Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN-C Bài 51-100 Xin thêm lòng tin cho chúng con

Thứ sáu - 04/10/2019 03:40
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN-C Bài 51-100 Xin thêm lòng tin cho chúng con
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN-C Bài 51-100 Xin thêm lòng tin cho chúng con
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN-C Bài 51-100 Xin thêm lòng tin cho chúng con
----------------------------------
Phúc Âm: Lc 17, 5-10: "Nếu các con có lòng tin".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con.
"Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: 'Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa', mà trái lại không bảo nó rằng: 'Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống
đã, sau đó ngươi mới ăn uống'. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'". - Ðó là lời Chúa.
-----------------------------------

TN 27-C51. PHỤC VỤ.. 2
TN 27-C52. LÒNG TIN BẰNG HẠT CẢI 5
TN 27-C53. GIỮ GÌN - NUÔI DƯỠNG ĐỨC TIN.. 7
TN 27-C54. NHỮNG NHÂN ĐỨC CẦN CÓ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ.. 9
TN 27-C55. SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI 11
TN 27-C56. Chúa Nhật 27 Quanh Năm.. 12
TN 27-C57. CHÚA NHẬT 27 QUANH NĂM, C (2004) 15
TN 27-C58. NIỀM TIN.. 18
TN 27-C59. NHƯ KIỀNG BA CHÂN.. 20
TN 27-C60. NIỀM TIN VÀ PHỤC VỤ.. 25
TN 27-C61. CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN.. 27
TN 27-C62. GIỮ VỮNG NIỀM TIN. 29
TN 27-C63. MẸ TIN CẬY MẾN.. 30
TN 27-C64. LỜI KINH TUYỆT VỜI 33
TN 27-C65. VIỆC ĐỌC KINH MAI KHÔI TRONG GIÁO HỘI 39
TN 27-C66. BẢO VỆ KINH MAI KHÔI 42
TN 27-C67. TÌM HIỂU Ý NGHĨA CỦA TÊN GỌI “MAI KHÔI”. 47
TN 27-C68. NĂNG QUYỀN CỦA KINH MAI KHÔI 49
TN 27-C69. THỰC HÀNH KINH MAI KHÔI NHƯ MỘT PHÁP MÔN TU.. 53
TN 27-C70: CHÚNG CON CÁM ƠN MẸ VÔ CÙNG.. 59
TN 27-C71: CÁC CHUM NƯỚC VÀ KINH KÍNH MỪNG.. 61
TN 27-C72: CHUỖI NGỌC CỦA NỘI 63
TN 27-C73: TAKASHI NAGAI 66
TN 27-C74:  Nếu chúng con có đức tin…... 69
TN 27-C75: Xin thêm lòng tin cho chúng con. 71
TN 27-C76: Đầy tớ vô dụng. 72
TN 27-C77: Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ?. 75
TN 27-C78: Suy niệm của Lm. Trầm Phúc. 77
TN 27-C79: Đức tin và Phục vụ. 80
TN 27-C80: Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. 89
TN 27-C81: Xin ban thêm lòng tin cho chúng con. 91
TN 27-C82: Đầy tớ vô dụng. 94
TN 27-C83: Đức tin và người đầy tớ vô dụng. 95
TN 27-C84: Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ. 97
TN 27-C85: Đức tin. 103
TN 27-C86: Đức tin và những điều kỳ diệu. 104
TN 27-C87: Tin Tưởng Vào Chúa. 107
TN 27-C88: Bổn phận. 108
TN 27-C89: Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi 111
TN 27-C90: Nếu các con có lòng tin. 113
TN 27-C91: Xin thêm niềm tin cho chúng con. 116
TN 27-C92: Chỉ là người tôi tớ. 118
TN 27-C93: NHỎ BÉ.. 121
TN 27-C94: Học hỏi Phúc âm Chúa nhật 27 Thường niên - Năm C.. 125
TN 27-C95: Tinh thần phục vụ vô vị lợi 127
TN 27-C96: Suy Niệm Chúa Nhật XXVII THƯỜNG NIÊN C.. 128
TN 27-C97: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI 129
TN 27-C98: NIỀM TIN THƯƠNG MẠI 133
TN 27-C99: ĐỨC TIN BẰNG HẠT CẢI 135
TN 27-C100: ĐỨC TIN.. 137

-------------------------------------
 

TN 27-C51. PHỤC VỤ


Chúa Nhật 27C Thường Niên

 

Đức tin là tất cả sức mạnh chúng ta.   Chính nhờ đức tin, con người đã có thể đi vào thế giới Thiên: TN 27-C51


Đức tin là tất cả sức mạnh chúng ta.   Chính nhờ đức tin, con người đã có thể đi vào thế giới Thiên Chúa và trở thành bạn hữu của Người.   Chính niềm tin xác định giá trị và ý nghĩa cuộc đời.   Lý do vì càng tin, con người càng thấy rõ mình trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

HAI LUỒNG TƯ TƯỞNG.

Trong cộng đồng nhỏ bé của Đức Giêsu, có hai luồng tư tưởng luôn đi ngược chiều giữa Thày trò.   Trò lúc nào cũng nghĩ mình phải là một cái gì giá trị.   Ngay cả trong lãnh vực đức tin, họ cũng tưởng mình đã đạt tới chiều kích nào rồi.  Bởi vậy, họ mới thưa với Chúa: “Thưa Thày, xin thêm lòng tin cho chúng con.” (Lc 17:5)   Thực tế, biết bao lần Đức Giêsu đã trách các môn đệ: “Oâi những kẻ kém tin !” (Lc 12:28; Mt 6:30) Hôm nay, Chúa mới cho biết lòng tin của các ông bé tới cỡ nào: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải …” (Lc 17:6)  

Lòng tin vào Thiên Chúa chưa bằng hạt cải.   Nhưng lòng tin vào cái tôi lớn bàêng cây dâu, thân vươn cao tới 60 feet, rễ cắm sâu xuống lòng đất.  Để có thể bứng cây dâu lớn đó, chỉ cần lòng tin bằng hạt cải.   Câu trả lời của Chúa Giêsu như một cú sét đánh mang tai.  Chưa hoàn hồn, họ lại hoa mắt vì xem thấy cảnh tượng không hợp nhãn chút nào.  Chúa giả thiết họ là chủ “có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên.” (Lc 17:7)   Nhưng cuối cùng mở mắt ra họ thấy mình rơi tuột xuống vai người đầy tớ đó.    Họ vẫn chưa ý thức về chỗ đứng của mình trong tương quan với Thiên Chúa và anh em.   Cái tôi vẫn còn quá lớn.   Nếu có đức tin bằng hạt cải, chắc chắn họ sẽ hiểu biết Thiên Chúa là ai và mình là ai.   Mình chỉ là “những đầy tớ vô dụng.” (Lc 17:10), trong khi Thiên Chúa là ông chủ toàn năng.   Đây không phải chỉ là một lời khuyên sống khiêm nhường, nhưng còn là một mạc khải về bản chất và khả năng con người trong tình liên đới với Thiên Chúa và anh em đồng loại.   Trước Đấng Tạo Hóa, con người chỉ là hư vô.  Nhưng chỉ cần một chút niềm tin vào Chúa tể càn khôn, con người có thể “xoay bạch ốc thành lâu đài”.  

Thực ra tương quan chủ tớ vẫn chưa diễn tả nổi khoảng cách vô cùng giữa Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa và tạo vật là con người.  Một tâm tình như thế không phải là lời phủ nhận tất cả những công sức của người đầy tớ, nhưng cần thiết để đón nhận những hồng ân cao trọng hơn.   Có sống trong tương quan sâu xa này với Thiên Chúa, mới thấy tất cả chỉ là hồng ân.   Dĩ nhiên, “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa … Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu.” (Ga 15:15) 

Dù vậy, Tin Mừng hôm nay chỉ muốn mạc khải một sự thật: muốn làm môn đệ Chúa Kitô, tín hữu chỉ cần một chút niềm tin bằng hạt cải, không phải để làm phép lạ, nhưng để truyền cho trái núi kiêu ngạo hay cây dâu ích kỷ rời khỏi lòng mình.   Nếu không, làm sao môn đệ Chúa Kitô có thể thấy lý do phải tha thứ cho anh em một ngày bảy lần (Lc 17:4) ?    Làm sao có thể nhận ra hồng ân Thiên Chúa là một quà tặng vô giá và nhưng không ? Làm sao có thể thấy được việc phục vụ Thiên Chúa và anh em là một hồng phúc  ?

Chính vì có lòng tin, không phải bằng hạt cải, nhưng bằng trái núi, nên Đức Trinh Nữ Maria đã có thể khiến Con Thiên Chúa rời bỏ ngai vàng Thiên quốc xuống ngự trong cung lòng nhỏ bé.    Chính đức tin đã khiến Mẹ vui sướng kêu lên: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa,” (Lc 1:38) sau khi đón nhận lời sứ thần truyền tin.  Niềm vui tràn ngập tâm hồn Mẹ khi thấy mình được sống trong tương quan huyền nhiệm đó.   Mẹ chẳng cảm thấy một chút gì sợ hãi hay gò bó khi phục vụ Thiên Chúa.   Như Mẹ, “thiết tưởng chúng ta cũng tình nguyện phục vụ Chúa trong niềm vui, tình yêu và cảm tạ.” (Ezeogu, Homily for 27th Sunday in Orinary Time, 3/10/2001)   Không có niềm tin, không thể sống khiêm cung và thành tín như Mẹ.

Chính khi sống trong thân phận “nữ tì của Chúa”, Mẹ đón nhận tất cả hồng ân vĩ đại từ tay Thiên Chúa.   Mẹ thấy mình hoàn toàn mắc nợ Thiên Chúa.     Không có lý do gì khiến Mẹ nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi Thiên Chúa.   Trái lại, suốt đời Mẹ sống trong niềm cảm tạ tri ân.   Từ lòng tin sâu thẳm, Mẹ đã thốt lên: “Vâng, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1:38)   Từ đó cuộc đời Mẹ là một chuỗi ngày giờ “đồng lao cộng khổ để loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1:12) với Chúa và “làm chứng cho Chúa.” (2 Tm 1:8)    Lòng khiêm cung của Mẹ đã thu hút tất cả sức mạnh Thần khí, “một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ.” (2 Tm 1:7), khiến Mẹ có thể đứng vững dưới chân thập giá.   Nếu không có lòng tin sâu thẳm, nhất định Mẹ không thể sống khiêm cung như thế.   “Thiếu lòng khiêm cung là một cám dỗ nguy hiểm hơn các cám dỗ khác.   Nó khiến chúng ta không cảm nghiệm được tình yêu sâu xa của Thiên Chúa đối với chúng ta,” (NIB 1995:324) và không thấy được tương quan với anh em đồng loại.     Do đó sinh ra những bất ổn trong đời sống cá nhân và cộng đồng cũng như đe dọa sự sống còn nhân loại.  Từ lòng khiêm cung, “người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.” (Kb 2:4)

NHÌN LẠI TƯƠNG QUAN HÔM NAY.

Nhân loại hôm nay đang lo sợ trước sự sống còn của mình.   Chiến tranh đang xuất hiện cuối chân trời.  Làm sao có thể tồn tại sau những xung đột lớn lao đó ?   Hơn lúc nào, công lý là một bảo đảm cho sự sống còn đó.   Nhân loại đã kinh hoàng trước cuộc khủng bố Nữu Ước và Hoa thịnh đốn ngày 11/9/2001.   Lương tâm nhân loại đều nhất trí lên án những hành động phi nhân đó.   Thế nhưng, cuộc khủng bố đó chỉ là hậu quả tất yếu của những chính sách bất công.   Gieo gió thì phải gặt bão !   Bởi thế, theo La Civilta Cattolica, một tạp chí có tầm cỡ của các cha Dòng Tên, “cuộc vận động chống khủng bố phải phát hiện ra những nguồn gốc khủng bố, và phải giải quyết vấn đề tận gốc.” (CWNews 5/10/2001)   Nói khác, đây là lúc Tây Phương cần phải đặt lại vấn đề về tất cả những chính sách của mình.   Tạp chí đó lý luận: “Muốn thành công, trận chiến chống khủng bố đòi Tây Phương phải có một cuộc cách mạng văn hóa.  Chủ yếu là phải làm cạn nguồn nước đang nuôi sống những kẻ khủng bố, tức là sự nghèo đói và tuyệt vọng.” (CWNews 5/10/2001)    Mọi người đều có quyền sống và hưởng mọi hoa màu trái đất.   Đó là đòi hỏi tuyệt đối của công lý !   Chỉ có công lý mới có thể chấm dứt cảnh nghèo đói.   Chỉ có niềm tin mới đem lại niềm hi vọng cho con người.

Để thức tỉnh mọi người trước công lý, “Giáo Hội Công giáo phải trung thành với đặc sủng ngôn sứ và kêu gọi mọi người phải xây dựng con đường hòa bình cho gia đình nhân loại.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 1/10/2001)    Không thể chấp nhận cảnh “người giàu, mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, còn người nghèo phải chết đói trong khi cơn “thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống” (Lc 16:19-21) vẫn chưa được thỏa mãn. Đặc sủng ngôn sứ sẽ giúp Giáo hội can đảm nói cho người giàu biết ý thức về tình liên đới và chia sẻ ân lộc với người nghèo. Yù thức đó chỉ có thể sống dậy nếu người ta biết mình chỉ là “đầy tớ vô dụng,” không thể tạo nên những của cải trần gian.   Chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng đó.  Con người chỉ là đầy tớ “làm theo lệnh truyền” (Lc 17:9) của Thiên Chúa mà thôi.  Lệnh truyền đó đòi họ phải chia cơm sẻ áo cho người nghèo đói (x. Mt 25:31:46)  Nhưng làm sao thi hành lệnh truyền đó, nếu họ không ý thức của cải chỉ là hồng ân. Có giúp đỡ người nghèo cũng chỉ là chia sẻ một chút hồng ân với anh em kém may mắn hơn mình mà thôi.  Không chia sẻ không thể có công lý. Không có công lý không thể có hòa bình.  “Chắc chắn hòa bình không thể tách biệt với công lý, nhưng công lý luôn luôn đi đôi với lòng xót thương và tình yêu.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 1/10/2001)  Không thấy được bổn phận thi hành công lý, ít nhất người giàu cũng phải thấy mình có liên đới với người nghèo.   Nếu không, hòa bình chỉ là một giấc mơ mà thôi !
 
Lm. Giuse Đỗ vân Lực, OP

-----------------------------------

 

TN 27-C52. LÒNG TIN BẰNG HẠT CẢI


Lc 6, 27-38

Anh chị em thân mến,

 

Một cha sở nọ kể: “Một hôm tôi được mời đi kẻ liệt. Địa chỉ là một nhà ở chung cư. Tôi lên đến: TN 27-C52


Một cha sở nọ kể: “Một hôm tôi được mời đi kẻ liệt. Địa chỉ là một nhà ở chung cư. Tôi lên đến lầu năm, rồi còn phải đi theo hành lang thật dài. Lại bước vào hai ba phòng nữa. Cuối cùng là phòng ngũ nhỏ, có một chiếc giường và một cái nôi. Một người đàn bà trẻ đứng đó, một bên: Thưa cha, xin được giới thiệu với cha, đây là con của chúng con… Tôi nhìn theo hướng bàn tay chỉ về phía cái nôi. Khi nhìn thấy một vật trong nôi, tôi lẫm bẫm: Ồ cái gì gì ? Đâu phải đứa bé? Tôi tự nhủ: một quái thai!...Bà mẹ nói: Thưa cha, con xin lỗi cha. Con của chúng con sinh ra không được bình thường. Cha thấy đó, tay chân bé quá, đến nổi …có thể nó không sữ dụng được. Nhưng vợ chồng chúng con tin: Bé là hồng ân Chúa ban cho gia đình chúng con. Chúng con cũng tin Chúa gởi bé đến để chúng con, không những nuôi dưỡng nó mà còn yêu thương nó thay cho Chúa nữa. Nghe lời bà mẹ nói, tôi trấn tỉnh lại và rất thán phục đức tin của cha mẹ em bé…Sau đó, bà mẹ xin rữa tội cho em, và cả xin chúc lành cho em nữa…” Lời Chúa trong bài tin Mừng hôm nay: Nếu đức tin chúng con chỉ bằng hạt cải thôi…. Đức tin của bà mẹ trong câu chuyện này có bằng hạt cải không? Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy trở lại câu chuyện Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay: nhân khi các môn đệ xin Chúa thêm lòng tin cho họ, Chúa nói: nếu đức tin của anh em chỉ bằng hạt cải thôi, anh em có thể bảo cây dâu này, hãy bứng rễ lên xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em…

Hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các thứ hạt giống. Người ta phỏng đoán tại vùng Palestina thời Chúa Giêsu, cũng có thứ hạt cải tuy hạt nhỏ bé lắm, nhưng khi lên thành cây có thể thân cao vài ba mét, và như lời Chúa nói trong Tin Mừng: có thể chim trời đến đậu trên cành nó… Còn cây dâu là một cây cổ thụ to lớn trong vùng này; nó có thể sống lâu mấy trăm năm.

Ở đây ta thấy, chính Chúa Giêsu khẳng định sức mạnh phi thường của lòng tin. Dù vậy Chúa cũng cho thấy đòi hỏi phải có sự đáp ứng mạnh mẻ bằng cả tấm lòng của người tôi tớ trung thành nữa. Thực sự giá trị của lòng tin, không thể chỉ dựa vào bề ngoài, nếu không các thánh tử đạo làm sao lại coi khinh sự đời, chọn lấy cái chết, chọn phần vinh quang mai sau hơn của cải giàu sang trần thế?

b/. Mẹ Têrêsa Calcutta, lần đầu tiên đi sang nước Mỹ, cũng là lần đầu tiên gặp Đức Hống Y Newman, Ngài hỏi Mẹ: Mẹ có được bao nhiêu tiền gởi trong nhà băng? Vì Ngài rất thán phục Mẹ đã làm được bao nhiêu việc mà thế giới phải kinh ngạc.. lập được bao nhiêu nhà cho người nghèo, tàn tật trên thế giới… giúp đở cho được bao nhiêu con người mà thế giới không làm được. Nghe câu hỏi của Đức Hồng Y, Mẹ trả lời không đắn đo: Mẹ không có tiền, và Mẹ cũng không có tiền gởi trong nhà băng. Đức Hồng Y liền nói: Ồ, vậy tôi sẽ giúp cho Mẹ một số tiền lớn để Mẹ gởi nhà băng rồi lấy đó mà chi cho các nhà… Mẹ trả lời: Rất cám ơn Đức Hồng Y. Con không nhận tiền. Đức Hồng Y ngạc nhiên lắm…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Các thánh là những người hơn ai hết có đức tin bằng hạt cải, và họ cũng đã làm được những việc biến núi dời non. Mẹ Têrêsa cũng thế, chính Mẹ là người đã làm kinh thiên động địa thế kỷ của chúng ta. Mẹ đã làm được những việc mà những danh nhân, những chính khách lừng danh của thế kỷ này đã không làm được, chính vì đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Còn chúng ta, đức tin của chúng ta hiện nay cỡ nào rồi?

-----------------------------------

 

TN 27-C53. GIỮ GÌN - NUÔI DƯỠNG ĐỨC TIN


Luca 17,5-10

 

Giữ vững đức tin, đó là yêu cầu căn bản trong đời sống đạo của người Kitô hữu. Cách gìn giữ: TN 27-C53


Giữ vững đức tin, đó là yêu cầu căn bản trong đời sống đạo của người Kitô hữu. Cách gìn giữ và nuôi dưỡng đức tin hiệu quả nhất là thể hiện ra bằng hành động cụ thể. Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta về vấn đề này.

THIÊN CHÚA THINH LẶNG.

Thời tiên tri Habacuc, đất nước Israel lâm vào tình cảnh vô cùng khó khăn. Bên ngoài, các quốc gia lân cận đang mục kích, nhất là dân Canđê, chiến tranh võ trang hầu như không thể tránh khỏi. Trong nước, công lý bị xem thường, đạo đức ngày một suy đồi. Gian ác, lao khổ, cướp bóc, bất lương ngày ngày diễn ra trước mặt. Trong hoàn cảnh éo le đó, tiên tri Habacuc cảm thấy tâm tư bất ổn nên đã lên tiếng chất vấn Thiên Chúa: "Tôi bị ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu tôi sao?" (Hab 1,2).

Niềm tin của con người đôi lúc rơi vào khủng hoảng. Bài sách tiên tri Habacuc diễn tả tâm tư con người trong hoàn cảnh bị thử thách, cũng không xa lạ gì với chúng ta ngày nay. Mỗi khi gặp gian lao khốn khó, chúng ta thường chạy đến Thiên Chúa để xin Ngài cất bớt nỗi khổ. Nhưng lời xin của chúng ta đa phần không được thoả mãn, mà kết quả nhận được chỉ là sự thinh lặng của Thiên Chúa! Như vậy, Thiên Chúa đang ở đâu mà lại đan tâm thinh lặng trước những nỗi đau của con người? Không ít người trong chúng ta khi đối diện với vấn nạn này đã bị lôi cuốn quay lưng lại với Thiên Chúa.

GIỮ VỮNG NIỀM TIN.

Ngày 26.09.2007, cầu dẫn trong công trình cầu Cần Thơ bị sụp đổ. Nhiều người bị trọng thương và tử vong. Tai nạn ấy để lại nỗi đau lớn trong lòng nhiều người. Sau sự cố, người ta lý giải bằng nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tựu chung là do nền đất yếu và do sự chủ quan vô trách nhiệm của một số người có trách nhiệm.

Chúng ta cũng có thể nhìn lại bất kỳ nỗi đau nào, không bao giờ Thiên Chúa là nguyên nhân gây nên đau khổ, mà đau khổ luôn đến từ sự bất toàn của thiên nhiên và sự giới hạn của thân phận con người.

Đức tin cũng không đưa đến đau khổ nhưng xoa dịu khổ đau. Hạnh phúc và đau khổ gắn liền với thân phận con người, dù cho ta có tin vào Thiên Chúa hay không. Sướng vui hạnh phúc đến, chúng ta vui vẻ chấp nhận. Vậy tại sao gian lao khốn khó chúng ta không biết đón nhận? Hạnh phúc và đau khổ ở đời này chỉ là những cái chóng qua, chúng sánh sao bằng hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa vui lòng dành cho chúng ta trong cuộc sống đời đời?

Nếu chúng ta có lòng tin thật sự thì cái nhìn của chúng ta về đau khổ sẽ khác đi. Đau khổ chính là cơ hội để chúng ta thông phần vào sự đau khổ mà Chúa Giêsu đã chịu trên đường thập giá. Chính đau khổ là con đường mà Chúa Giêsu đã vạch cho những ai muốn đến với Nước Thiên Chúa. Thiên Chúa không thinh lặng trước đau khổ của con người, Ngài luôn hành động, Ngài luôn "viết thẳng trên những đường cong" (Hồng y F.X. N.V. Thuận), một con đường thẳng đến Nước Trời từ những đường cong đau khổ của mỗi người.

Chấp nhận đau khổ là cách xoa dịu khổ đau nhanh nhất; bằng không, đau khổ sẽ tiếp nối khổ đau. Thay vì than thân trách phận, chúng ta hãy noi theo các tông đồ xưa, khiêm tốn thưa với Chúa: "Xin ban thêm lòng tin cho chúng con".

NUÔI DƯỠNG ĐỨC TIN.

Như thế, giữ vững đức tin là điều cần thiết, nhưng mà chỉ gìn giữ trong khi gặp khó khăn thử thách thì chưa đủ. Đức tin của chúng ta phải được lớn mạnh bằng việc làm, bởi "đức tin không việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17)

Phương thế để đức tin lớn mạnh mà Chúa Giêsu dạy trong Lời Chúa hôm nay là: khiêm tốn làm tròn bổn phận của mình mỗi ngày.

Trong cuộc sống, mỗi người đều có một địa vị và theo đó là một bổn phận để chu toàn. Chúng ta hãy nỗ lực làm việc hết khả năng của mình theo như bổn phận đòi buộc, kết quả là gì thì để Chúa định đoạt, đừng đòi hỏi Chúa phải cho một kết quả như mình mong muốn. Hãy như người đầy tớ, anh làm hết phận sự mà không đòi được trả công, anh chỉ nói: "Tôi là đầy tớ vô dụng, vì tôi đã làm điều tôi phải làm" (Lc 17,10). Chỉ cần thế thôi, chúng ta sẽ có được một đức tin vững mạnh, một đức tin đủ để "dời non lấp bể".

Ước mong mỗi người chúng ta luôn nhận thấy mình cần có thêm lòng tin mà khiêm tốn nài xin Chúa ban thêm lòng tin như các tông đồ ngày xưa. Đồng thời, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta mạnh dạn dấn thân trong việc bổn phận hằng ngày. Ngõ hầu đức tin của mỗi người chúng ta ngày một lớn mạnh, vững vàng vượt qua những nghịch cảnh

-----------------------------------

 

TN 27-C54. NHỮNG NHÂN ĐỨC CẦN CÓ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ


Luca 17,5-10

 

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các bài đọc của phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều nói về lòng tin: TN 27-C54


Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các bài đọc của phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều nói về lòng tin. Bài đọc một là một phần của cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và tiên tri Habacúc. Như những vị ngôn sứ tiền nhiệm khác, Habacúc cũng cảm thấy trách nhiệm nặng nề của sứ vụ nên ông van xin Chúa can thiệp giúp đỡ. Còn trong bài đọc II, thánh Phaolô đã an ủi, khuyến khích môn đồ Timôthê hãy trung thành với sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô. Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho thấy lòng tin có một sức mạnh vô cùng lớn lao và dạy các Tông đồ bài học khiêm nhường trong phục vụ.

Để tìm về lý do tại sao các Tông đồ xin Chúa tăng thêm đức tin cho mình, chúng ta hãy trở lại bối cảnh của đoạn Tin Mừng này. Đây là đoạn Tin Mừng được đặt trong bối cảnh Chúa Giêsu công bố luật mới và trao ban sứ vụ cho các tông đồ. Đứng trước những đòi hỏi của luật mới và trách nhiệm to lớn, các Tông đồ cảm thấy mình bất lực. Vì vậy mà các ông cầu xin Chúa tăng thêm lòng tin để có thể trung thành với những gì Chúa Giêsu mời gọi.

Nhưng ở đây, Chúa Giêsu không đáp ứng cách trực tiếp trước lời yêu cầu của các Tông đồ mà Ngài chỉ khơi lên vấn đề để các ông tự tìm cách tăng thêm lòng tin của mình khi thấy được sức mạnh và hiệu quả của nó. “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải…” thì có thể chuyển núi dời non cách dễ dàng.

Nhưng điều quan trọng là làm thế nào để có được lòng tin dù chỉ bằng hạt cải? Theo lời xin của các Tông đồ, thì quả thật để có được lòng tin mạnh mẽ bằng hạt cải là điều không phải dễ. Các ông cảm thấy lòng tin của mình yếu kém nghĩa là tự sức mình không thể có một lòng tin mãnh liệt. Cho dù hằng ngày, các ông sát cánh với Chúa Giêsu và chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã thực hiện. Nhưng điều đó chẳng giúp được gì cho lòng tin yếu kém của các ông và nó cũng chẳng có tác dụng trong việc củng cố lòng tin. Nên hôm nay, khi nhìn vào thực tế, các Tông đồ mới thấy được lòng tin yếu kém và cần được Chúa Giêsu củng cố.

Phải công nhận lòng tin ban đầu là một ân ban. Nghĩa là đức tin phải được phát xuất từ Thiên Chúa. Nhưng lòng tin đó như những hạt giống, nó không cứng nhắc nhưng có thể phát triển và biến đổi. Và nó cũng không phải là một sự vật  nhưng chính là mối liên hệ gần gũi và tiếp xúc  với Thiên Chúa. Vì vậy mà lòng tin chỉ có thể lớn mạnh và phát triển nhờ kinh nghiệm sống gần gũi với Thiên Chúa mỗi ngày. Đức tin cần phải được nuôi dưỡng qua cầu nguyện và liên kết chặt chẽ với cộng đoàn Giáo hội.

Nhưng để có thể cố gắng tập luyện để phát triển lòng tin mà Thiên Chúa đã gieo nơi mỗi người, chúng ta cần phải thấy được sự tác dụng của lòng tin cũng như ích lợi và hiệu quả mà nó mang lại.

Chính vì thế, Chúa Giêsu thay vì dạy các Tông đồ cách phát triển lòng tin thì Ngài gợi lên trong các ông ước muốn ấy khi thấy được lòng tin có vai trò quan trọng như thế nào, và nó giúp ích gì cho sứ mạng của các ông.  Khi đó tự các ông sẽ biết cách để rèn luyện và phát triển lòng tin ấy. Vì quả thật, chúng ta có thể nói, lòng tin là nguồn sức mạnh lớn nhất trên thế giới này. Chính nhờ lòng tin mà người ta có thể làm được những việc phi thường mà chúng ta không thể tưởng được.

Cũng chính vì hiệu quả lớn lao do lòng tin mang lại, nên Chúa Giêsu đã cảnh báo và dạy cho các Tông đồ bài học phục vụ khiêm tốn qua dụ ngôn người đầy tớ vô dụng. Để tránh tình trạng khi đạt được những hiệu quả mà lòng tin mang lại mà có thái độ “lên mặt" với anh em trong sứ vụ, và thậm chí còn có những thái độ đòi hỏi ngay cả với Thiên Chúa khi nghĩ rằng mình làm nhiều điều cho Chúa.

Chúng ta đừng bao giờ đặt Thiên Chúa vào vị trí như người chủ thuê chúng ta làm để rồi phải có bổn phận trả lương cho mình. Và chúng ta càng không thể xem Ngài là người mắc nợ chúng ta. Nên tôn giáo mà Thiên Chúa mạc khải cho con người là tôn giáo vô vị lợi. Đối với Chúa, không có vấn đề trả công ở trong Giáo hội của Ngài, mà chỉ có tình thương và ân sủng. Vì ơn cứu độ không phải do chúng ta tìm kiếm mà được. Chúa chẳng cần chúng ta làm gì, vì tất cả những việc chúng ta làm chẳng thêm gì được cho Chúa. Điều mà con người có thể làm cho Chúa là sống tâm tình của một người con đối với Thiên Chúa là Cha. Và con cái không làm việc để tìm phần thưởng nhưng làm vì yêu mến Cha. Chúng ta không giữ lề luật Chúa để được Chúa yêu thương, nhưng giữ vì Chúa đã yêu thương ta trước. Ngài đã yêu thương ta khi ta còn là tội nhân. Vì thế, thái độ mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ cần phải có là phục vụ với tình yêu chớ không phải vì trách nhiệm hay bổn phận.

Chúng ta cần phải biết thêm rằng chỉ có lòng tin thôi thì chưa đủ mà cần phải có tình yêu. Vì nếu như lòng tin có thể giúp con người làm những điều mà con người không thể làm thì tình yêu sẽ làm cho mọi sự dễ dàng hơn. Thiên Chúa không muốn chúng ta đến với Ngài như một người làm thuê nhưng như một người con để rồi xem việc phục vụ Chúa như một hồng ân chứ không là gánh nặng với một tình yêu chớ không vì lợi lộc.

Chúng ta mượn lời cầu nguyện của thánh Inhaxiô để cầu nguyện với Chúa: Lạy Chúa, xin cho con biết sống quảng đại; biết phục vụ Chúa như Chúa đáng được phục vụ; biết cho đi mà không tính toán; biết chiến đấu mà không sợ thương tích; biết làm việc mà không cần ngơi nghĩ; biết xả thân mà không tìm phần thưởng nào khác ngoài việc thi hành thánh ý Chúa. Amen.

-----------------------------------

 

TN 27-C55. SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI


Lc 17, 5- 10

 

Trong cuộc sống thường nhật, mỗi người chúng ta đều nhận ra rằng: niềm tin có một sức: TN 27-C55


Trong cuộc sống thường nhật, mỗi người chúng ta đều nhận ra rằng: niềm tin có một sức mạnh rất lớn ở thế gian này. Một người không có niềm tin nơi mình và người khác, hay không để cho người khác có cơ hội tin vào mình, thì người đó thật bất hạnh biết bao. Họ phải sống cô độc trong địa ngục trần gian này. Còn đối với người có niềm tin thì họ có thể làm được rất nhiều việc phi thường. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến vô số những khám phá lạ lùng trong lãnh vực khoa học, công nghệ hay những thành công trong ngành giải phẫu… Những thành tựu này cách đây vài thập niên thì chỉ là ảo tưởng. Đó chẳng phải là nhờ lòng tin mà con người có thể đạt được hay sao?

VÌ vậy, ta thấy rằng, trong đời sống thực tại tương đối này còn cần đến niềm tin như thế, thì trong đời sống tuyệt đối chỉ có tình yêu, thì niềm tin còn cần thiết đến mức độ nào. Ta lấy gì mà ví cho cân xứng. Có nhiều người nói: “tôi tin! Tôi tin!” nhưng không chắc như vậy đâu. Đức tin thật sự không phải là đức tin trên lời nói hay đức tin được viết trên giấy, hay tin vào Thiên Chúa một cách mơ hồ, nhưng cần phải có niềm tin được tuyên xưng cách xác tin: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.

“Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” Vì thế, đức tin cần phải được thể hiện qua hành động cụ thể, nhất là trong việc chu toàn bổn phận của mình.

Thiên Chúa mời gọi chúng ta nên thánh. Ngài không buộc chúng ta làm những việc siêu phàm lớn lao, mà là những việc bé nhỏ thường ngày với lòng yêu mến. Những việc ấy đôi lúc quá tầm thường nên chúng ta thường khinh dể bỏ qua. Người công nhân nên thánh trong xí nghiệp của mình, bệnh nhân cũng nên thánh trên giường bệnh, người nông dân nên thánh nơi đồng áng, vợ chồng thì nên thánh trong gia đình . . . Làm sao cho mỗi công việc, mỗi bước đi của chúng ta phải trở nên phương thế giúp ta tiến gần tới Nước Trời, là nơi dành cho những người có lòng tin vững chắc và tấm lòng trung tín trong mọi việc bổn phận của mình.

Vì vậy, việc nên thánh là mục đích của đời sống Kitô hữu chúng ta, nên chúng ta phải làm mọi việc trong tinh thần khiêm tốn và yêu thương. Chúng ta cần có thái độ khiêm hạ khi chu toàn những việc bổn phận của mình. Vì quả thật, chúng ta là “những đầy tớ vô dụng, không làm gì hơn là phận sự phải làm”.

Lạy Chúa, được ca tụng Chúa là hồng phúc mà Chúa ban cho chúng con. Xin ban thêm niềm tin cho chúng con, để từng giây, từng phút trong đời sống của chúng con trở thành bài ca ngợi tình yêu Chúa muôn đời.

-----------------------------------

 

TN 27-C56. Chúa Nhật 27 Quanh Năm


Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:       2 Ti-mô-thê 1: 6-8, 13-14

 

Hoàn cảnh và sắc thái thư thứ hai Ti-mô-thê hoàn toàn khác với thư thứ nhất. Khi viết thư này: TN 27-C56


Hoàn cảnh và sắc thái thư thứ hai Ti-mô-thê hoàn toàn khác với thư thứ nhất. Khi viết thư này, thánh Phao-lô đang ở trong tù và phải đối phó với viễn tượng cái chết gần kề. Bản thân đã chịu đau khổ vì Tin Mừng, ngài khích lệ Ti-mô-thê cũng hãy sống như vậy. Do đó, thư thứ hai coi như là một chúc thư để lại cho người cộng sự trung thành là Ti-mô-thê, nhắc nhở ông về những gì ngài đã dạy và nhắc nhở ông hãy theo gương mình. Thư gồm có hai khuyến dụ và một trao phó trách nhiệm. Có thể tóm tắt ý chính của hai khuyến dụ và một trách nhiệm như sau:

- 2 Tm 1:6-2:13. Khuyến dụ thứ nhất của thánh Phao-lô là Ti-mô-thê hãy chia sẻ với ngài những khổ cực vì Tin Mừng (1:8; 2:3), điều mà ngài đang phải chịu đau khổ như "một tên gian phi" (2:9).

- 2 Tm 2:14-3:9. Phao-lô khuyến dụ Ti-mô-thê hãy đứng vững để đương đầu với đạo lý giả dối đã bắt đầu xuất hiện.

- 2 Tm 3:10-4:8. Phao-lô nhắc nhở Ti-mô-thê về những đau khổ ngài đã chịu vì Tin Mừng và khuyên ông hãy vững lòng vì Tin Mừng. Phao-lô biết giờ chết của ngài đến gần. Vậy điều quan trọng nhất, đó là Ti-mô-thê hãy theo gương ngài.

Vậy bài đọc Chúa Nhật hôm nay nằm trong phần khuyến dụ thứ nhất, ngay sau lời mở đầu và tạ ơn Chúa vì lòng tin nơi bà ngoại và mẹ của Ti-mô-thê vẫn sống động chính nơi Ti-mô-thê. Phao-lô đang bị cầm tù tại Rô-ma (1:17) vì Tin Mừng (1:8). Hầu như mọi người đã bỏ rơi ngài (1:15; 4:16) và giờ đây ngài đang chịu cảnh xiềng xích giống như một tên tội phạm (2:9). Sợ Ti-mô-thê có thể nản lòng nên Phao-lô khuyên ông "phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa" (1:6), tức là luôn nhớ đến ơn Chúa ông đã lãnh nhận khi Phao-lô đặt tay truyền chức giám mục cho ông.

Khi đặt tay truyền chức cho ông, Phao-lô truyền dạy ông hãy phục vụ Tin Mừng và ngài trao phó cho ông kho tàng giáo lý cần thiết cho sự cứu rỗi, giáo lý đang bị tấn công do những tên thầy dạy giả dối. Hình như Phao-lô chỉ nơm nớp lo sợ Ti-mô-thê sẽ bỏ ngài và bỏ Tin Mừng, rồi sẽ đưa ông tới tình trạng tủi hổ. Do đó ngài khuyên Ti-mô-thê "hãy đồng lao cộng khổ" với ngài để loan báo Tin Mừng (1:8; 2:3). Phao-lô đã chịu đau khổ vì Tin Mừng thế nào, Ti-mô-thê cũng phải chuẩn bị để chịu cùng số phận như vậy.

Hơi đáng tiếc là Phụng vụ Lời Chúa bỏ đi câu 9-12 nói về ý niệm Tin Mừng là gì. Đó là kế hoạch cứu độ và ân sủng Thiên Chúa tỏ ra cho loài người và thực hiện qua Đức Ki-tô, một kế hoạch đã được sắp đặt từ thuở đời đời (1:9). Có lẽ chủ đề này đã được nói đến trực tiếp trong Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 25 và gián tiếp trong Chúa Nhật 26, nên được bỏ qua trong Chúa Nhật hôm nay.

Nếu Ti-mô-thê còn cảm thấy nghi ngờ không biết phải sống thế nào, thì tốt nhất ông cần phải "lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh" (1:13) ông đã lãnh nhận từ thánh Phao-lô. Những lời lành mạnh này chính là giáo lý tốt đẹp Ti-mô-thê phải giữ gìn và "trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho người khác" (2:2).

Những ưu tư lo lắng của thánh Phao-lô về Ti-mô-thê, vị giám mục trẻ trung tại Ê-phê-xô, không hoàn toàn vì cá nhân Ti-mô-thê, mà nhất là vì hoàn cảnh của giáo hội Ti-mô-thê chăm sóc. Lúc ấy, trở thành Ki-tô hữu trong khung cảnh một thành phố ngoại giáo, thêm vào đó lại có những nhóm Do-thái chống đối, bách hại... không phải là việc dễ dàng đối với anh chị em tân tòng. Trách nhiệm của vị giám mục trẻ trong hoàn cảnh khó khăn ấy cần phải có những lời khích lệ, hướng dẫn của những bậc thầy như Phao-lô. Noi gương Phao-lô, hai môn đệ Ti-mô-thê và Ti-tô đã anh dũng chiến đấu bảo vệ đức tin và giữ gìn đoàn chiên được trao phó. Sống đức tin Ki-tô trong hoàn cảnh thế giới thế kỷ 21 tuy không đến nỗi nguy hiểm như thế kỷ I, nhưng cũng khó khăn không kém. Ki-tô hữu chân chính hôm nay phải đối phó với những chống đối âm thầm nhưng vô cùng tai hại, núp bóng dưới những chiêu bài ru ngủ lương tâm con người... Hơn lúc nào hết, người Ki-tô hữu hôm nay cần phải "khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa" nơi họ, luôn ý thức hồng ân được làm con cái Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Chịu đau khổ và thiệt thòi vì Tin Mừng không phải là điều chỉ dành cho những người có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng, mà là điều mọi Ki-tô hữu đều phải chịu. Tôi có thể chia sẻ với nhóm một vài cảm nghiệm chịu đau khổ vì Tin Mừng không?

          Thánh Phao-lô chia sẻ những khó khăn và đau khổ ngài chịu vì rao giảng Tin Mừng, đặc biệt là nhiều người trước kia đã theo ngài nay bỏ rơi ngài. Điều này nếu áp dụng vào hoàn cảnh của tôi, tôi có gặp khó khăn nào, đau khổ nào do chính những người gia đình hoặc bạn bè mình gây nên, chỉ vì tôi cố gắng sống Tin Mừng của Chúa Ki-tô không? Tôi phải làm gì?

          "Anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy." Tôi có lấy Lời Chúa làm khuôn vàng thước ngọc cho cuộc sống mình không? Hay tôi lại "hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa"?

          Những tâm tình chân thành và đầy yêu thương của thánh Phao-lô dành cho Ti-mô-thê dạy tôi những bài học gì? Về chính ngài? Về bổn phận của tôi?

Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Lắng nghe tiếng Chúa", Ca nguyện Linh Thao, tr. 171.

