài Đọc I: 1V 17, 10-16
Hình ảnh bà góa thành Sarepta cho chúng ta thấy bà là người ngoại giáo, nhưng có tấm lòng quảng đại còn hơn những người Do Thái giáo thời bấy giờ nữa. Nghĩ cũng lạ, một người không quen, gặp mình ngoài cổng thành, kêu mình đi lấy nước cho người ta uống, vậy mà cũng đi. Hơn thế nữa, cho uống nước rồi, còn xin ăn bánh. Trời đất ơi, được voi đòi tiên! Vậy mà bà góa này không hề khó chịu, vẫn đối xử với ông ta một cách hòa nhã. Đó là tấm lòng của bà góa. Kế đến, bà đã cho tiên tri Êlia không phải những thứ dư thừa, mà cho chiếc bánh cuối cùng để nuôi sống hai mẹ con bà: “Ông ơi, ông hiểu dùm mẹ con tôi, chúng tôi chỉ còn có một chút bột và một chút dầu, đủ để làm cái bánh ăn trước khi chết để khỏi thành con ma đói.” Vậy mà nghe lời của tiên tri, bà đã làm cho ông ăn chiếc bánh cuối cùng đó. Cuối cùng, sở dĩ bà làm như thế là vì bà tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa của ông Êlia.

2. Tin Mừng: Mc 12, 41-44

Qua việc dâng cúng để xây cất đền thờ, Maccô đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh đối lập nhau dưới sự chứng kiến của Đức Giêsu. Hình ảnh thứ nhất là của những người giàu có dâng cúng rất nhiều tiền. Hình ảnh thứ hai là của bà góa nghèo khổ, bỏ vào thùng chỉ có hai đồng tiền kẽm, loại tiền có mệnh giá thấp nhất thời bấy giờ. Nếu tính ra tiền của người Rôma thì chỉ có một phần tư xu thôi. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa thì: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn hết”. Tại sao vậy? Thưa vì dù những người kia bỏ nhiều, nhưng là “tiền dư bạc thừa của họ”. Còn bà góa này dù bỏ ít, nhưng “lại là tất cả những gì bà có”.

Như vậy phụng vụ lời Chúa hôm nay không phải nhằm đề cao bà góa, vì thời nào cũng vậy, đều có bà góa tốt và bà góa xấu. Nhưng Kinh Thánh muốn dùng hình ảnh bà góa vì bà góa là một trong những đối tượng bị đối xử phân biệt trong xã hội thời bấy giờ. Và nhìn chung bà góa thì thiệt thòi hơn những người khác. Điều sâu xa mà Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta ngày là: Muốn của lễ được đẹp lòng Chúa, thì phải là của lễ do lòng hy sinh. Kế đến, hình ảnh của hai bà góa này cũng cho chúng ta thấy được sự dâng hiến trọn vẹn, dâng hiến tất cả những gì mình có. Khi chúng ta dâng của lễ hy sinh với tất cả những gì mình có, thì đó chính là tấm lòng của chúng ta.

II. TẤM LÒNG

Sự hy sinh:
Rõ ràng vấn đề không phải nằm ở số tiền dâng cúng, mà ở cái giá người dâng cúng phải trả. Không phải là tầm cỡ của lễ vật, mà là sự hy sinh của người dâng cúng. Lòng hào hiệp của chúng ta là ở chỗ dâng hiến mà chính mình phải chịu thiệt thòi, mất mát. Dĩ nhiên việc dâng lễ vật ở đây không chỉ là vật chất, mà còn cả cuộc đời chúng ta phải là lễ vật dâng lên Thiên Chúa. Vì vậy giá trị cuộc đời của chúng ta không hệ tại ở chỗ chúng ta làm gì cho Chúa, làm ít hay làm nhiều, làm những chuyện nhỏ nhặt hay những chuyện lớn lao, mà ở chỗ chúng ta hy sinh đến mức nào.

Hai bà góa trong Phụng vụ lời Chúa hôm nay đều thể hiện rõ sự hy sinh, mất mát khi dâng hiến cho Thiên Chúa. Gương của những vị thánh, mỗi người một việc, dù là những việc lớn lao cho cả Giáo hội như  chân thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, hay những việc bác ái phi thường của mẹ Têrêxa Calcutta, hoặc chỉ âm thầm như chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, nhưng tất cả đều chung một giá trị ở sự hy sinh, quên mình cho Chúa. Chính Đức Giêsu khi đến trần gian này cũng đã “Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”… Tất cả đều trở thành của lễ đẹp lòng dâng lên Thiên Chúa Cha.

Hành trình đức tin của chúng ta cũng đòi hỏi sự hy sinh gian khổ. Người giàu có sự hy sinh của người giàu. Người nghèo có sự hy sinh của người nghèo. Linh mục, tu sĩ có sự hy sinh của linh mục, tu sĩ. Giáo dân có sự hy sinh của giáo dân. Hy sinh cho gia đình, cho vợ chồng, con cái. Hy sinh cho họ đạo, cho đoàn chiên… Mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, nhưng tất cả đều là sự hy sinh. Sáng sớm, tôi thức dậy đi lễ, trong khi tôi có quyền ngủ tiếp, đó là sự hy sinh. Ra làm cỏ ngoài đất thánh, nắng nôi, cực khổ, kiến cắn, vắt đeo, trong khi tôi có quyền ngồi đánh bài sướng muốn chết, đó là sự hy sinh. Bạn bè rủ đi nhậu, nhưng thôi, tôi đi làm việc Giáo xứ, đó là sự hy sinh. Một linh mục, một tu sĩ không thể được lòng hết tất cả mọi người: nhưng mỗi người đều có sự âm thầm hy sinh phục vụ trong khả năng và điều kiện Chúa cho… Tất cả sự hy sinh đó làm cho lễ vật cuộc đời chúng ta có ý nghĩa trước mặt Chúa. Bởi vì lễ vật đòi hỏi phải có sự hy sinh, đổ máu.

Dâng hiến trọn vẹn:

Kế đến khi dâng lễ vật, chúng ta phải dâng hiến trọn vẹn. Bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay có thể giữ lại một đồng tiền, dù nó chẳng là bao, nhưng dù sao nó cũng còn một chút gì cho mình. Thế nhưng bà đã dâng hết tất cả những gì bà có. Đức Giêsu đã đổ đến giọt máu và nước cuối cùng cho nhân loại chúng ta. Ngài đã dâng hiến trọn vẹn… Điều tệ hại là chúng ta vẫn còn giữ lại một chút gì đó khi dâng hiến cho Thiên Chúa. Chính “một chút” đó đã làm cho lễ vật của chúng ta chưa trọn vẹn.

Một chút này có khi là sự ươn lười. Chúng ta muốn đọc kinh, đi lễ lắm và có quyết tâm đàng hoàng, nhưng đến giờ bỗng nhiên lười biếng, nên thôi ở nhà. Rõ ràng chúng ta đã dâng cho Chúa nhưng chưa dâng tất cả. Một chút này có khi là sự tiếc nuối. Muốn bỏ bài bạc rượu chè lắm nên đã đi xưng tội và đã quyết tâm bỏ, nhưng khi có người rủ rê, lôi kéo, chúng ta lại cảm thấy tiếc nuối  và thế là trở lại con đường cũ…

Chúng ta có thể cảm nhận được rất rõ, dù cho mình không có gì, nhưng khi dâng tất cả cho Chúa, Ngài sẽ dùng để làm nhiều việc vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Ngược lại, nhiều khi chỉ vì những cái tiếc nuối nho nhỏ mà làm cho chúng ta không được trọn lành.

Tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh của hai bà góa đã làm đẹp lòng Chúa do hai bà đã dâng lên Thiên Chúa tấm lòng của mình. Tấm lòng đó được thể hiện bởi sự hy sinh và dâng hiến trọn vẹn. Từ đó mời gọi chúng ta cũng hãy biết sống hết lòng trong hành trình đức tin của mình, khi chúng ta chấp nhận hy sinh, gian khổ, chấp nhận cho đi tất cả.