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

-----------------------------------

 

TN 27-C57. CHÚA NHẬT 27 QUANH NĂM, C (2004)


(Lu-ca 17: 5-10)

 

 Chúa Giê-su mời gọi ta tin vào Người.  Trước lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà: TN 27-C57


          Chúa Giê-su mời gọi ta tin vào Người.  Trước lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà lãnh đạo của họ từ chối không nhìn nhận Chúa Giê-su cũng như sứ mệnh cứu thế của Người.  Trái lại, các môn đệ và Ki-tô hữu thì khẩn cầu Người:  “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.”  Lời cầu xin của các môn đệ và lời giải thích của Chúa Giê-su giúp ta hiểu được những chiều kích khác biệt của đức tin.  Tại sao ta xin Chúa thêm lòng tin cho ta?  Đâu là sức mạnh của lòng tin?  Ngoài ra, Chúa Giê-su dùng tỉ dụ người đầy tớ làm việc bổn phận để làm sáng tỏ ý nghĩa nào về lòng tin của ta?

 a)  Lòng tin là một ân huệ Chúa ban

                   Giáo lý Công giáo gọi đức tin là nhân đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối tượng của lòng tin.  Đức tin không khởi đầu từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta muốn tin vào Chúa mà là Chúa muốn ta hãy tin vào Người.  Nhưng tại sao Người muốn ta phải tin vào Người?  Bởi vì Người có tất cả những đặc tính để ta có thể nhìn nhận Người là Đấng nào, phó thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và nhất là có thể lãnh nhận tình yêu Người dành cho ta.  Tất cả những đặc tính ấy làm cho Người trở nên đối tượng lòng tin của ta.  Người đã tỏ mình cho ta biết về Người, đó là một ân huệ cho ta và là khởi đầu cho một mối quan hệ Người muốn thiết lập giữa Người với ta.  Vì thế, đức tin có hai phía:  về phần Chúa, Người là Đấng “trung thành” trong giao ước Người thiết lập với ta; về phần ta, ta có bổn phận phải đáp lại lòng trung thành của Người.  Người muốn đưa ta tới cùng đích của đời ta là được cứu rỗi và sống bên Người mãi mãi.

          Đức tin có lịch sử của nó, lịch sử gắn liền với lịch sử của một dân tộc.  Ông Áp-ra-ham, cha các kẻ tin, đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông “đã tin vào Thiên Chúa” (St 15:6).  Người gọi ông thi hành sứ mệnh dẫn đầu một dân tộc để chuẩn bị cho toàn thể nhân loại đón nhận ơn cứu rỗi.  Ông là gương mẫu sống đức tin.  Cả cuộc đời ông là luôn tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung thành và toàn năng (Dt 11:11; Rm 4:21).  Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng lời Người và thi hành những điều Người dạy.  Tiếp đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để hướng dẫn dân Chúa luôn biết tin vào Người và kế hoạch cứu độ Người sẽ thực hiện qua dân Do-thái.  Thăng trầm của lịch sử đức tin phản ảnh qua lịch sử dân Do-thái.  Tuy nhiên cuối cùng, theo thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, lịch sử đức tin vẫn diễn tiến theo “kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô.  Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1:9-10).  Đức tin đạt tới mức hoàn hảo nơi Chúa Giê-su, Người Tôi Tớ đã lên đường đi Giê-ru-sa-lem mà “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2:7t) để dẫn đưa đức tin của ta đến mức toàn thiện (Dt 12:2).

          Như vậy, đối với một cá nhân hay đối với một dân tộc, lịch sử đức tin là một diễn tiến quy chiếu về Chúa Ki-tô và đưa ta đến kết hiệp với Người để nhờ Người, với Người ta đến với Thiên Chúa Cha.

 b)  Sức mạnh của lòng tin

          Các môn đệ xin Chúa Giê-su thêm lòng tin cho các ông.  Hoặc nói khác đi, các ông xin Chúa giúp cho các ông tin vào Người mỗi ngày một hơn.  Lập tức Chúa nói đến hiệu quả của lòng tin ấy.  Dĩ nhiên, Chúa không có ý nói đến những phép lạ bề ngoài của lòng tin là những điều họ đã chứng kiến và nhờ đó họ được tăng thêm niềm tin vào Người.  Nhưng Chúa muốn nhắm tới những phép lạ xảy ra trong tâm hồn mỗi người môn đệ theo Người.  Người hứa: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này:  Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.”  Người muốn nói đến những cây dâu của tính hư nết xấu đã mọc rễ sâu trong tâm hồn ta từ bao năm, đúng như Người đã khuyến khích ta khi gọi ta làm môn đệ:  “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.”  Chúa Giê-su bảo ta hãy để cho lòng tin vào Người tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người tội lỗi của ta, nhờ đó ta được biến cải thành mẫu người vâng lời và phục vụ giống như Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.

 c)  Phục vụ trong khiêm tốn

          Đức tin luôn ràng buộc với sứ mệnh.  Chúa Giê-su đã thi hành sứ mệnh cứu thế với đức tin hoàn hảo, tin vào tình yêu của Chúa Cha.  Trước khi chết, Người chỉ nói:  “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19:30).  Một câu nói ngắn gọn, nhưng chứa đựng biết bao tâm tình.  Tâm tình cảm tạ Thiên Chúa Cha.  Tâm tình biểu lộ lòng vâng phục.  Và tâm tình khiêm tốn, không kể công hoặc khoe khoang.  Sở dĩ Chúa Giê-su có được những tâm tình ấy là vì suốt cuộc sống trên trần gian, tâm niệm của Người chỉ là thi hành thánh ý Chúa Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà thôi.  Cho nên hôm nay Người dạy ta cùng một bài học ấy:  “Đối với anh em cũng vậy.  Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói:  chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” 

          Tỷ dụ người đầy tớ chu toàn bổn phận cũng cho ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của lòng tin.  Ta có được lòng tin vào Chúa, đó là ân huệ Chúa ban nhưng không.  Mà Chúa đã dạy:  ta nhận được nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không.  Nhận lấy và cho đi là năng động của đức tin được thể hiện trong đời sống phục vụ của người môn đệ, y hệt như Chúa Giê-su đã lấy tất cả những gì Chúa Cha ban cho Người mà ban lại cho các môn đệ Người, kể cả sự sống của chính Người.  Một đức tin như thế mới đích thực là đức tin sinh động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2:17).

 e)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” là lời cầu nguyện hằng ngày của tôi, hay chỉ là lời kêu cứu khi tôi gặp khó khăn hoạn nạn?  Lời cầu nguyện ấy có đồng nghĩa với lời cầu xin cho tôi “được biết Chúa Giê-su rõ ràng hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và theo Người mỗi ngày một trung thành hơn”?

          Tôi thử nhìn lại lịch sử đức tin của tôi.  Đức tin của tôi đang ở giai đoạn nào?  Vẫn còn là những điều học thuộc lòng về đạo hay đã bắt đầu tiến đến giai đoạn nhận ra ơn gọi và sứ mệnh của mình, để sống mối quan hệ với Chúa?

          “Những cây dâu” nào trong tôi cần phải bật rễ đi để tôi trồng những cây trái sinh hoa quả đạo đức?

 Cầu nguyện:

          “Lạy Chúa Giê-su,
          con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô,
          nhưng nhiều khi con cảm thấy
          sống đức tin giữa lòng cuộc đời
          chẳng khác nào đi trên mặt nước.
          Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
          Có bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu.
          Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
          Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
          Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
          Xin cứu con khi con hầu chìm.
          Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
          Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
          để con trở nên nhẹ tênh
          mà bước những bước dài hướng về Chúa.  A-men.”
                                      (Trích RABBOUNI, lời nguyện 55)

 Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

-----------------------------------

 

TN 27-C58. NIỀM TIN

 

Cuộc nói chuyện giữa một người tân tòng và một người bạn không có niềm tin như sau: TN 27-C58


Cuộc nói chuyện giữa một người tân tòng và một người bạn không có niềm tin như sau:

- Vậy là bạn đã theo đạo Chúa?
- Đúng thế.
- Như vậy bạn phải biết nhiều về Ngài. Bạn hãy nói cho tôi biết: Chúa đã sinh ra ở trong nước nào?
- Tôi không biết.
- Chúa đã chết lúc bao nhiêu tuổi?
- Tôi không hay.
- Chúa đã giảng bao nhiêu bài?
- Tôi không rõ.

- Thì ra sự hiểu biết của bạn quá ít ỏi đối với một người tự nhận mình theo đạo Chúa!

- Đúng thế. Tôi hổ thẹn vì biết Chúa quá ít. Tuy nhiên, tôi biết và tin ở những điểm nầy: Cách đây ba năm, tôi luôn say sưa chè chén. Nợ nần lút đầu lút cổ. Gia đình vỡ lở tan hoang. Vợ con tôi kinh hãi khi tôi về nhà mỗi ngày trong bơ phờ say sưa. Ngày nay tôi không còn rượu chè say sưa nữa, gia đình đầm ấm yên vui, chúng tôi không còn lâm cảnh nợ nần túng thiếu... Tất cả những điều đó, chính Chúa đã làm cho tôi. Đấy là điều tôi biết và tin nhiều về Ngài!

***

"Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, anh em có thể ra lệnh cho cây dâu bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em." (Lc.17: 6)

Bạn thân mến, cây dâu là một loại cây tương đối lớn ở miền đất Do Thái, nó có bộ rễ rất to và khỏe.  Còn hạt cải là thứ hạt nhỏ xíu như đầu kim. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Ðức Giêsu dùng một hình ảnh rất sinh động để nói lên sức mạnh của lòng tin: Ðể làm bật rễ một cây dâu thật to, chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một đức tin vững vàng và mạnh mẽ. “Tin” thực sự có nghĩa là được biến đổi bởi điều mình tin.

Trong cuộc sống, có nhiều thứ rễ đã bám chặt trong đời tôi: Những “tham xân xi”, những khuynh hướng xấu, lòng ích kỷ, lối nhìn và cách suy nghĩ, lối đánh giá và hay kết án tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình thức... đó là những cái rễ to lớn chằng chịt khiến tôi khó gỡ ra để ném tất cả xuống lòng biển. Chỉ có niềm tin tuy đơn sơ nhưng kiên vững vào quyền năng của Thiên Chúa, tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới làm được những điều tưởng như không sao làm nổi.

"Lạy Thầy! Xin thêm lòng tin cho chúng con" (Lc.17:5). Đó là lời nài xin của các tông đồ ngày xưa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Lời nài xin đó cũng là của mỗi người chúng ta ngày nay. Tin là nghe theo Lời Chúa, như Phêrô ngày xưa, ông bước ra khỏi thuyền để đi trên mặt nước sóng gió, ông tin mặt nước sẽ cứng như đá để ông có thể bước đi đến với Thầy mình. Tin như thế là dấn thân, là buông mình trọn vẹn, là vượt thắng được nỗi sợ hãi và lý luận tự nhiên. Tin là thái độ can đảm của người trưởng thành, chứ không phải là thái độ dựa dẫm của người ấu trĩ. Người có lòng tin thì làm được những việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Chúa và để cho sức mạnh ấy tự do hoạt động nơi mình.

Thánh Augustinô đã nói: "Đức tin là tin những gì ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì  ta tin".

***

Lạy Chúa! Đã nhiều lần niềm tin của con chao đảo vì những khó khăn của cuộc sống. Xin ban ơn soi sáng và hướng dẫn con trong những lúc con đi qua những tăm tối của niềm tin.  Xin gia tăng niềm tin cho con, hâm nóng niềm tin của con để con luôn nhận ra Chúa trong cuộc sống, nhận ra muôn ơn lành Chúa đã trao ban cho con. Xin cho con biết cố gắng nỗ lực để luôn sống niềm tin yêu phó thác vào một mình Chúa mà thôi . Amen .

Tổng hợp từ R. Veritas

-----------------------------------

 

TN 27-C59. NHƯ KIỀNG BA CHÂN


Tác giả: Cố Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, op.

 (Lc 17:5-10)

Đã viết ngày: 07.10.2007

 

Cách đây không lâu, báo Times đã chạy tin lớn như một phản chứng về đức tin của Mẹ Têrêsa: TN 27-C59


Cách đây không lâu, báo Times đã chạy tin lớn như một phản chứng về đức tin của Mẹ Têrêsa Calcutta. Mở lại những trang nhật ký của Mẹ, người ta thấy nhiều lần niềm tin hình như chao đảo trước sự im lặng và vắng bóng Thiên Chúa. Những người vô thần vội bám vào đó để thấy được tất cả sự hữu lý của niềm tin vô thần. Nhưng những người có đức tin lại thấy đó là thử thách cần thiết của một niềm tin chân chính.

Giữa hai cái nhìn đó, đâu là bản chất đích thực của đức tin chân chính ? Ðức tin chân chính không những khiến chúng ta dấn thân vào cuộc chiến đấu với những cám dỗ trần gian, nhưng còn với những thử thách của chính đức tin nữa.

THÁCH ÐỐ CẦN THIẾT

Chúa Nhật tuần trước trình bày một ông phú hộ không hề quan tâm tới người nghèo Ladarô ngay trước cửa nhà. Cảnh cùng khốn của Ladarô có thể không do ông phú hộ, nhưng do cơ chế xã hội bất công. Sự bất công đó không gợi lên trong tâm thức ông một vấn đề gì. Ông không hề đặt vấn đề với Chúa hay xã hội. Ông tự mãn về của cải. Trước khi hưởng dùng, có lẽ nhiều lần ông đã dâng lên Chúa lời cảm tạ. Ông tạ ơn Chúa đã ban cho mình đầy đủ cơ sở và sống sung túc hơn nhiều người. Nghèo đói không phải là vấn đề của ông. Suốt đời ông “bình chân như vại” trước mọi người cùng khốn.

Khác hẳn với ông phú hộ, đứng trước những bất công, ngôn sứ Habacuc đã kêu gào lên Chúa. Chính đức tin đã giúp ông ý thức trách nhiệm liên đới với tha nhân. Tâm hồn ông nổi loạn trước những lời cầu xin không được lắng nghe, những khinh mạn, bạo lực, tranh luận và bất đồng. Ông dùng những từ ngữ cực kỳ rõ ràng và khó nghe: “Cho đến bao giờ, lạy ĐỨC CHÚA, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: "Bạo tàn! " mà Ngài không cứu vớt?” (Hb 1:2) Ðó không phải chỉ là một kiểu nói. Nhưng đó là tiếng gào thét trước những bất công, là sự khắc khoải trước những đau khổ người khác. Thiên Chúa thinh lặng đến khó hiểu trước những lộng hành của kẻ gian ác. Ðức tin không cho phép người tín hữu ngồi yên. Rõ ràng họ được mời gọi thực thi công lý và sống trung tín. Thêm vào đó, họ phải xác tín Thiên Chúa sẽ đáp lời. Ngôn sứ cũng như tín hữu chúng ta hôm nay đều có thể nổi loạn. Nhưng chính trong công lý và sự trung tín, họ sẽ thấy Thiên Chúa trả lời.

Nếu đọc lại lá thư thứ hai thánh Phaolô gởi ông Timốt theo tinh thần của một người đầy tớ, chúng ta có thể tìm thấy những lý do của lòng tín thác và hy vọng. Trước tiên, để trở nên những người phục vụ Tin Mừng, chúng ta không thể thỏa mãn với những gì đã đạt được, cho dù thiện chí lớn lao tới mấy. Chúng ta cần phải để Thần Khí Chúa Giêsu làm việc để đánh thức và phát triển những ân huệ chúng ta đã đón nhận. Người phục vụ Tin Mừng không thể sống trên những thuận lợi đang chiếm hữu và sức mạnh riêng. Họ phải nhường chỗ cho Thánh Linh hoạt động. Họ phải có một cái nhìn khiêm tốn, không tự mãn, không sợ hãi và xấu hổ. Chính Thánh Linh ban sức mạnh, tình yêu và lý lẽ cho công tác phục vụ Tin Mừng. Trong lá thư này, thánh Phaolô còn khích lệ vị thủ lãnh cộng đoàn và củng cố tinh thần ông trong khi làm chứng và chấp nhận đau khổ vì Chúa Kitô và Giáo hội. Lệnh truyền giáo ủy thác cho những người có trách nhiệm cộng đoàn có một tầm quan trọng. Từ khi Giáo hội khai sinh cho đến nay, người đầy tớ Tin Mừng đích thực tự xóa mình trước Chúa Kitô, Ðấng họ phải loan báo lúc thuận cũng như lúc nghịch. Chỉ có Thần Khí, chứ không phải sức riêng, mới bảo đảm cho chúng ta tin tưởng mãnh liệt hơn, yêu như Người đã yêu, giảng dạy như Người đã truyền, và hành động như Người chờ đợi.

Sau cùng, nếu trở lại bản văn Tin Mừng Luca, có lẽ chúng ta sẽ thấu hiểu hơn những điều đang trình bày. Khi xin “Lạy Thày, xin tăng thêm đức tin cho chúng con !” chắc chắn các môn đệ hiểu lầm về Chúa Giêsu. Ðây không phải là vấn đề cân đo đong đếm đức tin bằng số lượng, tỷ lệ hay thống kê. Vấn đề không phải là có đức tin, hay thêm đức tin, nhưng thật sự sống đức tin, ngay cả trong những trường hợp phi lý nhất, như khi phải nói với cây dâu “Hãy bật rễ lên xuống dưới biển kia mà mọc.” (Lc 17:6)

Thế nhưng chúng ta vẫn đứng trước một nghịch lý khiến chúng ta trở thành nhỏ bé và vô dụng. Thành khẩn xin có đức tin, tức là xin thoát khỏi hành động và tư tưởng thâm căn cố đế, để đặt tất cả dưới sức tác động của Thánh Linh, Ðấng có thể đảo lộn tất cả những gì có vẻ như bất biến. Tin là tự do và sẵn sàng để Thánh Linh thi thố quyền năng vô hạn của Người. Dù to lớn như núi đá hay ăn rễ sâu như cây cổ thụ, những tin tưởng lâu đời và cố hữu nhất cũng sẽ bị đánh bật khỏi lòng chúng ta. Nhờ Thánh Linh, chúng ta được chia sẻ sức mạnh Thiên Chúa.

Dù bám rễ chắc chắn nhất như cái tôi nơi mỗi người cũng sẽ có lúc nghiêng ngả. Chúa muốn cho các môn đệ thấy rõ sự thật đó khi đặt các ông trong mối liên hệ chủ tớ: “Ai trong anh em có người đầy tớ ...” (Lc 17:7) Chúa đồng hóa họ với ông chủ. Sau đó, Người đảo ngược vai trò, như dụ ngôn diễn tả: Thiên Chúa đóng vai ông chủ và tông đồ là đầy tớ. Kết luận chắc chắn nhưng đầy kinh ngạc đối với các tông đồ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”(Lc 17:10)

Là những tông đồ, những người lãnh đạo cộng đoàn, những người đang lãnh trọng trách hôm qua và hôm nay, chúng ta đang phục vụ theo gương Người Ðầy tớ tuyệt vời là Chúa Kitô. Thay vì hãnh diện về niềm tin hay chức vị của mình, chúng ta hãy làm việc cho chủ mùa gặt. Bổn phận vượt quá sức chúng ta. Trách nhiệm thuộc về Chúa, và hãy khiêm tốn hợp tác với Người. Bởi vậy, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và hãy xin ơn được phục vụ thực sự, sẵn sàng hoàn thành sứ mệnh của người đã chịu phép thanh tẩy, sẵn sàng đưa ra chứng từ đức tin để Thánh Linh ngự đến. Xin nhắc lại lời Dom Helder Camara: “Nên nhớ đa số dân chúng chỉ đọc một Tin mừng duy nhất, đó là chứng từ đời sống của bạn mà thôi.” Nếu đó là chứng từ sống làm người tôi tớ vô dụng, không có gì chúng ta không thể thực hiện được trong ân sủng Thiên Chúa.

Trong đời sống tập thể, xã hội, chính trị, tôn giáo v.v., cuộc sống luôn mời gọi chúng ta học sống tinh thần trách nhiệm. Tất cả đều mời gọi chúng ta trở nên những người hành động, những Kitô hữu dấn thân và có trách nhiệm. Vậy Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta điều gì khi nói về những người đầy tớ vô dụng ? Phải chăng chúng ta đã sai lầm trong việc giải thích ơn gọi, trong cách tin tưởng vào những gì chúng ta đã tin hay cách chúng ta đáp lại ơn gọi ấy ?

ÐỨC TIN CHÂN CHÍNH

Ðức tin là một giá trị cao quý nhất. Quả thế, “điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.” (1 Ga 54) Theo thánh Phêrô, như vàng phải thử lửa, đức tin cũng phải trải qua gian nan thử thách, mới biết rõ thực hư. Ðức tin có thể đặt con người vào những hoàn cảnh thử thách. Nhưng chính đức tin cũng có thể bị chao đảo giữa những đêm tối trần gian.

Muốn có đức tin chân chính, người môn đệ Chúa Kitô “phải nhìn vào tận trái tim Mẹ Maria để thấy tất cả chiều sâu của lòng tin trong lời kinh Magnificat. Họ được kêu gọi canh tân nơi chính mình ý thức sự thật về Thiên Chúa cứu độ, về Thiên Chúa nguồn mọi ân phúc. Ý thức đó không thể tách rời khỏi việc biểu lộ tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo khó. Nhờ đức tin thúc đẩy, Ðức Maria hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và trọn vẹn hướng về Người.”[1] Bởi thế, Mẹ mới có cái nhìn thực tế: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lc 1:52-53). Chính đức tin đã giúp Mẹ dấn thân và đi vào cuộc đời bằng tất cả sức mạnh Thiên Chúa, đến nỗi Mẹ là “hình ảnh tuyệt vời nhất diễn tả sự tự do và việc giải thoát nhân loại cũng như vũ trụ.”[2] Ân sủng và đức tin thật là cần thiết cho Kitô hữu dấn thân vào công cuộc cứu độ nhân loại. Nói khác, không có Chúa, không thể phấn đấu cho công lý và hòa bình. Một xã hội đích thực phải đề cao những giá trị cao cả của đức tin.,

Noi gương Mẹ Maria, “Giáo hội hiện hữu và hoạt động trong lịch sử. Giáo hội giao lưu với xã hội và văn hóa thời đại để hoàn thành sứ mệnh loan báo điều mới lạ trong sứ điệp Kitô cho muôn dân, trong những hoàn cảnh cụ thể đầy khó khăn, phấn đấu và thách đố. Giáo hội tìm mọi cách hành động cho họ được đức tin chiếu sáng để có thể hiểu thực sự “cuộc giải phóng đích thực chỉ có khi mở tâm hồn đón nhận Chúa Kitô.”[3] Do đó, từ chối không tranh đấu cho công lý, Giáo hội bỏ lỡ cơ hội hoàn thành sứ mệnh trọng yếu, vì công lý là con đường đưa chân lý đến muôn dân. Quả thế, “công tác mục vụ xã hội của Giáo hội diễn tả sống động và cụ thể ý thức trọn vẹn về sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong các thực tại xã hội, kinh tế, văn hóa và chính trị của thế giới.”[4] Trong tất cả các thực tại đó, công lý luôn là vấn đề lớn nhất và đòi phải tranh đấu gian khổ nhất. Chẳng lẽ Giáo hội có thể đứng ngoài cuộc tranh đấu đó mà vẫn hoàn thành được sứ mệnh của mình ?

Có thể Giáo hội chưa tìm đủ năng lực để phấn đấu. Nói khác, niềm hy vọng còn xa vời với thực tế đầy tính toán của con người đang nắm guồng máy Giáo hội. Thực vậy, “niềm hy vọng Kitô tạo một năng lực tuyệt vời cho người Kitô hữu dấn thân vào lãnh vực xã hội, vì làm cho họ tin tưởng có thể xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, ngay cả khi sẽ không bao giờ có ‘một thiên đàng trần giới.’ Kitô hữu, nhất là giáo dân, được khuyến khích hành động thế nào để ‘quyền lực Tin Mừng có thể chiếu sáng trong cuộc sống hằng ngày trong gia đình và ngoài xã hội.’’’[5] Trong cuộc sống đó, quyền lực Tin Mừng bắt đầu từ mối quan tâm tới tha nhân và niềm hy vọng nơi quyền lực Thánh Linh.

Không có mối quan tâm và niềm hy vọng đó, chúng ta không thể làm cho xã hội xứng với nhân vị. Tình liên đới với tha nhân là “một trong những nguyên tắc căn bản của cái nhìn Kitô giáo vê tổ chức xã hội và chính trị.”[6] Chính Thánh Linh cũng là mối giây liên kết giữa Chúa Cha và Chúa Con. Người cũng là nguyên ủy của mọi tình liên đới nhân loại. Nhờ Người, chúng ta mới có thể thấu hiểu và thực hành điều Chúa Giêsu dạy: “luật căn bản làm cho con người hoàn hảo, và do đó làm cải hóa thế giới, đó là giới luật mới về tình yêu (x. Mt 22:40; Ga 15:12; Cl 3:14; Gc 2:8).”[7] Tình yêu không những làm cho cá nhân và xã hội hoàn hảo, nhưng còn làm cho xã hội mau tiến tới công ích.

KHI NIỀM TIN PHÁ SẢN

Không có tình yêu vào Thiên Chúa và con người, niềm tin bị phá sản. Ðó là thảm trạng đang diễn ra trên quê hương và Giáo Hội Việt nam. Không phải chỉ trong tôn giáo, niềm tin mới cần thiết. Trong mọi lãnh vực sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội, niềm tin vẫn là một giá trị và sức mạnh vạn năng. Khi không tin Thiên Chúa, con người không thấy lý do và nghị lực sống trên đời. Khi đánh mất niềm tin nơi con người, không ai có thể xây dựng thành công bất cứ giá trị nào. Chẳng hạn, sinh hoạt tín dụng và chứng khoán làm sao có thể đạt kết quả tốt đẹp, khi không bắt đầu từ niềm tin ?

Chính vì mất niềm tin, nên mới có cảnh Dân Oan Khiếu Kiện. Thiên Chúa đang lên tiếng. Nhưng hiện nay có một số người hải ngoại cho đó là tiếng nói của những dân nằm vùng hay du kích ngày xưa. Bởi đấy, họ không muốn giúp đỡ. Thực ra chính những người đó mới đáng hỗ trợ và khích lệ, vì họ có một quá trình phấn đấu. Chỉ có họ mới có đủ cơ sở và kinh nghiệm để biến đổi chế độ đã làm họ thất vọng. Từ đó, những giá trị tự do và dân chủ mới có cơ hội trở lại với dân tộc chúng ta.

Ngay trong Giáo hội, Dân Oan cũng đang lên tiếng. Khi đã mất niềm tin nơi các vị lãnh đạo, họ không thể giữ mãi thinh lặng. Thiên Chúa đã phá vỡ bức tường thinh lặng để hoàn thiện guồng máy Giáo hội. Giáo hội có thể đạt những thành tựu tốt đẹp, sau cảnh “mục vụ xin tiền” tai tiếng không ? Chắc các cơ sở GHVN khó có thể phát triển nhanh chóng như xưa. Có lẽ cuối cùng chỉ còn những sinh hoạt bác ái do chính giáo dân Hải ngoại mới có thể đóng góp cho GHVN hoạt động mà thôi. Chính các vị lãnh đạo đã dẫn đoàn chiên vào những ngõ cụt. Ai sẽ khai thông những bế tắc hôm nay ?

Chỉ có Thánh Linh mới có thể thực sự giúp chúng ta tìm được con đường giải thoát. Nếu đặt tất cả niềm tin vào Người, chúng ta sẽ thấy ánh sáng cuối đường hầm. Ða số chúng ta mới có đức tin, chứ chưa sống đức tin. Thực vậy, đức tin thực bao giờ cũng thúc đẩy chúng ta khiêm tốn và dấn thân phục vụ đến quên mình. Những người lãnh đạo Giáo Hội có thực sự nghĩ mình là người phục vụ dân Chúa hay đang tìm phô trương thanh thế và lưu danh muôn thuở. Có lẽ chúng ta đã bị thử thách quá nhiều và không có đủ sức mạnh đức tin để bứng những ngọn núi kiêu ngạo và đánh bật rễ thành kiến trong lòng chúng ta.

Giữa những thử thách cuộc đời, Thiên Chúa vẫn thinh lặng. Mấy ai đọc được ý nghĩa sự thinh lặng đó để ngày càng chìm sâu vào tình yêu Thiên Chúa ? Không thiếu người quậy phá tung trời, vì tưởng sự thinh lặng đồng nghĩa với sự vắng bóng Thiên Chúa. Niềm tin đã bị phá sản trong họ. Không đọc nổi ý nghĩa đó, họ chỉ thấy bất an trước những ồn ào của đồng loại. Cuối cùng chẳng còn niềm tin nào tồn tại. Nhưng Thiên Chúa không thinh lặng mãi như nhiều người lầm tưởng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn xác tín mình chỉ là đầy tớ vô dụng, để thấy tất cả sức mạnh và vai trò chủ động của Chúa trong cuộc đời và Giáo hội chúng con. Amen.

đỗ lực,
07.10.2007


[1] Toát Yếu Học Thuyết Giáo Hội về Xã hội, số 59.
[2] Thánh Bộ Giáo Lý Ðức Tin, Giáo Huấn Về Lương Tâm Tự Do, 97: AAS 79 (1987).
[3] Toát Yếu Học Thuyết Giáo Hội về Xã hội, số 524.
[4] ibid.
[5] ibid., số 579.
[6] ibid., số 580.
[7] ibid.

-----------------------------------

 

TN 27-C60. NIỀM TIN VÀ PHỤC VỤ


CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN

Lc 17,5-10

 

Lòng tin của nhiều người hôm nay đang gặp trở ngại. Trở ngại vì các trào lưu chuộng vật chất: TN 27-C60


Lòng tin của nhiều người hôm nay đang gặp trở ngại. Trở ngại vì các trào lưu chuộng vật chất, hưởng thụ, bài bác sự thật về sự sống đời sau, vô tình hạ phẩm giá loài người và muốn rút gọn cuộc sống con người trong 2 từ Thế giới vật chất.

Loài người có phủ nhận linh hồn mình không? Có lẽ trong lòng mỗi người, chưa ai phủ nhận sự tồn tại của linh hồn và sự sống đời sau. Loài người vẫn tin có Ông Trời, có thưởng phạt, có thần thánh, nhưng lại không muốn để giờ tìm hiểu tới nơi tới chốn xem Đấng Tối Cao thật sự là ai, Ngài có liên hệ với loài người như thế nào? Họ để mặc cho dòng đời cuốn trôi, tới đâu hay tới đó.

Còn chúng ta, khi đã nhận biết Thiên Chúa và lời Ngài dạy thì bước tiếp theo là phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.

Thực tế cho thấy, nhiều người hôm nay chỉ để tâm lo chuyện làm ăn. Lúc còn nhỏ vất vả lo học 2 buổi ở trường, có khi tối còn về học thêm nữa! Lớn lên đầu tắt mặt tối lo làm ăn cho bằng người ta! Con người ngày nay quá tất bật lo chuyện đời này, còn chuyện đời sau không có giờ nghĩ tới!

Phần đông mọi người có thể thấy rằng, con người có 2 phần: phần hồn và phần xác. Phần hồn thì thiêng liêng, gần giống như thiên thần. Phần xác với bản năng có nhiều nét tương tự như các loài cầm thú. Hồn và xác kết hợp nhau nên một để nên một con người. Hồn sẽ điều khiển thân xác mình, giúp nó làm chủ các bản năng và chọn lựa làm điều thiện, chứ không để các bản năng nổi loạn làm mất phẩm giá của mình. Thật sự là loài người rất đỗi cao trọng hơn các loài cầm thú, nhưng kém hơn thiên thần một chút.

Nếu ai chỉ lo chuyện ăn uống, thoã mãn xác thịt và tìm kiếm hư danh mà thôi là người đó đang sống theo thú tính, theo bản năng. Còn ai rèn cho mình tình yêu cao thượng, biết nghĩ đến tha nhân, sống vị tha, nhất là biết trên đầu mình có Chúa thì người đó đang trở nên giống thần thánh, cao trọng hơn mọi loài hữu hình trên trần gian. Thế nhưng, muốn sống đúng với phẩm giá cao trọng của loài người thì không phải dễ, cần phải nỗ lực luôn.

Thế gian chuộng của cải, chức quyền. Có người quan niệm rằng: Có tiền mua tiên cũng được. Kẻ có tiền của thì dễ được người ta trọng vọng. Vì vậy, nhiều người tìm mọi cách để có tiền, có quyền và họ cho đó là mục tiêu ưu tiên số 1. Nhiều người sẵn sàng làm cả những việc trái lương tâm để có được những thứ đó.

Trong bài đọc I, người công chính phải kêu than với Chúa: sự gian ác, cướp bóc, bất lương vẫn diễn ra hằng ngày, sao kẻ ác vẫn tồn tại? Công lý ở đâu?

Chúng ta biết rằng, Chúa rất nhân từ, không phải mỗi lần chúng ta lỗi phạm chúa đều phạt thẳng tay. Chúa chúng ta rất nhân từ, không muốn phạt mà chờ đợi từng người hối cải!

Kẻ gieo điều ác thì gặt lấy cái chết muôn đời. Chúng ta biết Chúa, biết chân lý, thì hãy sống cho đúng để làm chứng cho sự thật, hãy can đảm sống đạo, sống tiết độ, bác ái và thể hiện lòng tin của mình. Chúng ta là con cái chúa, cứ tin tưởng và trung tín với Chúa chắc chắn sẽ được ban thưởng.

Nếu lòng tin chúng ta còn kém, hãy cầu nguyện nhiều hơn nữa để xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta đủ sức thắng vượt những cám dỗ của thế gian, xác thịt, ma quỉ.

Ước gì chúng ta luôn làm lành, lánh dữ, sẵn sàng phục vụ anh chị em mình theo gương Chúa Giêsu: phục vụ không cần đền đáp. Phục vụ là bổn phận của chúng ta. chúng ta đã được chúa thương nâng lên hàng con cái chúa, xin Chúa nâng đỡ, để chúng con trung kiên phụng sự chúa và phục vụ anh em đồng loại cho đến cùng hầu ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời cùng với các Thiên Thần trong nước Chúa hiển trị.

-----------------------------------

 

TN 27-C61. CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN


Lc 17,5-10

Khi ấy các tông đồ thưa với Chúa rằng: Xin Chúa thêm đức tin cho chúng con. Chúa đáp: Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: hãy bật rể lên và đi xuống trồng dưới biển, nó cũng sẽ vâng lời anh em.

Ai trong anh em nếu có người đầy tớ đi cày hay đi chăn súc vật ngoài đồng về lại bảo nó: Mau ngồi vào bàn ăn đi, chứ không bảo: Hãy dọn bữa tối cho tôi, thắt lưng hầu hạ tôi cho tới khi tôi ăn uống xong rồi mới tới phiên anh ăn uống sao? Ông chủ có chịu ơn người đầy tớ vì nó đã làm điều nó phải làm chăng? Anh em cũng vậy, khi đã làm đầy đủ bổn phận thì hảy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chỉ làm theo bổn phận mà thôi.

HẠT CẢI ĐỨC TIN – ĐẦY TỚ VÔ DỤNG.

 

Xin Chúa thêm đức tin cho chúng con. Chúa đáp. Sau Phục Sinh đức tin vào Đức Giêsu là Chúa và: TN 27-C61


Xin Chúa thêm đức tin cho chúng con. Chúa đáp. Sau Phục Sinh đức tin vào Đức Giêsu là Chúa và Đấng Cứu Độ ngày càng mạnh mẽ. Chỉ khi đã tin mạnh mẽ Đức Giêsu là Chúa thì mới có cách xưng hô "Lạy Chúa , xin Chúa". Chúa mới có thể thêm đức tin. Trước những sự lạ lùng kèm theo công cuộc rao giảng các tông đồ vẫn thấy mình còn chưa đủ đức tin để tin. Luca muốn thuật lại câu chuyện hạt cải bé tí xíu mà mọc lên cây to như Đức Giêsu đã kể làm hình ảnh của đức tin Trước Phục Sinh các ông chưa hiểu, chưa tin vì còn bị che khuất. Hạt cải không thể mọc lên cây to.

Sau Phục Sinh các ông tin và hiểu nên khi thuật lại là thuật như đã hiểu. Phần lớn Phúc Âm là như vậy. Sau Phục Sinh Đức Giêsu đã bảo các tông đồ "hãy trở về Galilê ở đó sẽ gặp lại thầy". Là đem Đức Giêsu Phục sinh về nhập lại với DG lịch sử. DG lịch sử còn bị che khuất. Phải đem Đức Kitô phục sinh soi sáng Đức Giêsu lịch sử thì mới hiểu được. Và đã xảy ra như vậy.

Đức tin bằng hạt cải bảo cây dâu hãy bứng rể lên mà xuống trồng dưới biển "làm xiếc" cũng được như ý. Với đức tin dù chỉ bằng hạt cải thì chuyện không thể vẫn có thể. Hạt cải mọc lên thành cây to đến nổi chim trời đến nương náu được là chuyện không thể nhưng cộng đoàn đức tin sơ khai đã lớn nhanh, lớn mạnh ngoài sức tưởng tượng lại là có thật.

Ý chính của Lc 17,5-10 là đức tin. Chuyện người đầy tớ vô dụng là minh họa đức tin cụ thể là như vậy. Có đức tin mới có thể chấp nhận như vậy. Chúng ta thấy thế gian không có đức tin nên không thể chấp nhận như vậy. Không hiểu. Thánh Âu Tinh nói: Hiểu để tin và Tin để hiểu.

Không đức tin nên người ta tự là chủ và chủ tuyệt đối. Khôngcó chỗ cho Thiên Chúa. Nên không có những chuyện không thể. Còn có đức tin bằng hạt cải thì sẽ nhìn nhận mình là không, mọi sự đều là của Chúa ban "có cái gì anh em có mà anh em không lảnh nhận" như Phaolô tuyên xưng. Kết quả cũng là của Thiên Chúa ban. Nhất là những chuyện xem ra không thể vì với Thiên Chúa thì không có gì là không thể. Thiên Chúa đã cho trước thì con người có "bổn phận" đối lại sau. Là bổn phận phải làm thì không dám kể công nên xưng là "đầy tớ vô dụng". Như Đức Giêsu được Thiên Chúa sai thì buộc mình phải làm trọn bổn phận Thiên Chúa sai không bao giờ nghỉ tới công lao. Ta đến để phục vụ - giao cho chức vụ - là đặt gánh nặng của một số nhiệm vụ trên vai buộc phải làm xong, phải phục vụ. Làm lớn là làm đầy tớ. Phục vụ chứ không nô lệ: Làm vì tin .

Tin là từ bỏ chính mình, như Đức Giêsu "excavavit semetipsum" để ý Thiên Chúa được thực hiện và quyền năng của Thiên Chúa được tự do hoạt động trọn vẹn nơi mình mà làm nên những việc lạ lùng "xem ra không thể".

Ban thưởng là của Thiên Chúa "đã cho Đức Giêsu sống lại vinh quang, tấn phong làm Chúa và Đấng Cứu Độ muôn loài". Đức Giêsu đã dạy: khi ông dọn bữa trưa hay tối thi hãy mời những người què quặc, đui mù…không có gì đền đáp thì ông sẽ được phần thưởng ngày người công chính sống lại.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết làm một đầy tớ vô dụng theo ý Chúa.

-----------------------------------

 

TN 27-C62. GIỮ VỮNG NIỀM TIN.

 

Ngày 26.09.2007, cầu dẫn trong công trình cầu Cần Thơ bị sụp đổ. Nhiều người bị trọng thương: TN 27-C62


Ngày 26.09.2007, cầu dẫn trong công trình cầu Cần Thơ bị sụp đổ. Nhiều người bị trọng thương và tử vong. Tai nạn ấy để lại nỗi đau lớn trong lòng nhiều người. Sau sự cố, người ta lý giải bằng nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tựu chung là do nền đất yếu và do sự chủ quan vô trách nhiệm của một số người có trách nhiệm.

Chúng ta cũng có thể nhìn lại bất kỳ nỗi đau nào, không bao giờ Thiên Chúa là nguyên nhân gây nên đau khổ, mà đau khổ luôn đến từ sự bất toàn của thiên nhiên và sự giới hạn của thân phận con người.

Đức tin cũng không đưa đến đau khổ nhưng xoa dịu khổ đau. Hạnh phúc và đau khổ gắn liền với thân phận con người, dù cho ta có tin vào Thiên Chúa hay không. Sướng vui hạnh phúc đến, chúng ta vui vẻ chấp nhận. Vậy tại sao gian lao khốn khó chúng ta không biết đón nhận? Hạnh phúc và đau khổ ở đời này chỉ là những cái chóng qua, chúng sánh sao bằng hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa vui lòng dành cho chúng ta trong cuộc sống đời đời?

Nếu chúng ta có lòng tin thật sự thì cái nhìn của chúng ta về đau khổ sẽ khác đi. Đau khổ chính là cơ hội để chúng ta thông phần vào sự đau khổ mà Chúa Giêsu đã chịu trên đường thập giá. Chính đau khổ là con đường mà Chúa Giêsu đã vạch cho những ai muốn đến với Nước Thiên Chúa. Thiên Chúa không thinh lặng trước đau khổ của con người, Ngài luôn hành động, Ngài luôn "viết thẳng trên những đường cong" (Hồng y F.X. N.V. Thuận), một con đường thẳng đến Nước Trời từ những đường cong đau khổ của mỗi người.

Chấp nhận đau khổ là cách xoa dịu khổ đau nhanh nhất; bằng không, đau khổ sẽ tiếp nối khổ đau. Thay vì than thân trách phận, chúng ta hãy noi theo các tông đồ xưa, khiêm tốn thưa với Chúa: "Xin ban thêm lòng tin cho chúng con".

NUÔI DƯỠNG ĐỨC TIN.

Như thế, giữ vững đức tin là điều cần thiết, nhưng mà chỉ gìn giữ trong khi gặp khó khăn thử thách thì chưa đủ. Đức tin của chúng ta phải được lớn mạnh bằng việc làm, bởi "đức tin không việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17)

Phương thế để đức tin lớn mạnh mà Chúa Giêsu dạy trong Lời Chúa hôm nay là: khiêm tốn làm tròn bổn phận của mình mỗi ngày.

Trong cuộc sống, mỗi người đều có một địa vị và theo đó là một bổn phận để chu toàn. Chúng ta hãy nỗ lực làm việc hết khả năng của mình theo như bổn phận đòi buộc, kết quả là gì thì để Chúa định đoạt, đừng đòi hỏi Chúa phải cho một kết quả như mình mong muốn. Hãy như người đầy tớ, anh làm hết phận sự mà không đòi được trả công, anh chỉ nói: "Tôi là đầy tớ vô dụng, vì tôi đã làm điều tôi phải làm" (Lc 17,10). Chỉ cần thế thôi, chúng ta sẽ có được một đức tin vững mạnh, một đức tin đủ để "dời non lấp bể".

Ước mong mỗi người chúng ta luôn nhận thấy mình cần có thêm lòng tin mà khiêm tốn nài xin Chúa ban thêm lòng tin như các tông đồ ngày xưa. Đồng thời, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta mạnh dạn dấn thân trong việc bổn phận hằng ngày. Ngõ hầu đức tin của mỗi người chúng ta ngày một lớn mạnh, vững vàng vượt qua những nghịch cảnh.

-----------------------------------

 

TN 27-C63. MẸ TIN CẬY MẾN

 

Nghe tin con bị bắt cóc, chân tay tôi như rụng rời. Suốt 2 tiếng cháu bị khống chế, tôi chỉ biết: TN 27-C63


"Nghe tin con bị bắt cóc, chân tay tôi như rụng rời. Suốt 2 tiếng cháu bị khống chế, tôi chỉ biết đứng ngoài cầu nguyện", chia sẻ của người mẹ một nạn nhân bị khống chế làm con tin tại trường Mầm Non 10A, Tân Bình, Sàigòn. Sau khi được giải cứu và đưa đến bệnh viện khâu vết thương, khoảng 12 giờ ngày 11.10.2012, bé Nguyễn Đắc Tài ( 3 tuổi ) đã được bố mẹ đưa về nhà. Khoảng 8g30, đang đi mua thức ăn chị nhận được điện thoại của trường báo bé bị một kẻ lạ mặt xông vào lớp khống chế bắt làm con tin. Chị bấn loạn vội chạy đến trường, không biết số phận con trai thế nào.

"Trong đầu tôi cứ nghĩ kẻ bắt cóc đã mang cháu đi đâu rồi. Khi đến nơi biết cháu vẫn đang bị khống chế bên trong, tôi vừa lo vừa mừng vì còn có cơ hội cứu con. Suốt 2 giờ đồng hồ chờ công an giải cứu, tôi chỉ biết khóc và cầu nguyện", người mẹ trẻ kể.

Theo điều tra của Công an quận Tân Bình, khoảng 8g30 ngày 11.10.2012, Cao Quốc Huy ( 28 tuổi ) mặc áo giáp tự chế, tay cầm hai con dao đi vào khu vực trường Mầm Non 10A. Cô hiệu trưởng Trần Thị Kim Thùy ( 52 tuổi ) đang đứng trước cửa văn phòng đã bị Huy nắm tóc uy hiếp. Cô la lớn làm gã bỏ chạy vào lớp Mầm. Hắn khống chế, dọa giết hai bé Tài và Khôi.

Hàng trăm cảnh sát được huy động đến trường nhưng Huy vẫn cố thủ trong lớp học và liên tục đưa ra yêu sách. Khoảng 10g30, nhiều chiến sĩ đã ập vào khống chế giải cứu an toàn 2 cháu nhỏ. Nghi can có tiền sử bệnh tâm thần, từng thoát án tù về tội giết người. ( VnExpress ).

Tin Mừng theo Thánh Luca Chúa Nhật 27 Thường Niên, thuật lại Đức Giêsu dạy về Đức Tin và thái độ phục vụ khiêm tốn. Hôm nay cũng là ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mai Khôi. Thật là một sự trùng hợp lạ lùng và đầy ý nghĩa. Bởi vì Mẹ chính là tấm gương sống động của tin cậy mến và phục vụ.

Tin

Người mẹ kể trên chỉ biết khóc và cầu nguyện, vì đứa con thơ bị bắt làm con tin. Bà bất lực trước nghịch cảnh, chỉ còn biết đặt hết niềm tin cậy vào Chúa Quan Phòng, cứu giúp con bà khỏi sự dữ. 

Còn Mẹ Maria đã tin mãnh liệt, tin tuyệt đối, tin vô điều kiện ngay khi Sứ Thần Gabriel loan báo Mẹ thụ thai Đấng Cứu Thế. Mẹ chỉ tỏ ra rất bối rối, một phản ứng rất tự nhiên, khi nhận được lời truyền tin quá sức cao cả và bất ngờ, chứ không hề chút đắn đo, dè dặt, hay ngần ngại, thắc mắc. Mẹ không như thầy Tư Tế Dacaria tỏ ra ngờ vực, hoài nghi, đòi dấu lạ, khi Sứ thần Chúa báo tin bà vợ Elizabet già cả, sẽ sanh con. 

“Đức Tin là một hành vi cá nhân, là sự đáp trả tự nguyện của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa, là Đấng đã mạc khải chính mình” ( Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 166 ). Như thế, Đức Tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho con người nhưng không, và con người đáp trả lại tấm thịnh tình của Thiên Chúa. Mẹ Maria đón nhận hồng ân vĩ đại, đã ân cần mau mắn đáp lại: “Xin vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói” ( Lc 1, 38 ).

Hơn nữa, Mẹ còn vui mừng cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Thiên Chúa qua Kinh Magnificat.  Mẹ hát lên lời tri ân của Mẹ và của toàn thể dân Chúa, vì nay lời hứa Giao Ước mới được thực hiện.

Cậy

Mẹ Maria can đảm, toàn tâm toàn ý bước theo chân Tổ Phụ Apraham, “Cha của các tín hữu,” Mẹ hoàn toàn đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, khi chân thành khiêm hạ, tự khẳng định, nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn. Khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ đã hoàn toàn tin cậy, hoàn toàn phó thác, dâng hiến trọn vẹn cuộc đời vào tay Chúa Quan Phòng, sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn, gian khổ khi đồng hành theo Chúa, đồng công cứu chuộc nhân loại.

Mẹ tin cậy vào Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, khi vâng phục đi theo con đường chông gai, thách đố, vất vả, khổ sở, đau đớn, cùng với người bạn đời Giuse, vốn được Sứ thần linh ứng chỉ dẫn. Từ việc khai hoa nở nhụy thiếu thốn tứ bề ở Bêlem, đến chạy trốn sang Ai Cập, rồi trở về quê hương, Mẹ đều vui lòng chấp nhận, không hề oán than, cũng chẳng phiền muộn. Mẹ âm thầm bằng lòng chấp nhận những đau khổ tột cùng sắp đến, qua lời tiên tri của ông già Simêon: “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà…” ( Lc 2, 34 ).

Mến

Mẹ đau khổ biết bao khôn xiết, khi Con Trẻ Giêsu lạc mất ba ngày dài tại đền thờ Giêrusalem. Chắc hẳn không thiếu những giòng lệ nóng bỏng thương nhớ Con, hớt ha hớt hải tìm Con, như bà mẹ kể trên. Mẹ còn chịu thêm thử thách tình mẫu tử, khi nghe Con đáp lại lúc hạnh ngộ: “Cha mẹ tìm con làm gì ? Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư ?”

Tình yêu của Mẹ lại càng thêm phiền muộn, đớn đau, khi nghe Đức Giêsu, Con Mẹ, dõng dạc tuyên bố: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”. Không phải Đức Giêsu chối bỏ, phụ ân, phụ nghĩa, bất hiếu với người Mẹ thân thương, nhưng Người muốn xác định, phải dành ưu tiên cho tình yêu Thiên Chúa, trổi vượt trên tình nghĩa gia đình, tình phụ mẫu, tình huynh đệ huyết thống trần gian.

Nhưng thách đố cao nhất, đau khồ tận cùng, khi Mẹ đồng hành cùng Đức Giêsu trong suốt cuộc khổ nạn. Cao điểm tuyệt đỉnh khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.” Thật đúng như lời ông già Simêon tiên báo.

Chuỗi Mai Khôi là dây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: Âu yếm như Bêlem, khắc khoải như Ai Cập, trầm lặng như Nadarét, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mừng lúc Phục Sinh, tông đồ bên Thánh Gioan.

Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mai Khôi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ. ( Đường Hy Vọng, số 922 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con nhân đức tin vững vàng, nhất là mỗi khi trước phong ba cuộc đời, trước thách đố khắc nghiệt. Xưa kia Người đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” ( Lc 22, 32 ), vậy xin Chúa cũng nguyện cầu cho chúng con vững lòng tin.

Lạy Mẹ Maria, xưa kia Chúa Giêsu đã trăn trối Tông Đồ Gioan lại cho thân mẫu: “Thưa Mẹ, đây là con Mẹ !” Rồi Người nói với ông Gioan: “Đây là Mẹ con !” Cũng như Người trao chúng con lại cho Mẹ săn sóc, che chở. Xin Mẹ đoái thương, cầu bầu cho chúng con theo Chúa luôn mãi, với niềm tin cậy mến sắt son, bền đỗ đến cùng. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

-----------------------------------

 

TN 27-C64. LỜI KINH TUYỆT VỜI

 

Phụng Vụ bước vào Tháng Mai Khôi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của Dân Chúa đối với Đức: TN 27-C64


Phụng Vụ bước vào Tháng Mai Khôi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của Dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng Chuỗi Mai Khôi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là "lưu giữ và suy niệm trong lòng" qua từng lời kinh chuỗi hạt Mai Khôi.

Tràng hạt Mai Khôi là một hành trang và là phương tiện "bỏ túi", "đeo tay", "đeo cổ" gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mai Khôi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới Sự Sống thiêng liêng.

Chuỗi Mai Khôi trong tiếng Latinh là "rosarium" nghĩa là "vườn hoa hồng". Tháng 10, lần hạt Mai Khôi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Mẹ Maria. Bằng chuỗi Mai Khôi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.

1. Kinh Mai Khôi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng

Chuỗi Mai Khôi thật cao quý, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.

Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mai Khôi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, Thánh Đa Minh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Hội Thánh.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mai Khôi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mai Khôi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công Giáo. Cùng với việc triệu tập Đạo Quân Thánh Giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V ( 1504 – 1572 ) kêu gọi mọi người siêng năng lần Chuỗi Mai Khôi.

Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công Giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi Giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo Hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong Giáo Triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 7 tháng 10. Đức Giáo Hoàng đã thiết lập Lễ Mai Khôi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Hội Thánh bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm Tam Điểm. Nhà Thờ bị phá hủy, các Linh Mục và Tu Sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Hội Thánh. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mai Khôi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của Kinh Mai Khôi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mai Khôi. Chẳng hạn Kinh Mai Khôi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12.9.1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mai Khôi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức ( Lourdes ) hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mai Khôi.

Tạp chí Reader's Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêsa thành Calcutta ( 1910 – 1997 ) và một thương gia người Mỹ như sau:

Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một Nữ Tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người Nữ Tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng đã yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người Nữ Tu từ từ rút xâu chuỗi ra khỏi túi áo Dòng và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người Công Giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người Nữ Tu.

Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: "Anh có thường  lần chuỗi không ?" Anh trả lời: "Thưa không !" Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: "Vậy thì anh hãy bắt đầu lần chuỗi đi nhé !"

Ra khỏi phi trường, Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: "Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một Nữ Tu đích thực của Chúa".

Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói như sau: "Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị…" Mặc dù không phải là người Công Giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quý giá ấy.

Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ và chữa lành người khác.

Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: "Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu…"

Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi quý giá ấy. Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: "Khi nào không cần nữa thì cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến".

Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gỡ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: "Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác…"

2. Kinh Mai Khôi, một kho tàng quý giá của Hội Thánh

Chuỗi hạt Mai Khôi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính Mừng là "...lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ..." ( Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, Rosamrum Virginis Mariae, số 18 ).

Chuỗi Mai Khôi lần lượt diễn tả:

- Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập Thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.

- Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

- Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.

- Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô.

Vì thế, Chuỗi Mai Khôi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Hội Thánh.

Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 nói: "Chuỗi Mai Khôi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó..."

Đức Thánh Cha Lêô 13 ( 1810 – 1903 ) là vị Giáo Hoàng của Kinh Mai Khôi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mai Khôi. Ngài đã thiết lập Tháng Mai Khôi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Nữ Vương rất thánh Mai Khôi, cầu cho chúng con."

Đức Thánh Cha Piô 10 ( 1835 – 1914 ) đã nhắn nhủ các gia đình Công Giáo: "Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối… Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần Chuỗi Mai Khôi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng Chuỗi Mai Khôi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần Chuỗi Mai Khôi, xin Mẹ tạo sự cảm thông".

Thánh Piô Năm Dấu Thánh ( 1887 – 1968 ) chia sẻ: "Vũ khí của tôi là tràng hạt Mai Khôi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua Chuỗi Mai Khôi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu, hãy lần Chuỗi Mai Khôi".

Cha Stefano Gobbi ( 1930 – 2011 ) viết: "Chuỗi Mai Khôi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mai Khôi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân". Và "Chuỗi Mai Khôi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu".

Đức Thánh Cha Piô 9 ( 1792 – 1878 ) đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.

Đức Thánh Cha Piô 11 ( 1837 – 1959 ) viết: "Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi…"

Đức Thánh Cha Piô 12 ( 1876 – 1958 ) khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mai Khôi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mai Khôi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mai Khôi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám Mục: "Hãy yêu cầu các Linh Mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày". Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.

Đức Thánh Cha Gioan 23 ( 1881 – 1963 ), ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mai Khôi.

Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 ( 1920 – 2005 ), ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: "Chuỗi Mai Khôi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Elisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Hội Thánh cùng liên kết với những lời kinh ấy".

Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mai Khôi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.

Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua Kinh Mai Khôi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô 5 đã nói: "Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các Thánh Vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô."

3. Kinh Mai Khôi, lời kinh gần gũi cuộc sống

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng, trong Tông Thư "Kinh Mai Khôi", một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mai Khôi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Công Đồng Vatican 2 ( 1962 – 1965 ) khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Kinh Mai Khôi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mai Khôi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mai Khôi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 ( 1897 – 1978 ) khích lệ: "Bản chất việc đọc Kinh Mai Khôi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa."

Điều thuận lợi của Chuỗi Mai Khôi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mai Khôi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mai Khôi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh... thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain ( 1882 – 1973 ) gọi là "chiêm niệm bên vệ đường".

Kinh Mai Khôi là một vũ khí, nhưng là vũ khí Hòa Bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mai Khôi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mai Khôi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mai Khôi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mai Khôi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.

Kinh Mai Khôi là một kinh quý báu của Hội Thánh và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện, mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mai Khôi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

-----------------------------------

 

TN 27-C65. VIỆC ĐỌC KINH MAI KHÔI TRONG GIÁO HỘI

 

Giáo Hội Công Giáo dành tháng 10 trong năm là tháng Mai Khôi, chính thức khai mạc bằng Lễ: TN 27-C65


          Giáo Hội Công Giáo dành tháng 10 trong năm là tháng Mai Khôi, chính thức khai mạc bằng Lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mai Khôi vào ngày 7 tháng 10. Theo cách hiểu phổ thông bình dân, sở dĩ như vậy là vì, trong tháng này, Giáo Hội khuyến khích các tín hữu tập trung cầu nguyện bằng cách lần chuỗi Mai Khôi để xin Đức Maria cầu bầu cho thế giới biết sám hối, cho cõi trần này tránh khỏi tai họa do hệ quả tội lỗi của loài người.

          Các tôn giáo lớn, từ Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, Phật Giáo đều dùng chuỗi tràng hạt cho các tín đồ ghi nhớ số lượng các kinh kệ khi tụng niệm cầu nguyện. Chữ Hán gọi đó là “niệm châu”. Nhà Phật có người gọi là “Phật châu” hay “Chuỗi Bồ Đề”.

Cách đây trên 2.000 năm, Đức Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới gốc cây Bồ Đề suốt 49 ngày để đắc quả. Chữ “Bồ Đề” có gốc chữ Phạn là “Bodhi”, nghĩa là “tìm thấy chân lý” là “chính giác”. Chuỗi Bồ Đề là một tràng hạt kết xâu 108 trái Bồ Đề tròn nhỏ dùng để cầm tay lần từng hạt liên tục khi tụng niệm.

Do vậy, có thể nói là người Việt Nam xưa đã biết được công dụng của chuỗi hạt trong phụng tự tôn giáo cổ truyền Đông Phương trước khi được tiếp xúc với những nhà truyền giáo Tây Phương đầu tiên trong thế kỷ thứ 16. Riêng với người Công Giáo, Chuỗi Mai Khôi trải qua 6 giai đoạn hình thành dần dần trong suốt giòng lịch sử Giáo Hội:

Giai đoạn thứ nhất:

Trong khoảng từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 8, Thánh Jean Chrisostome, trong các bài giảng thuyết, có đề cập đến chi tiết: các vị ẩn tu Công Giáo tiên khởi ở vùng hạ Ai Cập đã dùng những hạt cây hay những viên sỏi nhỏ để đếm số kinh muốn đọc. Buổi sáng, khi thức dậy sớm, mỗi người tự quyết định sẽ đọc bao nhiêu Kinh Lạy Cha, nhặt số hạt tương ứng đem bỏ vào một chiếc lọ hoặc trong túi áo dòng. Hễ cứ đọc được kinh nào thì lại lấy đi một hạt.

Giai đoan thứ nhì:

Đến thời Trung Cổ, từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 11, tại các Tu Viện Âu Châu, đặc biệt ở Ái Nhĩ Lan, đa số các Tu Sĩ đều không biết rành tiếng Latinh, nên khi dự Các Giờ Kinh Phụng Vụ, thay vì đọc 150 Thánh Vịnh bằng tiếng Latinh thì lại đọc 150 Kinh Lạy Cha. Họ xâu các hạt gỗ tròn và nhỏ thành chuỗi 150 để không bị bỏ sót kinh nào. Đó là Tràng Hạt Kinh Lạy Cha, tiền thân của chuỗi Mai Khôi. Chính Thánh Bernard đã cho dùng Tràng Hạt Kinh Lạy Cha trong Tu Viện Clairvaux do ngài thành lập năm 1115.

3. Giai đoạn thứ ba:

Đến thế kỷ thứ 12, người Giáo Dân bắt đầu bắt chước các Tu Sĩ trong việc lần chuỗi. Họ đọc 150 Kinh Kính Mừng với tràng hạt bằng vỏ ốc hoặc bằng đá quý, gọi là các “Thánh Vịnh Đức Mẹ” hay “Thánh Vịnh Kinh Kính Mừng”. Tài liệu cổ ghi nhận: Tu Sĩ Pierre L’Ermite đã dùng tên gọi này và phổ biến trong Đạo Binh Thánh Giá. Còn vua Louis IV thì đặc biệt sùng kính việc lần chuỗi, cứ đọc Ave Maria là lại cúi đầu.

4. Giai đoạn thứ tư:

Đến thế kỷ thứ 13, Thánh Đa Minh được Thiên Chúa sai đi giảng cho bè rối Albigeois mau trở lại. Vào một ngày trong năm 1213, tại thành Toulouse nước Pháp, Đức Mẹ hiện ra chỉ dẫn cho Thánh nhân 2 phương thế, đó là: giảng thuyết và cầu nguyện bằng chuỗi 150 Kinh Kính Mừng. Trước khi đọc Kinh thì suy niệm các biến cố chính yếu trong đời Đức Giêsu.

5. Giai đoạn thứ năm:

Đến thế kỷ thứ 15, thầy Alain de Roche thuộc Dòng Đa Minh, một Dòng chuyên về giảng thuyết ( Ordre des Prêcheurs ), đã có công chia Chuỗi Mai Khôi thành 15 chục, cứ đọc 1 Kinh Lạy Cha lại đọc 10 Kinh Kính Mừng sau khi suy niệm 1 biến cố trong đời Đức Giêsu. Từ đó, Dòng Đa Minh chuyên lo việc phổ biến việc lần Chuỗi Mai Khôi thông qua Hội Mai Khôi.

6. Giai đoạn thứ sáu:

Đến thế kỷ thứ 16, Đức Giáo Hoàng Piô V, vốn là Tu Sĩ Dòng Đa Minh, đã ra sắc lệnh về Kinh Mai Khôi năm 1569, trong đó có quy định chia làm 3 phần đặt tên là Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng, với 1 Kinh Lạy Cha mở đầu và 1 Kinh Lạy Cha kết thúc mỗi phần, không kể các Kinh Lạy Cha nằm giữa mỗi chục Kinh Kính Mừng. Từ đó đến nay, cách đọc này vẫn là cách đọc chính thức của Giáo Hội.

Gần đây nhất, trong thập niên 70, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đề nghị đọc “Kinh Mai Khôi Sống” gồm 3 bước: Đọc Kinh – Suy Niệm – Sống Đạo”. Ngài kêu gọi các tín hữu lập thành từng Nhóm 5 người, mỗi người chỉ đọc 10 kinh nhưng vẫn hưởng ân huệ như đọc đủ một chuỗi 50 kinh. Trong thực tế, Giáo Hội đưa ra 2 cách đọc:

Cứ đọc kinh nào thì suy niệm ngay với kinh đó;

Khi lần chuỗi thì suy niệm về một mầu nhiệm trong đạo thích hợp với đời sống hằng ngày.

Chuỗi Mai Khôi là một xâu chuỗi bình thường gồm 59 hạt hoặc 60 hạt tượng trưng cho 1 Kinh Lạy Cha, 3 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh mở đầu, kế đó là 50 Kinh Kính Mừng để suy gẫm lần lượt 15 Mầu Nhiệm Sự Vui, Sự Thương, Sự Mừng, xen kẽ với 5 Kinh Lạy Cha. Chuỗi của các Tu Sĩ Dòng nhiều gấp ba, với 150 Kinh Kính Mừng tương ứng với 150 Thánh Vịnh Cựu Ước. Người Việt Nam, khi cùng nhau lần chuỗi, còn có thói quen thêm vào đó 5 Kinh “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con...” Cuối cùng sẽ là một Kinh Lạy Nữ Vương và có thể thêm một bài Thánh Ca hướng về Mẹ.

Tựu trung, khi lần chuỗi, người Công Giáo lần lượt suy niệm về các biến cố liên quan đến Đức Giêsu diễn ra trong cuộc đời Đức Mẹ Maria, từ đó ngợi khen chúc mừng Mẹ và khẩn nài xin Mẹ cầu bầu cùng Thiên Chúa cho được những ơn cần thiết trong đời Kitô hữu.

Lm. PHẠM VĂN PHƯỢNG, OP.

-----------------------------------

 

TN 27-C66. BẢO VỆ KINH MAI KHÔI


Tại sao chúng ta lần Chuỗi Mai Khôi ?

 

Nhiều lần chúng ta nghe những người ngoài Công Giáo chỉ trích Kinh Mai Khôi. Thậm chí có một: TN 27-C66


Nhiều lần chúng ta nghe những người ngoài Công Giáo chỉ trích Kinh Mai Khôi. Thậm chí có một số Linh Mục Công Giáo và Giáo Dân cũng chỉ trích hoặc coi thường Kinh Mai Khôi. Không ít lần chính tôi đã nghe các Linh Mục Công Giáo coi thường những người thích lần Chuỗi Mai Khôi, bảo họ giảm bớt việc lần Chuỗi Mai Khôi hoặc thay thế Kinh Mai Khôi bằng việc đọc Kinh Thánh hằng ngày.

Bài viết này cố gắng trả lời một số điểm phổ biến đối lập với Kinh Mai Khôi. Nhờ Đức Mẹ trợ giúp, mong sao bài viết khiêm tốn này giúp chúng ta thêm hiểu biết và yêu mến Kinh Mai Khôi càng ngày càng nhiều, đồng thời giúp chúng ta bảo vệ lòng sùng kính tốt lành này đối lại với những người chỉ trích và coi thường Kinh Mai Khôi.

Lặp đi lặp lại quá nhiều ?

Về phương diện tâm lý thuần túy, việc lặp đi lặp lại Kinh Kính Mừng khiến đầu óc chúng ta thư giãn, quên lo lắng của đời thường và có thể suy niệm các mầu nhiệm. Theo Tâm Lý Học, đó là tình trạng “alpha”, tình trạng giữa sự ngủ sâu “delta” và tình trạng nhận thức đầy đủ. Phương pháp lặp đi lặp lại này thịnh hành trong các tôn giáo khác, và trong lĩnh vực Tâm Lý Học cũng được thực hành như vậy. Có vẻ như Thiên Chúa, Đấng biết rõ bản chất con người chúng ta, đã “thiết kế” Chuỗi Mai Khô

Nhiều lần chúng ta nghe những người ngoài Công Giáo chỉ trích Kinh Mai Khôi. Thậm chí có một số Linh Mục Công Giáo và Giáo Dân cũng chỉ trích hoặc coi thường Kinh Mai Khôi. Không ít lần chính tôi đã nghe các Linh Mục Công Giáo coi thường những người thích lần Chuỗi Mai Khôi, bảo họ giảm bớt việc lần Chuỗi Mai Khôi hoặc thay thế Kinh Mai Khôi bằng việc đọc Kinh Thánh hằng ngày.

Bài viết này cố gắng trả lời một số điểm phổ biến đối lập với Kinh Mai Khôi. Nhờ Đức Mẹ trợ giúp, mong sao bài viết khiêm tốn này giúp chúng ta thêm hiểu biết và yêu mến Kinh Mai Khôi càng ngày càng nhiều, đồng thời giúp chúng ta bảo vệ lòng sùng kính tốt lành này đối lại với những người chỉ trích và coi thường Kinh Mai Khôi.

Lặp đi lặp lại quá nhiều ?

Về phương diện tâm lý thuần túy, việc lặp đi lặp lại Kinh Kính Mừng khiến đầu óc chúng ta thư giãn, quên lo lắng của đời thường và có thể suy niệm các mầu nhiệm. Theo Tâm Lý Học, đó là tình trạng “alpha”, tình trạng giữa sự ngủ sâu “delta” và tình trạng nhận thức đầy đủ. Phương pháp lặp đi lặp lại này thịnh hành trong các tôn giáo khác, và trong lĩnh vực Tâm Lý Học cũng được thực hành như vậy. Có vẻ như Thiên Chúa, Đấng biết rõ bản chất con người chúng ta, đã “thiết kế” Chuỗi Mai Khô

Nhiều lần chúng ta nghe những người ngoài Công Giáo chỉ trích Kinh Mai Khôi. Thậm chí có một số Linh Mục Công Giáo và Giáo Dân cũng chỉ trích hoặc coi thường Kinh Mai Khôi. Không ít lần chính tôi đã nghe các Linh Mục Công Giáo coi thường những người thích lần Chuỗi Mai Khôi, bảo họ giảm bớt việc lần Chuỗi Mai Khôi hoặc thay thế Kinh Mai Khôi bằng việc đọc Kinh Thánh hằng ngày.

Bài viết này cố gắng trả lời một số điểm phổ biến đối lập với Kinh Mai Khôi. Nhờ Đức Mẹ trợ giúp, mong sao bài viết khiêm tốn này giúp chúng ta thêm hiểu biết và yêu mến Kinh Mai Khôi càng ngày càng nhiều, đồng thời giúp chúng ta bảo vệ lòng sùng kính tốt lành này đối lại với những người chỉ trích và coi thường Kinh Mai Khôi.

Lặp đi lặp lại quá nhiều ?

Về phương diện tâm lý thuần túy, việc lặp đi lặp lại Kinh Kính Mừng khiến đầu óc chúng ta thư giãn, quên lo lắng của đời thường và có thể suy niệm các mầu nhiệm. Theo Tâm Lý Học, đó là tình trạng “alpha”, tình trạng giữa sự ngủ sâu “delta” và tình trạng nhận thức đầy đủ. Phương pháp lặp đi lặp lại này thịnh hành trong các tôn giáo khác, và trong lĩnh vực Tâm Lý Học cũng được thực hành như vậy. Có vẻ như Thiên Chúa, Đấng biết rõ bản chất con người chúng ta, đã “thiết kế” Chuỗi Mai Khôi theo cách thức như vậy để giúp trí óc chúng ta thư giãn, khiến chúng ta có thể cầu nguyện và suy niệm.

Bản chất suy niệm của Kinh Mai Khôi, cũng như các kinh khác, có thể là lý do mà các bác sĩ và các khoa học gia trên thế giới đã tuyên bố là “phép mầu của lời cầu” trong việc chữa bệnh. Nghiên cứu cho thấy rằng cầu nguyện có khả năng chữa bệnh, thậm chí cả về phương diện khoa học và tâm lý thuần túy. Các bệnh nhân có thói quen cầu nguyện có thể khỏi bệnh nhiều hơn so với các bệnh nhân không thường xuyên cầu nguyện.

Về phương diện tôn giáo và tâm linh, việc lặp đi lặp lại Kinh Kính Mừng là thể hiện lòng yêu mến chúng ta dành cho Đức Mẹ. Khi người ta yêu, người ta không thể làm gì hơn là bày tỏ tình yêu đối với người yêu bằng câu nói yêu thương. Kinh Kính Mừng là đóa hoa chúng ta dâng lên Đức Mẹ, Đấng được chúng ta yêu mến – những đóa hoa đó thể hiện lòng yêu mến của chúng ta dành cho Đức Mẹ. Một nhà thần bí được thị kiến những hoa hồng đỏ thắm tươi đẹp bay về phía Đức Mẹ. Nhà thần bí này thấy rằng mỗi Kinh Kính Mừng được đọc đều được chuyển thành hoa hồng và được Đức Mẹ thu gom từng đóa. Rồi Đức Mẹ dâng những hoa hồng đó lên Thiên Chúa.

Không hấp dẫn cảm xúc ?

Kinh Mai Khôi là lời cầu nguyện suy niệm. Không có nghĩa là làm chúng ta xuất thần, nhưng đưa chúng ta tới vương quốc của sự suy niệm và cầu nguyện.

Phần tinh hoa của Kinh Mai Khôi nằm trong việc suy niệm các mầu nhiệm. Khi chúng ta lần Chuỗi Mai Khôi, chúng ta phải suy niệm các mầu nhiệm. Việc suy niệm này có thể có các dạng khác nhau. Chúng ta có thể tưởng tượng và tập trung nhớ lại các mầu nhiệm. Chẳng hạn, khi suy niệm mầu nhiệm thứ ba mùa Vui, chúng ta cố gắng tưởng tượng việc Chúa Giêsu giáng sinh: Chúng ta tưởng tượng hang chiên, vóc dáng của Đức Mẹ, và sự giúp đỡ của Thánh Giuse.

Cách khác là tập trung vào ý hướng đặc biệt. Chẳng hạn, trong mầu nhiệm thứ nhất mùa Mừng, chúng ta có thể xin ơn Trông Cậy. Chúng ta hy vọng Thiên Chúa giúp sức vượt qua mọi khó khăn như Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần.

Cách khác nữa là suy niệm đơn giản, nghĩ mình đang ở trước mặt Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Chúng ta có thể nhắm mắt khi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta tưởng tượng mình là con trẻ ngồi trong lòng Chúa Giêsu. Chúng ta tưởng tượng Chúa Giêsu đang nói chuyện với chúng ta, an ủi và lắng nghe chúng ta tâm sự.

Các Thánh và các nhà thần bí thường suy niệm sâu như vậy để đạt được sự vui mừng thánh thiện cao độ. Có thể chúng ta không đạt cao độ như các Thánh trong lúc suy niệm, nhưng vẫn có thể nếu chúng ta biết thả lỏng trí óc, loại bỏ mọi lo lắng và có thể suy niệm mỗi khi lần Chuỗi Mai Khôi – bó hoa hồng “Kính Mừng” đẹp biết bao khi Đức Mẹ dâng lên Thiên Chúa mỗi khi chúng ta lần Chuỗi Mai Khôi !

Quá chú ý Đức Mẹ ?

Kinh Mai Khôi là lời cầu tập trung vào Đức Kitô. Thật vậy, các mầu nhiệm không gì hơn là tái hiện toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu, từ khi Chúa Giáng Sinh tới khi được dâng trong Đền Thờ, tới sứ vụ công khai bắt đầu từ khi chịu Phép Rửa tại sống Giođan, tới cuộc Thương Khó và cuối cùng là Phục Sinh khải hoàn. Thật vậy, lý do mà Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thêm 5 mầu nhiệm Sáng vào Kinh Mai Khôi là phần quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu.

Kinh Mai Khôi là lời cầu nguyện suy niệm, đó là điều cần ghi nhớ. Khi lặp đi lặp lại các Kinh Kính Mừng, chúng ta tới một phần quan trọng hơn, đó là các mầu nhiệm chúng ta suy niệm, giống như Đức Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu vậy.

Cầu nguyện riêng tốt hơn ?

Không có gì sai nếu cầu nguyện riêng. Thật vậy, cầu nguyện riêng rất quan trọng trong việc tạo thói quen tốt là thường xuyên nói chuyện với Chúa Giêsu, như nói chuyện với một người bạn vậy. Tuy nhiên, cầu nguyện riêng và cầu nguyện chung nên hài hòa, vì có những lợi ích đặc biệt dành cho những người cầu nguyện chung, nhất là Kinh Mai Khôi. Theo Kinh Thánh, chúng ta biết rằng khi các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cách cầu nguyện, Ngài dạy họ Kinh Lạy Cha, và Kinh Lạy Cha được lặp lại 6 lần trong Chuỗi Mai Khôi.

Điều tốt lành là chỗ đó, khi chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ. Kinh Mai Khôi là lời cầu nguyện của Đức Mẹ, được ban xuống từ Trời và được dạy cho chúng ta. Tại Fatima, khi Đức Mẹ hiện ra với Lucia, Đức Mẹ vẫn ở bên Lucia khi Lucia lần Chuỗi Mai Khôi – đó là Đức Mẹ kết hợp lời cầu nguyện của Đức Mẹ với lời cầu nguyện của chúng ta.

Thánh Lễ tốt hơn ?

Có người nói: “Mỗi tuần tôi đi Lễ vài lần, có khi hằng ngày. Tôi không cần lần Chuỗi Mai Khôi nữa”. Trong Tông thư Rosarium Virginis Mariae ( nói về Kinh Mai Khôi, ban hành ngày 16.10.2002 ) Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Đời sống tâm linh không chỉ hạn chế trong việc tham dự Phụng Vụ. Các Kitô hữu được mời gọi cầu nguyện chung, nhưng vẫn phải cầu nguyện riêng với Chúa Cha nơi bí ẩn ( x. Mt 6, 6 ). Thật vậy, theo giáo huấn của Tông Đồ, chúng ta phải cầu nguyện không ngừng ( x. 1 Tx 5, 7 ). Theo đặc cách, Kinh Mai Khôi là một phần trong hoạt động “cầu nguyện không ngừng”.

Thánh Lễ là dạng cao nhất trong Phụng Vụ và cầu nguyện, không gì hơn việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày. Tuy nhiên, dù chúng ta tham dự Thánh Lễ hằng ngày thì cũng chỉ khoảng 60 phút, chỉ chiếm 6% số thời gian trong ngày. Còn 94% thời gian nữa ? Có nhiều Linh Mục sa ngã vì họ quên cầu nguyện, có thể do họ dâng Lễ quá nhanh, quá vội, cử hành cho xong, rồi họ quên Chúa cả ngày.

Các Linh Mục không chỉ tham dự mà còn dâng Lễ hằng ngày, còn Giáo Dân chỉ tham dự Thánh Lễ đôi ba lần trong tuần vì bận rộn thì sao ?

Kinh Mai Khôi có thể đọc xong trong khoảng 15 phút. Chúng ta có thể lần Chuỗi Mai Khôi khi chạy xe máy, trên xe buýt, trên xe hơi, trên xe lửa, trên máy bay, trên đường đi làm hoặc về nhà, thậm chí có thể đọc Kinh Mai Khôi khi ăn điểm tâm. Chuỗi Mai Khôi giúp chúng ta “cầu nguyện không ngừng” và giúp chúng ta kết hợp với Chúa suốt ngày. Và với Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót cũng có thể đọc theo cách thức như vậy. Đó là cách cầu nguyện liên lỉ.

Quá bận rộn ?

Có người nói: “Khó quy tụ cả nhà để đọc Kinh Mai Khôi, nhất là những lúc bận rộn”. Kinh Mai Khôi chỉ mất khoảng 15 phút là đọc xong. Khoảng thời gian đó không bằng khoảng thời gian bạn ngồi đọc báo, xem tivi, tán gẫu, chơi game… Chúng ta có thời gian để giải trí với những thứ ấy, vậy sao không thể dành 15 phút mỗi ngày để lần Chuỗi Mai Khôi chung cả gia đình ?

Vấn đề là chúng ta có muốn hay không, chúng ta có thật lòng yêu mến Chúa và Đức Mẹ hay không. Đừng “vụng chèo, khéo chống” !

Đọc Kinh Thánh là tận dụng thời gian ?

Có người nói: “Tôi thích đọc Kinh Thánh hằng ngày hơn lần Chuỗi Mai Khôi”. Kinh Thánh phải được đọc với ý tốt lành của Hội Thánh, không thể đọc và hiểu theo ý riêng mình. Có những đoạn Kinh Thánh nói về chuyện quan hệ bất chính của vua Đavít, chuyện Cain giết chết Aben, hoặc câu Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hỡi Satan, hãy xa khỏi Ta !” Các câu này, nếu hiểu theo nghĩa đen, sẽ khiến người ta lẫn lộn. Như đã nói, Kinh Thánh phải được hiểu đúng theo giáo huấn của Hội Thánh.

Nói vậy không có nghĩa là chúng ta không cần tìm hiểu Kinh Thánh. Nhưng việc đọc Kinh Thánh riêng có thể khó khăn, nhất là nếu bạn chưa quen đọc. Có nhiều cách đọc và hiểu Kinh Thánh cho đúng nghĩa; chẳng hạn, tham dự các lớp Kinh Thánh hoặc nghe giảng.

Tuy nhiên, đọc Kinh Thánh hằng ngày không có nghĩa là không cần Kinh Mai Khôi. Kinh Thánh và Kinh Mai Khôi không đối lập nhau mà lại bổ túc lẫn nhau. Kinh Thánh phong phú hóa trí óc, còn Kinh Mai Khôi phong phú hóa linh hồn. Cả Kinh Thánh và Kinh Mai Khôi đều tập trung vào một điều: cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Đọc Kinh Thánh có thể giúp chúng ta về phương diện tâm linh, nhưng không có sự hướng dẫn của lời cầu nguyện, chúng ta sẽ không thể hiểu thấu ý nghĩa đích thực. Chúng ta cần cầu nguyện, nhất là lời kinh tập trung vào Đức Kitô và Kinh Thánh như Kinh Mai Khôi, để đón nhận các ơn mà chúng ta cần để có thể hiểu rõ Đức Tin qua Kinh Thánh. 

ARTHUR POLICARPIO
TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com


-----------------------------------

 

TN 27-C67. TÌM HIỂU Ý NGHĨA CỦA TÊN GỌI “MAI KHÔI”

 

Mai Khôi, hay còn được nhiều nơi gọi là Mân Côi, Mai Côi, Môi Khôi, Văn Côi... đều xuất xứ từ: TN 27-C67


Mai Khôi, hay còn được nhiều nơi gọi là Mân Côi, Mai Côi, Môi Khôi, Văn Côi... đều xuất xứ từ tiếng Latinh là Rosarium có từ thời Trung Cổ, tiếng Ý là Rosario, tiếng Pháp là Rosaire, tiếng Anh là Rosary, có 3 nghĩa như sau:

một tràng, một chuỗi, một xâu Hoa Hồng ( Rosa, Rose = Hoa Hồng );

một xâu chuỗi hạt trai, hạt đá quý để đeo quanh cổ người phụ nữ;

một vườn Hoa Hồng.

Ngày xưa, tràng chuỗi Hoa Hồng là một hình thức của lễ dâng lên các vị thần linh, hay một vòng hoa quàng vào thân mình người được thiên hạ ngưỡng mộ tôn vinh.

Sang đến Việt Nam, chuỗi Rosarium được người miền Bắc gọi là “Chuỗi Mân Côi”, hoặc “Chuỗi Văn Côi”; riêng người miền Nam và miền Trung lại gọi là “Chuỗi Môi Khôi”. Ngoài mấy cách gọi thông thường của từng địa phương nêu trên, các cha Dòng Đa Minh chi Lyon Pháp, còn có cách gọi là “Chuỗi Mai Khôi”. Cách gọi này hiện nay được khá nhiều người dùng, nhất là các tu sĩ và giới trẻ, đặt thành nhiều bài hát hay viết các bài suy niệm.

Vậy, phải dùng cách gọi nào cho thật đúng trên bình diện ngôn ngữ học và việc đạo đức thiêng liêng của người Công Giáo chúng ta ? Học giả Đào Duy Anh dịch chữ Rosaire của tiếng Pháp trong ba từ gọn lỏn là: “Tràng hạt dài”. Từ Điển Pháp-Việt của nhà xuất bản Thanh Hóa in năm 1994 dịch ra hai nghĩa là:

Chuỗi hạt lớn có khoảng 150 hạt, tràng hạt.

Kinh lần tràng hạt.

Tổng hợp các từ điển Việt-Nam, Hán-Việt và Trung-Hoa, chúng ta không tìm được từ ngữ nào là “Mân Côi”. Vậy từ đâu mà có tên gọi này, cũng như đã có những cách đọc trại ra, na ná giống nhau ?