Xin ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, thánh cả Giuse cho mỗi người chúng con biết sống thật lòng với Chúa, để nhờ đó dâng cho Chúa trọn vẹn cả tấm lòng của chúng con. Tấm lòng này nhiều khi chỉ là những mồ hôi, nước mắt; những cố gắng đến mỏi mòn trong đời sống đức tin, nhưng dù như thế nào chúng con vẫn không nản lòng mà vẫn tiếp tục dâng hiến trọn vẹn cho Chúa.

--------------------------

 

TN 32-B166: QUẢNG ĐẠI


Lm. Thái Sơn

 

Chuyện vui kể rằng, có hai sinh viên người Liên Xô và Trung Quốc chung phòng, do không hợp TN 32-B166


Chuyện vui kể rằng, có hai sinh viên người Liên Xô và Trung Quốc chung phòng, do không hợp tính nên rất ghét nhau. Hàng ngày, anh Liên Xô lén ‘tè’ vào chăn của anh Trung Quốc.

Anh Trung Quốc vẫn tỏ vẻ như không có chuyện gì xảy ra và lặng lẽ mang chăn đi giặt. Sự việc cứ tiếp diễn, cho đến một hôm anh Liên Xô đang uống trà vui vẻ nói với anh Trung Quốc:

“Bạn thật là quảng đại. Tôi thật sự ân hận về việc đã ‘tè’ vào chăn của bạn. Tôi xin lỗi bạn và hứa từ nay không làm vậy nữa”.
Anh Trung Quốc thản nhiên trả lời: “Vậy thì hàng ngày, tôi sẽ không ‘tè’ vào ấm trà của bạn nữa”.

Thưa các bạn!

Người ta thường nói: Thâm như Trung Quốc.​ Thiết tưởng, biết nó đâm mình còn có thể đỡ được, nó mà đâm trộm ai mà đỡ nổi.

Phải chăng, ngày nay hiếm có người bao dung, rộng lượng, hay quảng đại với nhau? Sống không tranh chấp, chẳng đố kỵ được sử sách lưu danh, người người kính trọng.

Lời Chúa tuần 32 Thường Niên B nói đến người phụ nữ vừa góa lại nghèo, thế nhưng có lòng quảng đại, dám cho đi những gì mình có, dám chia sẻ với kẻ nghèo hơn mình…

Với lòng quảng đại của bà góa nghèo Xarepta, có thể nói “bột đức tin” và “dầu đức ái” mà bà đã chia sẻ cho tiên tri Elia và đã mang lại thứ “bánh thơm tho”, “bánh bồi bổ”, “bánh dinh dưỡng” nhất.

Với lòng quảng đại của bà góa nghèo trong Tin Mừng, có thể nói bằng cả tấm lòng chân thật, dù số lượng rất ít, nhưng chất lượng rất nhiều, dâng cúng rộng lượng, không so đo tính toán nhỏ to…

Có thể nói, lòng quảng đại là khởi đầu của những điều hết sức kỳ diệu và dẫn đến công việc lớn lao… với đồng xu nhỏ nhưng có tình yêu lớn đã đạt được kết quả mỹ mãn, đáng mọi người ca ngợi…

Bằng chứng, Đức Giêsu đã chỉ cho các môn đệ biết: “Thầy bảo thật anh em, bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43).

Thưa các bạn!

Khi có “đức tin & đức mến”, người ta dễ dàng chia sẻ, trao ban và nâng đỡ nhau, với tinh thần “lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá nát”. Ai đó đã xác quyết:

“Khi tin, tôi sẽ dám gởi trao.

Khi tôi chân thành, tuyệt vọng sẽ dừng bước.

Khi tôi yêu mến, sẽ dám cho đi chính bản thân”.

Phận người thật mỏng manh và con người thật yếu đuối, nếu chỉ dựa vào riêng khả năng của mình. Đức tin & lòng mến sẽ là “đôi chân” đứng vững trước sóng gió của cuộc đời.

Thật vậy, nếu không có đức tin vững vàng và lòng mến tha thiết, thì “bạn & tôi” sẽ đi vào con đường lầm lạc, lựa chọn khó khăn, như mẩu chuyện vui dưới đây để kết luận.

Thầy giáo hỏi học sinh: “Nếu thấy một túi đạo đức và một túi tiền ở đường thì em nhặt túi nào?”

Trò không suy nghĩ, trả lời luôn: “Thưa thầy, em nhặt túi tiền”.

Thầy liền nói: “Nếu như là thầy thì thầy sẽ nhặt túi đạo đức. Vậy vì sao em lại nhặt túi tiền?”.

Trò vội đáp: “Thì em nghĩ ai thiếu gì thì nhặt thứ ấy!”…

Xin Chúa ban ơn “đức tin & đức ái” chân thật để “bạn & tôi” chọn lựa và chung sống bao dung và quảng đại hơn. Amen.

-------------------------

 

TN 32-B167: Lòng tốt việc tốt


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta hai tấm lòng tốt việc tốt của hai người phụ nữ: một TN 32-B167


Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta hai tấm lòng tốt việc tốt của hai người phụ nữ: một người thời ngôn sứ Êlia và một người thời Chúa Giêsu.

Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarépta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa, bà hy sinh chút bột và dầu còn lại làm bánh nuôi ngôn sứ, nhưng Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ. Một phụ nữ khác thời Chúa Giêsu, đang sống trong cảnh túng thiếu, thế mà bà đã đem cả số tiền lương công nhật, tức là những gì bà có để nuôi sống mình, bỏ vào hòm tiền dâng cúng cho nhà thờ, và Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác, tại sao vậy? Bởi vì trước mặt Chúa, tất cả những công việc làm từ thiện hay đạo đức phải phát xuất từ lòng mến Chúa và yêu người, chứ không phải như giới kinh sư và Pharisêu, họ làm những việc ấy chỉ là những phương tiện trục lợi và tích trữ của cải đem lại danh giá và địa vị cho mà thôi, ai đói hay chết mặc kệ.

Chúa Giêsu hôm nay mạnh mẽ lên án lối sống hai mặt của các kinh sư và người Pha-ri-sêu: dáng vẻ bề ngoài của họ rất đạo đức: giữ luật chín chắn, đọc kinh dài và nhiều giờ, xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho người công chính… Nhưng thực tế, trong thâm tâm họ độc ác, nhan hiểm vô: bó những gánh nặng chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không động ngón tay vào; hoặc rủ người ta theo đạo nhưng theo rồi đẩy họ xuống hoả ngục, và nhất là nuốt hết tài sản của các bà goá.

Cho nên, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng bắt chước họ vì họ quá chú tâm đến hình thức bên ngoài mà chẳng màn chi đến tâm tình bên trong, họ đáng bị kết án. Tâm tình bên trong quan trọng hơn dáng vẻ bên ngoài, vì nó sẽ chi phối lời nói, việc làm của chúng ta ra tốt hay xấu, chứ không phải bề ngoài. Vì thế ông bà ta nói rằng “Thà tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Hai bà goá trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay tuy dáng vẻ bề ngoài nghèo nàn, hèn hạ đến nỗi không ai tôn trọng bà, thậm chí chả thèm để ý đến nhưng các bà có một tấm lòng đáng trân trọng, khâm phục và noi theo.