Thật ra, “Mân” là tên một thứ đá rất đẹp, bên ngoài có vân như ngọc nhưng lại không có giá trị bằng ngọc. Có nơi lại gọi loại đá này là “Văn” có nghĩa là có vân, một thứ đá có vân đẹp. Còn “Môi” hay đọc đúng chính âm là “Mai” lại là tên một thứ ngọc quý màu đỏ. “Côi”, hay còn đọc là “Khôi” chính là tên một thứ đá kém giá trị hơn ngọc ( danh từ ). Ngoài ra, còn một nghĩa khác nữa là hiếm, quý, lạ ( tính từ ).

Nếu ghép thành “Mai Côi”, chúng ta còn có thêm ý nghĩa là: một loài hoa rất thơm, sắc đỏ hoặc trắng, nhánh có gai, ngày nay người ta dùng hoa này chưng cất lấy hơi tẩm ướp vào rượu để sản xuất ra một thứ rượu quý nổi tiếng của Trung Hoa, gọi là “Mai Côi Lộ Tửu”, thường được gọi trại ra là “Mai Quế Lộ”. Riêng ông Nguyễn Văn Khôn và ông Đào Duy Anh đều viết đúng chữ “Mai Khôi Hoa” và giải thích đúng là Hoa Hồng.

Vậy, chúng ta có thể khẳng định các cách gọi “Mai Côi”, “Mai Khôi” hay “Môi Khôi” đều là những âm Hán tự có nghĩa đích xác là Hoa Hồng, trong khi cách gọi “Mân Côi” lại không bao giờ có nghĩa là Hoa Hồng, mà chỉ là nói đến một thứ đá !

Trong việc đạo đức sùng kính Đức Maria, mỗi lời nguyện, mỗi lời kinh là một của lễ xứng đáng, là một đóa Hồng xinh tươi, là một chuỗi Hoa Hồng, là cả một vườn Hồng tuyệt vời mà chúng ta kính cẩn dâng lên Mẹ. Quả là chúng ta không thể dùng từ “Mân” với nghĩa không được cao quý trong “Mân Côi” để tìm lấy một mùi hương ngát thơm lâng lâng bay lên tòa Thiên Chúa được.

Người quân tử quý ngọc, nhưng lại coi thường đá Mân. Thế tại sao chúng ta lại giữ lấy đá Mân thiếu giá trị làm một của lễ cho Mẹ Thiên Chúa ? Chúng tôi chủ trương dùng “Mai Khôi”, hay “Mai Côi”, thậm chí “Môi Khôi” là để thay thế cho từ ngữ “Mân Côi” mà có thể vì chưa hiểu thấu đáo ý nghĩa, chúng ta đã vô tình quen dùng một cách không xứng đáng với Mẹ Maria. Rất mong được các bậc học giả uyên thâm đóng góp thêm nhiều ý kiến chính đáng hầu trang hoàng cho tòa Hoa Thơm của Mẹ.

Lm. Giacôbê PHẠM VĂN PHƯỢNG, Dòng Đa Minh

-----------------------------------

 

TN 27-C68. NĂNG QUYỀN CỦA KINH MAI KHÔI

 

Trong Đức Tin, chúng ta hiểu rằng, cuộc sống là một hành trình trở về Nhà Cha và đồng thời cũng: TN 27-C68


Trong Đức Tin, chúng ta hiểu rằng, cuộc sống là một hành trình trở về Nhà Cha và đồng thời cũng là một hành trình trở về với chính mình, vì Nhà Cha chính là nơi thẳm sâu cõi lòng của mỗi người chúng ta như chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã minh xác: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” ( Lc 17, 21b ).

Lời minh xác của Chúa Giêsu giúp mỗi người chúng ta hãy luôn biết ý thức lại cách tìm kiếm Nước Thiên Chúa theo cách tiếp cận mới, chứ không phải theo cách cũ như thể “một điều gì đó có thể quan sát được” ( x. Lc 17, 20 ) nhưng là một hành trình lội ngược dòng đi vào trong thẳm sâu cõi lòng mình, ở đó, Chúa đang ngày đêm và từng giây từng phút mong đợi chúng ta hiệp thông sâu sắc với Ngài.

Kể từ khi có sự hiểu biết về đời sống thiêng liêng, tôi bắt đầu nêu lên nhiều thắc mắc về việc cầu nguyện của Mẹ khi còn đang sống trong gia đình tại Nazareth và sau khi Chúa Giêsu về Trời. Tôi cứ tự hỏi: “Mẹ đã làm gì để có thể vừa sống lại vừa kết hiệp thẳm sâu với Thiên Chúa như thế ?” hoặc “Mẹ đã sống đời sống cầu nguyện thế nào, có phải như chúng ta là phải ngày đêm ngồi trong Nhà Thờ hay Nhà Nguyện chăng ?”…

Và rồi dần dần tôi khám phá ra bí quyết của Mẹ qua những lời Kinh Mai Khôi mà Mẹ đã truyền dạy gián tiếp qua Hội Thánh, và đó chính là bí quyết mà Mẹ đã thực thi trong suốt cuộc hành trình của riêng Mẹ khi còn sống giữa thế gian này, bởi Mẹ là Mẹ nên không thể giữ bí quyết nào đó cho riêng Mẹ mà lại không truyền lại cho con cái mình để chúng cũng được nên giống như Mẹ và được hưởng những ân huệ mà Mẹ đã được hưởng, và thế là Kinh Mai Khôi đã đến với chúng ta là con cái Mẹ như ngày nay.

Kinh Mai Khôi, chúng ta đã biết và vẫn đọc hằng ngày, song có lẽ nhiều khi ta lại tự thấy có gì đó mâu thuẫn như nhiều người trẻ duy lý vốn cảm thấy trong cuộc sống của mình, “đó là một kinh tự bản chất cứ lặp đi lặp lại và lải nhải hoài mà chẳng có tí nào chiều sâu, nên cần phải đọc gì đó khác hơn, hoặc cầu nguyện cách nào đó mới hơn, cho nó ra vẻ người lớn, trí thức, và đàn ông hơn, cầu nguyện theo Kinh Thánh chẳng hạn.”

Chính bản thân tôi đã phải vật lộn với cái lý luận cám dỗ này trong suốt một thời gian dài cho đến khi, nhờ ơn Chúa, qua lời bầu cử của Mẹ, mới nhận ra chiều sâu và quyền năng đích thực của Kinh Mai Khôi. Còn trước đó, vẫn cứ đọc, nhưng đọc chỉ vì lợi ích và quyền lợi của mình như những lời Mẹ đã hứa cho những ai siêng năng lần chuỗi Mai Khôi, thậm chí đọc để khỏi phải sa hoả ngục đời đời như nhiều người lớn cảnh cáo và áp đặt lũ trẻ.

Nói cho ngay, ta vẫn cứ theo một cách đọc máy móc, ít hiểu biết, nhưng lại có vẻ nhiều vụ lợi, đâu có phải là lời cầu nguyện thần diệu mà chúng ta có thể cảm nghiệm được thẳm sâu từ trong tâm hồn như Mẹ đã truyền lại cho con cái loài người, vì chính Mẹ đã sống các mầu nhiệm của Kinh Mai Khôi trong suốt cuộc hành trình của Mẹ.

Chúng ta biết rằng, trong hành trình sống của bản thân, chắc chắn không thể tránh khỏi những lúc ta bị suy sụp tinh thần, ngã quỵ vì một biến cố gây sốc nặng nào đó về mặt tinh thần và thể lý, những tai nạn, và cả những bấn loạn trong tâm hồn… Những lúc như thế ta thấy mình càng cố gắng dùng ý chí và sức mạnh thể lý, hay bạo lực để giải quyết, thì ta càng lún sâu hơn nữa vào nỗi đau hay hố kẹt mà ta đang là nạn nhân ở trong đó. Nói cách khác, ta càng vùng vẫy để mong nổi lên khỏi mặt nước thì lại càng bị nhận chìm sâu hơn cho đến khi ta trút hơi thở cuối cùng vì mất sức và ngộp nước.

Song ta lại thấy một kinh nghiệm kỳ diệu này xuất hiện liên lỉ trong tâm trí ta, đó là những lời dạy ta được nghe từ bé rằng hãy biết lần chuỗi khi gặp gian nan, Mẹ sẽ đến và giúp ta vượt qua tất cả. Đã có rất nhiều chuyện thực tế xuyên dòng lịch sử nhân loại và lịch sử bản thân mà mỗi người chúng ta đã chứng thực được năng quyền của Kinh Mai Khôi.

Năng quyền chữa lành

Khi ta cầu nguyện Kinh Mai Khôi và kết hợp với cách hít thở đúng đắn, thì ta sẽ được năng quyền cộng hưởng của những lời kinh giản đơn này mang lại cho chúng ta một sức khoẻ và một sự chữa lành thần diệu ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Ai cũng biết, hơi thở là điều đầu tiên mà Thiên Chúa đã thực hiện khi đặt nó vào mũi của thọ tạo đầu tiên là Adam trong Vườn Địa Đàng thuở xưa. Chúng ta gọi Chúa Thánh Thần là Thần Khí, nghĩa là hơi thở thần tính của Thiên Chúa ban tặng cho ta, mà Thần Khí có năng quyền chữa cho ta khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền về thể lý cũng như tinh thần.

Khi ta cầu nguyện bằng cách kết hợp hơi thở sâu và đều đặn nhịp nhàng cùng những lời Kinh Mai Khôi, chính là ta đang để cho Thần Khí của Thiên Chúa nhờ lời chuyển cầu đầy thần thế của Mẹ Maria thực hiện nơi toàn bộ hữu thể yếu ớt và tinh thần đang đầy bệnh hoạn tật nguyền của ta một cuộc trao đổi kỳ diệu, để nhờ đó mà ta được chữa lành và ban thêm sức mạnh để ta tiếp tục sống và sống dồi dào như lòng Chúa hằng mong ước cho những ai yêu mến Ngài.

Năng quyền thanh luyện

Một cuộc sống khoẻ mạnh là một cuộc sống được thanh lọc và thanh luyện liên lỉ cả về mặt thể lý lẫn tinh thần, bằng không thì sẽ sinh ra bế tắc và từ đó dẫn đến sự ngột ngạt và mệt mỏi, và cuối cùng là sự chết. Mẹ là Mẹ tràn đầy Tình Yêu, là Mẹ của Đấng Ban Sự Sống, và là người được bao phủ bằng Thần Khí, nên Mẹ không bao giờ để cho con cái của Mẹ phải chịu cảnh ngột ngạt, bế tắc, hay bấn loạn mà phải chết, và vì thế mà Mẹ ban cho chúng ta một phương cách kỳ diệu là Kinh Mai Khôi.

Chúng ta biết rằng mình được gạn lọc và thanh luyện là nhờ hơi thở. Một vài phút không thở được thì ta sẽ chết ngay. Thế nên, khi ta cầu nguyện bằng Kinh Mai Khôi, con tim ta hướng về Thiên Chúa, lòng trí ta suy niệm các Mầu Nhiệm Sự Sống – cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, còn cơ thể ta hoà điệu cùng lời nguyện cầu bằng việc hít thở đều và đúng đắn, chắc chắn, ta sẽ được gạn lọc và thanh luyện cả về mặt thân xác và tinh thần, ta sẽ khoẻ hơn, nhẹ nhàng, bình an, vui tươi, bác ái, nhẫn nại, từ tâm… như những hoa trái đích thực của Thần Khí mà Thánh Phaolô Tông Đồ đã nói cho chúng ta biết.

Vậy hãy ký thác cuộc sống thể lý và tinh thần của chúng ta cho năng quyền thần diệu của Kinh Mai Khôi mà Mẹ đã dạy, để ta sẽ không bao giờ phải sống trong ngột ngạt, bế tắc, và tật nguyền nơi thể lý và tinh thần của mình, nhờ đó ta ca ngợi Tình Yêu của Chúa và làm chứng cho sự hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi cuộc sống của ta.

Năng quyền bồi dưỡng sức mạnh

“Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” ( Mt 11, 28 ) là lời mời gọi đồng thời là lời hứa cho những ai đang lao đao vất vả, đang mỏi mệt bởi những gánh nặng bổn phận và trách nhiệm cuộc sống giữa cuộc đời đầy sóng gió và thử thách này. Khi đã mỏi mệt bởi sức nặng của cuộc sống, của những lo toan và muộn phiền, của những bất công, của những bổn phận và trách nhiệm, của những bệnh hoạn tật nguyền… ta dường như chả muốn nói gì ngoài việc mong tìm đến một nơi tĩnh lặng để ở đó ta được nghỉ dưỡng và chữa lành.

Hiểu thấu nhu cầu này của con cái loài người chúng ta, Mẹ đã mang đến cho chúng ta một phương thế nghỉ dưỡng kỳ diệu bằng Kinh Mai Khôi. Theo đó, khi cầu nguyện bằng Kinh Mai Khôi kết hợp với hít thở đúng cách, thì ta đang nghỉ dưỡng thật sự trong sự hiện diện đầy năng quyền của Ba Ngôi Chí Thánh và của Mẹ Maria. Ta không cần phải cầu nguyện thành tiếng và đọc lớn hay ngồi nghiêm trang như cách thế ta vẫn làm, vì như thế ta chỉ thêm mệt hơn. Mà thay vào đó, ta chỉ cần tĩnh lặng và cầu nguyện trong sự thinh lặng tuyệt đối của tâm hồn.

Hơn thế nữa, tiếng nói của Thinh Lặng thì mạnh mẽ và quyền năng hơn lời nói chóng qua trên môi, nên ta chỉ cần phó thác hết mọi sự cho Thiên Chúa và cho Mẹ, cứ nằm đó cùng với Tràng Chuỗi Mai Khôi rất Thánh, mắt khép lại, và hít thở đều, ta sẽ lập tức cảm thấy được một sức mạnh kỳ diệu bao phủ lấy ta, sức mạnh ấy mang đến cho ta bình an, niềm vui, và sự phục hồi vô cùng nhanh chóng và tuyệt vời.

Những hiệu năng của Kinh Mai Khôi được chia sẻ ở trên cũng chính là điều mà bản thân tôi đang thực thi và trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày. Đặc biệt trong những lúc cấp bách và bị dồn vào đường cùng đến mức hầu như không còn niềm hy vọng nào, thì Mẹ lại xuất hiện như vầng dương chói loà toả ra những tia nắng ấm áp của tình Mẫu Tử cao vời của Mẹ ôm trọn lấy bản thân tôi.

Tôi không thể cưỡng lại việc kết hiệp và kêu lên cùng Mẹ trong từng ngày sống, và đặc biệt khi gặp gian nan thử thách, và luôn mang theo bên mình con số vắn tắt “50” hay thậm chí “05” để gọi và được nghe đầu dây bên kia có tiếng êm ái, nhẹ nhàng, và đầy năng quyền của Mẹ, chỉ cần thế, mọi gian nguy sẽ tan biến ngay lập tức. Hãy cảm nghiệm và hãy vững tin, vì Mẹ sẽ đưa chúng ta từ chỗ tuyệt vọng đến chỗ hy vọng. Amen.

Joseph C. PHAM

-----------------------------------

 

TN 27-C69. THỰC HÀNH KINH MAI KHÔI NHƯ MỘT PHÁP MÔN TU

 

Việc cầu nguyện nói chung và cầu nguyện bằng Kinh Mai Khôi nói riêng, có thể nói, đang gặp khủng: TN 27-C69


Việc cầu nguyện nói chung và cầu nguyện bằng Kinh Mai Khôi nói riêng, có thể nói, đang gặp khủng hoảng. Có một nhận định như sau:

“Trong nguồn gốc của nó có nhiều lý do nhưng có thể tập trung chúng vào trong hai đặc thái sau đây. Thứ nhất là cuộc khủng hoảng của lời cầu nguyện sùng kính, trầm trọng vì sự tục hóa và các chủ thuyết nhân bản mới bị ý thức hóa. Thứ hai cuộc khủng hoảng lòng tôn sùng Mẹ Maria là bối cảnh sống còn tự nhiên của Kinh Mai Khôi.

Cuộc khủng hoảng còn đả thương Kinh Mai Khôi trong cấu trúc của nó là lời cầu nguyện thầm trong trí và đọc lớn tiếng bên ngoài. Trong cái khó khăn của việc suy ngắm và trong sự từ chối việc lập đi lập lại một lời kinh bị tố cáo là máy móc vô hồn, các khó khăn này có tầm nghiêm chỉnh của chúng và không thể trả lời với các kiểu nói quen thuộc được” ( Nguồn: Daobinhducme, Linh Tiến Khải, 26.8.2013, Tổng kết ý nghĩa Kinh Mai Khôi trong tình hình giáo lý sùng mộ và việc canh tân KMC hiện nay ).

Về hai… đặc thái nêu trên, ta thấy có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trước hết là việc cầu nguyện sùng kính sở dĩ khủng hoảng là vì trong thời tục hóa này, người ta không biết phải cầu nguyện với Đấng nào. Hơn nữa Đấng ấy có thực hay không để mà cầu ? Tiếp đến là lòng tôn sùng Mẹ Maria, bởi không biết cầu với Đấng nào, thế nên vai trò của Đức Mẹ đương nhiên cũng trở thành vô nghĩa. Đang khi đó, ngay từ thuở sơ khai, Giáo Hội việc khẩn cầu với Đức Maria đã được các tín hữu thành Ephêsô hết lòng tuyên xưng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội” ( Xem Lm. Bùi Đức Sinh, Lịch sử Giáo Hội Công Giáo ).

Lời khẩn cầu của các tín hữu xin Đức Maria làm Đấng Cầu bầu cho mình quả thật là ơn soi sáng của Thánh Thần, và từ đó, lời cầu này vẫn được thực hiện cách liên tục qua tràng chuỗi Mai Khôi. Như ai nấy đều biết trong tràng chuỗi Mai Khôi, Kinh Kính Mừng bao giờ cũng gắn liền với lời cầu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”. Có thể nói đọc Kinh Mai Khôi mà không có lời này đi kèm thì chẳng phải là Kinh Mai Khôi ! Lý do bởi vì toàn bộ Kinh Mai Khôi chính là lời cầu của Đức Mẹ dâng lên Thiên Chúa. Cầu nguyện với Thiên Chúa thì phải cho xứng đáng, thế nhưng con người tự sức mình không thể làm được điều này. “Cũng một lẽ ấy Thánh Linh giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết thế nào để cầu nguyện cho xứng đáng, nhưng chính Thánh Linh lấy sự than thở không thể nói ra được mà cầu thay cho chúng ta” ( Rm 8, 26 ).

Có Đức Mẹ cầu thay, việc cầu nguyện của chúng ta mới xứng đáng. Ấy vậy mà nay trong cái gọi là “Canh Tân Kinh Mai Khôi”, người ta đã gạt bỏ đi sự cầu thay vô cùng cần thiết ấy. “Nhiều nơi bên cạnh kiểu lần hạt Mai Khôi truyền thống, vì các lo lắng mục vụ, người ta cũng đã bắt đầu các hình thức lần hạt Mai Khôi khác, có mục đích chính xác là dành ưu tiên cho sức mạnh của Kinh Mai Khôi và cho thấy rõ ràng quyền năng định đoạt của chính nó. Chẳng hạn trong các hình thức mới này có việc đọc các văn bản Kinh Thánh liên quan tới các mầu nhiệm suy gẫm. Nghĩa là không chỉ tóm tắt mầu nhiệm mà đọc chính bản văn Kinh Thánh trình bày mầu nhiệm đó.

Thế rồi việc đọc Kinh Kính Mừng được rút ngắn chỉ giữ lại phần đầu tức là Thiên Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ mà thôi. Còn phần hai của Kinh Kính Mừng chỉ được đọc vào cuối chục kinh để nhấn mạnh vẻ đẹp của lời khẩn cầu luôn luôn diễn tả lòng sùng mộ của Giáo Hội đối với Đức Trinh Nữ và là lời khẩn nài tín hữu dâng lên Mẹ sau khi đã suy ngắm mầu nhiệm cuộc đời của Chúa” ( Nguồn: Linh Tiến Khải ngày 26.8.2013, bài đã dẫn ).

Do bởi ảnh hưởng của duy lý, thế nên ngay đến cả kinh nguyện cũng đem ra suy. Thay cho các ngắm thì lại… suy, và việc suy ấy là suy niệm về Thánh Kinh. Có nơi sau mỗi chục kinh người ta đọc lên một đoạn Kinh Thánh để suy về ý nghĩa Lời Chúa. Có nơi thì bỏ cả việc lần hạt, ấy vậy mà cũng cứ gọi là… nhóm lần hạt. “Tôi tới tham dự với một nhóm, điều làm tôi xúc động sâu xa là những phút thinh lặng rất đặc biệt. Việc cầu nguyện kéo dài khoảng một giờ. Phong trào gửi cho mỗi nhóm một cuốn sách nhỏ ghi đoạn Phúc Âm liên quan đến mỗi nhóm. Đầu tiên đọc Kinh Chúa Thánh Thần rồi một người trưởng nhóm giải thích. Thỉnh thoảng thinh lặng để mọi người đi sâu vào nội dung” ( Tu Sĩ André Sève, Cầu nguyện hôm nay).

Bỏ hẳn lần hạt, điều ấy chẳng còn gì để nói, nhưng ngay cả việc đọc Kinh Thánh sau mỗi chục kinh cũng khiến cho toàn bộ cấu trúc của kinh này thay đổi, biến dạng, chẳng còn gì là Kinh Mai Khôi truyền thống nữa.

Trong tất cả những lần Đức Mẹ hiện ra, lần nào Ngài cũng hằng khuyên nhủ con cái phải siêng năng lần hạt. Điều ấy hơn ai hết Đức Mẹ hiểu rõ giá trị của Kinh Mai Khôi là ở chỗ nào. Mặt khác cũng vì thực hiện lời khuyên dạy của Đức Mẹ mà chị Bernadette ( Lộ Đức ), các em Lucia, Jacinta, Francisco ( Fatima ) v.v… đã gặt hái được biết bao là ân sủng của Thiên Chúa. Vậy thử hỏi những thụ nhân ấy có suy, có đọc Kinh Thánh trong khi lần chuỗi hay không ? Lại nữa, toàn thể các Thánh, đã không ngớt ca ngợi giá trị vô song của Kinh này, chẳng hạn như Thánh Piô Năm Dấu ( Padreo Pio ) lần cả trăm chuỗi mỗi ngày, vậy các ngài có suy niệm Kinh Thánh gì không ?

Đọc Kinh Mai Khôi là cùng cầu nguyện với Đức Mẹ chứ không phải để suy ngắm mầu nhiệm cuộc đời của Chúa. Quả thật, Kinh Mai Khôi là một phép ngắm nhưng phép ngắm ấy không phải là suy ngắm cuộc đời của Chúa Giêsu hiểu như một thứ hành vi của lý trí suy luận, nhưng là ngắm về bốn mầu nhiệm Vui Thương Mừng Sáng. Trước đây mỗi khi lần chuỗi, người xướng thường là ông bà quản, bao giờ cũng đọc câu này như một công thức “Phép lần hạt ngắm tắt năm sự Vui, hoặc Thương, hoặc Mừng…"

Kinh Mai Khôi được gọi là phép lần hạt, vậy thì “phép” ở đây chính là phương pháp, là pháp môn và hễ là pháp môn thì chỉ có thể là pháp môn tu.

Sở dĩ Kinh Mai Khôi rơi vào khủng khoảng không lối thoát là vì người ta đã không thực hành kinh này như là một phương pháp tu tập. Phép tu này vừa dễ thực hành lại vừa bảo đảm phần rỗi như lời Thánh Louis Marie Grignion de Montfort quả quyết: “Chúng tôi nhận thấy những người hư thân mất nết, lạc đạo kiêu căng thường tỏ thái độ khinh chê Kinh Mai Khôi. Trái lại những người có dấu hiệu tiền định nên Thánh hoặc được rỗi linh hồn thì thường tôn kính Kinh Mai Khôi và có lòng kính mến Đức Mẹ” ( Nguồn: Thành Thực Sùng Kính Mẹ ).

I. Kinh Mai Khôi, một phép tu

Thánh Đa Minh, người được Đức Mẹ trao sứ mạng truyền bá Kinh Mai Khôi đã quả quyết “Không có cách cầu nguyện nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria cho bằng đọc Kinh Mai Khôi cách sốt sắng”. Để việc thực hành Kinh Mai Khôi đem lại ơn ích lớn lao thì phải đọc cách sốt sắng.

Tuy nhiên làm sao để đọc cách sốt sắng thì đó là cả một vấn đề. Lý do bởi vì việc cầu nguyện nói chung là rất khó: “Vì chúng ta chẳng biết thế nào là cầu nguyện cho xứng đáng” ( Rm 8, 26 ). Muốn cầu nguyện cách xứng đáng thì phải tuân theo lời dạy của Chúa Kitô: “Còn ngươi, khi cầu nguyện hãy vào phòng kín đóng cửa lại rồi cầu nguyện Cha ngươi là Đấng ở nơi ẩn mật, và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ ẩn mật sẽ báo đáp cho ngươi” ( Mt 6, 6 ).

Lời Chúa cho thấy cầu nguyện đích thực là phải xoay cái tâm vào bên trong mà cầu, bởi vì Thiên Chúa không ngự ở một nơi nào khác ngoài tâm hồn mình. Sở dĩ Thánh Đa Minh hết lời ca ngợi Kinh Mai Khôi là cách cầu nguyện tốt nhất bởi vì đó là phương pháp xoay cái nghe trở vào bên trong để nhận ra Bản Tính Con Thiên Chúa ở nơi mình ( Phản Văn Văn Tự Tánh ). Văn là nghe, còn phản văn là xoay cái tâm trở vào bên trong.

Về cách nghe rất chi là quan hệ, bởi vậy Chúa nói: “Hãy coi chừng về cách các ngươi nghe. Vì hễ ai có thì cho thêm. Còn ai không có thì dẫu điều họ tưởng mình có cũng sẽ bị cất đi luôn nữa” ( Lc 8, 18 ). Cách nghe Chúa nói đây là nghe với cái tâm vô phân biệt. Ai có, tức là có cách nghe với tâm vô phân biệt thì sẽ cho thêm, tức là ngày càng nhận biết Chúa ở nơi mình. Trái lại, nếu cứ nghe với tâm phân biệt thì cái mà họ tưởng là có như là sự khôn ngoan thông thái rồi có ngày cũng sẽ bị mất hết. Kinh Mai Khôi là một phương pháp cầu nguyện tối hảo bởi đó là cái nghe xoay cái tâm trở vào bên trong.

Phải chăng chính là vì kinh này là một phép nghe, thế nên ngoài các danh từ Mai Khôi, Mai Khôi nó còn mang một tên khác là Văn Côi ? Trong sách kinh xưa của các địa phận Hải Phòng, Bùi Chu, Thái Bình vẫn gọi là Kinh Văn Côi cùng với câu công thức mà các ông bà quản giáo vẫn xướng lên trước khi lần hạt: “Phép lần hạt Văn Côi ngắm tắt năm sự Vui, hoặc Thương, hoặc Mừng."

Bởi Kinh Mai Khôi là một phép nghe với tâm vô phân biệt, thế nên cộng đoàn hay cá nhân cũng phải áp dụng cách nghe này. Khi cùng với cộng đoàn tại Nhà Thờ hay gia đình, dĩ nhiên phải đọc ra tiếng, một bên xướng, một bên thưa. Bên xướng đọc "Kính Mừng…", còn bên thưa đọc "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…" Khi bên xướng đọc thì bên thưa phải im lặng để lắng nghe từng lời kinh, không chia lòng chia trí, còn nếu chia trí thì phải lập tức trở lại ngay với lời kinh. Nếu người nào cứ cố tình chia trí thì không thể nào có thể tiếp tục đọc mà không nhầm lẫn về hạt, về thứ, về mùa được.

Có nghe Kinh với tâm vô phân biệt ( không chia lòng chia trí ) như thế thì Lời Chúa mới ở lại ( An Trú ) trong tâm mình và đây là điều mà Chúa Giêsu nói "Ai có sẽ được cho thêm" là vậy.

Lời Chúa là Lời Hằng Sống cho nên việc nghe Lời Chúa không thể chỉ diễn ra trong Nhà Thờ bằng việc đọc kinh nhưng cần phải ở khắp mọi nơi, mọi thời. Để Lời Chúa có thể thấm nhập tâm hồn mọi nơi mọi thời thì cố nhiên cần phải có thực hành cá nhân. Nếu chỉ đọc kinh lần hạt cùng với cộng đoàn mà cá nhân không đọc thì chẳng gặt hái được mấy ơn ích. Tại sao ? Bởi vì khi đọc chung cùng với cộng đoàn thì có thể chúng ta có thể ỷ lại để rồi cứ mặc tình chia trí mà không hề biết. Ngược lại, chỉ những khi một mình thì ta mới được đối diện với Chúa và đây cũng chính là ý nghĩa mà Chúa Giêsu nói đến trong việc cầu nguyện: “Khi các ngươi cầu nguyện thì hãy vào phòng đóng kín cửa lại…” Cửa ám chỉ cho sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đóng kín cửa lại có nghĩa là không phóng tâm ra bên ngoài nơi ngoại vật…

Trở ngại lớn nhất nhưng đồng thời cũng đem lại ơn ích lớn lao nhất đó là sự chia lòng chia trí trong khi thực hành Kinh Mai Khôi. Những ai siêng năng lần hạt mới thấy được sự chia trí nhiều như thế nào. Mặc dầu chia trí là điều không sao tránh khỏi, nhưng nếu biết ngay đó là chia trí, bèn quay về với lời kinh để tiếp tục lần hạt thì lại có ơn ích, và ơn ích này là do ý chí ta thuận phục Thánh ý Thiên Chúa. Nhà Thiền có câu “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì ( Chẳng sợ lòng tham, lòng giận khởi chỉ cần nhận biết nó ). Lòng tham sân khởi lên trong khi lần chuỗi thực chất của nó chỉ là vọng tưởng. Nhận biết đó là vọng thì vọng ấy liền tiêu.

Thế nhưng vọng này tiêu thì vọng khác lại khởi liên tu bất tận. Chính vì vọng khởi không ngớt như vậy mà lực quán sát của người tu ngày càng thêm đắc lực. Sự quán sát ấy chính là ý nghĩa của việc Ngắm trong Kinh Mai Khôi. Ngắm ở đây không phải là cái nhìn của mắt nhưng là của tâm. Để có cái nhìn của tâm thì cần phải có phương pháp dựa trên hai phương diện chủ và khách. Chủ ở đây là lời kinh, còn khách là những vọng tưởng ( chia lòng chia trí ). Sở dĩ vọng tưởng khởi biết là vọng là nhờ có lực mạnh mẽ sáng suốt của Lời Chúa. “Lời Đức Chúa Trời là Lời Hằng Sống, linh động sắc hơn mọi gươm hai lưỡi, đâm thấu đến nỗi chia hồn linh khớp tủy. Biện biệt tư tưởng và ý định của lòng người” ( Dt 4, 12 ).

Vọng tưởng tức là những ý tưởng tham lam, ganh ghét, giận hờn, đam mê, tranh đấu… Một khi chúng đã được nhận biết thì không còn tác dụng gì tới đời sống của ta nữa. Con người sở dĩ có những hành vi xấu xa ác độc là vì đã chấp chứa ở nơi mình những tư tưởng xấu ( chúng ác tưởng ). Trái lại, một khi không còn những tư tưởng xấu ác ấy thì sao có thể làm ác được ? Làm ác thì phải chịu quả báo ác, không thể tránh thoát ?

Kinh Mai Khôi là một phương pháp tu tập khiến cho tư tưởng ác ngày càng tiêu trừ đồng thời phát triển tư tưởng lành. Hành động nào cũng do nơi tư tưởng, chứa chấp tư tưởng ác sẽ hành động ác mà hành động ác tất sẽ phải khổ, khổ cả đời này lẫn đời sau vô cùng. Đức Mẹ ân cần khuyên bảo chúng ta hãy siêng năng thực hành Kinh Mai Khôi bởi vì đó là phương pháp thoát khổ bảo đảm chắc chắn nhất.
II. Nghe để thoát khổ

Lời nói nào gợi cảm giác đó, lời lành gợi cảm giác lành, lời ác gợi cảm giác ác. Nghe một bản nhạc cải lương não nề ai oán khiến tâm ta cũng phải buồn bã ủ ê. Ngược lại, nghe một bản hùng ca khiến lòng ta thêm phấn chấn. Lời nói là hình tướng của tư tưởng, nói cách khác, từ ở nơi tâm mà phát ra lời nói. Tâm ác thì phát ra lời nói ác. Tâm thiện thì phát ra lời nói thiện. “Người thiện do lòng chứa thiện mà phát ra điều thiện. Kẻ ác do lòng chứa ác mà phát ra điều ác. Vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra” ( Lc 6, 45 ).

Nói đến chất chứa thì hẳn nhiên là phải có cái nơi để chất chứa và nơi ấy được ví như một cái kho. Duy Thức Học gọi cái kho đó là Tạng Tâm ( tàng là cái kho ). Tạng tâm là nơi con người chất chứa tất cả những gì mình đã làm đã nghe đã thấy và đã nghĩ tưởng, gọi là Nghiệp. Tạng Tâm người nào thì chất chứa nghiệp của người đó. Nghiệp tạo thành là do chất chứa, người làm nông là do chất chứa những kiến thức kinh nghiệm về nghề nông. Người làm nghề dạy học là do chất chứa kiến thức về sư phạm. Bác sĩ, kỹ sư v.v… cũng vậy.

Cùng một lẽ ấy sự chất chứa trong lãnh vực tâm linh cũng không khác. Có chất chứa những điều lành thánh mới được nên Thánh. Trái lại cứ mãi chất chứa toàn là những điều dối trá tham lam, ganh ghét, hận thù thì không thể tránh khỏi đọa vào ác đạo. Chất chứa điều thiện sẽ được quả thiện lành, chất chứa điều ác sẽ phải chịu quả ác. Sự chất chứa ấy chính là nhân, nhân nào thì quả nấy, không mảy may sai chạy dù chỉ một hào ly.

Tôn giáo hoàn toàn không phải là Triết Học nhưng là con đường tạo lập nhân lành để được hưởng quả lành. Kinh Mai Khôi do Đức Mẹ tạo lập với mục đích tạo cho con người một thứ nhân lành tuyệt hảo bằng cách lắng nghe Danh Thánh Chúa từ trong tâm tưởng. Người đời coi thường Danh – Sắc ( Tên gọi và Hình Tướng ) thế nhưng đây là điều vô cùng quan hệ đến đời sống hạnh phúc hay khổ đau của mỗi người.

Do bởi không biết được tính chất quan hệ của Danh Sắc như thế nên con người ngày nay hầu như ngày nào cũng dán mắt vào TV, xem hết phim Hàn, phim Tàu, lại đến phim Mỹ, ngồi lê đôi mách, nấu cháo điện thoại cả ngày không chán, đọc hết báo in lại đến báo điện tử, đầu óc tràn ngập đủ thứ tin tức quốc nội, quốc tế. Những người như thế chẳng qua chỉ là nạn nhân của những trò lừa bịp của quảng cáo đủ loại mà không biết !

Kinh Mai Khôi do Đức Mẹ tạo lập có mục đích cho ta xoay cái tâm trở vào bên trong để lắng nghe Tiếng Chúa và Tiếng Chúa ấy chỉ có thể nghe được cùng với Danh Thánh Chúa Giêsu. Cần phải ghi khắc ( chất chứa ) Danh Thánh Giêsu ở nơi tâm khảm để tạo cho mình một sức mạnh vô địch: “Nghe Danh Giêsu cả trên trời dưới đất và âm phủ đều phải quỳ gối” ( Pl 2, 10 ). Sở dĩ Danh Thánh có sức mạnh lớn lao như thế là vì đó là Danh của Đấng Cứu Độ, Ngài đã hiến cả mạng sống mình để làm giá cứu chuộc muôn người. Mặc dầu vậy Danh Thánh Giêsu chỉ có thể trở nên sức mạnh khi nào ta tạo lập được ở nơi tâm của chính ta. Chỉ khi ấy Danh Thánh mới có sức mạnh hầu chiến thắng thế gian xác thịt ma quỷ tức là những ác tưởng mà mình đã chất chứa từ bao đời bao kiếp.

Kinh Mai Khôi chính là phương pháp hữu hiệu nhất để cho ta có thể tạo lập Danh Thánh Giêsu ở nơi mình bằng cách lắng nghe Lời Chúa là lời chân lý. Sự lập đi lập lại Kinh Kính Mừng cùng với lời cầu bầu của Đức Mẹ đó là cách tốt nhất để chiến thắng tội lỗi khi nó vừa mới thoạt khởi trong tâm ta. Khi tư tưởng tham vừa khởi biết nó là tội, bèn xả bỏ ngay thì không bao giờ có hành động tham, mà đã không có hành động tham thì không phải khổ vì tham.

Tuy nhiên để việc thực hành Kinh Mai Khôi tạo được lực mạnh mẽ ở nơi tâm như thế thì phải có đường lối tu tập theo chính pháp có nghĩa phải sống trong ơn nghĩa Chúa: Yêu mến Chúa và vâng giữ lời Ngài “Ai yêu mến Thầy thì vâng giữ lời Thầy…”

PHÙNG VĂN HÓA, 2013

-----------------------------------

 

TN 27-C70: CHÚNG CON CÁM ƠN MẸ VÔ CÙNG

 

Tôi bị đau nằm bệnh viện, bạn bè bà con làng xóm đến thăm, trong đó có cả các em bạn học con gái út: TN 27-C70


Tôi bị đau nằm bệnh viện, bạn bè bà con làng xóm đến thăm, trong đó có cả các em bạn học con gái út vào thăm. Ngồi nói chuyện nghe biết tôi bị té xe và xơ gan, một em kể:

"Bác giống bà nội con hồi đó cũng bị té xe và xơ gan nặng, bà được truyền dịch liên tục và hôn mê ba bốn ngày liền. Bác sĩ chê, cho về và bảo: về nhà rút bình ôxy ra là đi… Sau đó, ba đi lo xe chở bà về, mẹ lo giấy tờ xuất viện, còn cô Út lo dọn đồ cho bà, trước đó cô có mua một bó bông nhưng chưa kịp cắm, nên nhờ người nằm giường bên cạnh đem vào chùa gần đó cắm hộ, nhưng gặp chị này là người Công Giáo, nên chị đem bó bông cắm ngay tượng đài Đức Mẹ, rồi đứng thầm thĩ đọc kinh.

Khi xe băng ca đưa bà nội con đi ngang đó ra cổng, thấy bó bông mình nhờ cắm đã bị cắm nhầm chỗ, cô Út con hơi ngạc nhiên, nhưng chẳng hiểu sao cả nhà bỗng dưng ngừng lại ít phút, ai cũng có ý xin Bà bên Đạo linh thiêng độ trì phù hộ cho bà nội con khỏe lại.

Vậy mà bác biết không, khi về nhà thì bà nội con lại vượt qua được ranh giới sự chết, bà sống thêm gần chục năm nữa. Cả nhà con ai cũng đều tin chính nhờ Đức Mẹ của người bên Đạo kia đã cứu bà nội, dù lúc ấy bà đã hôn mê và các bác sĩ bệnh viện đã bó tay…"

Em nói thêm với tôi: "Bác ơi, từ đó con thích theo Đạo lắm mà ba má con chưa cho… Mai mốt lớn, con sẽ lấy chồng có Đạo, còn không, con cũng xin theo đạo…"

Tôi nghĩ: Mẹ thật nhân từ, ai có lòng đến kêu xin là Mẹ nhận lời, người ta có ý xin dâng hoa cho Mẹ đâu, người ta chỉ cắm nhầm thôi… thế mà mẹ đã chứng tỏ quyền phép và lòng từ bi nhân ái của Mẹ cho dù họ là người bên Lương.

Tôi xin kể thêm câu chuyện tôi được chứng kiến sau đây:

Hai vợ chồng con gái của bạn tôi sáng Chúa Nhật chở nhau đi Lễ, ngang qua hàng bán bông ngay gần cổng Nhà Thờ, người vợ khệ nệ vác cái bụng bầu sắp tới ngày sinh. Dù chẳng bao giờ mua bông, nhưng nay thấy hoa hồng đẹp quá, em mua ngay ba bó với ý định dâng Đức Mẹ cho con đi sanh được bằng an…

Lễ về đi chợ nấu cơm. Đang bữa ăn, em đau bụng càng lúc càng quằn quại, nghĩ mình chưa đến ngày sanh mà sao kỳ quá ?!? Đau đến không chịu nổi, chồng vội gọi xe đưa vợ đi bệnh viện, mới tới cửa phòng khám sanh, chưa kịp làm giấy tờ, em vật vã đau đớn rên la, cho ra đời một đứa bé còn nguyên trong bọc.

Y tá bác sĩ vội lo cho bà mẹ, thấy thai nhi không động đậy, các cô bảo anh chồng: “Chết rồi, có đem về chôn thì chôn, còn không vứt vào cái thùng kia, có người sẽ đến lấy đem đi thiêu”. Anh chồng có ý mang con về để rửa tội hồ nghi, nên trân trọng lót báo vào giỏ rồi vội ra xe mang về. Chị vợ nằm lại cho bác sĩ y tá chăm sóc. Anh về đến nhà hí hoáy xé bọc màng bao quanh ra để đổ nước, thì… lạy Chúa tôi, đứa trẻ ngọ nguậy giơ tay giơ chân kêu oe oe yếu ớt như tiếng con mèo kêu ! Anh mừng rỡ vội quì thụp xuống tạ ơn Đức Mẹ, luôn miệng liên tục: “Mẹ ơi ! Con con sống rồi, con con sống rồi, con tạ ơn Mẹ, con cám ơn Mẹ, con cám ơn Chúa…”

Anh chồng lăng xăng như người điên. Cả nhà mẹ anh và mấy cô em gái xúm vào lo cho cháu, rồi hàng xóm chạy sang vui mừng chia sẻ. Anh rối rít vui sướng gọi điện vào cho vợ lúc đó vừa được đẩy ra khỏi phòng sanh. Chị và bà ngoại cũng vô cùng hân hoan cùng làm dấu đọc kinh tạ ơn Đức Mẹ.