Trong đời sống, nếu chúng ta có nội tâm tốt lành thánh thiện đương nhiên sẽ biểu lộ ra bên ngoài bằng những hình thức đáng trân trọng đó là: những lời nói chân tình, hành động yêu thương phục vụ, cử chỉ thân ái, nụ cười thứ tha… Nhân ngày của mẹ năm nay, bài viết có tựa đề “Tình mẹ” được đăng trên mạng lưới Internet kể như sau: Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mất sớm. Mẹ tần tảo nuôi tôi khôn lớn. Khi vào trung học, tôi vô cùng xấu hổ và thẹn thùng và nhục nhã vô cùng vì bạn bè thấy mẹ tôi bị chột một mắt, xấu xí đến nỗi chúng gọi bà là phù thủy. Sau đó, tôi tốt nghiệp đại học loại giỏi, được đi du học và làm việc và ở lại luôn nước Philippines. Từ đó tôi không muốn liên lạc gì với mẹ nữa, thậm chí lấy vợ sinh được 3 cháu mà bà nội cũng chẳng biết gì. Tình cờ, một hôm mẹ tôi lụ khụ đứng trước cửa nhà tôi (Philippines). Tôi đưa mẹ vào nhà và cắn răng giới thiệu mẹ tôi cho vợ con biết. Thế là đám cháu nội xúm lại chọc ghẹo đùa giỡn hổn láo với bà nội vì bà giống phù thủy quá! Mẹ ở với gia đình tôi chưa được một tháng, thì tôi mua vé máy bay cho bà về quê ở Bến Tre gấp. Một năm sau, tôi được tin mẹ tôi đã qua đời. Tôi quyết không về, nhưng vợ tôi nói: “Nghĩa tử là nghĩa tận” nên tôi đành bay về Việt Nam. Về quê, vào nhà thì thấy người ta đã chôn mẹ được ba ngày rồi. Tôi vào phòng và nhìn lại cái gường ngày xưa tôi nằm nghe mẹ kể chuyện và ru tôi à ơi. Bỗng tôi phát hiện trên đầu gường có một lá thư, tôi cầm lên mở ra và thấy vỏn vẹn chỉ mấy dòng sau: “Con ơi, dù mẹ xấu mẹ vẫn thương con hết lòng. Con biết không? Mẹ bị chột mắt xấu xí như vậy là vì ngày xưa con chơi chạy té bị chiếc đũa đâm vào mắt làm hư mắt của con. Mẹ đã yêu cầu bác sĩ múc mắt mẹ mà đắp cho con đấy. Mẹ không nói chuyện này chỉ vì mẹ muốn con thành người tốt sống có ích: yêu thương và giúp đỡ mọi người”.

Chúa Giêsu nói: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết vì Bà đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân” (Mc 12,43-44). Giờ đây, chúng ta hãy xét xem mình đã cho Chúa cái gì? Mỗi ngày một vài phút trước khi thức dậy hay đi ngủ có dành cho Chúa qua việc đọc kinh thờ phượng Ngài không? Ngày Chúa nhật chỉ có vỏn vẹn một tiếng đồng hồ mà có khi chúng ta cũng chẳng dành cho Chúa đủ, cắt đầu, cắt đuôi. Rồi khi Chúa đòi ta một chút cố gắng hy sinh, để phục vụ Chúa và tha nhân, thì ta né tránh, biện cớ bận rộn công việc, không có thời gian, không đủ trình độ… Hay chúng ta có đọc kinh, hy sinh hãm để đòi Chúa phải ban ơn cho mình bằng cách cho con cái này cái kia, chứ không phải là phụng sự Chúa và yêu mến anh em một cách chân tình. Như thế, chúng ta chưa yêu Chúa và tha nhân đích thật, chúng ta mới nói yêu trên đầu môi chót lưỡi bên ngoài, yêu vì có lợi chứ chưa trao ban chính tấm lòng mình như thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu nói: “Yêu là cho đi tất cả và trao ban chính mình”. Còn Thánh Giacôbê tông đồ nói: “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi, đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,24.26).

Ước gì qua lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta từ nay đến với Chúa và tha nhân bằng chính tấm lòng, con người của mình qua việc hăng hái tham gia các hoạt động tông đồ của giáo xứ, và góp phần cụ thể (tiền bạc, công sức…) cho việc bác ái của cộng đoàn của mình. Xin Chúa uốn nắn những gì còn cong quẹo, giả hình, giả dối nơi chúng ta. Và xin Chúa xua tan những tính toán, ích kỷ đang cột chặt con tim của chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng đong đầy ân sủng Chúa trong tâm trí chúng ta ngõ hầu chia sẻ, trao ban những gì chúng ta có cho những người cần chúng con giúp đỡ trong cuộc sống qua việc hy sinh, cầu nguyện cho người còn sống hay đã qua đời, nhất là trong tháng Các Đẳng này. Amen.

--------------------------

 

TN 32-B168: Những cách cho trong cuộc sống


(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

 

Mẹ Têrêxa thuật lại câu chuyện như sau: "Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện TN 32-B168


Mẹ Têrêxa thuật lại câu chuyện như sau: "Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo".

Ở Calcutta, mọi người đều biết là: Mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.

Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: "Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?". Họ trả lời: "Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con".

Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: "Ở Ấn Ðộ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái".

Ðể biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: "Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?". Hai bạn trẻ đó trả lời: "Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào". (Câu chuyện được sưu tầm từ Internet)

Tấm lòng hy sinh quảng đại của đôi vợ chồng trẻ trong câu chuyện trên đây cũng tương tự tấm lòng của hai bà goá mà lời Chúa hôm nay tường thuật lại.

Bài đọc I, sách Các vua kể lại câu chuyện ông Êlia đến xin bánh của một bà goá Sarephta. Hoàn cảnh của bà thật đáng thương. Bà chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Theo lời bà nói: “Bà đang đi lượm mấy que củi để về nấu cho bà và con bà ăn, rồi chết” (x. 1V 17,12). Vậy mà, ông Êlia lại đến xin bà. Bà đắn đo nhưng không từ chối. Lý do bà đắn đo là vì bà muốn ông Êlia biết được hoàn cảnh của mình. Sau khi lắng nghe bà trình bày, ông Êlia đưa ra đề nghị: "Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: 'Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất". Sau khi ông Êlia giải thích, bà đã mạnh dạn nhường phần ăn duy nhất của bà và con bà. Đây là một cử chỉ anh hùng. Tuy bà nghèo của cải vật chất nhưng lại có tấm lòng quảng đại. Bà đã cho ông Êlia không phải cái dư thừa nhưng là cái bà đang cần, là sự sống của mẹ con bà. Sở dĩ bà làm được như vậy là vì bà biết phó thác tin tưởng vào lời Chúa: “Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất”.

Bài Tin mừng thuật lại việc người ta dâng cúng tiền của vào đền thờ. Đang khi họ dâng cúng, Chúa Giêsu đứng quan sát. Ngài thấy những người giàu có bỏ nhiều tiền. Đồng thời, Ngài thấy người đàn bà goá nghèo bỏ hai đồng tiền (1/4 xu). Ngài đưa ra nhận xét: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết" (Mc 12,43). Lời nhận xét của Chúa Giêsu có vẻ nghịch lý. Nếu tính theo số lượng, hai đồng tiền của bà goá quá ít so với những người giàu có bỏ nhiều tiền. Thế thì tại sao Chúa lại bảo người đàn bà bỏ vào hòm tiền nhiều nhất? Câu trả lời đã được Chúa Giêsu giải thích ở câu kế tiếp: “Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình” (Mc 12,41). Thế mới biết, Chúa Giêsu đánh giá việc làm của người khác ở tấm lòng, ở cách cho chứ không phải ở số lượng, ở của cho. Đúng như lời Người nói: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9, 13; 12, 7).

Trong cuộc sống, chúng ta nhận thấy có nhiều cách cho:

Có người cho vì sợ quấy rầy, vì ép buộc: Chúa Giêsu đã nói rõ điều này qua câu chuyện người xin bánh ban đêm. Chúa nói: “Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần” (x. 11,5-8).

Có người cho vì muốn nổi tiếng hoặc để khoe khoang: Dâng cúng vào nhà thờ, đóng góp vào việc chung với ý muốn được nêu danh trong nhà thờ hay được khắc tên vào bia kỷ niệm. Làm việc bác ái là để phô trương cho người ta biết.

Có người cho theo kiểu “Thả con tép bắt con tôm” hay “Hòn đã ném đi, hòn chì ném lại”.