Ôi Mẹ ơi ! Chúng con cám ơn Mẹ vô cùng, vì biết bao ơn lành hồn xác mẹ đã chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con từ trước đến nay giữa bao sóng gió cuộc đời… Chúng con cũng cám ơn Chúa vì đã ban cho chúng con có một người Mẹ vô cùng tuyệt vời.

Trong gia đình ai cũng có một người mẹ để khi gặp bao nhiêu khó khăn bao nhiêu cạm bẫy trong cuộc sống thì những đứa con bao giờ cũng chạy đến với mẹ trước khi tìm đến với người cha để tâm sự, giãi bầy… Vậy mà có nhiều lúc chúng con quên rằng chúng con có một người Mẹ từ bi nhân ái bao dung, hơn hẳn người mẹ trần gian. Xin Mẹ tha thứ cho những đứa con ngỗ nghịch này và xin Mẹ hằng che chở chúng con, nhất là trong giờ sau hết của mỗi người chúng con. Mẹ nhé !

    THANH ANH NHÀN

-----------------------------------

 

TN 27-C71: CÁC CHUM NƯỚC VÀ KINH KÍNH MỪNG

 

Cha mẹ yêu con biển hồ lai láng, con yêu cha mẹ kể tháng kể ngày. Câu tục ngữ trên mô tả tình: TN 27-C71


Cha mẹ yêu con biển hồ lai láng, con yêu cha mẹ kể tháng kể ngày. Câu tục ngữ trên mô tả tình yêu tự nhiên phổ quát của cha mẹ dành cho con cái và con cái đối đãi với cha mẹ. Hàm ý trên càng đúng khi mô tả tình yêu siêu nhiên giữa chúng ta với Đức Maria.

Tình yêu đích thực chỉ có một, nhưng những thứ tương tự như tình yêu đích thực (tình yêu không thực ) là không đếm được – tình yêu này là tình yêu chính mình nhưng lại biểu hiện thông qua tình yêu dành cho một thực thể khác. Chúng ta sẽ không thể thấu hiểu tình yêu của Đức Maria dành mỗi chúng ta nếu chưa biết hết những đặc trưng chính yếu của một tình yêu đích thực.

Những đặc trưng của tình yêu

Một cô gái trẻ hỏi nhà hiền triết: “Làm sao để phân biệt con tim mình đã dành cho ai trong số hai chàng trai mà mình cùng yêu ?”… “Khi con đau buồn, ai là người con chia sẻ đầu tiên, ấy là người con yêu”, nhà hiền triết giải đáp như thế. Câu trả lời đúng, nhưng một tình yêu đích thực còn nhiều hơn thế nữa. Tình yêu:

- Vốn dĩ là tình nguyện và miễn phí.
- Không thể mua, bán hoặc trao đổi.
- Không giới hạn bởi không gian ( lãnh thổ, biên giới )
- Không giới hạn bởi thời gian ( mọi lúc ).
- Có thể kèm theo các cảm xúc giận, buồn, nhưng tình yêu không đòi hỏi phải sở hữu, sự đáp trả hay phụ thuộc một lời hứa của thực thể.

Và Chúa Giêsu đã đẩy đặc tính tình yêu đến một tới hạn cao nhất có thể, là hiến mạng sống mình cho người mình yêu ( Ga 15, 13 ). Tình yêu với các đặc trưng như trên trông có vẻ kỳ dị, phi logic, vì nó độc lập với lí trí, và cũng vì thế mà tình yêu trở nên vĩ đại. Một tình yêu đích thực sẽ dẫn đến hòa bình, một tình yêu ích kỷ sẽ đưa tới chiến tranh. Đức Maria với mẫu tính siêu nhiên, đã dành cho mỗi chúng ta tình yêu đích thực như thế.

Kinh Kính Mừng và lòng yêu Mẹ

Bạn có thể hỏi, làm sao cảm nhận được tình yêu của Đức Maria dành cho bạn ? Có hai thứ mà chúng ta khó nhận ra khi đang có, mà chỉ dễ nhận thấy khi đã mất, là tình yêu và sức khỏe. Quan sát thực tế, nhiều phần ta sẽ thấy, người con càng xa nhà, càng yêu cha mẹ nhiều hơn. Điển hình là người con thứ trong dụ ngôn người con hoang đàng trong Tin Mừng Luca 15, 11 – 33. Thà rằng nhận ra tình yêu này bằng một cách tiếp cận tồi như người con thứ, còn hơn là không thấu hiểu tình yêu ấy như cách sống của người con trưởng.

Nếu có một hội những người yếu mến Đức Maria được thành lập, thì logo nào là sáng giá ? Chuỗi hạt Mai Khôi. Vì đây là mong muốn được Đức Maria truyền lại trong những lần hiện ra với con người. Còn slogan của hội này là cụm từ "Fiat – Xin Vâng".

Bạn có thể thắc mắc, vì sao chúng ta cần lặp đi lặp lại cả triệu lần cho một đoạn văn rất đơn giản là Kinh Kính Mừng ? Lời giải cho câu hỏi này tương tự tình huống sau, một võ sinh hỏi thầy sau 8 năm khổ học: “Thưa thầy, tập luyện cú đấm thứ một triệu khác gì thứ một triệu lẻ một ?" Lão võ sư trả lời. “Nó chẳng khác gì mấy, nhưng nếu dừng lại, thì con sẽ thụt lùi. Và cú đấm thứ hai triệu sẽ khác xa cú thứ một triệu ở độ chính xác, sự tự tin”…

Đọc Kinh Kính Mừng và suy ngẫm đúng cách là một trong những phương thức hữu hiệu đáp trả tình yêu của chúng ta với Đức Maria. Dù rằng tình yêu chẳng cần đáp trả nhưng đáp trả lại là một cung bậc thấp nhất cần có của một tình yêu.

Nếu một lúc nào đó bạn cảm thấy thiếu tự tin khi dùng tràng hạt đơn giản, hãy nhớ lấy hai điều:

1. Thiên Chúa toàn năng thường làm những việc vĩ đại bởi các giá trị khởi đầu nhỏ bé ( cây ná David; 5 chiếc bánh và 2 con cá… )

2. Trước khi xảy ra phép lạ hóa nước thành rượu, chúng ta biết rằng, Đức Maria từng bảo các gia nhân câu nói rất quan trọng: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo”.

Kinh Kính Mừng, một khí cụ cầu nguyện đơn giản do chính Mẹ Maria truyền dạy cho Thánh Đa Minh trở thành lời kinh phổ biến và quan trọng thứ hai sau Kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu trực tiếp giảng cho các Tông Đồ. Hai Kinh này có cùng cấu trúc: Phần một là những lời ca ngợi, chúc tụng. Phần hai, bao gồm các lời nguyện xin. Hoa dâng Mẹ Maria đẹp nhất trong tháng 10 hàng năm là các tràng hạt thấm đẫm Lòng Mến khi chúc tụng ở phần một và tha thiết trong lời cầu ở phần hai.

Nếu chúng ta đón Đức Maria thường trú vào nhà mình như Thánh Gioan đã làm sau khi Chúa Giêsu nói lời di chúc: “Này là con bà… đây là mẹ con” ( Ga 19, 26 )  và cùng đọc Kinh Kính Mừng hàng ngày cùng với Mẹ, thì có điều gì trên cuộc đời này có thể làm cho bạn trở nên bất an nữa nhỉ ?

Kinh Mai Khôi là những chum "nước" mà Đức Maria sẽ chuyển cầu, để Thiên Chúa hóa "nước" thành “rượu” cho những ai hết “rượu” trên đường lữ hành.

G. TUẤN ANH

 

TN 27-C72: CHUỖI NGỌC CỦA NỘI

 

Đã ba mươi năm kể từ ngày nội tôi mất, nhiều khi tôi nhớ nội lắm, vẫn ước ao một lúc nào được: TN 27-C72


Đã ba mươi năm kể từ ngày nội tôi mất, nhiều khi tôi nhớ nội lắm, vẫn ước ao một lúc nào được trở về ngày xưa thơ dại, được nội ôm ấp, được nội dắt tay trên con đường trơn trượt băng ngang con suối dẫn vào ngôi nhà nho nhỏ ẩn mình trong nương rẫy thủa nào.

Cuộc đời của nội phải nói là cuộc đời cơ khổ. nội có ba người con. Bác cả tôi tên Viết, mất khi vừa lấy vợ chưa tròn tháng. Trong một trận đụng với Việt Minh vào làng, bác bị băm nát bởi những nhát mã tấu đến mức không ai còn nhận ra hình hài. Chỉ có tình mẫu tử mới có thể giúp nội tôi nhận ra xác con mình, chứ cái tên trên bộ quân phục đẫm máu cũng không thể giúp ích gì nhiều vì nội có biết chữ đâu. Kế đến là bố tôi. Rồi đến cô Son là gái út. Trong cuộc di cư vào Nam, cô bị người ta bắt mất, biệt tích từ đó, có người quen cho biết cô cũng bị giết mất xác trong cơn loạn lạc. Sau này, khi đã định cư trong Nam, bố tôi cũng nhập ngũ khiến nội tôi phải lo lắng nhiều đêm…

Chín chị em chúng tôi ra đời, một tay nội chăm bẵm vì mẹ tôi phải buôn bán vất vả. Người ta thường nói: “Cháu bà nội, tội bà ngoại”, nhưng nội tôi thì khác. Mẹ tôi thường kể, hồi tôi mới sinh ra, bà ngoại thích lắm, muốn bế được tôi thì phải mượn áo của bà nội cho có hơi, tôi mới chịu theo, còn không thì cứ khóc. Nội thương cháu bao nhiêu lại thương con dâu bấy nhiêu. Mẹ tôi bị tai nạn tưởng chết mấy lần, nội khóc nhiều lắm. chưa bao giờ thấy nội nặng lời với mẹ tôi hay với một ai bao giờ. Bản tính hiền lành, hay chịu phần thiệt về mình, ngày còn đi bán hàng, nội luôn về sớm nhất chợ nhưng xem lại bao giờ cũng lỗ, chỉ có chúng tôi là lời vì bao giờ cũng đầy một giỏ quà.

Nội tôi không biết chữ, nhưng thật tài làm sao, Truyện Kiều cứ thuộc vanh vách, không những thế, kinh nào cũng thuộc, cả những kinh dài dằng dặc, kinh cầu gì cũng thuộc, có kinh còn đọc được cả tiếng latinh. Nội có thể bỏ ăn, bỏ làm chứ không thấy nội bỏ đọc kinh bao giờ. Sáng đọc kinh, tối đọc kinh. Những ngày loạn lạc, mấy lần phải chạy giặc, vật bất ly thân luôn mang theo là cỗ tràng hạt Mai Khôi. Nội thường nói, chuỗi ngọc này là tài sản duy nhất của nội. Chuỗi tràng hạt của nội là chuỗi hạt bằng bạc trắng. Nội tôi quý chuỗi tràng hạt lắm, không ở trên cổ thì cũng trên tay, chả rời ra bao giờ.

Niềm tin của nội tôi hay lắm, có vẻ rất đơn sơ, lại có chút gì đó thật dễ thương. Chị em tôi đứa nào ốm đau. nội luôn lấy cỗ tràng hạt Đeo vào cổ cho chúng tôi, cho hôn Thánh giá. Đến khi khỏi ốm, nội bảo: "Chúa chữa lành cho cháu đấy". Niềm tin của nội nhẹ nhàng mà sâu sắc, đơn sơ vậy đấy !

Các chị em tôi thuộc kinh cũng nhờ nội cả, nhiều kinh dài như Kinh Cao Sang, Ngắm Văn Côi Đức Bà… Bà đọc trước, cháu đọc sau, cứ thế thành thuộc cả. Có những tối, bà cháu đọc kinh, được nửa chừng, tôi ngủ lúc nào không hay, sáng ra, nội chỉ xoa đầu mắng yêu: "Chưa gì đã ngủ !" Mắng thế thôi chứ chả bao giờ nội bắt tôi phải đọc kinh theo nội, muốn ngủ thì cứ ngủ. Mỗi tối đọc kinh cũng phải hơn một giờ.

Thời còn ở trên rẫy, sau 75, có một gia đình ngoài Bắc vào tìm kế sinh nhai trong miền Nam. Gia đình này đã bỏ đạo lâu rồi, không Nhà Thờ hay kinh sách gì hết. Nội tôi cho họ ở nhờ cho vui cửa vui nhà. Tối đến, bà cháu tôi đọc kinh họ lại ra ngoài sân tán gẫu. Thời gian đầu, bà cụ nọ còn khuyên nội tôi giữ đạo làm gì, bây giờ khoa học đã tiến bộ lắm rồi, làm gì có Chúa, có Mẹ nữa chứ !?! Nội tôi đơn sơ lắm, nghe thế vẫn cứ cười, chả nói sao cả, cũng chả phản bác cho ra vẻ.

Mấy chị tôi thì bực lắm, không thích cho bà cụ này ở nhờ nữa. Nội tôi biết thế mới nói với chị em tôi rằng: "Kệ họ con ạ, có thế họ mới cần đến mình…" Quả thực, tôi chả bao giờ thấy nội tranh luận với họ, chỉ có điều, mỗi khi bà cụ nọ khen nội tôi chuyện gì đó, ví như nấu nồi canh hay kho con cá vừa miệng, nội tôi chỉ nhỏ nhẹ: "Nhờ ơn Chúa cả đấy !" Thế thôi… Chỉ hơn năm sau đó, tự dưng thấy bà cụ nọ theo nội tôi đi Lễ trở lại, tối tối lại cùng nội tôi mang tràng hạt ra đọc kinh rất sốt sắng. Ôi, nội tôi tài thật !

Con đường vào rẫy nhà tôi nếu tính từ quốc lộ vào khoảng ba cây số, mà hồi đó, đường đất đỏ lầy lội, đất dẻo quẹo dính vào dép cứ phải lấy cây cạo ra, không thì chân nặng như đeo đá, trơn trượt như thoa mỡ, cái đất đỏ này mà dính vào quần áo thì siêu bột giặt bây giờ cũng chả ăn thua. Đường bé tí, còn hai bên là những đồi ngô sắn, lại phải băng qua con suối ngoằn ngoèo. Mỗi dịp hè, tôi hay được lên rẫy ở với nội. Có khi nội ra tận ngoài đường đứng đón, những lần đầu, tôi hay hỏi: "Còn xa không nội ?" nội tôi trả lời: "Còn… nửa chuỗi nữa là đến nơi rồi cháu ơi !" Nội tính chiều dài quãng đường bằng thời gian lần chuỗi, nội tôi không biết độ xa bằng cây số là gì đâu, tất cả thời gian cứ quy ra bằng thời gian lần chuỗi cho gọn !

Dường như, cuộc đời của nội tôi chỉ có con cháu là niềm hạnh phúc, nhưng niềm hạnh phúc ấy đôi khi lại gây cho nội sự đau lòng. Hai đứa em tôi chỉ sau một đêm thì liệt hết hai chân. Nội xót xa lắm, cứ cõng các em tôi đi khắp nơi chữa trị. Một bà cụ chưa bao giờ ra khỏi lũy tre làng, nay ôm cháu đi khắp nơi, lên tận núi Bà ở Tây Ninh, khi thì vào tận cù lao Thủ Đức, hay giữa Sàigòn tráng lệ.

Nội dành cho hai em một sự chăm sóc rất đặc biệt, tất bật từ sáng sớm đến tối mịt, cả đêm hôm cũng chẳng mấy khi an giấc vì chúng tôi đứa nào cũng muốn ngủ chung giường với nội. Nguồn an ủi duy nhất nội có là những giây phút đọc kinh với Chuỗi Mai Khôi, Khi thì đọc một mình, khi lại đọc với con cháu. Tôi tin rằng nhờ vậy mà nội tôi luôn giữ được nụ cười hiền hậu với tất cả mọi người. Sức mạnh nội tâm của nội là do sức mạnh của chuỗi Mai Khôi mà có.

Mấy năm cuối đời, nội tôi bị phù cả cơ thể, không còn làm việc được nữa, nhưng cỗ tràng hạt vẫn trên tay. Hơi thở đã yếu lắm, phải dừng mấy lần lấy hơi mới có thể đọc hết câu kinh, có khi mệt, lại thấy lẩm nhẩm đọc trong miệng, không đọc thành tiếng được nữa. Những ngày cuối cùng, chắc nội biết thời gian đã hết, cố gắng đọc kinh nhiều hơn, nội hay nhờ bố mẹ tôi đọc sách cho nội nghe. Nội bảo với mẹ tôi rằng, đêm đến, cứ có cái gì lục sục trong gối làm cho nội không đọc kinh cũng không ngủ được. Mẹ tôi lấy nước phép rẩy, nội mới thấy yên lòng.

Trước lúc mất, nội tôi trăn trối, nội muốn mang theo cỗ tràng hạt, hãy đeo vào cổ cho nội, và bảo nội thương mẹ tôi vất vả ở lại một mình nuôi con. Mẹ chồng nàng dâu lại ôm nhau khóc…

Nội tôi đã đi xa, mấy mươi năm rồi, giờ nghiệm lại cuộc đời của nội, tài sản quý giá duy nhất với nội là tràng Chuỗi Mai Khôi, nhưng chỉ nhờ vào sức mạnh của tràng Chuỗi Mai Khôi mà nội tôi, một người không chữ nghĩa, nghèo nàn, rất đỗi bình thường, đã trở nên một hình tượng thiết tha yêu dấu trong lòng con cháu và mọi người quen biết…

Nhớ về nội,

Đa Minh PHAN VĂN DŨNG, 2013

-----------------------------------

 

TN 27-C73: TAKASHI NAGAI

 

Trong kỳ nghỉ mùa xuân, khi tôi bước vào năm thứ hai đại học, mẹ tôi bị trúng phong. Khi tôi đến: TN 27-C73


“Trong kỳ nghỉ mùa xuân, khi tôi bước vào năm thứ hai đại học, mẹ tôi bị trúng phong. Khi tôi đến bên cạnh mẹ tôi, người vẫn còn thoi thóp và nhìn sững vào tôi. Cái nhìn ấy đã hoàn toàn thay đổi tư tưởng của tôi, cái nhìn câm lặng của một người đã sinh ra tôi, cho tôi bú mớm và thương tôi cho đến cùng. Trong giây phút ly biệt, cái nhìn ấy nói với tôi một cách không lầm lẫn rằng sau khi chết, linh hồn của người vẫn còn mãi mãi bên cạnh đứa con yêu dấu của người. Là một người không hề tin ở sự hiện hữu của linh hồn, nhưng khi nhìn vào ánh mắt ấy, tôi như trực giác được rằng linh hồn của mẹ tôi thực sự hiện hữu, và cho dù có cách xa tôi bằng thân xác linh hồn ấy vẫn không bao giờ chết”.

Đó là tâm sự của một nhân vật nổi tiếng của Nhật Bản hồi Đệ Nhị Thế Chiến ( 1939 – 1945 ), tên là Takashi Nagai ( 1908 – 1951 ), một bác sĩ mà niềm tin Kitô giáo được thể hiện bằng cả một cuộc đời dấn thân phục vụ tha nhân. Xin gửi đến bạn vài nét về cuộc đời của vĩ nhân này như một chia sẻ về Tin Mừng Đức Kitô, một Tin Mừng đã được đón nhận và sống cho đến cùng, nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mai Khôi.

Takashi Nagai sinh năm 1908 tại Izumo, một vùng đất linh thánh của xứ Phù Tang. Không hề nghe nói đến Kitô Giáo và cũng không bao giờ sống tinh thần đạo như nhiều người Nhật Bản, Takashi lớn lên trong bầu khí hoàn toàn vô tín và chỉ có một bận tâm là học để cũng trở thành một bác sĩ như cha của mình.

Đối với người sinh viên Y Khoa này, con người chỉ là một hợp chất không hơn không kém, một thân xác để mổ xẻ và học hỏi. Con người có linh hồn bất tử hay không, con người sống để làm gì, con người sẽ đi về đâu sau khi chết, Takashi không bao giờ đặt vấn đề. Chết là hết, thế thôi !

Nhưng từ sau cái chết của người mẹ thân yêu, Takashi đã hoàn toàn thay đổi cái nhìn về con người. Anh chợt ý thức con người không chỉ là vật chất, mà còn có một linh hồn bất diệt. Chính lúc đó anh bắt đầu ngấu nghiến một cách say mê tác phẩm nổi tiếng: “Những tư tưởng” của triết gia Pascal. Sự kiện một nhà bác học chân chính, như Pascal đã có thể có niềm tin sâu sắc khiến Takashi Nagai phải suy nghĩ. Cuối cùng đôi mắt của chàng sinh viên Y Khoa đã mở lớn. Chàng không chỉ biết cúi nhìn vào thân xác của con người trên bàn mổ, nhưng còn biết nhìn lên trời cao để tưởng nghĩ đến linh hồn bất diệt, đến Thiên Chúa, đến cuộc sống vĩnh cửu.

Bước vào năm thứ 3 đại học, Takashi lại được may mắn trọ học trong một gia đình Công Giáo. Từ bên phòng trọ, mỗi ngày đến giờ cơm trưa khi chuông Giáo Đường đổ hồi vào giờ Ngọ, Takashi nghe tiếng đọc kinh Truyền Tin của cả gia đình. Niềm tin anh đã đọc thấy nơi nhà bác học Pascal, nay được anh nhìn tận mắt, nghe tận tai trong gia đình Công Giáo này.

Năm 1932, tức năm anh 24 tuổi, Nagai bị sưng màng óc một cách trầm trọng. Anh phải nằm liệt giường một thời gian khá lâu. Trong thời gian này, bà chủ nhà đã chăm sóc anh một cách tận tình. Như một người mẹ hiền, lúc nào bà cũng có mặt bên cạnh giường của anh. Nhưng điều đánh động anh nhất có lẽ là hình ảnh một người đàn bà hiện diện bên cạnh anh với tràng chuỗi Mai Khôi trên tay. Và phải chăng chính những lời cầu nguyện của người đàn bà này đã mang lại phép lạ cho anh ? 

Thật thế, Takashi Nagai đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng, nhưng mắt phải của anh hoàn toàn yếu kém, chính vì thế anh đành phải bỏ môn Nội Khoa để chuyển qua ngành Quang Tuyến. Một năm sau, anh ra trường và được đưa lên phục vụ tại Mãn Châu. Ngoài những thư từ và quà cáp mà gia đình người chủ trọ Công Giáo thường gửi lên cho anh, Takashi còn nhận được của Midori người con gái của họ một quyển sách Giáo Lý Công Giáo. Sau khi xong thời kỳ phục vụ tại Mãn Châu, anh trở về Nagasaki xin chịu phép rửa tội với tên Thánh là Phaolô và sau đó hai tháng anh thành hôn với Midori.

Cũng kể từ đó, Phaolô Nagai đã dốc tâm dành quãng đời còn lại để phục vụ đồng loại. Ngoài những hoạt động chuyên môn trong nghề, bác sĩ Nagai còn dành nhiều thời giờ phục vụ bệnh nhân nghèo. Trong một bài phát biểu về chức vụ của một bác sĩ, ông nói: “Nhiệm vụ của bác sĩ là cùng đau khổ, cùng vui mừng với các bệnh nhân của mình, bác sĩ phải tim cách xoa dịu nỗi đau của bệnh nhân như của chính mình. Cần phải đau khổ với họ. Thật ra không phải bác sĩ chữa bệnh, mà là thánh ý Chúa. Hiểu được như thế thì việc chẩn bệnh của bác sĩ sẽ biến thành lời cầu nguyện”. Với một niềm tin như thế, bác sĩ Nagai đã dồn tât cả khả năng, sức lực và thời giờ vào việc chẩn đoán và chữa trị các bệnh nhân dù ngoài mặt trận hay ở thành thị.

Nhưng sinh nghề tử nghiệp. năm 1945, sau một thời gian phục vụ trong quân đội tại Trung Quốc, do ảnh hưởng của quang tuyến X, bác sĩ Nagai đã khám phá ra mình bị ung thư máu. Vừa phát giác ra sự thật đau thương ấy ông đã thốt lên: “Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng. Xin hãy dùng con theo ý Chúa”.

Cũng năm 1945, lúc 11 giờ 2 phút ngày 9 tháng 8, quả bom nguyên tử đầu tiên đã được ném xuống Nagasaki. Đại Học Y Khoa nơi ông làm việc, tuy cách nơi ném bom gần một cây số cũng không tránh khỏi sự tàn phá khủng khiếp. Nơi làm việc của ông bị hư hại hoàn toàn. Công trình nghiên cứu của ông trong 13 năm qua hoàn toàn bị thiêu hủy. Riêng cá nhân ông, kể từ giây phút kinh hoàng ấy, máu từ trong tai ông cứ tuôn tràn ra ngoài. Ông hớt hải chạy về nhà. Ngôi Thánh Đường bên cạnh nhà ông đã hoàn toàn bị thiêu hủy, nhà của ông cũng chỉ còn là một đống tro tàn. Ông cố tìm người vợ thân yêu nhưng giờ đây bà chỉ còn là một nắm xương, kỷ vật duy nhất còn sót lại của bà là tràng chuỗi Mai Khôi.

Suốt đêm đó, bác sĩ Nagai đã cầu nguyện cho vợ ông và 30.000 nạn nhân khác của thành phố Nagasaki. Vết thương nơi tai phải của ông vẫn tiếp tục rỉ máu, ông chuẩn bị tâm hồn để đi theo vợ ông. Thế nhưng như một phép lạ, ngày hôm sau ông thấy trong người khỏe lại. Ông bắt đầu dọn dẹp nhà cửa và quyết tâm ở lại để cùng với những người sống sót xây dựng lại Nagasaki. Không còn dạy học nữa, nên cuối cùng cuộc sống của ông chật vật hơn.

Mùa xuân năm 1947, Nagai làm một quyết định phi thường. Ông tự nhủ: “Đầu còn suy nghĩ, mắt còn nhìn thấy, tai còn nghe và những ngón tay còn cử động, ta còn có thể viết lách”. Thế là ông bắt tay vào việc sáng tác. Trong tác phẩm đầu tiên của ông mang tựa đề: “Các con thân yêu của ta”, ông đã mở đầu như sau: “Hỡi các con thân yêu, hãy thương yêu tha nhân như chính mình. Đấy là những lời ta để lại cho các con”. Viết cho hai đứa con thân yêu của mình, nhưng bác sĩ Nagai cũng muốn nhắn gửi với toàn nhân loại sứ điệp tin yêu mà ông đã sống bằng cả cuộc đời của mình.

Viết về những nạn nhân của bom nguyên tử, viết về niềm tin vủa mình, chỉ trong vòng hai năm, bác sĩ Nagai đã cho chào đời trên 10 tác phẩm. Tất cả đều chứa đựng sứ điệp của tin yêu mà ông muốn nhắn gửi cho mọi người.

Ngày 30.4.1951 sau khi đã hoàn tất tác phẩm cuối cùng, cánh tay dùng để viết hầu như không còn đưa lên được nữa, bác sĩ Nagai đã được đưa vào bệnh viện. Trong những giây phút cuối đời, miệng ông không ngừng thốt lên: “Giêsu, Maria, Giuse”… Khi vừa đón nhận Thánh Giá do người nữ y tá mang đến, ông kêu lên: “Lạy Chúa, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Chúa.” Và ông ra đi một cách êm ái, năm đó bác sĩ Nagai vừa tròn 43 tuổi.

KIM THÔNG, trích từ KINH NGHIỆM GĂP GỠ THIÊN CHÚA,
tài liệu Giáo Lý cho người trưởng thành của CHU VĂN


-----------------------------------

 

TN 27-C74:  Nếu chúng con có đức tin…


(Suy niệm của Lm Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

 

Sống trên đời ai mà chả muốn có địa vị, có danh vọng, có chỗ đứng trong xã hội. Các môn đệ TN 27-C74


Sống trên đời ai mà chả muốn có địa vị, có danh vọng, có chỗ đứng trong xã hội. Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế: họ sống bên cạnh Chúa Giêsu, gần gũi Ngài, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với Ngài, nhưng thực tế, họ ganh tị nhau, tranh dành nhau xem ai làm lớn làm bé trong Vương Quốc Thiên Chúa. Dù rằng họ bị Chúa mắng nhiếc, nhưng họ vẫn muốn chung thủy với Chúa, nên hôm nay họ đến gặp Chúa và xin Chúa:” Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con “. Nói như thế có nghĩa họ muốn xin Chúa củng cố lòng tin cho họ để họ trung thành với Chúa, để họ được Chúa ban cho những ơn cần thiết cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng lời nói, bằng hành động, bằng những phép lạ kèm theo…Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu làm họ rất ngạc nhiên, bỡ ngỡ…Ngài trả lời: ”Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải thì dầu các con khiến cây dâu này ra trồng dưới biển, nó sẽ vâng nghe các con “. Thánh Matthêu viết: ”Nếu chúng con có lòng tin bằng hạt cải thì chúng con khiến hòn núi dời đi nó cũng nghe theo “ ( Mt 21,21 ).

Khi Chúa trả lời với các môn đệ như vậy, Chúa không có ý né tránh vấn đề, nhưng Chúa muốn cho các Ông chú ý và quan tâm đến đức tin vì đức tin là điều tối quan trọng cho mọi người. Vâng, đức tin không thể cân đếm đong lường được nhưng đức tin quan trọng ở hiệu năng của nó. Một hạt cải tuy nhỏ bé nhưng khi được gieo xuống đất tốt, hạt sẽ nẩy mầm và mọc lên tươi tốt đến nỗi chim trời có thể đến đậu. Hạt cải bé nhỏ thật đấy, nhưng nếu chúng ta có đức tin bé nhỏ bằng hạt cải, chúng ta có thể khiến núi, khiến đồi dời đi nơi khác. Đó là hiệu năng tuyệt vời của đức tin. Đạo Công Giáo là đạo mạc khải nhưng cũng là đạo đức tin, đạo tình thương. Quả thực nếu không có đức tin chúng ta sẽ không nhận ra đâu là đường lối, đâu là giáo lý, đâu là những phép lạ Chúa đã làm. Chúa Giêsu đã từng khen ngợi những người có đức tin trong Tin Mừng như Viên Bách Quản, như một bà bị loạn huyết, như người bị bất toại… Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta nhận ra các thánh là những người có đức tin bằng hạt cải, tuy hạt cải đức tin nhỏ bé nhưng các thánh đã làm được những việc thật kỳ diệu khiến mọi người đều ca ngợi. Chẳng hạn các thánh tu rừng, các thánh hiển tu, các thánh tử đạo là những anh hùng đã say mê vác trhập giá và làm chứng cho Chúa Giêsu. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu chỉ là một nữ tu nhỏ bé, một hạt cát nhỏ nhưng chị thánh đã làm được điều kỳ diệu mà bao người đã không làm được.Thánh nữ đã nói: ”Ơn gọi của tôi là tình yêu“. Thánh Maximilianô Maria Kolbê đã chết thay cho một tử tù. Ngài đã làm một việc kỳ diệu mà chỉ có đức tin sâu xa mới có thể làm được.Những kẻ bé mọn lại là những kẻ đã làm được việc lớn, những kẻ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. Tội của người Biệt phái, Pharisêu, Ký lục, Kinh sư là tội muốn tiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Họ không biết nhận ra sự giới hạn của mình. Thực tế, con người chỉ là đầy tớ vô dụng.

Bertrand Révillion viết: ”Đức tin là một công việc… Chúng ta phải làm lớn lên và mang đến cho thế giới niềm hy vọng mà Thiên Chúa đã đặt trong chúng ta vào ngày chúng ta chịu Phép Rửa. Thánh Phaolô đã viết điều này cho ông Timôthê: ”Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng mà anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh“ (2 Tm 1, 6 ). Bước theo sau Chúa Giêsu, đó là từ từ bước ra khỏi bóng đêm kém đức tin của chúng ta, đi về bình minh của sự Phục Sinh, mỗi ngày đi vào hơn nữa trong ý thức mình là con cái được “Đấng Tối Cao yêu mến“.

Hôm nay, Giáo Hội cũng mừng kính Mẹ Mân Côi…Mừng kính Mẹ Mân Côi mỗi người chúng ta hãy nghe lời Mẹ khuyên nhủ và thực hành điều Mẹ truyền dạy: ”Hãy ăn năn sám hối, cải tà qui chánh và hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi“. Tràng chuỗi Mân Côi là mối dây liên kết chúng ta với Mẹ, là chuỗi bền đỗ của mỗi người chúng ta. Mẹ đã nhiều lần hiện ra trên thế giới và khuyên nhủ mọi người: “Ăn năn đền tội và siêng lần hạt“.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Mân Côi, xin Mẹ đưa chúng con tới Chúa để chúng con muôn đời chiêm ngưỡng Chúa và cùng Mẹ ca ngợi lòng thương xót Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin gieo vào tâm hồn chúng con hạt giống đức tin để chúng con sinh hoa kết quả tươi tốt. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Hạt cải có ý nghĩa gì?
2.Tại sao Chúa nói: ”Ngài đến phục vụ, chứ không phải để được phục vụ“
3.Tội của người Pharisêu là tội gì?
4.Đức tin cần gì cho chúng ta?

-----------------------------------

 

TN 27-C75: Xin thêm lòng tin cho chúng con


(Suy niệm của Phaolô Phạm Chung Kiên)

 

Bài Phúc Âm nhấn mạnh về hiệu quả của đức tin; đức tin phó thác chân thành, đức tin cậy dựa TN 27-C75


Bài Phúc Âm nhấn mạnh về hiệu quả của đức tin; đức tin phó thác chân thành, đức tin cậy dựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, đức tin đó dù nhỏ bé đến mấy cũng sẽ làm được những chuyện lớn lao và còn thay đổi cả tâm hồn con người. Đồng thời, bài Phúc Am cũng nhấn mạnh ở thái độ tự khiêm cần có của mỗi người trước mặt Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giữa thế giới vật chất đang được đề cao, giữa thời buổi mà nhiều học thuyết trái ngược với Ki-tô giáo xuất hiện, giữa một thế giới còn nhiều chiến tranh, giữa những bất công, đau khổ đè trên vai những người vô tội … đức tin của chúng con dễ bị lung lay. Trong cuộc sống, có những lúc chúng con gặp những biến cố đau thương, những khó khăn, thất bại… Những điều không may liên tiếp xảy đến khiến chúng con đau khổ, tâm hồn chúng con tan nát. Vào những lúc như vậy, chúng con rất dễ rơi vào tâm trạng khủng hoảng, thất vọng, buông xuôi và đánh mất đức tin. Vì vậy, chúng con cần có đức tin vững mạnh để vượt qua thử thách.

Tâm trạng khủng hoảng, lo sợ, thất vọng luôn rình chờ chúng con, khi chúng con không hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Chính các môn đệ của Chúa Giêsu khi xưa đã trải qua kinh nghiệm này. Khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển các ông sợ hãi. Còn ông phêrô thì hoài nghi: “Thưa Ngài nếu có phải Ngài thì xin truyền cho con đi trên mặt biển mà đến với Ngài.” Và khi thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài xin cứu con với”.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao lần chúng con gặp những khó khăn, đau khổ trong cuộc sống. Chúng con chạy đến với Chúa nhưng chưa hết lòng tin tưởng để trao những mảnh vỡ cuộc đời, những thất bại, va vấp của chúng con cho Chúa, để Người sửa chữa lại.

Nhờ có lòng tin mà thánh Phêrô đã vượt qua những thử thách và chính thánh nhân đã nói: “Chúa cứu chữa những ai có lòng tin thoát khỏi cơn thử thách” (x.2 Pr 2,9). Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn đàn ông ăn no nê, không kể đàn bà trẻ con. Đối với những ai tin tưởng vào Chúa, chấp nhận những vất vả, khổ cực, nghịch cảnh thì Thiên Chúa luôn nuôi dưỡng, an bài vì Người hằng thương yêu săn sóc những ai đói nghèo, đau khổ. Những khó khăn, thất bại, chán nản sẽ trể nên nhẹ nhàng khi chúng con biết tin tưởng vào Chúa. Vì chính Chúa đã nói: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28). Và chính tiên tri Isaia cũng đã cảm nghiệm được điều đó: “Ai tin cậy Chúa sẽ được tăng thêm sức. Họ sẽ bay cao với đôi cánh phượng hoàng. Họ sẽ chạy không kiệt sức, sẽ đi không biết mỏi. (Is 40,31)

Chính niềm tin dù nhỏ bé như hạt cải cũng có sức biến đổi. Niềm tin nhỏ bé đó ví như những cái đinh nối kết sự giao hảo giữa con người với Thiên Chúa trong hiện tại và thành quả tương lai. Người có niềm tin luôn nhìn về phía trước trong hy vọng và chu toàn hết bổn phận hiện tại trong từng giây phút của cuộc sống. Không phải để thu lượm những thành quả hay lợi lộc vật chất chóng qua nhưng để thi hành ý Chúa.

Thái độ tự khiêm tạo nên lòng tin tưởng. Vì chỉ khi chúng con nhận ra mình yếu đuối thì chúng con cần đến lòng thương xót của Chúa, chúng con mới đặt tin tưởng vào Chúa. Vì người là cha đầy lòng thương xót, người có trái tim nhân từ. Người sẽ ban ơn cho những ai hết lòng cầu xin: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho những của tốt lành cho những kẻ xin người.” (Mt 7, 11b)

Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con. Xin cho con luôn biết chạy đến với Chúa cả những lúc thành công cũng như những lúc thất bại, chán nản, khủng hoảng trong cuộc sống bằng một niềm tin vững mạnh và tâm tình phó thác tuyệt đối vào Chúa.

Xin Chúa giúp chúng con nhận ra sự quan trọng của những điều bình dị và những điều lớn lao trong những việc thường ngày và trong những mối tương quan của chúng con với người khác. Vì thật ra, không có gì là nhỏ bé và tầm thường trước thánh nhan Chúa nếu tất cả được thực hiện bằng một tình yêu lớn lao và một niềm tin mạnh mẽ. Amen

-----------------------------------

 

TN 27-C76: Đầy tớ vô dụng


– Lm. G. Phạm Văn Phượng

 

Bài Tin Mừng có hai phần và cũng là hai vấn đề Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp khác nhau TN 27-C76


Bài Tin Mừng có hai phần và cũng là hai vấn đề Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp khác nhau: phần đầu Chúa nói trực tiếp cho các môn đệ về khả năng của lòng tin: với lòng tin, con người có thể làm được những việc có vẻ như không thể thực hiện nổi. Phần sau Chúa nói chung cho mọi người về thái độ phục vụ vô kỷ, vô công đối với Chúa.

Trước hết, chúng ta thấy các tông đồ xin Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Đây là một ước nguyện hợp lý, cần thiết cho đời sống đạo đức cá nhân cũng như cho hoạt động tông đồ. Các tông đồ nói riêng và mọi Ki-tô hữu mọi thời nói chung đều cần có lòng tin. Các tông đồ xin như vậy, nhưng Chúa Giêsu lại trả lời một câu có vẻ lạc đề: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Chúng ta phải hiểu thế nào về câu trả lời bất ngờ này? Có hai hướng giải thích:

Cách thứ nhất, có thể các tông đồ đã đánh giá lòng tin theo số lượng. Các ông nghĩ rằng: cần phải có nhiều lòng tin, theo kiểu đó là đơn vị đếm được, nên Chúa Giêsu đã điều chỉnh cách nhìn theo lượng bằng câu trả lời nhấn mạnh vào phẩm: nếu là lòng tin đích thực thì không còn là chuyện nhiều hay ít nữa, vì với một lòng tin đích thực thì giả như lòng tin ấy chỉ bằng hạt cải thôi cũng đủ cho người ta khả năng trên các sự vật, và có thể làm được những việc có vẻ như không thể nào thực hiện được.

Cách thứ hai, hoặc là Chúa Giêsu xác nhận điều các tông đồ xin là đúng. Các ông có lý khi ao ước đạt tới một lòng tin đích thực, trọn vẹn và trưởng thành. Xác nhận, nhưng Chúa không khẳng định trực tiếp mà khẳng định gián tiếp, qua việc nói lên hiệu nghiệm của lòng tin, nghĩa là chúng ta có thể hiểu ngầm Chúa đã trả lời thế này: anh em xin vậy là hợp lý lắm, với một lòng tin đích thực thì giả như nó chỉ bằng hạt cải thôi, anh em sẽ có được một khả năng phi thường.

Dù hiểu theo cách giải thích nào thì ý chính vẫn là diễn tả hiệu lực của lòng tin. Lối so sánh giữa một bên là số lượng rất nhỏ: hạt cải, hạt nhỏ nhất, và một bên là một việc làm rất khó, phi thường: dời chỗ một cây dâu, loại cổ thụ, từ trên đất cho mọc xuống lòng biển. Lối so sánh này cốt ý để làm nổi bật ý tưởng then chốt chúng ta vừa nói, tức là để diễn tả hiệu lực của lòng tin.

Phần thứ hai, chúng ta thấy Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ trong xã hội phong kiến thời đó để nói về thái độ của người phục vụ. Thói thường chẳng có chủ nhà nào coi đầy tớ hơn mình, đến nỗi khi người đầy tớ đi chăn chiên hay đi làm đồng về lại giục người ấy: “Mau vào ăn cơm đi”, rồi phục vụ người đầy tớ ấy. Trái lại, người đầy tớ đi làm về vẫn là đầy tớ, vẫn phải lo hầu bàn cho chủ ăn xong rồi mới đến lượt mình. Đó là bổn phận của người đầy tớ trong xã hội phong kiến, người chủ không cần phải biết ơn người đầy tớ ấy. Chúa Giêsu nêu sự việc quen thuộc của đời sống hằng ngày ra đây không phải để phê phán, nhưng để làm thí dụ soi sáng cho thái độ của người phục vụ trong cộng đoàn Giáo hội, đó là phải có một thái độ phục vụ vô kỷ, vô công, vô danh: nếu một ông chủ trần thế, chỉ vì trong tương quan chủ - tớ của xã hội mà đã có quyền không cần phải mang ơn đầy tớ của mình, thì Thiên Chúa, người chủ tuyệt đối, lại không có quyền đó một cách tuyệt đối hay sao? Cho nên, người phục vụ trong Giáo hội, dù làm gì cũng chỉ là người làm việc phải làm, vì đã được ơn Chúa để làm việc ấy, và khi đã làm hoàn hảo mọi việc Chúa giao cho, vẫn phải khiêm tốn nhìn nhận mình chưa làm được gì cả, nghĩa là phải thực sự sống trong thái độ vô kỷ, vô công, vô danh đối với Chúa.