Có người cho chỉ vì bổn phận: Cha mẹ cho con cái những cái tối thiểu để con cái vào đời: học hành, nghề nghiệp, gia đình… đó là cha mẹ đang làm việc bổn phận. Con cái giúp đỡ cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã qua đời bằng tinh thần và vật chất những cái tối thiểu, đó là con cái đang thể hiện lòng hiếu thảo, thể hiện bổn phận đối với cha mẹ. Người giàu bố thí cho người nghèo. Người thầy giáo dạy chữ nghĩa cho học sinh… Đó là cách cho vì bổn phận, mà bổn phận thì ai cũng phải chu toàn. Sách Giáo lý HTCG số 2446 dạy: “Không cho những người nghèo dự phần vào của cải cải của ta, đó là ăn trộm của họ và cướp lấy mạng sống của họ. Của cải ta giữ đó không phải là của chúng ta, nhưng là của họ”. Nói là vậy, nhưng thực tế cho chúng ta thấy: Có nhiều bậc cha mẹ giàu có nhưng để cho con cái sống trong cảnh nghèo nàn. Ngược lại, con cái giàu có, sung túc, nhưng bỏ bê cha mẹ thiếu thốn, nghèo khó. Có nhiều người giàu có nhưng lại ích kỷ không bao giờ làm việc bác ái, không dám cho đi.

Có người cho vì tình thương, vì lòng mến thực sự: Đôi bạn trẻ và bà goá Sarephta đã cho vì tình thường. Bà goá trong bài Tin mừng đã cho vì lòng mến. Họ đã cho đi tất cả, cho đi chính cái mình đang cần, cho vì tình thương và lòng yêu mến. Đó cũng là cách cho của Chúa Giêsu vị thượng tế tối cao (x. Dt 9, 24-28). Cả cuộc đời của Ngài đều cho đi: Cho đi thời gian, sức lực, lời giáo huấn, tình thương yêu. Đỉnh cao của sự cho đi là cái chết trên thập giá: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”(Ga 15,13). Theo gương Chúa Giêsu, biết bao vị thánh đã cũng cho đi vì tình thương, vì lòng mến. Chẳng hạn, các thánh Tử đạo “Đã can đảm tuyên xưng đức tin, đến hy sinh mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa”. Thánh Maximilianô Kolbe đã tự nguyện nộp mình chịu chết thay cho người bạn tù. Mẹ Têrêxa Cacutha đã cho đi cả cuộc đời mình vì người nghèo.

Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta đã từng cho, nhưng cách cho của chúng ta như thế nào? Cho nhiều nhưng luôn cho cái dư thừa? Cho vì khỏi bị quấy rầy? Cho để khoe khoang? Cho vì bổn phận? Cho vì tình thương và lòng mến?

Hãy nhớ rằng: “Của cho không bằng cách cho” hay “Của ít lòng nhiều”. Vì thế, hãy cho vì tình thương, vì lòng mến Chúa yêu người. Hãy quảng đại cho đi, vì “Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi” (Lm. Mark Link). Tôi còn nhớ lời khuyên ngắn gọn nhưng đầy súc tích và ý nghĩa của Cha Bề Trên khi tôi còn học ở Đại chủng viện rằng: “Cụ tụ thì dân tán, cụ tán thì dân tụ”. Ý của Ngài muốn dạy cho các chủng sinh là những linh mục tương lai bài học về lòng quảng đại với giáo dân. Với mười lăm năm làm cha xứ, tôi nhận thấy lời khuyên đó thật chính xác. Không chỉ chính xác đối với cha xứ mà còn chính xác trong mọi lãnh vực: Tôn giáo, xã hội, gia đình, cộng đoàn, đặc biệt cho những người đang có trách nhiệm lãnh đạo. Đúng như lời dạy của Kinh Hoà Bình:

“Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Lạy Chúa Giêsu lòng con mến yêu, xin ban cho mỗi chúng con có tấm lòng rộng mở, biết cho đi một cách quảng đại những gì chúng con đang có. Cho đi không phải vì miễn cưỡng. Cho đi không chỉ vì bổn phận nhưng cho đi vì tình thương và lòng mến. Amen.

---------------------------

 

TN 32-B169: Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng


Tin mừng Mc 12:38-44: Đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau một bên là những vi kinh sư với lối sống khoe khoang, đạo dức giả bị chỉ trích và một bên là người đàn bà goá nghèo hèn nhưng có tấm lòng quảng đại...

 

Đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau một bên là những vi kinh sư với lối sống khoe khoang, đạo dức TN 32-B169


Đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau một bên là những vi kinh sư với lối sống khoe khoang, đạo dức giả bị chỉ trích và một bên là người đàn bà goá nghèo hèn nhưng có tấm lòng quảng đại, Chúa Giêsu muốn các môn đệ phái trách xa thói giả hình của các Kinh sư và học lối sống khiêm hạ, quảng đại của người đàn bà goá. Người môn đệ phải là người có tâm trong sáng, có đời sống bên ngoài xuất phát từ chính tâm trong sáng ấy. Sống trung thực và quảng đại hy sinh là hình ảnh chân thực người môn đệ Chúa Giêsu của mọi thời đại.

I/ Tìm hiểu Lời Chúa Tin Mừng: Mc 12, 38-44

Bản văn được chia làm hai phần:

1. Lối sống đạo đức giả của các Kinh Sư (12, 38-40: Giáo huấn của Chúa Giêsu được chia thành lời khuyến cáo mở đầu (c. 38), một lời mô tả các Kinh sư(c. 38-40), và một lời kết đe doạ phán xét (c. 40). Các kinh sư là những người chuyên về diễn giải mệnh lệnh và các thánh chỉ của Đức Chúa liên quan đến Israel cho dân chúng hiểu và thực hành (Er 7,11). Họ là những người có tư cách giải thích luật và phê phán những ai không giữ luật. Chúa Giêsu lên án sự khoe khoang, tham vọng và thói ham chức quyền của họ. Họ phô trương phẩm giá của họ bằng những hình thức lố bịch bên ngoài, nhưng bên trong tâm hồn họ thì sống một lối sống giả dối, tham lam, bóc lột người nghèo khổ. Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày xét xử cánh chung, tức là mất ân ban sự sống đời đời.(x. Mc 10, 30). Noi chung, Chúa Giêsu kết án thói đóng kịch của họ: họ cho rằng họ là những người đạo đức và thánh thiện để thuyết phục dân chúng tin rằng Thiên Chúa ở về phía họ. Nếu phê phán họ, phản đối họ, từ chối vinh dự phải dành cho họ là sỉ nhục chính Thiên Chúa.

2. Câu chuyện Bà Góa nghèo (12, 41-44): Khung cảnh đến thờ, phòng lưu trữ củ cái, hòm tiền cùng với những người giáu dâng cúng thật nhiều tiền, càng làm nội bật sự nhỏ bé, bần khốn của bà goá, một người không được luật lệ quan tâm bảo vệ. Nhưng Chúa Giêsu thấy đựơc tấm lòng của bà. Phải chăng bà ấy khiêm nhường? Đúng là như thế, nhưng bà do một lý do khác bà đã trở thành tấm gương, thành hình ảnh của người môn đệ Chúa "bà đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có." Bà đã chu toàn một điều kiện thiết yếu để trở thành một môn đệ đích thực đó là người biết chia sẻ quang đại cho những khác tất cả những gì mình có.

3. Lời giáo huấn của Chúa Giêsu cho thấy cách nhìn của Thiên Chúa khác hẳn và vượt trên cái nhìn của con người. Thiên Chúa nhìn thấu dạ lòng người và dựa vào đó để đánh gía một con người. Thiên Chúa không nhìn nhận và đánh giá một ai qua dáng vẻ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa mời gọi các môn đệ một mặt phải sống trung thực, quang đại, hãy tránh xa lối sống đạo đcứ giả của các Knh sư, mặt khác phải biết khôn ngoan nhìn nhận đánh giá đúng bản chất của anh chị em chung quanh, đừng để bị lừa dối bởi lối sống, bởi dáng vẻ hào nhoáng bên ngoài.

II. Gợi Ý Suy Niệm:

Lời Chúa Giêsu phê phán các Kinh sư có thể hới quá đáng. Tuy thế, những người đang có trách nhiệm phục vụ dân chúa ở mọi cấp vẫn cảm thấy đựơc mời gọi đánh giá lại cung cách sống của mình, lời ăn tiếng nói của mình, cũng như ý hướng phục vụ của mình. Lừa dối đã là hành vi đáng bị lên án, nhưng đáng bị hơn nữa nếu lợi dụng những sự thánh thiện, những việc đạo đạo đức tôn giáo để che giấu thực trạng tội lỗi, xấu xa của mình.