Hai phần trên ở hai vị trí độc lập nhau, nhưng vẫn có thể diễn tả được đầy đủ ý nghĩa và chủ đích giáo huấn của Chúa, nghĩa là mẩu đối thoại về sức mạnh của lòng tin được kèm theo ngay sau đó giáo huấn về thái độ phục vụ khiêm tốn, vô kỷ, vô công, vô danh, đã mang tính cách giáo huấn rất thực tiễn và quý giá. Cả hai phần đó có tương quan với nhau mà chúng ta có thể diễn tả như sau: anh em hãy vững tin vào Thiên Chúa để được sức mạnh phi thường. Nhưng khi đạt được những thành công, hoặc khi dấn thân phục vụ, hãy nhớ luôn luôn khiêm tốn, nhận mình yếu kém, chứ đừng vênh vang, tự đắc hoặc kể công.

Chúng ta hãy có tinh thần ấy trước Thiên Chúa. Mỗi người là một đầy tớ Chúa gửi nơi từng gia đình, từng quê hương, cánh đồng, xưởng thợ, nhà máy. Áp-ra-ham còn tự xưng mình là tro bụi, Đức Ma-ri-a là tôi tớ Thiên Chúa, Phaolô tự thú mình là nô lệ bất xứng của Chúa, Chúa Giêsu được mô tả là tôi tớ đau khổ đến để phục vụ, các Đức Giáo Hoàng thường tự xưng là “tôi tớ của các tôi tớ”… Còn chúng ta là ai mà dám vênh vang trước Thiên Chúa? Tài ba chúng ta là gì trước Thiên Chúa toàn năng?

Trong thực tế, từ bỏ được cái tôi của mình thật là khó. Chúng ta dễ kể công, dễ tự hào về những việc mình đã làm, dễ đề cao ca tụng chính mình. Hoặc nói theo kiểu bình dân: “mèo khen mèo dài đuôi”, “mẹ hát con khen hay”. Vì thế, bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta: không phải vì chúng ta có công trạng gì nên được Chúa thương yêu. Chúng ta không thể dựa vào mình, chúng ta phải cậy dựa vào Chúa, vì không có Chúa giúp đỡ, ban ơn, chúng ta không thể làm được gì. Phải cậy dựa vào Chúa và luôn cầu xin Chúa ban thêm lòng tin, luôn sẵn sàng quên mình đi, để Chúa hoàn toàn hành động nơi mình theo ý Chúa. Sau hết, chúng ta hãy khiêm tốn tạ ơn Chúa, vì Chúa đã đặt chúng ta trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, dù là hoàn cảnh nào cũng là hoàn cảnh riêng của chúng ta, chúng ta đừng phàn nàn, than van, vì đó là hoàn cảnh Chúa muốn chúng ta phục vụ Ngài, qua vai trò nhỏ bé và trong hoàn cảnh mưu sinh của chúng ta.

Để cứu rỗi và để giải phóng con người, Thiên Chúa đã không hành động từ trời cao, nhưng Ngài đã nhập thể và nhập thế để chia sẻ với con người và sống với con người hoàn toàn và chấp nhận chỗ đứng sau hết. Là môn đệ của Chúa, chúng ta không thể sống hơn Thầy. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu và chia sẻ về mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa, để mỗi người chúng ta không sống đóng kín trong vỏ sò ích kỷ của mình, nhưng biết sống cho người khác và vì người khác.

-----------------------------------

 

TN 27-C77: Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ?


(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

 

Có lẽ để chọc quê các tông đồ mà Chúa Giêsu đã có một so sánh kỳ lạ: râu ông cắm cầm bà! Khi TN 27-C77


Có lẽ để chọc quê các tông đồ mà Chúa Giêsu đã có một so sánh kỳ lạ: râu ông cắm cầm bà! Khi các tông đồ xin thêm đức tin, Chúa Giêsu đã so sánh: “nếu anh em có đức tin bằng hạt cải…” Ngài có so sánh kỳ lạ, bởi vì làm sao so sánh đức tin với hạt cải được, làm sao so sánh phẩm chất với khối lượng được. giống như làm sao ta có thể nói nếu ngươi đẹp bằng 200g thì ngươi sẽ thành tiên. Nếu ngươi có lòng tốt dài 5cm thì ngươi sẽ thành thánh. Nếu ngươi có lòng đạo đức hình tròn thì ngươi sẽ được vào Nước Chúa. Vậy khi Đức Giêsu nói: nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, Ngài có lộn phạm trù không? Có phải Ngài chọc quê các tông đồ không vì chính các ông cũng có lẽ hiểu như vậy: xin thêm đức tin ; có một ít rồi, xin thêm nữa, nên Ngài hùa theo coi đức tin là vật có thể cân đo đong đếm giống như một hạt cải, hai hạt cải…

Có lẽ Đức Giêsu không lộn phạm trù, không chọc quê các môn đệ đâu. Vậy Chúa Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải.”

1. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm

Không biết có phải Đức Giêsu tiên báo trước hay không, chứ sau này chính nhà bác học Einstein đã tìm ra công thức liên hệ giữa phẩm chất và khối lượng, giữa ánh sáng và vật chất. Công thức E = mc2 nổi tiếng của Einstein được dùng để tính toán năng lượng phát ra khi nguyên tử (vật chất) biến thành ánh sáng (phẩm chất). E = mc2 (trong đó E là năng lượng phát ra, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Vận tốc ánh sáng mà bình phương lên sẽ là 90 ngàn triệu triệu. Vì thế tuy khối lượng rất nhỏ – ta ví những hạt cải – nhưng giải phóng một năng lượng rất lớn (nhờ nhân với vận tốc ánh sáng bình phương). Ta thấy các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân, chỉ cần một khối lượng nhỏ bé, mà phát ra một sức nổ kinh khiếp, một sức nóng trên một triệu độ. Các nhà máy điện nguyên tử chỉ cần một thỏi nhỏ Plutanium mà phát ra biết bao năng lượng, biết bao điện lực thay cho bao nhiêu triệu triệu tấn dầu, bao nhiên tỉ tỉ mét khối hơi đốt. (Việt Nam cũng đang muốn ngấp nghé làm nhà máy điện nguyên tử tại Bình Thuận). Ngược lại cũng thế, để phẩm chất có thể kết thành khối lượng, cho dù rất nhỏ cũng đòi hỏi một năng lượng lớn lao. Cha ông chúng ta thường kể khi sấm sét (tia sáng) đánh xuống một nơi nào đó, tia chớp đó phải mạnh lớn lắm mới để lại trên đất một lưỡi tầm sét. Ánh sáng phải lớn lắm phải nhiều lắm mới có thể kết tinh thành một vật, một khối (tức có thể cân đo đong đếm).

Đức tin ví như ánh sáng, như phẩm chất. Để có thể kết tinh lại, cho dù là kết tinh lại chỉ bằng một hạt cải thôi, cũng phải có “nhiều” đức tin lắm mới thành được. Chẳng thế mà ít ai có được đức tin bằng hạt cải để có thể bảo cây dầu to lớn nhổ rễ mọc dưới nước, hay kiểu nói của Matthêu: chuyển núi dời non, khiến cả ngọn núi lớn to nhào lăn xuống biển.

Tuy nhiên đức tin bằng hạt cải cũng có nghĩa là đức tin nhỏ bé.

2. Đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ lắm.

Cắt nghĩa này xem ra nghịch với giải thích chúng ta vừa phân tích: đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm. Ở đây đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Ta thử tìm hiểu.

Nếu Đức Giêsu là người Việt Nam, thì Ngài sẽ nói: Nếu đức tin của anh em bằng con kiến. Khi người Việt Nam ta so sánh cái gì với vật nhỏ nhất thì ta thường đem con kiến ra. Nhỏ như con kiến. Mỗi dân tộc có lối sánh vì riêng. Việt Nam nói: câm như hến. Tây nói: câm như cá chép. Ta nói điếc như trâu, thì Tây nói: điếc như hũ (sourd comme un pot). Vậy ta nói nhỏ như kiến, thì người Do thái ví nhỏ như hạt cải.

Đức tin bằng hạt cải, tức là đức tin nhỏ bé. Nếu anh em có một chút xíu đức tin thôi, cho dù là một chút xíu, nhưng nó là có, chứ không phải là không, Nó là ranh giới giữa có và không.

Tin Mừng Marcô 9,17tt ghi: Một người cha có đứa con bị quỉ ám từ bé. Quỉ làm cho đứa bé xùi bọt mép, đổ nhào xuống đất, nhiều lần quỉ dẫn bé xuống nước để bé suýt chết chìm, dẫn vào lửa suýt chết cháy. Người cha chữa chạy nhiều nơi mà không khỏi. Cuối cùng mới dẫn tới Chúa Giêsu với lời xin: Nếu Thầy có thề, xin thương tình cứu giúp chúng tôi. Chúa Giêsu nói: Nếu có thể thôi à, mọi sự đều có thể cho kẻ nào tin. Và người cha thưa lại: Thưa Thầy, tôi tin, nhưng xin Thầy giúp tôi vì lòng tin của tôi còn yếu lắm. Và Chúa Giêsu đã chữa lành. Ngài không cần chờ đến lúc đức tin của người cha lớn mạnh lên rồi mới chữa. Miễn là tin, dù một chút xíu thôi, bằng hạt cải, bằng râu của con kiến cũng đủ.

Khi Chúa Giêsu nói: đức tin bằng hạt cải, ta giải thích là đức tin lớn lắm. Rồi ta lại giải thích đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Làm sao dung hoà? Dung hoà là: đức tin nhỏ bé như hat cải nhưng phải lớn lên không ngừng. Lúc khởi sự thì bé nhỏ như hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các thứ hạt (đức tin nhỏ bé), nhưng khi mọc lên thì trở thành cây to lớn đến nỗi chim trời có thể đến nương náu (đức tin lớn lao). Ta có thể xem lối giải thích này như một dung hoà cho hai cực mà chúng ta vừa tìm hiểu trên. Nhà giảng thuyết nổi tiếng của Mỹ H.Spurgeon đã nói: “Anh em hãy có đức tin. Đức tin nhỏ bé sẽ đưa anh em về Thiên đàng. Đức tin to lớn sẽ đưa thiên đàng đến với anh em.” Rõ ràng cả hai cùng đưa tới một mục tiêu, một cùng đích.

Tại Lộ Đức, người ta thấy bức tượng cẩm thạch tạc một người mù được phép lạ của Đức Mẹ chữa cho sáng mắt. Nhưng bức tượng này không phải do người mù được sáng mắt trở lại dâng tặng tạ ơn, mà do một bà quí phái cho tạc và dựng tại Lộ Đức, với dòng chữ đáng lưu ý: “Tìm lại được đức tin còn vĩ đại hơn là được sáng mắt.” Bà này đã mất đức tin. Tình cờ đi qua Lộ Đức thấy cảnh tượng nhiều người tin tưởng chạy đến với Đức Mẹ, nên bà tìm lại được niềm tin. Chúng ta những kẻ đến nhà thờ đây, có lẽ không phải là kẻ mất đức tin. Chắc là còn, dẫu một chút như hạt cải. Lời xin của chúng ta sẽ là bắt chước các tông đồ: xin thêm đức tin, đặc biệt trong hai tháng cuối của Năm Đức Tin này, để ta có thể tin trọn vẹn, tin mạnh mẽ những điều ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính đây.

-----------------------------------

 

TN 27-C78: Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

 

Cha Jacques Loeuw, trong một bài giảng đã nói một câu làm mọi người sửng sốt: “Có thể bạn TN 27-C78


Cha Jacques Loeuw, trong một bài giảng đã nói một câu làm mọi người sửng sốt: “Có thể bạn là một vị khổ tu, bạn cũng có thể là người “không có Chúa”. Một linh mục khác cũng nói: “Có những người công giáo vô thần và có nhiều người không giữ đạo mà lại tin Chúa”.

Điều nầy là một sự thật. Tại sao thế?

Vì nhiều người công giáo chỉ giữ một thứ đạo “ngoài da”, một thứ đạo không hồn: đọc kinh, dự lễ, xưng tội, chịu lễ, nhưng cuộc sống hoàn toàn không có Chúa. Nhìn vào cuộc sống của họ, người ta chỉ thấy tiền bạc, mua sắm, tranh giành, nói xấu…Như thế có thể nói là có đức tin không?

Tin không phải chỉ là chấp nhận một số giáo điều, làm một số việc, mà nhìn nhận sự có mặt của một người trong đời mình, đó là Chúa Giêsu, Đấng Tuyệt Đối, nắm trọn quyền trên tôi và tôi hoàn toàn thuộc về Ngài, vô điều kiện.

Tin là trao phó tất cả cuộc đời cho Thiên Chúa để Ngài dẫn dắt, và chúng ta chỉ vâng nghe. Nhưng trước hết, tin là lãnh nhận một hồng ân nhưng không Chúa trao ban. Con người có thể tìm thấy Chúa nhờ trí khôn của mình, thánh Phaolô đã nói như thế, nhưng tin vẫn là một hồng ân. Các Tông đồ đã xin Chúa thêm lòng tin, nhưng Chúa không nói đến lời yêu cầu của các ông mà bảo: “Nếu anh em có niềm tin lớn bằng hột cải thôi, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy xuống biển, nó cũng vâng lời anh em”. Thế nghĩa là sao?

Hạt cải ở xứ Do thái là một thứ hột li ti. Chúa muốn nói rằng, chúng ta chỉ cần tin thôi, nghĩa là chấp nhận để Chúa làm tất cả. Cây dâu kia vâng lời chúng ta, nhưng thực sự nó vâng lời Chúa chứ không phải chúng ta. Chính Chúa bảo nó xuống mọc dưới biển qua lòng tin của chúng ta chứ không do quyền năng của chúng ta.

Khi chúng ta trao trọn mọi sự trong tay Chúa, chính Chúa sẽ sử dụng chúng ta để làm công việc của Ngài.

Trong lịch sử Giáo Hội, các thánh đã làm những việc vĩ đại, nhưng cá nhân của các ngài chỉ là những con người như chúng ta thôi. Họ đã làm được vì họ đã tin.

Thánh Phanxicô Assisi, với hai bàn tay trắng, với một cái áo dính da, đã lập ra dòng Anh Em Hèn Mọn, và từ hơn mười thế kỷ nay, những anh em hèn mọn ấy đã mang lại biết bao nhiêu kết quả tốt đẹp cho Giáo Hội và cho các linh hồn. Ngài đã chuyển núi dời non, với hai bàn tay trắng.

Đức Mẹ đã hiểu điều đó khi Ngài nói: “Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại” chứ không phải tôi. Chúa đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Ngài”. Đức tin bằng hạt cải là như thế, là cảm thấy mình nhỏ bé trong tay quyền năng của Chúa, trao phó cho Chúa tất cả và để Chúa sử dụng theo ý Ngài.

Không có gì đơn sơ hơn, nhưng cũng không có gì khó hơn.

Nói như thế không phải là thụ động, mà đem tất cả sức lực, khả năng làm những việc Chúa muốn. Kết quả không do nỗ lực của chúng ta mà do Chúa: “Vì không có gì mà Tiên Chúa không làm được”.

Con người thường tự hào về những thành công của mình. Họ nghĩ rằng họ thông minh. Họ không biết rằng chỉ cần một gân máu nhỏ bị đứt trong não, là mọi sự tiêu tan. Thánh Phaolô nhìn nhận: “ Tôi không xứng đáng được gọi là Tông đồ vì tôi đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Nơi khác ngài nói: “Tôi trồng, Apôlô tưới và Chúa cho mọc lên”.Tất cả là do quyền năng của Chúa.

Còn tôi, tôi có tin không? Đức tin của tôi có tầm vóc của một hạt cải chưa? Vì chúng ta không tin, chúng ta không thể chuyển núi dời non như Chúa nói, chúng ta chưa làm được gì.

Chuyển núi dời non cũng còn dễ, hoán cãi một tâm hồn càng khó hơn. Chúng ta đã làm được gì? Chúng ta đừng ngạc nhiên, vì chính chúng ta cũng chưa tin Chúa đủ, chưa yêu mến Chúa.

Chúa Giêsu lại nói đến người đầy tớ. Tên đầy tớ chính là chúng ta. Chúa đặt chúng ta vào cuộc sống nầy, không phải để rong chơi, hưởng thụ, nhưng để xây dựng hạnh phúc cho chúng ta và cho anh em.

Hạnh phúc từ đâu đến? Hạnh phúc không có sẵn như một món hàng chỉ cần có tiền là mua được. Hạnh phúc là một công trình phải xây dựng từng ngày, từng lúc. Xây dựng bằng gì? Không phải bằng gạch đá hay cẩm thạch, nhưng bằng vâng phục.

Vâng phục như một đầy tớ vâng phục chủ mình. Nhiều người cho như vậy là mất phẩm giá, là lệ thuộc. Trong thực tế, cuộc sống chúng ta vẫn là một lệ thuộc liên lỉ. Chúng ta phải tuân theo luật của sự sống, phải thở, phải ăn…Đó chẳng phải là một lệ thuộc sao? Ông Frédéric Nietzsche, một triết gia vô thần đã nói: “Các anh, người công giáo, như những con lạc đà, quỳ gối xuống để người ta chất lên lưng những gánh nặng và lê lết suốt đời dưới gánh nặng đó”. Ông ấy đã sai lầm. Cuộc sống vẫn là một gánh nặng rồi.Chúng ta không thể né tránh. Hơn nữa, còn một gánh nặng khác ghê gớm hơn là gánh nặng của đam mê, của nết xấu và tội lỗi. Vâng lời Chúa, chúng ta mới có thể chiến thắng tội lỗi và những đam mê xấu xa,bẻ gãy xiềng xích của gian ác, chúng ta mới thực sự tự do.Bao lâu con người còn tội lỗi và gian ác, con người vẫn còn nô lệ.

Chúa Giêsu đã đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Chúng ta chỉ được tự do khi chúng ta đi theo Ngài, vâng theo Ngài tôi, và nếu chúng ta có làm được gì, thì cũng nhờ Ngài mà thôi. Chúng ta chỉ là “những đầy tớ vô dụng”; “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì”.

Thánh Phaolô đã kiệt lực vì Nước Trời, phục vụ Tin Mừng cho đến chết, nhưng cuối cùng ngài nhìn nhận: “Tôi có là gì là nhờ ơn Chúa mà thôi” và chúng ta cũng có thể thêm: “Vì tôi chỉ là đầy tớ vô dụng thôi”.

Càng ý thức mình nhỏ hèn Chúa mới sử dụng chúng ta để làm những việc trọng đại nơi “ những đầy tớ vô dụng” đó: “Nếu Chúa kông xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổn công”.

Vì thế, chúng ta mãi mãi là những “đầy tớ vô dụng”. Hãy làm những gì chúng ta phải làm với tất cả tình yêu và phó thác cho Chúa, Ngài sẽ biến mọi cố gắng của chúng ta thành hồng ân.

Chúa Giêsu, Đấng làm được mọi sự, sẽ đến với chúng ta qua tấm bánh Tình Yêu của Ngài. Hãy ăn lấy Ngài với tất cả yêu thương và trao trọn cho Ngài cuộc sống nhỏ hèn của chúng ta, để Ngài dùng chúng ta “chuyển núi dời non”, để hoán cải bao nhiêu tâm hồn đang còn quá xa lạ với Ngài. Chúng ta sẽ thấy cuộc đời chúng ta tươi sáng, mặc dù khó khăn vẫn còn và không thiếu. Hãy là những đầy tớ vô dụng nhưng tràn trề phó thác và tình yêu.

-----------------------------------

 

TN 27-C79: Đức tin và Phục vụ


Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

"Hãy bật rễ đi" (Lc 17, 6)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

 

Chúng ta vẫn nói rằng mình là tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Nhưng thực ra đức tin của TN 27-C79


Chúng ta vẫn nói rằng mình là tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Nhưng thực ra đức tin của chúng ta còn rất yếu, và chúng ta chưa thực sự sống đức tin của mình.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy thưa với Chúa như các tông đồ xưa "Thưa Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con".

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta giao động không muốn tin nữa khi gặp phải những khó khăn trong đời sống.

Chúng ta chưa thể hiện đức tin mình ra bằng một cách sống siêu nhiên phó thác nơi Chúa quan phòng.

Chúng ta không khiêm tốn phục vụ mọi người như một người tôi tớ.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Kb 1, 2-3; 2, 2-4)

Ngôn sứ Kha-ba-cúc than thở với Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và những người ác cứ nhởn nhơ. Đáp lại, Thiên Chúa bảo ông hãy giữ vững lòng tin và đừng nản lòng, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.

2. Đáp ca (Tv 94)

Tiếp nối tư tưởng của đoạn sách trên, Thánh vịnh 94 kêu gọi đừng khép kín cõi lòng, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Chúa để biết được ý định của Ngài trong những lúc gian truân thử thách.

3. Tin Mừng (Lc 17, 5-10)

Đoạn Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Chúa Giêsu: a/ Về sức mạnh của Đức tin; b/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.

a. Đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.

b. Phục vụ: Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.

4. Bài đọc II (2 Tm 1, 6-8. 13-14)

Thánh Phaolô kêu gọi Timôtêô đừng ngả lòng trước những khó khăn mục vụ, trái lại hãy củng cố đức tin bằng cách khơi dậy đặc sủng của Thánh Thần mà Timôtêô đã nhận được khi được đặt tay trao sứ mạng, và hãy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Đức tin - phục vụ

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.

a. Điều thứ nhất là về đức tin: Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ "Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con". Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.

Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong Nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy "Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian". Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin? Như thế đủ biết Đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin, còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa: "Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con".

Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thỉ đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường: ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngõ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi: Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh? Cô gái đáp: không. Anh chàng hỏi thêm: Tại sao? Và cô gái trả lời rất gọn: vì em yêu anh.

Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.

b. Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là: người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói "Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng". Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là "Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém". Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.

Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức giáo Hoàng xưng mình là "Đầy tớ của các đầy tớ".

Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ: trong Thánh Kinh, chữ "phục vụ" vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một Thánh lễ nối dài.

* 2. Chiếc bình trống rỗng

Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.

Một người trong bọn họ nói: "Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy". Người khác nói: "Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham". Người thứ ba nói: "Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp". Người thứ tư châm vào: "Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi".

Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi:

- Ông có nghe họ ca tụng ông không?
- Có.
- Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?

Vị Rabbi than phiền:

- Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?

*****

Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.

Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các Tông đồ: "Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: "Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17, 10). Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là "đầy tớ của các đầy tớ Chúa". Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận "mến Chúa yêu người", có ai đám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.

Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.

Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.

Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là "đầy tớ vô dụng", thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xoá mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.

***

Lạy Chúa, có một ân huệ nào chúng con đã nhận lãnh mà không phải do Chúa thương ban, có một điều thiện nào chúng con thực hiện mà chẳng do Chúa tác thành.

Xin tiếp tục đổ đầy vào tâm hồn nhỏû bé, yếu đuối và bất toàn của chúng con những điều tốt lành mà Chúa đã khởi sự cho chúng con. Amen. (Thiên Phúc)

* 3. Phục vụ trong tình yêu

Nhiều người xem Chúa như một ông chủ thuê người làm việc và con người là những người được thuê ấy. Bởi thế, sau khi làm được một việc gì, họ nghĩ rằng Chúa phải ban ơn cho họ, như một cách trả tiền công.

Suy nghĩ trên hoàn toàn sai. Và rất may là suy nghĩ đó sai, bởi vì nếu Chúa thực sự đối xử với ta như một ông chủ đối xử với người làm thì chắc chúng ta chẳng nhận được bao nhiêu từ tay Ngài, bởi vì công lao của chúng ta chẳng có là bao.

Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng tương quan của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta là tương quan ân sủng và tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Con cái làm việc theo ý Cha đâu phải để được Cha trả lương; và Cha ban gì cho con đâu phải vì trả nợ.

Vả lại Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và ban rất nhiều ơn cho chúng ta trước khi chúng ta làm được việc gì xứng đáng với tình yêu của Ngài. Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân. Vì thế tất cả những gì chúng ta làm bây giờ chỉ là để đáp lại tình yêu của Ngài.

Còn nữa, chúng ta tuân giữ những điều răn của Chúa không phải để được Ngài yêu thương, nhưng chúng ta tuân giữ các điều răn Chúa bởi vì Ngài yêu thương chúng ta.

Toàn bộ Tin Mừng của Chúa Giêsu có thể được diễn tả thế này: Chúa nhân từ kêu gọi các môn đệ hãy phục vụ Ngài vì tình yêu chứ không phải vì bổn phận. Vì vậy, chỉ đức tin thôi chưa đủ, còn phải có tình yêu nữa. Trong khi đức tin khiến cho mọi sự trở thành có thể, thì tình yêu khiến cho mọi sự trở thành dễ dàng. (FM)

4. Chuyện minh họa

a/ Đức tin lớn lao

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:

- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?

- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

b/ Tin người đáng tin

Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:

- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
- Phải đó bà.

Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:

- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
- Phải đó bà.

Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi:

- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
- Phải, thưa bà.

Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế!

c/ Phục vụ là hạnh phúc

Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: "Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi "sự" nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên". Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể: chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc". Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).

5. Mảnh suy tư

Đức tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa: vì một cuộc đời không có niềm tin cũng giống như một đêm tối không ánh sao.

Đức tin ban cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng: vì chúng ta cần hy vọng cũng như cuộc sống cần lương thực. Nhưng muốn hy vọng thì phải có đức tin, và đức tin sẽ mang đến niềm vui.

Nhưng chúng ta đừng mong rằng đức tin sẽ soi tỏ hết mọi vấn đề, bởi vì đức tin là trông cậy chứ không phải là sự hiển nhiên chắc chắn.

Đức tin không phải là một sự vật mà là một mối tương quan, tương quan với Chúa.

Người ta không nhận được đức tin trọn vẹn trong ngày rửa tội, nhưng phải nuôi lớn đức tin hằng ngày.

Đức tin lớn dần lên qua việc tập sống đức tin.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, đức tin là món quà vô giá Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Tình yêu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của toàn thể dân thánh Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần săn sóc giữ gìn người / để nhờ người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son.

2. Tin là gắn bó với Chúa / là dấn thân theo Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / nhất là các Kitô hữu trẻ / dám xả thân vì Chúa và vì anh em / hầu mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao người chưa nhận biết Chúa.

3. Ngày nay / một số thanh niên đánh mất niềm tin của mình vì vốn liếng giáo lý còn quá ít / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dụng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng trưởng thành và vững chắc hơn.

4. Tin còn là vâng theo thánh ý Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết noi gương Đức Mẹ / vâng theo thánh ý Chúa trong đời sống đức tin thường ngày.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải luôn tin tưởng vào Chúa giữa muôn vàn thử thách của cuộc đời, nhưng do bản tính yếu đuối, chúng con dễ buồn chán và thất vọng khi gặp khó khăn. Vậy xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con. Chúng con cầu xin:

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta không phải là đầy tớ của Chúa, mà là con của Ngài. Vậy chúng ta hãy hân hoan trìu mến cùng dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Trong Thánh lễ hôm nay, Chúa đã nhắc chúng ta rằng Ngài là Cha của chúng ta và tha nhân là anh em của chúng ta. Vậy trong tuần này chúng ta hãy sống với Thiên Chúa trong tin yêu như con cái đối với Cha, và hãy phục vụ tha nhân như anh em phục vụ nhau.

-----------------------------------

 

TN 27-C80: Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con


- Dã Quỳ

 

Đức Tin là ân huệ, là món quà quí giá Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Bí tích Rửa Tội. Món TN 27-C80


Đức Tin là ân huệ, là món quà quí giá Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Bí tích Rửa Tội. Món quà Đức Tin ấy đã được mở ra và cần được làm cho lớn lên từng ngày, như lời thánh Phaolô khuyên Timôthê "Hãy làm sống lại Ơn Huệ nhưng không Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha."(2Tm 1,6) Vậy phải làm thế nào? Ngay từ khi theo Chúa, các môn đệ đã được nghe nhiều lời Chúa nhắn nhủ về những gian nan, thử thách mà tất cả những ai theo Chúa sẽ gặp. Và để có thể sống được những giới răn, những giáo lý của Chúa và theo Chúa đến cùng, chắc chắn các môn đệ cũng như tất cả chúng ta rất cần một đức tin vững mạnh.

Ý thức được những khó khăn trong cuộc sống và sứ mệnh, các môn đệ đã dâng lên Chúa lời cầu xin thật đẹp: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." Cuộc đời của mỗi Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng là phải quay về cầu nguyện, xin Chúa ban thêm lòng tin, ân sủng để chúng ta có thể thực hiện được những đòi hỏi của Lời Chúa. Chúa biết rõ thân phận mỏng dòn, giới hạn của ta. Chúng ta như những kẻ nghèo nàn trước Chúa! Chân thành cầu xin Chúa ban cho ta thêm đức tin lớn bằng hạt cải và trợ giúp ta trong những lúc yếu lòng "Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa giúp lòng tin yếu kém của con."(x. Mc 9,24)

Trong đời sống thiêng liêng, đôi khi đức tin của ta sẽ bị thử thách. Ta cầu xin mà dường như chưa thấu đến tai Chúa, như lời phàn nàn của Ngôn sứ Khabacuc "Cho đến bao giờ, lạy Chúa, con kêu cầu mà Chúa chẳng đoái nghe?"(Kb 1,2) Những lúc ấy, chẳng phải là Chúa không nghe, nhưng là lúc Chúa dùng để tăng thêm lòng tin cho ta. Vì "Người công chính sẽ sống nhờ lòng trung tín của mình."(Kb 2,4) Hãy kiên trì cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, tham dự các Bí tích, nhất là lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể-là Mầu Nhiệm Đức Tin, chúng ta sẽ được tăng thêm sức mạnh và đức tin của ta sẽ được nuôi dưỡng để lớn lên. Chính khi ta bền lòng, vững chí thể hiện lòng tin tưởng vào Chúa, gắn bó với Chúa, đức tin của chúng ta mới tăng trưởng và sinh hoa trái. Nếu không, chúng ta sẽ chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực, không sống đức tin và cũng không thể theo Chúa đến cùng.

Thật vậy, sống đức tin, đó là sống chứng nhân. Sống đức tin, đó là ta mạo hiểm, không sợ hãi trước những kỳ thị, những chế nhạo, chống đối,... nhất là trong đất nước của chúng ta, con số người Công Giáo chỉ có hơn 7% dân số. Sứ mệnh của chúng ta là đem Chúa vào cuộc đời, vào môi trường mình sống, mang ngọn lửa đức tin chiếu sáng thế gian. Chắc chắn Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, sức mạnh, lòng nhiệt thành và những tư tưởng để ta có thể nói về Chúa cho mọi người. Vậy chúng ta hãy cầu xin với Chúa những ơn huệ ấy, và với Chúa Thánh Thần hướng dẫn, giúp sức, ta có thể can đảm dấn thân trong mọi hoàn cảnh.

Đức tin của người Kitô hữu qua mọi thời, từ thuở Giáo Hội sơ khai đến nay, và trong nhiều quốc gia, vẫn mãi phải chịu thử thách, bách hại nhiều cách. Những anh em Kitô hữu tại các nước vùng Trung Đông, Bắc Triều Tiên,Trung Quốc, Ấn Độ...và ngay tại Quê hương Việt Nam, đã và đang sống tử đạo hằng ngày và kéo dài. Anh chị em của chúng ta đang bị bắt bớ, áp bức, tra tấn, ngược đãi khủng khiếp, bị giết chết khi mang danh Kitô hữu và sống đạo! Thế nhưng, đức tin và lòng can trường của anh em chúng ta vẫn vững mạnh, vẫn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô cho dù cái chết gần kề. Anh chị em đã "Không hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, nhưng đã đồng lao cộng khổ để loan báo Tin Mừng."(x. 2Tm 1,8)

Nhìn vào những tấm gương sống đức tin cách sống động và trung tín của biết bao anh chị em tại quê hương hay trên khắp thế giới, chúng ta tạ ơn Chúa và tiếp tục kiên trì cầu nguyện, xin Chúa ban cho ta lòng tin kiên vững. Chúng ta quyết chọn Chúa là Chúa và là Chủ của đời mình, để rồi trong địa vị là con, là tôi tớ, chúng ta hân hoan phụng sự Chúa. Tất cả những gì chúng ta phục vụ Chúa, đó là trách nhiệm, là bổn phận và hơn nữa là vì tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa. Vì sự sống, khả năng, tài trí, sức khỏe, điều kiện...ta có là do chính Chúa ban. Vậy ta hãy khiêm tốn như một đầy tớ nhỏ chỉ mong làm vui lòng Chủ.

Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ nhìn nhận mình như những "đầy tớ vô dụng". Người cũng mong mỗi Kitô hữu chúng ta biết cởi bỏ và để "Cái Tôi" của mình sang bên cạnh. Đừng tìm kiếm sự công nhận hay chờ đợi sự biết ơn, chúc mừng và khen ngợi của người khác, nhất là khi chúng ta làm những công việc phục vụ Chúa và tha nhân. Chúng ta là tôi tớ thì luôn phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa. Tất cả thuộc về Người và chúng ta cần thi hành sứ mạng một cách tốt nhất có thể, trong đức tin và trong niềm xác tín rằng Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta vô biên, và những gì chúng ta làm cho Chúa sẽ mang chiều kích vĩnh cửu.

Trong Nước Trời, chính Chúa sẽ là Chủ nhà phục vụ: "Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ."(Lc 12,37) Vậy chúng ta hãy sống như những đầy tớ trung tín, tỉnh thức và khiêm nhường. Vì trước Chúa, ta chỉ có đôi bàn tay trắng, ta không có quyền đòi cho mình có giá trị. Thế nên, đừng làm vinh danh mình về những công trình này, cơ sở nọ hay Nhà thờ kia trước mặt Thiên Chúa, cũng đừng tự cao tự đại, khoe khoang về những tổ chức lễ lạc hay công việc bác ái... Vì những gì ta làm được không phải tự sức riêng hay vật chất ta có, mà là do công sức và của cải tinh thần, vật chất của bao tấm lòng quảng đại góp lại, và ta đã chỉ làm theo lệnh của Chúa. Uớc gì mỗi Kitô hữu hãy biết nhiệt thành sống đức tin trong phục vụ và khiêm tốn thân thưa với Chúa: "Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi." Chúng ta không bao giờ thực hiện đủ và cũng không thể hoàn tất việc phục vụ Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết dấn thân làm chứng cho Chúa và sống đức tin cách can trường trong mọi hoàn cảnh. Xin dạy chúng con biết phục vụ Chúa và tha nhân cách vô vị lợi mà không mong chờ phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng chúng con đang thi hành Ý Chúa. Amen.

-----------------------------------

 

TN 27-C81: Xin ban thêm lòng tin cho chúng con


- Huệ Minh

"Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con" (Lc 17, 5).

 

Lời cầu xin đó của các tông đồ cho thấy đức tin không phải do cố gắng của con người mà đạt TN 27-C81


Lời cầu xin đó của các tông đồ cho thấy đức tin không phải do cố gắng của con người mà đạt được, nhưng nó được xuất phát từ Thiên Chúa và do tình thương của Ngài. Vì vậy, Ngài trao ban cho ai tùy ý. Hệ quả chân thực của đức tin chính là lòng kiên trì, trung thành, can đảm và phó thác nơi Thiên Chúa (x. Mt 6, 25 -34).

Tin Mừng của phần phụng vụ Chúa Nhật tuần này là một phần của một đoạn Phúc Âm tiêu biểu và dài của Luca (Lc 9, 51 đến 19, 28), trong đó mô tả chuyến đi lên Giêrusalem chậm chạp của Chúa Giêsu, nơi Người sẽ bị trở thành tội nhân, bị kết án và chịu chết. Một phần lớn của đoạn Tin Mừng này là để hướng dẫn cho các môn đệ. Trang Tin Mừng của chúng ta là một phần của lời hướng dẫn ấy. Chúa Giêsu chỉ dạy cho các ông cách sống trong cộng đoàn (Lc 17, 1).

Để nói về đức tin, Chúa Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: "Chỉ cần có đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển".

Chúa Giêsu trả lời: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’ nó liền vâng lời các con”. Câu nói này của Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: Có phải Chúa đang nói bóng gió rằng các thánh tông đồ không có đức tin lớn bằng hạt cải không? Sự so sánh của Chúa Giêsu thật là mạnh mẽ và bóng gió xa xôi. Hạt cải thì rất bé, nhỏ bé như sự tầm thường của các môn đệ. Nhưng với đức tin, các ông có thể trở nên mạnh mẽ, mạnh hơn núi rừng hoặc biển cả! Nếu là thời bây giờ, có lẽ Chúa Giêsu sẽ nói: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt nguyên tử, các con có thể san bằng ngọn núi này.”

Niềm tin đưa một người đi vào tương quan với Thiên Chúa; và như mọi mối tương quan bất kì, nó có khả năng làm thay đổi vị thế và quyền lực nơi người đó. Trong Cựu Ước những ai đi vào tương quan với một Đức Chúa hùng mạnh và thánh thiện vô song chắc chắn cũng được tham dự phần nào vào vinh quang thánh thiện đó. Môsê từ trên núi Sinai đi xuống với khuôn mặt sáng chói tới độ dân không dám ngước nhìn.

Sau khi Êlia được Đức Chúa đưa về trời trên cỗ xe bằng lửa, chỉ một chiếc áo choàng ông ném lại đã đủ để Êlisêu có quyền năng rẽ nước sông Gióc đan... Trong cái ngôn ngữ Cựu Ước đang rất phổ thông thời bấy giờ, hình như Đức Giêsu cũng muốn xác quyết cho các Tông Đồ rằng, nếu các ông có được một chút niềm tin như thế, các ông cũng sẽ nhận được một quyền năng nào đó mà Đức Chúa sẽ ban cho.

Chúa Giêsu đã đáp lại lời cầu xin của các tông đồ. Người không nói sẽ ban thêm lòng tin cho các ông. Người đáp trả bằng việc: khơi thêm lòng tin ấy. Người nói để các ông tin thêm nữa. Người bảo: Nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì dầu các ngươi có bảo cây dâu này: "Hãy bứng rễ này đi mà xuống mọc dưới biển", nó cũng sẽ vâng lời các ngươi.

Chúng ta ngày nay gọi lòng tin như thế là lòng tin chuyển núi dời non. Nhưng có lẽ chúng ta chú trọng đến hiệu quả công việc mà không chú ý đến chính việc làm. Chúng ta chờ có thể sai bảo được núi non. Chúng ta muốn thấy cây dâu nghe lời chúng ta mà bứng rễ nó đi mà xuống mọc dưới đáy biển. Nhưng chúng ta lại ít muốn làm việc với lòng tin. Tôi thiển nghĩ ở đây Chúa muốn nói rằng chúng ta cứ lấy lòng tin mà làm việc đi thì rồi chúng ta sẽ thấy những kết quả lạ lùng. Chúng ta muốn có kết quả này trước khi thi hành việc Chúa truyền dạy, thế nên chúng ta chưa thấy Lời Chúa là chân lý và là sức mạnh.

Vậy Chúa muốn chúng ta có lòng tin mà làm việc, làm tất cả công việc mà phận sự đòi buộc. Và vì đa số chúng ta chẳng làm gì trong xã hội, huống nữa là ở trước mặt Chúa, nên Người đã nói thêm một hình ảnh. Người đầy tớ trong nhà làm việc thế nào? Anh ta làm hết công việc cày bừa ngoài đồng, rồi lại về làm các việc trong nhà. Anh không đòi được trả công tức khắc. Lòng tín nghĩa bảo anh làm hết mọi công việc đã phân chia cho anh. Mặc nhiên anh chắc chắn chủ sẽ thi hành phận sự của chủ.

Người có đức tin cũng phải như vậy. Họ sống đúng chức năng khi làm việc hết khả năng theo như phận sự đòi buộc; và dành quyền xét xử cho Thiên Chúa. Và làm như vậy, họ sẽ thực hiện được những điều lạ lùng. Họ đã phát huy hết khả năng của họ và nhìn lại họ thấy chính nỗ lực đã đạt được những kết quả phi thường. Ðang khi ấy có nhiều người phí sức sống không nỗ lực theo khả năng của mình và cứ ngồi than thân trách phận, kêu ca người khác và dĩ nhiên phàn nàn cả Thiên Chúa nữa. Hạng người này sẽ không bao giờ thấy khả năng "chuyển núi dời non". Hạng người trên luôn thấy rõ lòng tin khiến họ làm được nhiều kỳ diệu.

Muốn nói cho hết, thiết nghĩ nên gợi đến nếp sống của một hạng người thứ ba. Họ làm việc, họ cố gắng, họ tưởng sức mình có thể dời núi chuyển non. Họ tin vào mình mà không tin vào Chúa. Các thành quả của họ đạt được chẳng là gì trong một lịch sử chung. Cuối cùng họ cũng chỉ thấy mất mát. Ðang khi công việc của người tín hữu, luôn đem lại bình yên thoải mái.

Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích

Như vậy lòng tin thật là cần thiết, không những trong các hoàn cảnh éo le như bài học thứ nhất gợi lên, mà ngay trong đời sống hằng ngày để làm mọi công việc theo chức năng và ơn gọi. Ðiều này khiến chúng ta thấy lời Phaolô nhắn nhủ chúng ta qua Timôthê rất thực tế. Đức tin giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng sao.

Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.

Chỉ cần một đức tin nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một trinh nữ, sinh con.

Xin Chúa thêm ơn đức tin cho ta để ta luôn phó thác cuộc đời của ta trong bàn tay quan phòng của Chúa. Có đức tin, ta sẽ làm được tất cả những gì mà ta muốn bởi hiệu quả lòng tin của ta.

-----------------------------------

 

TN 27-C82: Đầy tớ vô dụng

 

Dụ ngôn chúng ta vừa nghe nói lên mối liên hệ giữa ông chủ và người đầy tớ, hay nói đúng hơn: TN 27-C82


Dụ ngôn chúng ta vừa nghe nói lên mối liên hệ giữa ông chủ và người đầy tớ, hay nói đúng hơn kẻ nô lệ của ông ta.

Thực vậy, nơi dân Do Thái vào thời Chúa Giêsu vẫn còn tồn tại chế độ nô lệ. Kẻ nô lệ bị coi như là một tài sản của ông chủ, khác với người làm công. Người làm công chỉ phục vụ cho ông chủ trong một số công việc và trong một số giờ giấc nào đó, ngoài ra anh ta là người tự do. Kẻ nô lệ sau những giờ giấc cực nhọc ở ngoài đồng ruộng, khi trở về nhà, không được phép nghĩ đến việc ăn uống nghỉ ngơi. Ông chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm hay hầu hạ để cám ơn. Kẻ nô lệ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho ông chủ, đến khi chủ không còn sai khiến điều gì nữa, thì kẻ nô lệ mới được nghỉ ngơi. Và không bao giờ ông chủ nghĩ đến việc cám ơn hay trả lương cho nô lệ của mình vì nô lệ là tài sản của chủ. Kẻ nô lệ được phép ăn uống, nhưng bị coi là phương tiện bảo vệ mạng sống và sức lực mà ông chủ cần đến.

Vậy đâu là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắn gởi qua câu chuyện kể trên? Chúng ta không được phép vội vã kết án là Chúa Giêsu ủng hộ cho chế độ nô lệ, nhưng Ngài chỉ muốn dùng những hình ảnh sống động và cụ thể để dạy cho chúng ta thái độ phải có đối với Thiên Chúa. Đúng thế mục đích Ngài nhắm tới, đó là chống lại với giáo lý về công nghiệp của bọn biệt phái. Những người này chủ trương, tất cả những việc lành, việc thiện đều là công nghiệp trước mặt Thiên Chúa, để rồi Thiên Chúa phải tính công và trả ơn cho họ theo lẽ công bằng.

Hẳn chúng ta còn nhớ lời cầu nguyện của một người biệt phái trong đền thờ: Lạy Chúa, tôi đội ơn Ngài, vì tôi không phải như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình hay là như tên thu thuế kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần. Tôi nộp thuế thập phân về mọi thứ hoa lợi. Chính sự tính toán này, người Pharisêu đã biến Thiên Chúa thành một con nợ của mình.

Thế nhưng qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân của Ngài hay như lời Ngài đã nói: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Như thế thì làm sao chúng ta có thể kể công trước mặt Thiên Chúa. Mọi cố gắng luân lý của chúng ta không có giá trị gì trước mặt Ngài. Mọi việc đạo đức chúng ta làm chỉ là bổn phận chúng ta phải chu toàn. Mọi hành động bác ái của chúng ta cũng không đủ để cảm tạ những ơn huệ của Ngài và của anh em đồng loại. Suốt cuộc đời chúng ta cũng chẳng đủ để cám ơn Ngài, thì làm gì gọi được là công lao. Cho dù chúng ta có trung thành với Ngài đến hơi thở cuối cùng thì chúng ta cũng vẫn phả kêu lên: Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm việc bổn phận của con mà thôi.

Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là một ông chủ hà khắc, nhưng Ngài là một người cha yêu thương, luôn chăm sóc và mong muốn cho chúng ta được mọi sự tốt đẹp, và chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ chịu thua trước tình yêu của chúng ta.

-----------------------------------

 

TN 27-C83: Đức tin và người đầy tớ vô dụng


(Trích dẫn từ ‘Bước Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)

 

Chúa nhật XXVII thường niên hôm nay, được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là: TN 27-C83


Chúa nhật XXVII thường niên hôm nay, được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là Chúa nhật đầu tháng Mân Côi, nên chi ý nghĩa đoạn Tin Mừng (Lc 17,5-10) được phép suy tư về Đức Mẹ. Theo đó, đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần:

- Sức mạnh của ĐỨC TIN

- Khiêm tốn khi phục vụ

Hai chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay thật là ăn khớp (logic) với nhau. Có thể nói, chủ đề thứ nhất là chủ đề của sự cần thiết trong năm Đức Tin nầy. Đức Tin là một chủ đề không dễ suy tư, nhưng giá trị của nó rất lớn lao, vì qua sự giải thích của Chúa Giêsu, thì đức tin không cần “to lớn”, chỉ cần như hạt cải là đủ. Kích thước và sự đo đếm của đức tin, được Chúa Giêsu công khai một cách cụ thể. Theo đó, lòng tin của con người thật là quá nhỏ bé, không bằng hạt cải. Đức tin là một khái niệm trừu tượng, nhưng được chính Chúa Giêsu đánh giá cụ thể bằng một hình ảnh rõ ràng. Ai cũng biết, hạt cải nhỏ bé như thế nào. Nhưng cây cải bên Israel thì không nhỏ, nó có cành cây rất to, không phải như cây cải ở Việt Nam, nó có cành lá đến nỗi chim trời đến làm tổ được. Có lần Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em’ (Lc 17, 6). Từ đó, chúng ta hiểu rằng, đức tin của chúng ta không bằng hạt cải. Điểm quan trọng của việc bước theo Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính là niềm tin. Niềm tin mà không đủ lớn mạnh, thì như hạt giống bị thối, không vươn mầm được, vì mọi nhân tố sống đạo được hệ tại bởi niềm tin. Tại sao vậy? Thưa, vì tất cả mọi sự thiêng liêng đều thuộc về mầu nhiệm, mà mầu nhiệm là điều không thể nhìn thấy qua con mắt thể xác. Từ đó, nếu muốn xác tín những mầu nhiệm thiêng liêng, chúng ta cần đến đức tin. Hơn nữa, bản thân đức tin cũng là một mầu nhiệm. Như vậy, theo đoạn Tin Mừng hôm nay, các Tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho các ông. Chúa Giêsu đã ban thêm lòng tin cho các Tông đồ bằng cách nào? Rõ ràng, chúng ta thấy Chúa ban thêm lòng tin cho các Tông đồ không phải như cho thêm bánh, hoặc cho thêm đường vào bánh. Mà là Chúa đã ban thêm cho các ông bằng cách mạc khải cho các ông biết chiều kích của đức tin.

Theo đó, đức tin càng lớn thì sự khiêm tốn càng cao, nên chi giá trị của đức tin thì không thể đo lường được. Vì đức tin là sức mạnh có thể làm được những việc phi thường. Qua đó, chúng ta thấy chưa ai đạt đến niềm tin bằng hạt cải như Chúa Giêsu nói, ngoại trừ chính Thân Mẫu của Người, Đức Maria, Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi. Mẹ Maria là người đã thể hiện niềm tin sắt son, một niềm tin hạt cải thôi, cũng đủ chứng minh được Lời Chúa nói. Hành trình bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ là một hành trình đầy chông gai thử thách, nếu không có niềm tin và không giữ vững đức tin, Mẹ dễ dàng chối bỏ Chúa. Cùng với nhiều áp lực của xã hội đương thời, đa số chống lại Chúa Giêsu. Nhưng chính trong những giây phút đó, từ lúc Mẹ thưa tiếng xin vâng, Mẹ đáp Lời Sứ thần, cũng chính là Lời của Thiên Chúa, Mẹ luôn trung thành bước theo, và luôn trung tín trong sứ mạng cứu rỗi nhân loại của Con Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa. Một đức tin bằng hạt cải thôi, của Mẹ đã đủ minh chứng Lời của Con Mẹ. Vì thế, cho đến ngày nay, Đức Maria luôn là người dẫn đầu, “người có đức tin bằng hạt cải”, bởi vì sao? Thưa, vì tất cả những gì Mẹ có thể làm được cho nhân loại trong hành trình cứu chuộc của Con Mẹ, đều do đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Điều nầy, cho thấy sự công bằng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không thiên vị Đức Mẹ. Một sự nổ lực nơi Mẹ cùng với Thánh ân mà Mẹ đã đón nhận nơi Thiên Chúa đã cho Mẹ một đức tin bằng hạt cải.

Phần hai của Đoạn Tin Mừng: Khiêm tốn khi phục vụ

Tuy đoạn hai có nhiều câu hơn, nhưng ý dễ diễn đạt hơn, đó là: khi làm việc thiêng liêng chúng ta đừng câu nệ về công trạng của mình. Vì không có người đầy tớ nào đòi dùng bữa trước khi chủ mình chưa dùng bữa. Tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu để phục vụ Hội Thánh, dù phẩm trật cao thấp đều là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm việc theo bổn phận. Vì Ông Chủ chính là Thiên Chúa chứ không phải là chúng ta, Thiên Chúa toàn quyền trên mọi sự, và là Đấng công bằng, công minh cho mọi loài thụ tạo, nên chi, khi con người được kêu mời phục vụ, thì nên làm vì mục đích khiêm tốn, chứ không nên tự cao, tự mãn.

Hai chủ đề riêng biệt, nhưng được bổ túc cho nhau để đón nhận và phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân là lý tường cao đẹp của người môn đệ Đức Kitô. Được vậy, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Để minh chứng cho sự khiêm tốn phục vụ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết kich thước của “Đức Tin”.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con.
Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen

-----------------------------------

 

TN 27-C84: Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ


(Suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

 

Đoạn văn Lc 17,7-9 [10] thường được trích như là một “dụ ngôn”. Kiểu gọi này được biện minh vì dựa: TN 27-C84:


Đoạn văn Lc 17,7-9 [10] thường được trích như là một “dụ ngôn”. Kiểu gọi này được biện minh vì dựa trên một lời hư cấu về một cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa một ông chủ và những người đầy tớ làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan trọng đối với thế giới tôn giáo. Trong khi câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó lại phản ánh tương quan ông chủ-đầy tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất hiểu những chờ đợi của ông chủ đối với đầy tớ của ông.

Tác giả Lc đã đặt dụ ngôn này ở cuối một vài lời nói không liên kết với nhau tại nguồn (cc. 1-6). Tuy nhiên, bài dụ ngôn của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của Đức Giêsu ở c. 7, hẳn là ít ra phải liên hệ với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu đi theo c. 6 mà không có chỗ nghỉ hoặc một lời dẫn nhập.

Những gì chúng ta đọc được ở cc. 5-6 liên hệ đến đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng qua câu hỏi, ta hiểu là họ đã có đức tin. Nhưng lời của Đức Giêsu dường như lại gợi ý rằng họ có ít đức tin hơn họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin lớn bằng hạt cải, là thứ hạt giống nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là vì nội dung lời rao giảng trước đó của Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất kể số lần) rất khó tuân theo. Có thêm đức tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu không phủ nhận giá trị của việc gia tăng đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ là các ông không có đủ đức tin để vâng lời Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác ký giao ước với họ.

Lời than thở này của Đức Giêsu về đức tin của các môn đệ gợi ý là có một dây liên kết với bài dụ ngôn. Nhận ra rằng các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có đức tin, mà thật ra các ông không có một đức tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận dụng khái niệm “vâng lời” mà đưa ra một dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách môn đệ: họ là những đầy tớ. Theo một nghĩa nào đó, đối với các đầy tớ, vâng theo các lệnh của ông chủ thì không khó khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng lời chủ trong cả những hoàn cảnh khó khăn. Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví dụ tốt cho việc sống đời sống tôn giáo: đầy tớ phải hành động như đầy tớ. Các môn đệ đáng nhận lời Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu đức tin, nhưng qua bài dụ ngôn, họ được yêu cầu nhìn đến bản thân để thấy rõ sự thật của họ: họ là những đầy tớ phải vâng lời Đức Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di trước cc. 5-6 rất khó nghe, nên đòi hỏi tin tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua Người, vâng lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có đức tin mà lại không vâng theo các giáo huấn của Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu như là những đầy tớ, cho dù các khó khăn của các điều răn của Người có thế nào. Hiểu như thế, dụ ngôn có một đường nối với những gì đi trước: giáo huấn thì cứng rắn (không được làm bất cứ điều gì làm suy yếu đức tin của người thân cận do không tha thứ), nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng ta, những đầy tớ của Người, chúng ta biết vai trò của mình và vâng phục.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức tin (17,5-6);

2) Dụ ngôn Người tôi tớ (17,7-10).

3.- Vài điểm chú giải

- xin thêm lòng tin (5): Câu này có thể hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác mà chúng con đã có, hoặc thêm tin tưởng vào những ân huệ khác mà chúng con đã lãnh nhận. Dựa theo văn cảnh, có thể ưu tiên hiểu theo nghĩa đầu.
- Hạt cải (6): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs, tiếng Pháp là graine de moutarde, tiếng Anh là mustard seed. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc và được tục ngữ Do Thái dùng mà chỉ những gì nhỏ nhất.

- cây dâu (6): Từ Hy Lạp sykaminos (1 V 10,27; 1 Sb 27,28 … Bản LXX) để dịch từ Híp-ri shiqmâh; thế mà shiqmâh là “cây sung” (HL sykomorea, “sycamore”). Vậy hẳn sykaminos ở đây cũng là sykomorea ở Lc 19,4: tác giả Lc dùng không phân biệt hai từ này. Dù sao, tác giả muốn nêu ra hình ảnh một cây khá to.

- đầy tớ (7): Tiếng Hy Lạp là doulos: người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc người chủ và đón nhận mọi sự từ người chủ như những ân huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được phân chia thành các giai cấp, chủ nhân và đầy tớ. Đa số các công nhân là đầy tớ của một ông chủ thì sống trong một ngôi làng và ra đi làm việc cho ông chủ, rồi lại trở về làng với một số tiền nhỏ là công lao động. Đôi khi những người này chờ nơi quảng trướng để mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ lúc nào. Một loại đầy tớ khác, đó là người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền công

- lại bảo nó…? (7): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.

- Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn…? (9): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.

- vô dụng (10): Từ Hy Lạp là achreios có nghĩa chữ là “vô ích, vô dụng” (useless), nhưng ở đây, nghĩa thích hợp hơn, đó là “không sinh lợi lộc” (unprofitable), bởi vì chỉ làm đúng bổn phận. TOB dịch là quelconque (= bon à rien), NAB dịch là unprofitable, New International Version dịch là unworthy. Dịch là “vô dụng” dường như không đúng, vì ba lý do: 1) Người đầy tớ trong dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì làm việc trong cánh đồng suốt ngày; 2) Trong việc chúng ta vâng lời Thiên Chúa, Người không bao giờ gọi chúng ta là “vô dụng” cả; Kinh Thánh không có chỗ nào ghi nhận như thế cả; 3) Từ ngữ Hy Lạp achreios này rất hiếm, nên trong văn chương Hy Lạp, không có ví dụ để giúp xác định ý nghĩa đúng của nó. Dựa vào ngữ cảnh, co thế hiểu “vô dụng” đây là người đầy tớ không có quyền gì mà yêu cầu được đối xử khác với những gì tư cách anh cho anh được hưởng.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức tin (5-6)

Chúng ta không biết động lực nào đã thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Rất có thể đó là những khó khăn trong cuộc sống của những người đi theo Đức Giêsu, như ta hé thấy ở Lc 17,1-4. Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không phải bằng cách cho một định nghĩa về đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh của lòng tin, với những hình ảnh có vẻ phi lý; Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của đức tin. Nếu người ta có một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu nơi Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra điều không sao làm được theo các tiêu chuẩn loài người. Để diễn tả điều này, Đức Giêsu dùng các hình ảnh là “chuyển núi dời non” (x. Mt 17,20) hoặc “nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống biển”. Người muốn nói rằng lòng tin, dù nhỏ bé, luôn luôn là hiệp thông với Thiên Chúa, tức là thông dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với quyền lực Thiên Chúa thì không có gì là giới hạn cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn đệ trước những nhiệm vụ và đòi hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm được, Ngài vẫn có thể giúp họ có khả năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa một điều loài người thấy là không thể làm được, Ngài vẫn có thể làm được: trong dạng triệt để nhất, điều này xảy ra với việc kẻ chết sống lại. Chính vì thế Đức Giêsu đã nói với những kẻ được Người giúp đỡ: “Lòng tin của con đã cứu con” (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).

* Dụ ngôn Người tôi tớ (7-10)

Với công thức Người chọn để đưa vào bài dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo cử tọa dấn thân ngay; họ được mời gọi hãy phán đoán. Đây là kỹ thuật thường được Đức Giêsu vận dụng. Họ đều đã trải qua kinh nghiệm Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng câu chuyện, trong khi là một lời mời gọi trực tiếp gửi đến các thính giả, cũng nhắm đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung cấp ở c. 10.

Dụ ngôn được kể trong các câu 7-10 có thể coi như một xác định lập trường đối lập lại với giáo lý của người Pharisêu về việc ban thưởng cho các việc lành (x. Lc 18,18: “tôi phải làm gì?”; Lc 18,11-12: người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện). Nền tảng của tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hệ tại sự kiện Ngài là Chúa của chúng ta, nên chúng ta phải quan tâm đến và thi hành ý muốn của Ngài. Chúng ta không phải là những chủ nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa luôn luôn có điều gì đó để nói với chúng ta. Tuy nhiên, trước khi yêu cầu chúng ta điều gì, Ngài đã ban cho chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự sống, các khả năng... Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các bổn phận của chúng ta. Ngài xác định cho chúng ta đâu là con đường phải theo và đâu là mục tiêu. Chúng ta chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng ta sẽ phải trả lời với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu cầu chúng ta điều vì võ đoán và phi lý. Chúng ta phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận Ngài là

Đấng tạo hóa và Chúa tể của chúng ta. Đối với người anh em, chúng ta phải kính trọng và gán cho họ phẩm giá của chính chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động như những người quản lý trung thành, có trách nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý thức rằng mình chỉ làm các việc bổn phận mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ được tưởng rằng mình đã ban một ân huệ cho Thiên Chúa khi tuân giữ các giới răn của Ngài và chu toàn các bổn phận của chúng ta.

Dụ ngôn này cũng được các nhà chú giải hiểu là được ngỏ riêng với các thủ lãnh trong Hội Thánh: Các ngài đừng dừng lại nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ rồi. Đức Giêsu gợi lại hoàn cảnh xã hội thời đó, có chủ nhân và nô lệ với tương quan được xác định rõ ràng. Nô lệ luôn luôn phải đưa mắt nhìn về phía chủ mà đón nhận mọi mệnh lệnh. Khi thi hành các mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm “việc bổn phận” mà thôi. Tất cả thì giờ, tài nguyên, sức lực của con người phải được tận dụng mà phục vụ Thiên Chúa. Rồi khi đã chu toàn công việc, con người không được khoe khoang hoặc đòi hỏi những quyền lợi hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác giả muốn khẳng định rằng nơi người tín hữu, mọi sự đều là ơn Chúa, lòng tin cũng là một ơn Chúa. Tất cả những gì con người nhận được đều không hề tỷ lệ với những gì họ đã làm. Mọi sự đều là hồng ân phát xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên Chúa, chứ không do một khoản hợp đồng giao kèo nào cả.

+ Kết luận

Đức tin là niềm tín nhiệm không lay chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng vượt mọi múuc độ loài người; Ngài đầy tình yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Với cái nhìn đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi tớ, lại là tôi tớ “vô dụng” vì chỉ biết làm những việc phải làm. Hiểu như thế chẳng hề làm chúng ta nản chí, bởi vì chúng ta biết rằng mọi sự là của Thiên Chúa, là do Ngài. Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa được thúc bách xác định bản than tùy theo tương quan của mình với Thiên Chúa: người ấy là đầy tớ của Thiên Chúa và phải vâng phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn đến đâu. Người ấy không là gì khác ngoài thân phận đầy tớ, và chỉ được vinh quang vì là đầy tớ. Người ấy không vô dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không là gì khác, trong tương quan với các điều răn của Thiên Chúa. Thật ra, được làm việc cho Ngài đã là một vinh dự rồi, thì sao lại còn chờ đợi có phần thưởng? Và như thế, cuộc sống mai sau cũng là một hồng ân.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đứng trước các trách nhiệm cũng như các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi gương các tông đồ, không tránh né, không tìm cách giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin. Chúng ta xin Người giúp kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thế giúp đỡ chúng ta làm những việc mà người đời nghĩ rằng sức con người không sao làm nổi.

2. Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích.

3. Không chỉ khuyên chúng ta tin, Chúa Giêsu còn cầu nguyện cho niềm tin của chúng ta, như Người đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời thỉnh cầu của các môn đệ là được thêm lòng tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính Người ngỏ lời với Chúa Cha để gửi gắm các môn đệ. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho mình, cho nhau, đồng thời chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của Chúa Giêsu.

4. Khi đọc Dụ ngôn Người tôi tớ, chúng ta không nên đi lạc sang đề tài “chủ nô” của triết học Tây phương, cũng đừng chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên Chúa chỉ coi chúng ta như những nô lệ! Trong Tin Mừng Luca, không thiếu những đoạn văn nói về những tương quan và thái độ của Thiên Chúa đối với con người với nội dung hoàn toàn khác (x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác giả chỉ nhắc lại một hoàn cảnh quen thuộc với các thính giả để rút ra những bài học thần học. Đó là: người tín hữu, người môn đệ hoặc người tông đồ phải có thái độ khiêm tốn, mà không nô lệ, ở trước nhan Ngài, nhất là đối với những đề nghị của Ngài.

5. Bởi vì Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng người môn đệ chỉ là một “tôi tớ” và là tôi tớ “vô dụng”, chúng ta hiểu rằng: chu toàn các nhiệm vụ được giao phó không nhất thiết bảo đảm cho phần rỗi của mình; khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, người môn đệ vẫn ý thức rằng cuộc sống đang chờ mình ở bên kia thế giới cũng là một ân huệ. Như thế, quả thật, không có chỗ nào dành cho sự vênh vang, tự hào tự mãn cả.

6. Đôi khi chúng ta có lối suy nghĩ y như thể nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức bước theo nẻo chính đường ngay, thì Thiên Chúa phải biết ơn chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa vui mừng về những cố gắng của chúng ta, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề lệ thuộc vào bất cứ điều gì chúng ta làm cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của chúng ta, Ngài cũng không cần nỗ lực của chúng ta để sống với người khác. Chính chúng ta mới cần sống cho tương hợp với ý nghĩa của đời sống chúng ta, để trở thành những con người trung thực. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa không bao giờ thua chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là Đức Chúa, Ngài sẽ cho các tôi tớ trung thành ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).

-----------------------------------

 

TN 27-C85: Đức tin

 

Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy được một bài học quý giá: Đức tin là một yếu tố quyết định cho việc TN 27-C85 Lương


Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy được một bài học quý giá: Đức tin là một yếu tố quyết định cho việc can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống.

Chúa Giêsu đã làm phép lạ tuỳ theo lòng tin của mỗi người. Rất nhiều lần Người đã phán với các bệnh nhân: Đức tin của con đã cứu chữa con, con hãy về bình an. Hay: Con tin thế nào thì sẽ được như vậy. Nơi khác, Chúa Giêsu còn xác quyết với chúng ta: Nếu các con có được một đức tin bằng hạt cải, thì các con cũng có thể làm được những việc hệ trọng như chuyển núi dời sông. Vậy chúng ta phải tin những gì?

Trước hết là hãy tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Với quyền năng ấy, Ngài đã tạo dựng vũ trụ. Với quyền năng ấy, Ngài vẫn luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, bởi vì nơi Ngài không có biến dịch và thay đổi. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một. Điều cần thiết là chúng ta phải tin tưởng chạy đến với Người như lời Thánh vịnh: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trọng, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì. Trong Phúc Âm, chính Chúa Giêsu cũng đã bảo: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Hay như lời sứ thần Gabriel: Không có sự gì mà Thiên Chúa chẳng làm được. Tin tưởng chạy đến với Chúa để rồi được Ngài nâng đỡ và phù trợ, như vậy chúng ta sẽ chẳng còn phải lo sợ điều chi nữa. Với Chúa thì màng nhện cũng có thể trở nên tường thành, trái lại, không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

Tiếp đến, chúng ta hãy tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Như chúng ta cũng đã nhiều lần xác tín Thiên Chúa là một người Cha nhân từ. Người Cha nhân từ ấy vốn hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Sự yêu thương chăm sóc ấy nhiều khi chúng ta không để ý tới. Chẳng hạn không có khí để thở, không có nước để uống, không có cơm để ăn, thì chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta sẽ không thể nào sống nổi.

Ngay cả trong những giây phút đen tối dưới con mắt đức tin, chúng ta vẫn nhìn ra bàn tay uy quyền của Thiên Chúa hướng dẫn dòng đời của chúng ta. Biết đâu nhờ những gian nguy thử thách ấy mà chúng ta biết ăn năn sám hối, quay trở về cùng Thiên Chúa. Biết đâu nhờ những đau khổ và buồn phiền mà nhân đức của chúng ta được củng cố và niềm tin của chúng ta sẽ được kiên vững hơn lên, bởi vì tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: Các con hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói. Các con hãy nhìm xem cánh hoa đồng nội chúng không dệt không may mà ngay như áo cẩm bào của Salomon cũng không rực rỡ cho bằng, các con hãy tin tưởng, các con càng quý giá hơn chim trời và hơn cánh hoa đồng nội rất nhiều. Hay như Thánh vịnh cũng đã bảo: Kẻ kính sợ Chúa sẽ không thiếu thốn chi. Sư tử con không kiếm ra mồi chứ người kính sợ Chúa sẽ không hề đói, bởi vì Ngài hằng đoái nhìn kẻ công chính. Bằng đó mà thôi cũng đủ để cho chúng ta an tâm cho tương lai, cho ngày mai. Bởi vì, ngày mai và tương lai lại hệ tại ở lòng tin.

-----------------------------------

 

TN 27-C86: Đức tin và những điều kỳ diệu


(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Đức tin có một sức mạnh thật kỳ diệu. Các tác giả Tin Mừng đã chứng minh với chúng ta điều đó. Đối TN 27-C86


Đức tin có một sức mạnh thật kỳ diệu. Các tác giả Tin Mừng đã chứng minh với chúng ta điều đó. Đối với những ai đến với Chúa và tín thác nơi Ngài, họ nhận được những ơn lạ lùng vượt xa sự mong đợi.

Một người bất toại đã lâu năm, nay chỉ mong có thể cử động đi lại. Khi gặp gỡ Chúa và được Người chữa bệnh, ông đã trở nên khỏe mạnh, không chỉ đi lại được như mọi người, mà ông còn vác chõng mà đi, trước sự kinh ngạc của mọi người (x. Mc 2,3-12). Một người mù từ bẩm sinh, chỉ ước mong con mắt mình sáng để được nhìn thấy mọi người và mọi vật xung quanh. Khi được Chúa chữa, anh không chỉ sáng con mắt thể xác, mà còn sáng cả con mắt tâm hồn. Anh được Ngài soi lòng mở trí để hiều biết những điều cao siêu. Những suy tư về sự thánh thiện và tội lỗi của người mù vừa được chữa lành, xem ra còn khôn ngoan hơn cả những người biệt phái và luật sĩ (x. Ga 9,1-41). Một người què, đi lại khó khăn, chỉ mong được bước đi như những người khác. Nhờ tác động và quyền năng của Chúa, thông qua trung gian của hai vị tông đồ là Phêrô và Gioan, không những anh có thể đi lại được, anh còn “vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa”. Tác giả sách Công vụ Tông đồ trình bày anh giống như một vũ công, múa nhảy ca hát để tỏ bày niềm vui trước những điều lạ lùng Thiên Chúa vừa thực hiện (x. Cv 3,1-10). Một phụ nữ tội lỗi cả thành đều biết tiếng, qua cuộc gặp gỡ với vị ngôn sứ có tên là Giêsu, chị đã sám hối ăn năn và trở nên con người mới. Không chỉ được hội nhập vào xã hội, chị còn trở nên một nữ tông đồ năng động nhiệt thành và là người đầu tiên loan báo Chúa đã phục sinh (x. Lc 8,2).

Đức tin có thể mang lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Những điều kỳ diệu ấy đến từ quyền năng của Chúa. Ngài là chủ vũ trụ, là nguyên lý của mọi nguyên lý. Quyền năng của Chúa bao trùm vũ trụ và cuộc sống con người. Trong xã hội văn minh hiện đại, con người lầm tưởng rằng họ có thể thay thế Thiên Chúa. Ý tưởng điên rồ này đã phải gánh lấy thất bại đắng cay. Một khi gạt bỏ Thiên Chúa khỏi cuộc sống, điều còn lại sẽ là bạo lực, hận thù và tội ác.

Những điều kỳ diệu của đức tin cũng đến từ nỗ lực cố gắng của con người. Đức Giêsu đã nói đến hiệu quả của đức tin: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được” (Mt 17,20). Hạt cải thật nhỏ bé và núi đồi lớn lao. Đó là hai hình ảnh tương phản nhau. Sự tương phản ấy càng làm nổi bật sức mạnh của đức tin. Tác giả thư Do Thái đã nhắc đến gương mẫu đức tin của các Tổ phụ và những nhân vật của lịch sử dân tộc, đã nhờ đức tin mà họ vượt lên biết bao gian nan thử thách để trung thành với Chúa và thực hiện tốt đẹp những sứ vụ Chúa trao (x. Dt 11). Họ là những người đã cộng tác với Chúa, nỗ lực làm cho đức tin sinh hoa kết trái nơi cuộc đời của họ cũng như nơi tha nhân. Nếu được liệt kê vào danh sách những gương mẫu đức tin trong thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta sẽ nói đến các thánh tử đạo Việt Nam. Đức tin là bí quyết đem lại cho các ngài sức mạnh. Các ngài là những người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau: từ những quan lại trong triều đình đến những nông dân chân lấm tay bùn; từ những người giàu có đến những người nghèo nàn cơ khổ. Tất cả đều tìm được nguồn sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa, thà hy sinh mọi sự còn hơn là mất ơn nghĩa với Chúa. Họ chấp nhận đánh đổi tất cả để được sự sống đời đời. Sức mạnh của đức tin kỳ diệu là thế.

Sức mạnh của đức tin còn thể hiện qua sự gắn bó của người tín hữu đối với Giáo Hội. Giáo Hội là bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Giáo Hội là chiếc thuyền chuyên chở các tín hữu đến gặp gỡ Chúa, đồng thời cũng chuyên chở Chúa đến gặp Dân của Ngài. Lịch sử hai ngàn năm đã chứng minh sức mạnh của Giáo Hội. Mặc dù thời nào cũng có những tội lỗi và gương xấu, con thuyền Giáo Hội không vì thế mà bị nhấn chìm, vì Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng đức tin, được diễn tả qua hình ảnh tảng đá góc là chính Đức Giêsu. Hãy chiêm ngắm một khung cảnh phụng vụ sẽ thấy sức mạnh của đức tin thật kỳ diệu: những cụ ông cụ bà, những em bé thiếu nhi, những người trưởng thành… tất cả đều toát lên niềm vui khôn tả, khi họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được tâm sự với Ngài. Mặc dù cuộc đời vẫn còn lắm truân chuyên, nhưng những giây phút tĩnh lặng ấy giúp họ gột bỏ bụi trần, tìm được niềm vui vì có Chúa. Chính đức tin nói với họ về sự hiện diện nhiệm màu của Chúa, đồng thời thúc đẩy họ đến với Chúa để được trang bị thêm sức mạnh và ý chí vươn lên.

Trong cuộc sống hôm nay, xung quanh chúng ta những điều kỳ diệu vẫn đang xảy đến. Biết bao người đến với Chúa đã nhận được sự an ủi đỡ nâng thể xác cũng như tinh thần. Có thể khi đến với Chúa, người què vẫn chưa tự mình đi được, người mù vẫn chưa thể thấy được, người liệt chưa thể tự mình trỗi dậy, nhưng chắc chắn một điều, khi đến với Chúa với đức tin và niềm phó thác, họ đã nhận được nghị lực và niềm vui rất lạ lùng, để họ vươn lên, vượt qua khó khăn, đón nhận thực tại, lạc quan và yêu đời hơn, vì họ tin chắc chắn rằng có Chúa cùng đi với họ trong cuộc đời này. Có thể họ bị thiệt thòi về một điểm nào đó, nhưng Chúa lại bù cho họ những khả năng phi thường ở một lãnh vực khác. Đức tin vẫn đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu là thế.

Người tín hữu còn có sứ mạng đem những điều kỳ diệu của đức tin cho anh chị em đồng loại. Hình ảnh những nữ tu dấn thân hy sinh phục vụ người phong cùi hay những trẻ mồ côi, hình ảnh những tín hữu nhiệt thành bất chấp mọi ngờ vực để đến với người nghèo, người nhiễm HIV, hình ảnh các linh mục đến với người dân tộc thiểu số hay những nơi vùng sâu vùng xa để đem ánh sáng Tin Mừng cho những anh chị em vừa nghèo về vật chất vừa nghèo về tình người. Những thực hành bác ái này là những điểm sáng trong đời sống đức tin, đồng thời thể hiện sứ mạng cao cả của người tín hữu, đó là đến với con người để mang cho họ niềm vui và góp phần củng cố đức tin nơi họ. Thiên Chúa đang qua chúng ta để ban phúc lành cho nhân thế. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên những cánh tay nối dài của Người, để làm những việc chính Người đã làm cho con người đương thời tại xứ Palêtin. Chính qua chúng ta mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu.

Chúng ta đang cùng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa thể hiện qua một trẻ thơ vừa chào đời. Hài nhi nằm trong máng cỏ lại là chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mọi sự từ ban đầu của lịch sử, nay trở nên người phàm để sống cùng, sống với và sống cho chúng ta. Hai ngàn năm đã qua, biến cố Máng cỏ Bêlem và mầu nhiệm Thập giá đồi Canvê vẫn gửi đến chúng ta những sứ điệp quan trọng. Đó là sứ điệp của tình Chúa tình người. Tình Chúa sẽ biển đổi đời ta nên cao thượng. Tình người sẽ giúp ta tìm thấy niềm vui, bởi khi cho đi là ta được nhận lãnh.

Một tác giả là Robert Schuller viết: “Việc bạn hiện hữu trên cuộc đời đã là một quà tặng lớn lao của Thiên Chúa”. Ý thức mình là điều kỳ diệu của Chúa, mỗi chúng ta cần làm cho ánh sáng và vinh quang của Chúa thể hiện nơi cuộc đời mình. Có những điều kỳ diệu được xây nền trên những điều rất bình dị của đời thường. Các thánh là những người đã nỗ lực cố gắng để nên thánh khởi đi từ những điều rất đơn giản của cuộc sống. Một người nông dân, một người ít học, một người sống trong cảnh đạm bạc thanh bần, một người cha người mẹ âm thầm nuôi dạy con cái… tất cả đều có thể làm tỏa sáng vinh quang của Chúa và làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống thân yêu của chúng ta.

-----------------------------------

 

TN 27-C87: Tin Tưởng Vào Chúa


 - An Phong

 

Ngôn sứ Kha-ba-cúc thốt lên lời than thở như một người gặp hoạn nạn mà không được Thiên Chúa TN 27-C87


Ngôn sứ Kha-ba-cúc thốt lên lời than thở như một người gặp hoạn nạn mà không được Thiên Chúa đoái nhìn: "Lạy Chúa, đến bao giờ con kêu cứu mà Chúa chẳng đoái nghe: con kêu la trước cảnh hung tàn mà Chúa không cứu vớt?"

Và Thiên Chúa, qua miệng ngôn sứ Kha-ba-cúc đã trả lời: "Kẻ nào không có tâm hồn ngay thẳng thì ngã gục; còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình".

Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng vậy, các ngài thấy mình bơ vơ, yếu đuối và cầu xin: "Thưa Thầy, xin cho chúng con được thêm lòng Tin". Chúa Giêsu nhắc nhủ các ông cứ kiên tâm thi thành những điều Người truyền dạy, không phải để đổi chác, để đòi lấy công lênh của mình, nhưng như người đầy tớ trung tín, tận tâm thi hành những điều thuộc trách vụ của mình.

Nhìn lại chính mình, chúng ta cũng nhận thấy đời mình chẳng thiếu những khó khăn, cũng bao lần đầy đau khổ; và có lẽ cũng không ít lần chúng ta phàn nàn kêu trách Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhủ: "Nếu anh em có đức Tin lớn bằng hạt cải thôi...". Nếu chúng ta nhận ra đức Tin của mình, đức Tin chỉ bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể làm được mọi sự; nếu chúng ta tín trung với Niềm Tin của một người đầy tớ "làm việc bổn phận mình", thì Thiên Chúa sẽ chẳng "thua" lòng trung tín của chúng ta.

Thiên Chúa không ban cho chúng ta một "kho Đức Tin" để dành ở đó, để khoe mẽ hay để trang trí mà thôi. Nếu chúng ta biết khởi sự sống niềm Tin bằng hạt cải, Người sẽ làm tăng trưởng Niềm Tin trong ta; nếu chúng ta biết thể hiện Niềm Tin của mình trong việc bổn phận thường ngày, thì dù là không xứng đáng... "chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ" (Lc 12,37).

Lạy Chúa Giêsu,
Chẳng có chi của chúng con xứng đáng dâng cho Chúa, nhưng Chúa lại sẵn sàng đón nhận tất cả.

Chẳng có chi trong chúng con có thể "chứa đựng" được Chúa; nhưng Chúa lại ban đầy tràn, khởi sự từ một "Đức Tin bằng hạt cải" của chúng con.

Chẳng có chi do chúng con, để được phép đòi công lênh, nhưng Chúa đã vui lòng ban tặng cho chúng con chính "Thịt và Máu" Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mãi mãi là người tôi tớ tín trung của Chúa.

-----------------------------------

 

TN 27-C88: Bổn phận


 – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Chúng ta biết rằng đức tin không là một mớ kiến thức trong tâm trí mà là đức tin sống động trong TN 27-C88


Chúng ta biết rằng đức tin không là một mớ kiến thức trong tâm trí mà là đức tin sống động trong việc làm. Đức tin sống với cả con người trong niềm tin, suy tưởng, lời nói và hành động. Truyện kể: Một nhà truyền giáo tới Phi Châu giảng đạo. Ngài muốn chuyển dịch phúc âm thánh Gioan sang thổ ngữ địa phương. Ngài gặp nhiều khó khăn vì ngôn từ rất giới hạn, khó tìm được những chữ thích hợp ý nghĩa từ tiếng Anh. Thí dụ: chữ ‘to believe”. Không có ngôn từ nào trong thổ ngữ địa phương phỏng dịch chính xác. Ngài đến hỏi một trong những người dân làng xin giúp đỡ. Khi ngài giải thích những khó khăn, ông ta trả lời theo sự hiểu biết của ông ‘to bebieve - tin’ nên dịch là ‘to listen with the heart- lắng nghe với trái tim’.

Một số người nghĩ rằng họ đang làm ơn cho Chúa khi họ giữ các giới răn và thờ phượng Chúa. Chúng ta phục vụ thờ phượng Thiên Chúa là một đặc ân. Tiên tri Khabacúc than phiền với Chúa về sự bị đối xử bất công. Ông kêu van: Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? (Kb 1, 2). Ai cầu xin cũng muốn được nhậm lời. Tiên tri đối diện nhiều khó khăn và chịu nhiều đắng cay, ông cầu xin Chúa mau đáp lời và giải thoát. Ông kêu cầu Chúa và muốn rằng Chúa phải thực hành trá oán cho những bất công ngay. Chúa hứa với ông là sự công chính sẽ được vãn hòa và sửa phạt công minh. Người làm ác sẽ bị oán phạt: Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín (Kb 2, 4).

Trong đời sống đạo, đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta một số điều. Chúng ta là những người rất chân thành thực thi các giới răn, tham dự đầy đủ các nghi lễ, tụ nhóm cầu nguyện hằng tuần và chu toàn mọi điều luật dạy. Chúng ta nghĩ rằng Chúa phải ban phần thưởng. Có người tưởng nghĩ rằng Chúa như ông chủ, chúng ta là những người làm công. Làm xong việc là phải trả lương sòng phẳng. Chúng ta thường quan niệm giữ đạo và thực hành đạo để được an tâm và lãnh phần phúc. Thái độ phục vụ Thiên Chúa bị giảm bớt coi như một khế ước trao đổi. Phần thưởng trên nước trời là công lao chúng ta phục vụ dưới thế. Sự phục vụ như thế sẽ mất đi ý nghĩa tinh ròng. Thực ra việc làm của chúng ta chẳng có công lênh gì trước mặt Chúa. Phần thưởng ngày sau hoàn toàn là hồng ân Chúa ban. Chúng ta cũng chỉ là người đầy tớ phục vụ Chúa trong tin yêu.

Có lần nghe có vị đại diện tôn giáo bạn thuyết pháp rằng các tín đồ không nên tin thờ Thượng đế hay chúa bà nào cả, không có thần thánh, không có niềm tin và mọi sự do chính con người phấn đấu và tu luyện mà thành. Không lệ thuộc vào thế giới thần thánh vì mọi quyền lực ở trong tay con người. Vị thuyết pháp đặt vấn đề: Nếu tin có sự hiện diện của Thiên Chúa quyền năng, vậy bây giờ tôi sẽ cầu xin Chúa hãy làm cây xoài sinh ra trái khế. Nếu Chúa không làm được, vậy là không có Thiên Chúa. Cách lý luận nghe cũng lạ lạ. Thách thức Thiên Chúa qua lời cầu nguyện thể theo ý mình. Về vấn đề niềm tin, Chúa Giêsu đi xa hơn: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con (Lc 17, 6).

Chúng ta tin vào Kinh Thánh mạc khải và tin vào Đấng Trung Gian được sai đến. Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha và đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm về Thiên Chúa Ba Ngôi và chương trình cứu độ nhân loại. Tất cả những điều mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là nguồn mạch và cốt lõi của đạo. Tìm đọc lại từng chi tiết trong Kinh Tin, chúng ta sẽ thấy sự quan phòng của Thiên Chúa cách đặc biệt cho sự sống con người. Con người là chi mà Chúa để ý chăm nom. Con người được tạo nên giống hình ảnh của Thiên Chúa nên cũng được mời tham dự vào sự sống đời đời. Chúng ta hãy lắng nghe và thực hành tin mừng của Chúa. Vì Lời Chúa là lời hằng sống ban cho chúng ta sự sống đời đời. Tất cả là hồng ân.

Đức tin là nhân đức đối thần. Tin là lần bước trong đêm tối của sự phó thác. Tin như tổ phụ Abraham, ông tuyệt đối tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tin là thái độ không nghi ngờ, không cần lý luận và không đòi hỏi phải hiểu thấu. Nếu mọi sự nhãn tiền trước mắt, chúng ta không cần phải có đức tin. Trong đời sống tôn giáo, niềm tin là cột trụ và là tâm điểm của mọi sinh hoạt sống đạo. Tiên tri Khahabúc kêu cầu Chúa trong sự mong mỏi đợi chờ. Hầu như Chúa vẫn lặng im nhưng ông luôn đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Sống đức tin là biết sống phó thác mọi sự trong tay Chúa.

Con người là loài thụ tạo giống như chiếc bình gốm mỏng dòn dễ bể. Người thợ gốm muốn nắn nên hình thể nào mặc ý, bình gốm không có quyền đòi hỏi. Bình gốm được trưng bày trang trí mỹ thuật là một hạnh phúc tuyệt vời. Con người cũng thế, được hiện hữu là một ơn trọng. Tất cả những gì chúng ta làm chẳng thêm gì cho Chúa nhưng mang lại lợi ích cho chính chúng ta. Chúa Giêsu nói: Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm' (Lc 17, 10). Nhận ra chân giá trị của đời sống để chúng ta tôn thờ Chúa cho phải đạo.

Truyện kể: Có một bà cụ già trải qua thời gian rất nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bà bồn chồn lo lắng vì chưa bao giờ xảy đến với bà như thế. Trong thất vọng, bà chạy đến với một vị linh mục xin lời khuyên. Bà hy vọng vị linh mục sẽ lý luận để chứng minh cho bà là Thiên Chúa hằng sống và tốt lành. Bà rất ngạc nhiên rằng linh mục chẳng nói gì về vấn đề này. Lời khuyên rất đơn sơ và xem ra không ăn nhập gì cả. Linh mục nói với bà hãy ra đi và thực hành những nghĩa cử yêu thương, tử tế và cảm thông với những người bà gặp trong đời, mọi sự sẽ tốt đẹp. Bà thực hành lời khuyên và thời gian trôi qua, tất cả những nghi ngờ về Thiên Chúa hoàn toàn biến mất.

Thánh Phaolô là tông đồ nhiệt thành luôn khuyến khích mọi người liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô. Kêu gọi sống kiên tâm và vững mạnh trong ơn nghĩa của Chúa. Phaolô phó dâng hoàn toàn cuộc đời trong Chúa. Những thơ viết cho cá nhân hay các giáo đoàn luôn là những lời khuyên răn, khích lệ và hướng dẫn sống đạo: Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ (2Tm 1, 7). Phaolô say mê trong việc rao truyền Chúa Kitô phục sinh và mọi sự đều qui hướng về Đức Kitô. Đến nỗi ngài đã phải thốt lên rằng tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi. Ngài tiếp tục khuyên răn môn đệ luôn sống trong sự thật của đức ái: Con hãy lấy những lời lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô (2Tm 1, 13).

Lạy Chúa, chúng con chỉ là đầy tớ vô dụng. Tất cả cuộc sống đều nhờ bởi ơn Chúa. Xin Chúa đừng để chúng chìm đắm trong sự hão danh và háo thắng. Mọi công trình vĩ đại thuộc tinh thần cũng như vật chất đều qui hướng để làm sáng danh Chúa hơn nữa. Xin Chúa chúc lành cho mọi công việc bổn phận hằng ngày của chúng con. Amen.

-----------------------------------

 

TN 27-C89: Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi


(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

 

Với trí tưởng tượng phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans TN 27-C89


Với trí tưởng tượng phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans Christian Andersen đã dựng nên một nhân vật rất độc đáo là “Chiếc bóng.”

Ai cũng có chiếc bóng đi theo mình. Chiếc bóng hoàn toàn lệ thuộc chủ: khi chủ đi, bóng đi theo, khi chủ chạy, bóng chạy; khi chủ dừng, bóng dừng; chủ đi đâu, bóng theo đến đó.

Vậy mà nhân vật “Chiếc Bóng” trong chuyện của Andersen lại tách ra khỏi người chủ của mình vốn là một nhà khoa học, để trở thành một nhân vật độc lập, đòi sống riêng không lệ thuộc chủ, rồi dần dà y dám gọi mày xưng tao với chủ… Một thời gian sau, y lên mặt sai khiến cả chủ của mình, và thật trớ trêu, y tự tôn mình lên làm chủ và bắt chủ phải làm “chiếc bóng” của y và cuối cùng, y lập kế tống giam chủ mình vào ngục và sát hại người chủ ngay trong tù.

Tương quan giữa con người với Thiên Chúa cũng như bóng với hình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và mọi người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, nhờ Chúa con người mới tồn tại được. Chúa là Chủ, con người là tôi tớ. Chúa là Hình, con người là bóng. Vậy mà nực cười thay, một số người lại làm như nhân vật “Chiếc Bóng” trong tác phẩm của Andersen. Họ đòi quyền làm chủ và bắt Thiên Chúa lệ thuộc họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những đòi hỏi của họ mà không nghĩ rằng họ phải đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa trước đã.

Chẳng hạn khi yếu đau, người ta yêu cầu Chúa chữa họ cho lành. Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ. Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công!… Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!

Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước đã.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta trở về lại đúng vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ và nhiệm vụ của người tôi tớ là lo phục dịch hầu hạ chủ mình mà không được kể lể công lao.

Chúa nói: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi", chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."

Hai vị tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa

Một trong những nét đẹp của Mẹ Maria là Mẹ biết nhìn nhận mình là tôi tớ Thiên Chúa nên sẵn sàng vâng lệnh Chúa truyền. Khi được sứ thần Gáp-ri-en cho biết Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ một sứ mạng thật cao cả nhưng cũng đầy khó khăn, Mẹ sẵn sàng vâng phục vì ý thức mình chỉ là tớ nữ hèn mọn của Thiên Chúa. Mẹ thưa với sứ thần: “Nầy tôi là tớ nữ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.

Ngay cả Chúa Giêsu, “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,… Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự…” (Philip 2, 6-8)

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là Thiên Chúa quyền năng mà còn hạ mình làm tôi tớ, vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho dù phải chết trên thập giá và Đức Maria là hiền mẫu của Chúa, dù được diễm phúc làm Mẹ của Chúa, mà vẫn sẵn sàng phụng sự Thiên Chúa Cha như nữ tỳ khiêm tốn, thì xin cho chúng con là người phàm hèn mọn, luôn biết nhìn nhận mình chỉ là tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa và hết lòng phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi.

-----------------------------------

 

TN 27-C90: Nếu các con có lòng tin


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Khi nghe giáo huấn của Chúa Giêsu về điều kiện điều kiện để vào Nước Trời, các Tông đồ cảm TN 27-C90


Khi nghe giáo huấn của Chúa Giêsu về điều kiện điều kiện để vào Nước Trời, các Tông đồ cảm thầy mình bất xứng. Xót thương cho thân phận bất toàn của chính mình, các ông thấy cần phải có ơn phù trợ đến từ Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời, nên đã kêu lên: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con!”(Lc 17,5).

Bài Tin Mừng Chúa Nhật này bắt đầu bằng lời van xin các tông đồ với Chúa Giêsu là xin ban thêm lòng tin. Thay vì thỏa mãn lòng ao ước của các ông, Chúa Giêsu xem ra muốn làm đức tin lớn mạnh hơn, nên Ngài nói: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải...”

Đức tin là chủ đề nổi bật của Chúa Nhật này, Chúng ta cũng nghe về đức tin trong bài đọc thứ nhất, trong hàng danh tiếng của Khabacúc, được Thánh Phaolo lấy lại trong thơ gởi tín hữu Roma: “Người công chính sẽ nhờ đức tin mà được sống” (1,17).

Các môn đệ hiểu rằng lời dạy của Thầy Giêsu không phải là tư tưởng mới, nhưng kêu gọi họ hoán cái tận căn, từ bỏ hoàn toàn để theo Đấng mà họ gọi là “Chúa” và là “Thầy”. Đức Giêsu khẳng định rằng nếu có đức tin, họ sẽ tìm được câu trả lời. Vì thế, khi đối diện với lời van xin của họ là gia tăng về số lượng, Ngài liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con”.

Đức tin không hành động theo trật tự lô gích của thế giới này. Đức tin hành động các tổng quát bất ngờ và không thể dự kiến trước được, như: “Gió muốn thổi đâu thì thổi: ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy”. (Ga 3, 8). Theo nguyên lý sự sống: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí.” (Ga 3, 6). Thế nên, đức tin đặt chúng ta vào trong tương quan trực tiếp với Thiên Chúa và cho phép chúng làm điều tưởng chừng như không thể.

Tiếp theo Đức Giêsu trình bày cho chúng ta một dụ rất thường ngày, có tính so sánh trong tương quan giữa chủ nhà và đầy tớ, đúng hơn giữa ông chủ với nô lệ của ông. Người nô lệ chu toàn bổn phận thường ngày đúng như ông chủ mong đợi như: cày bừa hay là chăm sóc đàn vật. Khi về đến nhà, ông chủ lại gọi người đầy tớ vào hầu bàn ăn, từ 'hầu hạ' bắt nguồn từ chữ “phó tế” trong sách Công vụ Tông đồ, ám chỉ tích đặc thù của việc bồi bàn là bằng lòng phục vụ vì đức ái.

Ông chủ được phục vụ nhưng lại không mang ơn người đầy tớ; đây là việc đầy tớ phải làm, không có đòi hỏi khắt khe, nặng nề gì cả, anh đã làm việc suốt cả ngày, nhưng là nhiệm vụ của anh, đó là sứ mệnh được ông chủ trao cho với tất cả sự tín nhiệm, ngay cả con trai ông. Khi hoàn thành nhiệm vụ, người đầy tớ được được cất nhắc lên, nhưng không biết lý do tại sao. Giống như kẻ có đức tin bằng một hạt cải có thể chuyển núi, rời non cũng không hiểu tại sao.

Từ những lời dạy trên, Đức Giêsu muốn người kitô hữu chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận, từ việc nhỏ nhất, để có thể thay đổi tình trạng hiện hữu của chúng ta, điều này thật là cần thiết. Chúng ta tham dự bàn tiệc Lời Chúa hay Thánh Thể, để tái khám phá ra trong đức tin, mình không phải là “quân nô lệ, mọi người vẫn còn sợ; Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ hãi như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Ápba! Cha ơi!” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau

khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 15-17)).

Qui chiếu về khổ đau có thể làm chúng ta lo sợ; nhưng đức tin giúp chúng ta không bị chi phối bởi những thất bại của thế gian này; vì “người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Hab 2, 4)), nghĩa là đức tin chịu thử thách. Đúng là để có thể cầm cự tốt cho đến thời đã ấn định, như Thánh Phaolô mời gọi Timôthê người con yêu quý của ngài “Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha” (2 Tim 1, 6-8). Đức tin là tham dự vào “sức mạnh của Thiên Chúa” trong Thánh Thần của tình yêu và lý trí, làm cho chúng ta trở nên người phục vụ, đầy tớ đức ái, nghĩa là tôi tớ của Tin Mừng, mà chúng ta được “ủy thác” như thánh Phaolô kêu gọi chúng ta.

Trong khi đợi chờ sự can thiệp cuối cùng của Thiên Chúa và ngày trở lại trong vinh quang của Chúa Kitô, vẫn còn hạt giống của niềm tin cho phép chúng ta tuyên xưng rằng Chúa đến là điều chắc chắn như lời Ngài hứa: “Người sẽ thực hiện, không chỉ với thời gian ấn định. Chắc chắn giờ sẽ đến”. Chúa không cho chúng ta biết ngày giờ khi ánh sáng Phục Sinh xua tan bóng tối Thứ Sáu Tuần Thánh, mở rộng màn che sự chết trên trái đất của chúng ta (Mt 25, 13). Đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục cuộc hành trình trên thế gian này, trong tin tưởng và hy vọng vào lời Chúa hứa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con và ban Thánh Thần tình yêu xuống đầy lòng chúng con, để chúng con có sức nhổ tận gốc tất cả những ngờ vực và sống bằng lòng trung thành của chúng con. Amen.
 
 

-----------------------------------

 

TN 27-C91: Xin thêm niềm tin cho chúng con


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

 

Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con". Đây là lần duy nhất, các tông đồ xin Đức Giêsu một TN 27-C91


"Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con". Đây là lần duy nhất, các tông đồ xin Đức Giêsu một điều như thế. Tại sao các Tông đồ không xin quyền cao chức trọng, giàu có mà lại xin đức tin? Đối với các Tông đồ, đức tin là điều quan trọng nhất, không có đức tin, các ông không thể là tông đồ, không hoàn thành sứ mạng. Bởi lẽ, sứ mạng của các tông đồ là rao truyền cho mọi người biết: Giêsu Nagiaret bị đóng đinh, chết, đã sống lại vì Người là Thiên Chúa. Điều đó ngược với trí khôn của con người không bao giờ xảy ra trong lịch sử, muốn chấp nhận thì phải có Đức tin. Đức tin là ân ban của Thiên Chúa. Dĩ nhiên cũng cần có sự cộng tác của con người. Tựa như muốn có ánh sáng vào nhà, bạn phải mở cửa, muốn có Đức tin, bạn phải mở cửa lòng mình. Ơn Chúa được ban nhưng không, nhưng phải cầu xin. Lời cầu nguyện là cánh cửa của đức tin, phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa.

Để nói về đức tin, Đức Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: "Chỉ cần có đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển".

Dĩ nhiên, Đức Giêsu không khuyên ta cầu xin những phép lạ lẫy lừng. Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển. Nhiều lần Người đã từ chối các dấu chỉ kỳ diệu người Dothái yêu cầu. Nhưng bằng hình ảnh hạt cải và cây dâu, cũng như hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim, Đức Giêsu mạnh mẽ nói với ta, điều con người không thể, đức tin mở cho ta thấy lại dễ dàng với Thiên Chúa.

Chỉ cần một đức tin nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một trinh nữ, sinh con.

B. Bessière kể: Tôi biết một người nhờ ngọn cỏ mà sống. Một cô gái đã bị tai ương hoạn nạn đè bẹp cô. Trước mặt cô chỉ là một tương lai xám xịt, dễ chịu nhất đối với cô là được ra đi cho rảnh nợ đời. Những bước chân vô hồn vô định trên hè phố, đã tình cờ dẫn cô đến một cọng cỏ. Cọng cỏ xanh non đang cố trổi lên khỏi kẽ nứt bê tông để vươn lên ánh sáng. Sự sống nhỏ nhoi yếu ớt nhưng xanh tươi có vẻ mạnh hơn cả tấm xi măng nặng nề, đã cho cô một dấu chỉ. Cô lấy lại can đảm, để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận ra từ cọng cỏ ấy một sứ điệp. Cọng cỏ đã cứu sống cô.

Trong các nhân đức đối thần: Đức tin, đức cậy, đức mến, Thánh Phaolô dậy: đức mến là cao trọng hơn cả, bởi lẽ về thiên đàng, không có đức tin và đức cậy chỉ còn đức mến. Nhưng trong cuộc sống trần thế, đức tin lại cần thiết, bởi không có đức tin thì không có đức cậy và đức mến. Đức tin khai mở cho người ta được lãnh các bí tích, là căn cước để vào được Thiên đàng. Bởi thế, khi ban bí tích rửa tội, linh mục chủ sự hỏi người dự tòng: "Con xin sự gì cùng Hội thánh?" Người dự tòng thưa: "Con xin đức tin". Linh mục hỏi tiếp: "Đức tin sinh ơn ích gì cho con?" Người dự tòng đáp: "Thưa đức tin đem lại cho con sự sống đời đời ".

Thật may mắn cho ta, được sinh ra trong đức tin từ nhỏ. Đức tin không phải là tĩnh tại, đức tin cần phát triển. Để lớn mạnh trong đức tin, người tín hữu cần phải nuôi dưỡng, bằng việc làm, cầu nguyện, học hỏi lời Chúa, đặc biệt với người trí thức trình độ văn hóa và giáo lý phải cân xứng. Họ phải có khả năng biện bạch đức tin của mình cho người khác, cũng như cho chính mình. Họ cũng cần có khả năng đó khi mỗi ngày phải chạm trán nhiều hơn với thuyết vô thần và thái độ dửng dưng đối với tôn giáo. Họ buộc lòng phải lý giải niềm tin đối với Thiên Chúa của mình.

Bởi thế, đức tin không chỉ được khẳng định suông, nó đòi lý lẽ. Đức tin có lý lẽ là một đức tin vững mạnh. Đức tin đó giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng sao. Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.

Tuy nhiên, ta đừng mong rằng, đức tin làm sáng tỏ mọi điều. Ta sống trong một thế giới có biết bao cuộc tìm kiếm hão huyền, nhằm tìm ra mọi lời giải đáp. Ta có đức tin, không có nghĩa ta hiểu biết mọi điều. Mà ta cũng không cần biết mọi lời giải đáp. Một điều cần, ta phải vững niềm tin. Và như các Tông đồ đã xin: "Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!".
 
 

-----------------------------------

 

TN 27-C92: Chỉ là người tôi tớ


– Lm G. Nguyễn Cao Luật

Xin thêm lòng tin cho chúng con

 

Các tông đổ xin với Đức Giêsu: "Xin cho chúng con thêm lòng tin!" Sao lại xin thêm lòng tin? Tin TN 27-C92


Các tông đổ xin với Đức Giêsu: "Xin cho chúng con thêm lòng tin!" Sao lại xin thêm lòng tin? Tin là thuộc lãnh vực phẩm chất, đâu thuộc lãnh vực số lượng mà lại xin thêm lòng tin. Có lẽ do tại cách nhìn về sự việc.

Và cũng như mọi lần, Đức Giêsu trả lời theo một đường lối khác, một cái nhìn ngược lại.

Một hạt cải trở thành một cây to lớn ... một cây dâu mọc giữa biển ... một ngọn núi di chuyển. Siêu thực: một từ ngữ có thể diễn tả đặc tính của bức tranh về một thế giới mới, một thế giới do Đức Giêsu công bố và trở thành hiện thực nhờ lòng tin. Người ta có cảm tưởng như đang chiêm ngắm một bức tranh của những nhà danh hoạ về siêu thực.

Đức tin quả là có tính "siêu thực". Tin là một cái nhìn khác về điều có thể. Tin là vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, vượt qua trật tự tự nhiên, để thấy được một hiệu quả khác. Nhờ tin, con người đạt tới một đời sống hoàn toàn mới mẻ, không chỉ là kết quả của những nguyên nhân vật chất, nhưng là một cuộc sống được tặng ban, một sự trào vọt, một cuộc sáng tạo phát xuất từ Thiên Chúa.

Quà tặng! Phải nhấn mạnh đến điều này. Tin là một hồng ân vô thường và nhờ tin mà nhận được những hồng ân khác. Thế nhưng, có lẽ người ta quá chú trọng đến quà tặng mà không chú ý đến chính việc làm. Người ta chờ có thể truyền lệnh cho núi non, người ta muốn thấy cây dâu mọc giữa biển khơi. Nhưng ít khi người ta làm việc với lòng tin, ít khi người ta biết đón nhận những điều giáo huấn. Người ta muốn có những kết quả lạ lùng trước khi thi hành những lệnh truyền của Chúa.

Chỉ là người tôi tớ

Chất liệu của dụ ngôn này dựa trên mối liên hệ giữa người nông dân và người đầy tớ của ông. Chắc chắn rằng người đầy tớ không có quyền gì đối với ông chủ. Sau những giờ làm việc cực nhọc ở ngoài đổng, người đầy tớ không được phép nhớ đến việc ăn uống, nghỉ ngơi. Người chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm, hay hầu hạ để cám ơn. Người đấy tớ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho chủ. Đến khi nào người chủ không còn sai khiến gì cả, thì người đầy tớ mới được nghỉ ngơi. Người đầy tớ không hề nghĩ đến việc tham dự vào thế giới của người chủ mà anh có bỗn phận phải phục vụ. Đối với anh, một món tiền gọi là lương, được ăn uống, chừng đó là tất cả.

Tại sao Đức Giêsu lại nói dụ ngôn này?

Từ trước tới nay, người biệt phái vẫn nghĩ rằng tất vả việc lành, việc thiện, việc đạo đức của họ đều là những công nghiệp trước mặt Thiên Chúa mà người đời phải suy tôn và Thiên Chúa phải tính công. Đoạn văn Tin Mừng kể về chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện (xem Lc 18,11-12) cho thấy rõ ý tưởng này. Họ tưởng rằng những việc họ làm đã biến họ thành con người thánh thiện, đạo đức, và không cần đến Thiên Chúa, không cần sự can thiệp của Người. Chính sự tính toán này, thay vì làm cho họ trở thành những người thánh thiện, lại phá đỗ tất cả mọi việc họ đã làm. Họ ra về mà chẳng được tha tội, chẳng được Thiên Chúa xót thương. Trong khi đó, người thu thuế nhận biết mình là người tội lôỵi, nên trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa, và anh đã trở thành người công chính.

Thiên Chúa không hề mắc nợ ai. Con người chẳng có gì để tự hào trước Thiên Chúa, chẳng có gì để khoe khoang. Thực ra, tất cả mọi hành vi của con người đều là hồng ân của Thiên Chúa. "Không có Thầy, chúng con sẽ không làm gì được." Vậy thì, con người có gì để mà kể công, để mà tự hào. Họ đừng ảo tưởng, đừng coi đó như công trạng, nhưng phải nhận ra rằng đó chỉ là bỗn phận, là trách nhiệm của mình. Mọi hành động phượng tự, mọi hành vi bác ái, thật ra vẫn chưa đủ để cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và của người khác. Con người có tạ ơn Thiên Chúa suốt cả đời mình cũng vẫn chưa đủ, vậy thì có gì mà tự hào, mà kể công. Cho dù có đem cả sức lực của mình để phục vụ người khác, con người cũng chỉ thực hiện những điều trong ơn gọi Ki-tô hữu của mình, cũng chỉ là để đáp lại hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình. Có gì đâu để khoe khoang, để kể công.

Bởi đó, nếu có ai tưởng rằng mình hữu dụng, nếu có ai nghĩ rằng mình đã thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, nếu có ai nghĩ rằng mình đã làm tròn bỗn phận của mình, thì rõ ràng người đó không hiểu gì về Ki-tô giáo, về sự thánh thiện và công chính của người môn đệ Đức Ki-tô.

Hồng ân của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người đều không chấp nhận sự tính toán. Bởi vì khi tính toán, con người không phân biệt được vẻ lớn lao của Thiên Chúa và sự thấp hèn của người phàm, không phân biệt được quà tặng với bỗn phận ; họ là những con người hữu hạn, nhưng lại muốn cân đo cái vô biên.

Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là người chủ độc tài, hà khắc, luôn áp bức những người tôi tớ của mình. Trái lại, Người là Cha yêu thương. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu chỉ muốn cho con người, nhất là những người Biệt phái, hiểu rằng: Họ đã được Thiên Chúa trao ban những quà tặng lớn lao, lớn lao hơn những việc họ làm. Con người có làm gì chăng nữa cũng chưa xứng hợp với hồng ân đã lãnh nhận. Và để đón nhận thêm những hồng ân khác, họ phải khiêm tốn, phải nhận ra sự yếu hèn của mình.

Theo gương Người Tôi Tớ

Hơn một lần, Đức Giêsu đã trình bày yêu cầu đặc biệt của Nước Thiên Chúa: thực hiện trọn vẹn lề luật. Chính Người cũng cẩn thận thi hành những điều được coi là bỗn phận của người được sai đến trần gian. Và trên thập giá, Người đã hoàn tất lề luật, hoàn tất bỗn phận: "Mọi sự đã hoàn tất."

Chính Đấng Thiên Sai cũng là người khắt khe với chính mình: là người chăn chiên, Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên ; là người trổng nho, Người dành mọi nôỵ lực cho vườn nho.

Như thế, Đức Giêsu có quyền để nói với chúng ta là những người tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta phải thể hiện trọn vẹn ơn gọi của mình, phải thi hành đầy đủ, đúng đắn những lời của Thiên Chúa đã đặt nơi chúng ta. Chúng ta phải đem hết cả năng lực đã được Thiên Chúa trao ban, để hoạ theo hình ảnh của Đấng đã gọi và chọn chúng ta. Có người cho rằng lời mời gọi vượt qua và đạt tới sự thánh thiện này không phải là đặc trưng của Ki-tô giáo. Thế nhưng, nên nhớ cho rằng, Tin Mừng có tính cách tuyệt đối và một hình ảnh độc đáo là Đức Giêsu Ki-tô, mà không đâu có được.

Như thế, trong cách diễn tả của Đức Giêsu, chúng ta là những người thợ, những người bị giới hạn vì thời gian, vì không đủ khéo léo, và cũng có thể vì chất liệu kém. Kiêu căng, tức là không nhận ra giới hạn của mình, và điều ấy làm chúng ta thành dị dạng, bị méo mó. Chúng ta cần nhớ thân phận của mình như Đức Giêsu nhắc nhở: những đầy tớ vô dụng, tầm thường. "Các con không thể làm cho mình cao hơn một tấc được", và Người cũng thêm: "Cha trên trời biết rõ các con cần gì", "Người sẽ trả lại cho các con gấp trăm."

Khi đưa ra dụ ngôn để dạy bảo con người, Đức Giêsu đã thực hiện nơi chính mình. "Tôi đến không phải để được hầu hạ, nhưng để phục vụ mọi người." Chính điều đó đã đưa Người tới vinh quang, tới sự phục sinh. Đó là kết thúc của con người đã "làm việc bỗn phận".

Vậy, tin không phải là gì khác hơn là tín trung với bỗn phận của mình. Nhờ tín trung và khiêm tốn, mọi sự đều trở thành có thể.

* * *

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, xin ban cho con luôn khát khao điều làm vui lòng Cha.

Xin ban cho con một tâm hồn thức tỉnh để không một tư tưởng hão huyền nào kéo con xa Cha.

Xin ban cho con tâm hồn tự do mà không một đam mê mãnh liệt nào có thể lấn át được. ... (theo thánh Tô-ma A-qui-nô).

-----------------------------------

 

TN 27-C93: NHỎ BÉ

 

Người ta vẫn ví von: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Khinh suất điều nhỏ có thể bị hại lớn. Có những TN 27-C93 Ephata


Người ta vẫn ví von: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Khinh suất điều nhỏ có thể bị hại lớn. Có những con người nhỏ bé, ở những nơi nhỏ hẹp, làm những điều nhỏ nhặt, nhưng lại có thể làm thay đổi diện mạo của thế giới. Chính những điều nhỏ mọn trong cuộc sống lại khả dĩ thể hiện tình yêu lớn lao nhất.

Nữ văn sĩ Hellen Keller ( 1880-1968, người Mỹ ) nói: “I long to accomplish a great and noble task, but it is my chief duty to accomplish small tasks as if they were great and noble – Tôi khao khát làm được những điều vĩ đại và cao cả, nhưng trách nhiệm chính của tôi là làm được những điều nhỏ nhặt như thể chúng vĩ đại và cao cả”. Vâng, vấn đề là làm được những điều bình thường một cách phi thường. “Chuyện nhỏ” mà… không hề nhỏ. Đúng là không đơn giản chút nào !

Đoạn sách Khabacúc ( * ) hôm nay là lời phàn nàn thứ nhất của Ngôn Sứ Khabacúc về “sự công chính suy thoái”. Ông đã dám đặt vấn đề với Thiên Chúa: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: ‘Bạo tàn !’ mà Ngài không cứu vớt ? Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau ? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ” ( Kb 1, 2-3 ). Có lẽ chúng ta cũng đã từng đặt vấn đề như vậy, nhất là những con người yêu chuộng công lý và hòa bình, họ không thể ngồi yên khi thấy sự ác hoành hành khắp nơi.

Ai cũng muốn sống trong một đất nước hòa bình thực sự. Muốn vậy thì phải thực thi công lý, bảo vệ sự thật. Có công lý thì mới khả dĩ có hòa bình.

Thiên Chúa thấu suốt mọi sự ( Sbn 28, 9; Gđt 8, 14; Et 5, 1; 2Mcb 7, 35; 2Mcb 9, 5; 2Mcb 12, 22; 2Mcb 15, 2; G 28, 27; Tv 139, 2; Cn 16, 2; Cn 21, 2; Cn 24, 12; Kn 1, 6; Kn 7, 23; Hc 23, 19; Hc 42, 20; Gr 11, 20; Gr 20, 12; 1Cr 12, 4-6 ), nhưng Ngài vẫn im lặng, đôi khi có người nghi ngờ về sự hiện hữu của Ngài. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng Ngài im lặng vì Ngài tôn trọng tự do của con người, Ngài không thay đổi ngay hoàn cảnh của chúng ta vì Ngài muốn tâm hồn chúng ta thực sự biến đổi.

Trước câu hỏi của ngôn sứ Khabacúc, Thiên Chúa đã trả lời và nói rõ với ông: “Hãy VIẾT lại thị kiến và KHẮC vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy. Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu. Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” ( Kb 2, 2-4 ).

Thi sĩ Paul Claudel ( 1868-1955, người Pháp, kiêm nhà viết kịch và nhà ngoại giao ) đã xác định: “Chúa Giêsu xuống thế không để diệt trừ khổ đau, cũng không giải nghĩa khổ đau, mà để chia sớt khổ đau”. Thật kỳ diệu biết bao ! Và Thánh Têrêsa thành Lisieux phân tích chi tiết: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta và ban ơn cho chúng ta mà hoàn toàn không cần chúng ta đền đáp. Tất cả những gì của chúng ta, ngay cả cái yếu đuối, Ngài cũng yêu”.

Thế thì chúng ta không thể không yêu mến Ngài. Cảm nhận được điều quan yếu đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” ( Tv 95, 1-2 ). Thiên Chúa là Đấng nhân lành ( Mc 10, 18; Lc 18, 19; Ga 10, 11 và 14 ), Ngài thoải mái và tươi cười chứ không “nghiêm khắc” như chúng ta tưởng: “Thiên Chúa mến chuộng dân Ngài” ( Tv 149, 4a ). Thế thì chắc chắn Ngài cũng rất vui khi ở giữa chúng ta. Ngài nghiêm túc chứ không khó tính.

Chúng ta “may mắn” được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như thế thì còn hạnh phúc nào bằng. Ca tụng Ngài và yêu mến Ngài là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta, nhưng cũng là niềm hãnh diện của chúng ta. Vì thế, hãy đồng tâm nhất trí với nhau mà làm việc này: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa !” ( Tv 95, 6-7 ).

Ngày xưa, Thiên Chúa đã khuyến cáo dân Israel: “Các ngươi chớ CỨNG LÒNG như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi ĐÃ từng thách thức và DÁM thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” ( Tv 95, 8-9 ). Lời khuyến cáo này cũng đang và sẽ dành cho mỗi chúng ta ngày nay, đặc biệt là về đức tin.

Ơn Chúa luôn đầy tràn, phép lạ luôn xảy ra với chúng ta mọi nơi và mọi lúc, không cần phải tìm sự lạ ở đâu xa, nhưng đôi khi chúng ta vô tình hoặc cố ý làm ngơ mà thôi. Không khí là một phép lạ về sự sống mà có lẽ ít người nhận biết mà tạ ơn. Và bất cứ chúng ta làm được điều gì có vẻ “nên trò trống” thì cũng là do Thiên Chúa tác động, đúng như Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5b ). Vì thế, chớ có ảo tưởng, cậy sức mình mà vênh vang tự đắc, rồi khinh người. Chúa “nghỉ chơi” một cái là “ngu suốt kiếp” luôn đấy !

Về các ơn ông Timôthê đã nhận được, Thánh Phaolô đã nhắc nhở ông: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” ( 2Tm 1, 6-8 ).

Thánh Phaolô nói thêm: “Với Đức Tin và Đức Mến của một người được kết hợp với Đức Kitô Giêsu, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta” ( 2Tm 1, 13-14 ). Rõ ràng có làm được việc gì – dù to hay nhỏ, dù thành công hay thất bại, chúng ta cũng phải nhờ và chỉ nhờ Thiên Chúa mà thôi. Đó là hệ quả của niềm tin, của lòng tín thác.

Biết tin là có phúc, mặc dù không hề thấy tỏ tường ( x. Lc 1, 45; Ga 20, 29 ). Quả thật, đức tin rất quan trọng trong đời sống tâm linh – kể cả đời thường.
Trình thuật Lc 17, 5-10 cho biết hai vấn đề: [1] sức mạnh của lòng tin, và [2] cách phục vụ khiêm tốn. Vì tin tưởng mà phục vụ: làm ( hoặc không làm ) bất cứ điều gì cho người khác là làm ( hoặc không làm ) cho chính Thiên Chúa ( x. Mt 25, 31-46 ), dù chỉ là cho người khác một chén nước lã ( x. Mt 10, 42; Mc 9, 41 ). Tất cả đều được Thiên Chúa “chấm công” đầy đủ.

Có tin thì mới làm. Nghi ngờ thì không ai dám hành động. Ngày xưa, các Tông Đồ đã thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Một lời cầu nguyện thật đẹp và rất cần. Chúa Giêsu rất vui khi thấy các trò biết cầu nguyện như vậy, và còn hơn thế nữa, Ngài xác định: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em”.

Hạt đức tin nhỏ bé như lại có sức vươn cao, lớn mạnh. Những người vô danh tiểu tốt, thậm chí còn bị người đời khinh miệt, ghét bỏ, nhưng họ lại là những con người “khổng lồ” trong cách nhìn của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã từng xác định: “Người nhỏ nhất là người lớn nhất” ( Lc 9, 48 ). Đó là lời khuyến cáo đối với mỗi chúng ta, vì chúng ta có xu hướng nhìn người theo bề ngoài, ai không hợp ý mình thì gièm pha, chê bôi, triệt buộc,… Đừng quên rằng bất cứ một động thái nhỏ nào của chúng ta đều được “ghi chép”, “ghi âm” và “thu hình” từng chi tiết, rồi ngày mai Chúa sẽ tính sổ với chúng ta !

Về phong cách phục vụ, Chúa Giêsu phân tích: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau’ ? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ?” Bổn phận và trách nhiệm là việc phải làm, không được so đo, phân bì. Nhưng Thiên Chúa vẫn “chấm công” cho những người miệt mài phục vụ vì lợi ích của tha nhân, vì vinh danh Thiên Chúa, vì Nước Trời.

Cuối cùng, Chúa Giêsu khuyến cáo: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: chúng tôi là những ĐẦY TỚ VÔ DỤNG, chúng tôi đã chỉ làm việc BỔN PHẬN đấy thôi”. Đó là cung cách phục vụ theo đức khiêm nhường – mà khiêm nhường lại là nền tảng vững chắc của Tòa Nhà Nhân Đức.

 Chân Phước Lm. Charles Eugène de Foucauld ( 1858-1916, người Pháp ), khi còn trẻ, một đứa cháu nói với ngài: “Cậu làm được những việc rất hay, nhưng cậu đã làm gì cho Chúa chưa ?” Một câu hỏi nhỏ nhưng hàm súc ý tưởng lớn. Và câu hỏi đó đã khiến chàng trai trẻ Charles giật mình, rồi anh đi xưng tội và xin vào Dòng. Trong thời gian phục vụ tại Tuareg, thuộc vùng sa mạc Sahara ở Algeria, ngài đã bị ám sát chết. Cuộc sống thầm lặng và hèn mọn nhưng lại rất vĩ đại. ( Ảnh chụp ).

Câu hỏi của người cháu của Lm. Charles de Foucauld cũng là câu hỏi dành cho chúng ta hôm nay: “Bạn đã làm gì cho Chúa chưa ?” Chúng ta có thể trả lời ngay ? Và câu trả lời như thế nào ? Thật là khó, nhưng đừng lo, vì chúng ta có thể hành động theo cách của Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta: “Không phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhoi với tình yêu vĩ đại”.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con chân nhận mình là kẻ bình thường nhất trong những người bình thường, hèn mọn nhất trong những người hèn mọn, nhờ vậy mà con có thể khiêm nhường thực sự, chứ không lẻo mép, ba hoa. Xin giúp con không buồn khi người khác chỉ trích con, và sẵn sàng bỏ qua cho họ. Xin dạy con làm những gì Ngài muốn con làm, mọi nơi và mọi lúc. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

( * ) Habakkuk là ngôn sứ thứ tám trong 12 ngôn sứ nhỏ, tên Habakkuk có nghĩa là “ôm chặt” hoặc “vật lộn”. Tên ông chỉ xuất hiện trong Kb 1, 1 và 3, 1. Ông là người khác thường trong các Ngôn Sứ, vì ông đã hỏi về công việc của Thiên Chúa ( Kb 1, 3a và 1, 13b ).

-----------------------------------

 

TN 27-C94: Học hỏi Phúc âm Chúa nhật 27 Thường niên - Năm C


(Lc 17,5-10)

 Lời Chúa:

5Các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con". 6Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.

7"Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi", 8chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!? 9Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? 10Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi".

Học hỏi:

 

Theo bạn, tại sao các tông đồ lại xin Chúa "gia tăng lòng tin của họ"? Đọc Lc 17,1-4. TN 27-C94


1. Theo bạn, tại sao các tông đồ lại xin Chúa "gia tăng lòng tin của họ"? Đọc Lc 17,1-4.

2. Đọc Lc 17,6. Theo bạn, các tông đồ đã có đức tin chưa? Đức tin của họ có lớn bằng hạt cải chưa? Đọc thêm Mc 4,40; Mt 8,26; Lc 8,25; 22,42. Bạn có kinh nghiệm gì về sức mạnh của lòng tin?

3. Chúa Giêsu trong Luca có hay dùng lối nói "ai trong anh em" không? Đọc Lc 11,5.11; 12,25; 14,5.28; 15,4; 17,7. Các câu hỏi này thường chờ một câu trả lời như thế nào?

4. Đọc Lc 17,7-8. Bạn nghĩ ông chủ của người đầy tớ này có độc ác không? Đọc sách Huấn ca 33,25-30.

5. Thái độ của ông chủ ở Lc 17,7-8 có ngược với Lc 12,35-38 không?

6. Theo Lc 17,9, ông chủ có phải biết ơn hay ban cho anh đầy tớ một ân huệ đặc biệt nào vì anh đã làm theo lệnh truyền không?

7. Khi thờ phụng hay dâng của lễ cho các vị thần, con người có muốn được các thần đền đáp bằng việc ban ơn tương xứng không? Khi chúng ta làm tròn bổn phận của thụ tạo đối với Thiên Chúa, chúng ta có quyền đòi buộc Thiên Chúa phải ban ơn mình muốn không?

8. Đọc Lc 17,10. Bạn nghĩ gì về lời Chúa Giêsu khuyên chúng ta? Đầy tớ vô dụng ở Mt 25,30 là ai? Còn trong bài Phúc âm này, người đầy tớ vô dụng là người nào? Vô dụng ở đây phải hiểu theo nghĩa nào?

9. Tự hào trước mặt Thiên Chúa về công phúc hay công đức của mình có phải là thái độ của một kitô hữu không? Tìm một thí dụ trong Tân Ước về tật tự hào về đời sống đạo đức của mình?

10. Bài Phúc âm này có làm bạn được giải thoát không?

-----------------------------------

 

TN 27-C95: Tinh thần phục vụ vô vị lợi

 

Trong xã hội nô lệ, ông chủ có toàn quyền trên người đầy tớ. Ông có thể sai người đầy tớ làm hết việc TN 27-C95


Trong xã hội nô lệ, ông chủ có toàn quyền trên người đầy tớ. Ông có thể sai người đầy tớ làm hết việc này tới việc khác. Giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: 'Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa', mà trái lại không bảo nó rằng: 'Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống' (Lc 17,7-8). Dầu người đầy tớ phải làm hết công việc này đến công việc khác, nhưng luôn phải vâng theo ý ông chủ, không được đòi hỏi quyền lợi cho mình. Đức Giêsu nói tiếp: “Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không?” (Lc 17,9).

Khi đề cập đến vấn đề này, không phải Đức Giêsu tán đồng chế độ nô lệ, nhưng Ngài muốn dùng hình ảnh này để giúp chúng ta hiểu về vai trò của chúng ta đối với Thiên Chúa. Ngài nói: “Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm” (Lc 17,10).

Thật vậy, Thiên Chúa là người Cha, Ngài đặt để mỗi người chúng ta trong trần thế này với những khả năng và vai trò khác nhau. Chúng ta phải dùng vai trò và khả năng đó để chu toàn nhiệm vụ của mình. Nếu không chu toàn nhiệm vụ được giao phó, chúng ta có lỗi trước mặt Chúa, nhưng nếu chúng ta chu toàn nhiệm vụ được giao phó cũng chỉ là làm trọn bổn phận của chúng ta