Tám gương bà Goá mời gọi các Kitô hữu đừng đánh giá con người theo bề ngoài. Trước nhan Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là của dâng cúng lớn, nhưng là tâm tình trung thực khi dâng cúng " Của cho khong bằng cách cho". Vì ý thức rằng người nghèo được Thiên Chúa yêu mến, tôn trọng, cộng đoàn Kitô hữu không những cần nghiền ngẫm tấm gương bà goá, âm thầm kín đáo làm các việc đạo đức, mà còn sẵn sàng giúp đỡ những người đang gặp khó khăc cách quảng đại.

Người giàu có cho một phần gia sản của họ, có lẽ sẽ không mất mát thiệt thòi la bao. Còn bà goá đã cho hết những gì bà có, dù nó chẳng là bao, qua nhỏ bé so với của dâng cung của người giàu có. Điều này không phải ngầm ý so sánh trước mặt Chúa người nghèo khó thế giá hơn, người giàu bị Chúa ghét hay loại bỏ nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng quảng đại của bà, đế sự hy sinh và nhất là tấm lòng phó thách của bà vào Thiên Chúa. Bà đã đặt tất cả cơm ăn, sự sống của bà vào Thiên Chúa, bà hy vọng tất cả nơi Thiên Chúa.

III/ Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến. Thiên Chúa luôn quảng đại yêu thương con người chúng ta và cần tấm lòng trung thực con người. Vậy với tất cả tầm lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

1. Chúa Giêsu lên án lối sống đạo đức giả của các Kinh sư và giáo huấn các Môn đệ sống trung thực. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội, nhất là các bậc chủ chăn luôn biết chân thành sống đúng giao huấn của Chúa và can đảm lên tiếng bênh vực cho sự thật và công lý.

2. Qua lời dạy của Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ đừng bắt chước các kinh sư có lối sống giả hình, chuộng hình thức bên ngoài, chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia thực sự có tấm lòng vì dân, vì nước. Xin cho các vị ấy có được cái tâm trong sáng, trung thực trong hành xử công việc, nhờ đó đất nước và người dân đựơc sống hạnh phúc.

3. Bà goá đã cho tất cả những gì bà có. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta được thấm nhuần Lời Chúa biết quảng đại hy sinh và luôn tin thưởng phó thác cuộc sống vào bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.

* Lời Kết: Lạy Thiên Chúa, đấng giàu lòng quảng đại và luôn thành tín yêu thương. Chúng con xin phó dâng tất cả cuộc sống chúng con trong Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn tràn đầy ơn Thánh Chúa để tất cả chúng con biết sống trung thực với Chúa và với nhau, đồng thời biết thành tâm chia sẻ cuộc sống với mọi người chung quan. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

----------------------------

 

TN 32-B170: Suy niệm của Lm. Anfonso


Tin mừng Mc 12:38-44: Hình ảnh trao dâng quảng đại ấy còn được minh họa rõ nét trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô (12,41-44) hôm nay. Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ở trong đền thờ, gần khu vực có đặt thùng tiền mà dân chúng và khách hành hương khắp nơi thường đến đây dâng cúng cho công việc tu bổ hay duy trì việc phụng tự của đền thánh.

Suy niệm:

 

Chúng ta xem các kênh giải trí truyền hình, có nhiều chương trình làm việc từ thiện, nhưng vẫn còn TN 32-B170


Chúng ta xem các kênh giải trí truyền hình, có nhiều chương trình làm việc từ thiện, nhưng vẫn còn thấp thoáng đâu đó một mục đích khác là quảng cáo thương hiệu sản phẩm. Hoặc có những người đi làm công tác bác ái, đăng lên các mạng xã hội facebook, zalo để khoe khoang thành tích, vì ai mà không muốn “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, ai mà không muốn được nhiều người biết đến.

Bài đọc I trích sách các Vua quyển I (1V 17,10-16) hôm nay diễn ra trong bối cảnh dân Do thái đang gặp nạn đói. Lúc ấy, tiên tri Êlia lỡ đường ngang qua, ghé vào xin chút nước uống và chút bánh lót dạ. Bà góa nghèo thành Sarephta chỉ còn có một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình, đang lượm vài que củi về nấu cho bà và đứa con trai ăn, rồi cũng chết vì quá đói. Thế nhưng, với lòng tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, bà dám hy sinh những gì còn sót lại cho sự sống còn để khoản đãi cho người của Thiên Chúa mà không tính toán. Nhờ thế bà được chúc phúc hũ bột không vơi, bình dầu không cạn giúp bà vượt qua nạn đói hoành hoành.

Hình ảnh trao dâng quảng đại ấy còn được minh họa rõ nét trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô (12,41-44) hôm nay. Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ở trong đền thờ, gần khu vực có đặt thùng tiền mà dân chúng và khách hành hương khắp nơi thường đến đây dâng cúng cho công việc tu bổ hay duy trì việc phụng tự của đền thánh. Người ngồi thinh lặng, quan sát và chứng kiến nhiều người đủ mọi giai tầng đến dâng cúng. Và Chúa đã để ý tới một người nghèo đang tiến lại gần thùng tiền. Mặc dù bà góa này không có nhiều tiền như bao người, bà cũng chỉ bỏ vào hai đồng tiền nhỏ chẳng đáng kể nhưng lòng đạo đức của bà không hề thua kém người khác. Chính cách thành tâm của bà đã được Chúa Giêsu ghi nhận và nêu gương cho các môn đệ rằng “Tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có để nuôi sống” (Mc 12,44). Bà góa nghèo được gọi là người đã bỏ nhiều nhất vì ngay cả những gì có thể nuôi thân cứu đói qua ngày, bà cũng tặng dâng cho Thiên Chúa mà không so đo tính toán.

Người đời chúng ta thường đánh giá theo vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa thì đánh giá theo tấm lòng chúng ta trao ban hơn là dựa trên chủ nghĩa duy hiệu quả và những gì thấy ngay trước mắt. Trong việc sống đạo cũng vậy, việc đọc kinh, dự lễ, làm việc tình nguyện, bác ái mà thiếu sự chân thành, thiếu tâm tình bên trong thì những gì chúng ta trao dâng chỉ là hình thức, đánh bóng chính mình mà thôi. Hoặc một thái cực khác đó là một số người chủ trương “sống Đạo tại tâm” là đủ, không cần đọc kinh, dự lễ, không phải xưng thú tội lỗi gì cả vì Chúa biết hết rồi; và cũng có người quan niệm tới nhà thờ ngày Chúa nhật để “check in” là đã có mặt, cho lòng mình an tâm đã giữ lễ ngày Chúa nhật, nhưng sự thật chỉ ngồi tám chuyện, hóng mát như ở ghế đá công viên mà thiếu tâm tình tôn kính Chúa, không đối đáp thưa kinh, chẳng cần rước Mình Thánh Chúa. Tất cả những điều này là một sự ngụy biện nơi những người lười biếng, bê trễ thi hành những bổn phận đạo đức. Rốt cuộc đời sống đạo của người đó trở nên èo uột, vì họ không chăm lo cho linh hồn mình.

Thử hỏi trong tình yêu, khi hai người thương nhau mà quan niệm rằng yêu thì để trong lòng là đủ, cần gì phải hẹn nhau đi chơi, cần gì phải nhắn tin gọi điện cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì ly chè ly kem, cần gì những cử chỉ âu yếm hay những những lời động viên nhau... Vậy nó có còn là tình yêu không?
Chính Chúa Giêsu đã trở nên mẫu gương cho chúng ta về việc trao ban. Người đã yêu thương đến nỗi trao ban cả mạng sống mình, sẵn sàng gánh lấy tội lỗi chúng ta đưa lên cây thập giá. Vậy mỗi người chúng ta cũng được mời gọi sống tập dâng hiến như bà góa nghèo, tin tưởng và trao dâng cho Thiên Chúa mà không tính toán, giúp đỡ anh chị em mà không lo tư lợi. Đó là một sự cho đi mà cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã cảm nhận và viết lên những ca từ trong bài “Để gió cuốn đi” như sau: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi!” Vâng, một khi trao ban cách chân thành bằng cả tấm lòng con người thì quý biết bao.

Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen. (Kinh dâng hiến của thánh Ignatio Loyola).

--------------------------

 

TN 32-B171: Quảng đại với Thiên Chúa


(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

 

Lời Chúa CN 32 TN đề cập đến lòng quảng đại của Thiên Chúa Cha và lòng quảng đại hai bà TN 32-B171


Lời Chúa CN 32 TN đề cập đến lòng quảng đại của Thiên Chúa Cha và lòng quảng đại hai bà góa nghèo đối với công trình của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban người Con một mình, người Con duy nhất cho nhân loại. Thiên Chúa Cha không tiếc cái “núm ruột” quí báu của mình, và Người Con Duy Nhất cũng bằng lòng vâng ý Cha để thực hiện chương trình yêu thương của Cha. Và cuối cùng, chỉ một của lễ duy nhất ấy, chỉ một hy sinh duy nhất ấy, đủ để làm đẹp lòng Cha và mang lại cho nhân loại niềm vui ơn cứu độ muôn đời. Vì thế, Thánh Phaolô kết luận:

- “Đức Kitô đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9,26)

- “Người đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9,28)

Nếu hình ảnh người Con Một duy nhất là Đức Giêsu Kitô nói lên lòng quảng đại vô cùng của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại, thì hình ảnh bà góa trong Mc 12,41-44 với hai đồng tiền kẻm duy nhất cuối cùng bỏ vào thùng tiền dâng cúng đền thờ và hình ảnh của bà góa ở Xarépta (1 V 17,10-16) với phần lương thực duy nhất cuối cùng dành cho tiên tri Elia lại nói lên lòng quảng đại đối với Thiên Chúa của con người.

Bà góa ở Xarepta biết rằng với một nắm bột và một chút dầu, mẹ con bà chỉ còn một bữa cơm trần gian cuối cùng, và sau đó là chết chắc. Không thể khác hơn được. Nhưng tiên tri Elia, “người được Thiên Chúa sai đến”, có yêu cầu bà cộng tác với Thiên Chúa, qua việc giúp ông một chén nước, một bữa cơm.

- "Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống."

- "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!"

- "Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết."

Trước sự do dự của bà góa vì việc bảo toàn sinh mạng mẹ con ít là một thời gian ngắn, Tiên tri Elia nói cho bà biết ý định của Thiên Chúa:

- "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen phán thế này: "Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất."

Việc đã xảy ra đúng như lời tiên tri đã nói: “Hũ bột đã không với, vò dầu đã chẳng cạn”.

Một phép lạ của ba nhân đức đối thần: tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, yêu mến Chúa và yêu mến người của Chúa, việc của Chúa, vững dạ cậy trông hết tình như lời Chúa hứa qua miệng tiên tri. Một phép lạ ngay tức khắc và bền vững để giữ uy tín cho “người nói thay Lời Thiên Chúa”. Một phép lạ tiên báo về Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu và duy nhất của Thiên Chúa Cha mà Ngài cũng chẳng tiếc chẳng tha, để chương trình cứu rối nhân loại của Thiên Chúa Cha được thực hiện và hoàn tất.

Thế rồi, con người được loan báo ấy cũng đã đến trong “ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”, ấy chính Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu, trong trình thuật của Thánh Marco hôm nay cho biết Ngài đang có mặt trong đền thờ và “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”.

Thấy một bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền hai đồng kẻm, Ngài nói:

- "Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.(Mc 12,43)

- Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Mc 12,44)

Chúa Giêsu trân quí nghĩa cử cao đẹp của bà góa nghèo một cách đồng cảm. Vì chính Ngài cũng mang thân phận đồng tiền duy nhất của Chúa Cha. Ngài thấu hiểu lòng Chúa Cha khi hy sinh cái quí giá nhất là Con Một mình cho chương trình cứu rỗi nhân loại. Vì thế, trước mắt Ngài, đồng bạc nhỏ nhoi mà quí giá của bà góa nghèo kia lại là hình ảnh của Ngài, mà thế gian chưa chắc đã nhận ra.

Liên kết ba bài đọc hôm nay, có thể rút ra một bài học cho hành trình đức tin chúng ta: Hãy biết rằng Thiên Chúa đã quảng đại với chúng ta là dường nào, và hãy quảng đại với Thiên Chúa.

Không có gì quí hơn Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu là món quà vô giá mà Thiên Chúa Cha đã ban tặng cho nhân loại. Không nên chỉ biết điều ấy, mà hãy đón nhận Chúa Giêsu với tất cả tấm lòng thành kính, rồi cộng tác với Ngài, tiếp tục sứ mạng cứu rối nhân loại. Một trong những cách cộng tác ấy, là hãy quảng đại với Chúa một đồng, hãy quảng đại với Chúa một giờ, hãy quảng đại với Chúa chút hơi sức còn lại, hãy quảng đại với Chúa một lời yêu thương giũa thế giới ngập tràn thù hận, gian ác…

Vài tuần trước đây, tôi có việc về Nha Trang, và ghé thăm Cha MT, cha kể rằng: một Chúa nhật nọ, Cha nói chuyện với Giáo dân về tư thế tham dự phụng vụ của Giáo Dân: quì, ngồi, đứng trước mặt Chúa đều tốt cả, miễn là chúng ta có lòng chân thành. Nhưng, tư thế quì, bao giờ cũng trang nghiêm sốt sắng hơn và nhất là tỏ được lòng khiêm tốn, lòng yêu mến, quí trọng Thiên Chúa là Cha. Ví dụ, khi rước lễ, ta quì đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, thì xứng đáng hơn.

Sáng thứ hai trong tuần, một cụ bà 80 tuổi đem đến cho Cha một triệu đồng.

Cha hỏi: -“Tiền gì đây bà cụ?”
-“Thưa Cha, tiền con dâng cúng để đóng bàn quì rước lễ”
-“Tôi mới ví dụ thôi mà!”
-“Ví dụ gì nữa, cha đóng bàn quì đi, bọc khăn trắng nữa!”
-“Úi chà! Bà cụ già thế, ở đâu ra mà tiền nhiều vậy?”
-“Hết rồi Cha ạ, có bấy nhiêu thôi! Con cháu nó cho mối lúc ít đồng, để dành mua cái áo quan, nhưng bây giờ thì cái áo quan không cần bằng cái bàn quì rước lễ!!!”

Không thiếu những hình ảnh quảng đại như bà cụ 80 tuổi trên đây, mỗi khi chúng ta bước vào nhà thờ, nhất là những nhà thờ ở Việt Nam sau 1975, nếu chúng ta liên tưởng đến những đồng tiền chắt chiu của các bà góa trên khắp thế giới. Có những người rất điển trai, đẹp gái, và cả những lão bà lão ông đang ăn mày cho Giáo Hội những đồng xu rất nhỏ, để các cơ quan từ thiện có điều kiện mà thi thố tình thương của Chúa khắp nơi.

Tôi nhớ năm 1990, Cha FX, cha sở trước đây của GX tôi, cùng với Giáo Xứ khởi công xây dựng Ngôi Thánh Đường Anrê Kim Thông với sự đóng góp tiền bạc thật ít ỏi, nếu không nói là hầu như không có gì, vì giáo dân quá nghèo. Cha cũng chạy vạy hành khất khắp nơi, nhưng khó khăn quá. Thế là Cha có chương trình: “Tôi sẽ làm kỹ sư, tất cả chúng ta là thợ xây, nhà nào cũng có thợ xây Nhà Chúa, để giảm thiểu tối đa sự tốn kém”. Mọi người cùng đồng lòng, cùng quyết tâm. Cha sở ngày ngày mang đôi bata, mặc đồ lính, đội nói cời cùng với Giáo dân thi công suốt hai năm ròng! Trước ngày Cung Hiến Thánh Đường Anrê Kim Thông, nụ cười Cha rạng rỡ trên khuôn mặt đen sì màu nắng rám! Cha nói: “ Xin cảm ơn anh chị em, chúng ta đã xây dựng ngôi thánh đường nầy chỉ với số tiền 240 triệu, nhờ những đồng tiền của các bà góa trên khắp thế giới, nhờ những đóng góp của anh chị em, chúng ta đã tiết kiệm được của Chúa rất nhiều. Hãy tạ ơn Chúa và xin Chúa trả công cho các bà góa âm thầm trên khắp thế giới, mỗi khi anh chị em đến sum họp trong ngôi thánh đường nầy.”

Cũng với kế hoạch ấy, Cha FX ĐQH, đang chuẩn bị cho lễ Đặt Viên Đá trong tháng này, sau hơn hai năm gõ cửa các bà góa khắp nơi, đồng thời cũng ngần ấy thời gian “Cha, con cùng tiết kiệm”. Nghe nói, phần Cha, góp tất cả bỗng lễ của Giáo dân trong xứ (theo luật, Cha được hưởng) vào kinh phí xây dựng nhà thờ, và riêng các em thiếu nhi, tuổi chưa bao đồng, đã dành phần làm cái cửa tiền đường với giá 40 triệu từ những hủ pig!

Chúa muốn chúng ta quảng đại với Chúa, vì Chúa đã không tiếc gì cho ta, vì Chúa không keo kiệt, không tính toán, không kể đếm, không khoe khoang khi Ngài thi thố tình thương của Ngài đối với chúng ta. “Một đồng của đức tin cậy mến”, quảng đại cho Chúa, cho công việc của Chúa, sẽ là một đồng trổ sinh muôn phép lạ. Chúa muốn chúng ta quảng đại với Chúa một giờ giữa trăm công ngàn việc, giữa bao bề bộn lo toan, và cả giữa những gọi mời tiêu khiển giải trí của trần thế… để đến với Chúa, nghe và nói với Ngài một lời tạ lỗi, một lời xin ơn, một câu chúc tụng. Chúa muốn chúng ta đóng góp với Chúa một chút sức lực, một chút cố gắng, một chút hy sinh bắt nguồn từ lòng biết ơn và lòng tin cậy mến.

Hơn thế nữa, Chúa muốn chúng ta trân quí sự đóng góp của mọi người cho công cuộc Nước Chúa. Có người dâng cho Chúa tiền bạc, có người hiến cho Chúa thời gian, sức lực, có người hiến cho Chúa cả danh dự mình, cả sĩ diện mình, có người đóng góp bằng lời cầu nguyện âm thầm, cũng có người không nói gì cả, nhưng bằng lòng làm chứng cho chân lý, bằng lòng chịu thương chịu khó vì Chúa trong cảnh tù đày, quản thúc, bức bách…. Kẻ ít người nhiều, mọi sự đóng góp đều có giá trị cứu rỗi trước mặt Chúa. Không vì phần đóng góp nhiều hơn mà có giá trị hơn và đóng góp ít hơn mà kém giá trị. Giá trị của lễ dâng không do bởi số lượng mà do lòng yêu hết tâm hồn, hết linh hồn hết trí khôn.

Bà Tám nghèo ở xóm nghèo của chị tôi siêng đi xin lễ cho các linh hồn mồ côi. Ky cóp được vài chục ngàn là đi xin lễ, hoặc nhà thờ có công việc gì kêu gọi bà đều có tiền đóng góp, nhưng không nhiều, rát ít. Một lần bà nói với Cha sở: “Cha ơi, con xin được cái bì thư bỏ tiền vào xin lễ, mà lần nào xin lễ, con cũng thấy Cha lấy tiến ra đếm, con ngại quá”. Từ đó, linh mục ấy không đếm tiền trước mặt người xin nữa.

Vâng, người nghèo, tự họ đã cay đắng với cái nghèo của họ lắm rồi. Chỉ có Chúa Giêsu biết rõ, sự giàu có nơi họ. Chúng ta cũng bắt chước Chúa Giêsu mà thay đổi cách thẩm định các giá trị của những đóng góp.

Chúa cần một đồng của lòng quảng đại. Chúa không cần một ngàn của lòng khoe khoang tự phụ. Vì một đồng của lòng quảng đại mới có sức làm nên phép lạ lớn lao, còn một ngàn của lòng khoe khoang không sinh ích lợi gì cho người dâng hiến, và cả cho Thiên Chúa.

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã không tiếc Chúa Giêsu, Con Một Chúa, mà đã ban cho chúng con như quà tặng quí giá mang ơn cứu rỗi. Xin cho chúng con cũng biết quảng đại với Chúa luôn. Amen.

----------------------

 

TN 32-B172: Đồng tiền bà góa nghèo


(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)

 

Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện về lòng quảng đại của người ăn xin. Vào một ngày nọ, mẹ TN 32-B172


Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện về lòng quảng đại của người ăn xin. Vào một ngày nọ, mẹ đi bộ xuống các con đường thăm sóc những người vô gia cư thì gặp được một người ăn xin chạy đến nói với mẹ rằng: "Thưa mẹ Têrêsa, nhiều người đưa tiền cho mẹ để giúp đỡ những người nghèo đói, và con cũng muốn đưa cho mẹ số tiền này. Cả ngày hôm nay, con chỉ xin được 30 cents, con xin đưa cho mẹ". Mẹ suy nghĩ trong giây lát, rồi nói: "Nếu tôi nhận 30 cents của ông thì ông có gì để ăn tối nay, và nếu tôi từ chối thì ông rất buồn”. Sau đó, mẹ Têrêsa đón nhận món quà của ông, mẹ nhìn thấy gương mặt của ông ta rất vui vẻ và phấn khởi chưa bao giờ mẹ gặp một người nào có thái độ vui mừng như vậy.

Người ăn xin này rất vui khi được góp một phần nhỏ bé của mình khi trao món tiền nhỏ bé của ông ta cho mẹ Têrêsa, điều này có lẽ khác với cách suy nghĩ của nhiều người hôm nay. Một người ăn xin lại cho đi cái mình xin từ người khác. Với cuộc sống cơm áo gạo tiền, chúng ta hiếm thấy có những người cho đi chính cái mình đang cần để nuôi thân. Xã hội ngày nay đang biến con người ta chạy theo đồng tiền, hưởng thụ và danh vọng thì đâu đó cũng có những con người cao thượng và lòng quảng đại với những người kém may mắn hơn mình. Trong thời đại nào cũng có kẻ giàu người nghèo; người tốt kẻ xấu, người lương thiện kẻ bất lương; người thật kẻ giả dối. Câu chuyện của bà góa là đại diện cho tầng lớp nghèo nhưng lại có một tấm lòng quảng đại. Bà được Chúa Giêsu khen ngợi là người dâng cúng nhiều nhất trong số đám đông người giàu bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ, bởi vì bà cho đi tất cả những gì bà có, bà đang cần. Chúa Giêsu nhìn đến tấm lòng của bà hơn là số tiền bà bỏ vào.

Có lẽ, điều này đi ngược lại với con mắt của đám đông, họ coi việc bà góa bỏ hai đồng tiền có đáng là bao so với họ, họ nghĩ việc làm của họ có công đức trước mặt Chúa, nhưng trong con mắt của Chúa Giêsu thì bà là người bỏ nhiều nhất. Ngài gọi các tông đồ đến để giải thích cho họ hiểu ý nghĩa của việc dâng cúng và việc làm bác ái của dân chúng. Trong số đám đông đó có cả các kinh sư, họ là người bị Chúa Giêsu lên án bởi cách sống giả tạo, họ mặc bộ áo thụng xúng xính, thích người ta chào hỏi nơi công cộng, chiếm chỗ nhất trong đám tiệc, nuốt tiền của các bà góa nhẹ dạ, làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Họ sẽ bị kết án nghiêm trọng hơn.

Đối chiếu với những gì Chúa Giêsu lên án các kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay, tôi nhìn thấy bóng dáng mình trong số đám đông này chăng! Và đây có phải là điều nghịch lý với cách suy nghĩ của chúng ta hiện nay không? Chúng ta có cảm thấy đau khi bị Chúa đụng chạm nơi thẳm sâu của lòng tham lam tiền bạc, chức quyền, và của hố sâu của tội lỗi bởi dục vọng, ích kỷ, mưu mô và tính toán của chúng ta không?

Tôi thường sống theo cách đánh giá bởi người chung hơn là kính sợ Chúa nhìn về mình. Theo cách đáng giá con người của người đời bảo tôi là người có công đức trước mặt Chúa, vì tôi dâng cúng cho nhà Chúa nhiều, tôi làm việc bác cho người nghèo, đọc kinh dự lễ đầy đủ và biết bao nhiêu công trạng khác, tôi đã và đang làm, tôi được ghi tên đứng đầu trong hàng ghế danh dự trong nhà thờ, được khắc tên trên tường, được mọi người tôn vinh công đức trước công đoàn. Điều này không có gì sai, đó là cách đánh giá theo số lượng về tiền cải, công sức và vật chất, nhưng tất cả những điều đó chưa đủ, bởi vì cách tôi ban tặng chỉ là cái dư thừa, tôi làm để được người khác đánh giá và nhìn nhận, chứ không phải vì lòng mến, thì nó chẳng có công trạng gì trước mặt Chúa, mà nhiều lần Chúa đã cảnh cáo bọn biệt phái:" Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng lại xa Ta." Chúa nói những người giàu có chỉ cho cái dư thừa, mà họ đem bỏ vào vào đó, còn người đàn bà góa bỏ vào đó tất cả những gì bà có, ngay cả khi bà đang túng thiếu, bà cần cái để nuôi thân. Tiêu chuẩn đánh giá của Giêsu dường như đại diện cho tiêu chuẩn của Thiên Chúa, đó là, không phải qua số lượng tiền mà là tính cách toàn thể của những gì được dâng và tương quan của những gì được dâng đối với người dâng cúng. Giêsu nói rằng, bà đã "bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình" như là cách ám chỉ việc tích trữ kho tàng trên trời. Một người ăn xin cho mẹ Têsêsa 30 cent, mà ông ta xin được cả ngày giữa trời năng so với một nhà giàu cho 300 đô. Chắc chắn mẹ Têrêsa vẫn quý và trân trọng với 30 cent của người ăn xin này.

Đối với Chúa Giêsu, Ngài cần tấm lòng hơn của lễ. Vì của lễ chúng ta chẳng mang lại gì cho Chúa, nhưng tấm lòng đó để biết chia sẻ với anh em đồng loại. Đó là giới luật yêu thương. "Kính Chúa yêu người." Ngài cần chúng ta làm điều đó với con mắt thánh thiện thì mới có thể nhìn ra giá trị của lòng bác ái khi ta cho đi, chính là sự trân trọng và tình yêu thương. Việc làm nhỏ bé của bà góa nghèo hôm nay có thể là một bài học cao quý cho mọi người chúng ta biết cho đi mà không tính toán, biết làm việc mà không cần đền đáp.

Tóm lại, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bà góa này, để dạy chúng ta cách đánh giá và nhìn nhận về việc dâng cúng tiền của cho Giáo hội cũng như trong công việc bác ái chúng ta làm. Hãy làm vì danh Chúa, chứ đừng làm vì sáng danh mình, muốn được ghi danh và người đời ca tụng, nó giống như vỏ chấu cuốn đi và chẳng mang lại lợi ích cho phần rỗi linh hồn. Lòng bác ái chỉ có giá trị đích thực khi con tim ta thuộc về Trái Tim của Chúa. Amen.

---------------------------

 

TN 32-B173: Giá trị thực


(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Nhiều người dâng cúng tiền vào trong đền thờ. Đức Kitô ngồi đó quan sát họ. Trong số đó TN 32-B173


Nhiều người dâng cúng tiền vào trong đền thờ. Đức Kitô ngồi đó quan sát họ. Trong số đó nhiều người giầu có cho những món tiền to; còn bà nghèo này cho gì mà khiến Đức Kitô vừa suy nghĩ lại lên tiếng làm đề tài giáo huấn cho các môn đệ. Rất khiếm có hành động của con người Đức Kitô mượn làm đề tài hướng dẫn, giáo dục, các tông đồ nhưng bà nghèo này đã làm được việc quan trọng đó. Bà đã dâng cúng thứ gì vào Đền thờ khiến Đức Kitô cho đó là quan trọng? Thưa bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm có giá trị một xu bạc.

Xã hội chúng ta thường quan niệm người dâng cúng nhiều tiền vào đền thờ là người hảo tâm vì đã cho nhiều và kẻ cho ít hơn thì ít hảo tâm hơn. Đại đa số định giá trị trên số lượng tiền bạc dâng cúng mà ít quan tâm đến phẩm chất của tấm lòng chân thành người dâng cúng. Điều này không có gì sai trái vì xã hội chúng ta sống ảnh hưởng, lệ thuộc rất nhiều vào đồng tiền. Không có nó mọi sinh hoạt trong xã hội bị đình trệ và cuộc sống hàng ngày cũng gặp khó khăn. Đức Kitô không ngụ í chê trách nghĩa cử bác ái cao đẹp của người giầu có dâng cúng tiền vào đền thờ Ngài đưa ra nhận xét về tấm lòng của những người làm công việc bác ái. Chúng ta chú trọng vào số lượng vật chất dâng cúng, Ngài chú trọng vào tấm lòng của người dâng cúng. Bởi vì không phải tất cả mọi hành động, cử chỉ bác ái đều đến từ con tim yêu mến, đầy tình thương. Nhiều hành động bác ái thúc đẩy bởi hoàn cảnh và ảnh hưởng bởi suy tính của khối óc hơn là đến từ con tim yêu mến.

Đối với Đức Kitô chân giá trị của việc bác ái không được đo lường bằng số lượng vật chất dâng cúng mà đo bằng tấm lòng chân thành phát xuất tự con tim. Vật chất có giá trị vì con người tạo giá trị cho nó trong khi hành động bác ái thúc đẩy bởi con tim chân thành luôn phảng phất tình thương và lòng mến. Hành động đến từ con tim chân thành luôn mang hai giá trị tuyệt vởi thương và mến. Đức Kitô ca ngợi hành động bác ái của bà nghèo khó vì hành động đó đến từ con tim yêu mến, chân thành. Bà dâng cúng chỉ trị giá một xu nhưng đó là tất cả những gì bà có thể cho. Dù có muốn cho hơn nữa cũng không thể vì bà không còn gì để cho. Thực ra bà đã cho tất cả những gì bà có trong khi những người giầu có kia chỉ cho một phần của để dành được. Điều khác biệt nằm ở chỗ cho tất cả, không sót lại và cho một phần của dư để dành. Như thế hành động của bà đến từ tận trong con tim sâu thẳm vả cho tận tình; trong khi hành động của những người giầu có kia rất có thể đến từ con tim nhưng họ không cho tận tình. Nói cách khác người giầu có cho nhưng vẫn còn tính toán lo cho ngày mai, bà nghèo khó cho luôn cả ngày mai, những gì nuôi sống tương lai không được giữ lại nhưng mang cho. Có thể nói bả cho cả tương lai đời mình.

Bà không mặc cảm vì sống nghèo. Bà cũng không lo lắng về phẩn thưởng nhận lại từ việc bác ái. Bà chi biết cho mà không mong nhận trong khi người giầu có cho món tiền lớn nhận tiếng khen của đại chúng. Vì cho đi tất cả những gì mình có bả trở nên dại khùng trước cách lí luận của xã hội nhưng trước mắt Đức Kitô bà là người khôn ngoan biết đặt tương lai mình vào tình yêu Thiên Chúa.

Cách định giá việc làm của Đức Kitô không đặt nặng vào cho nhiều hay ít và cho thứ gì nhưng Ngài chú trọng vào việc làm thúc đẩy bởi con tim. Việc làm đến từ con tim luôn được Ngài cổ võ, khuyến khích. Bà nghèo được ngợi khen vì việc làm của bà thúc đẩy bởi con tim và làm với tâm lòng khiêm nhu.

----------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây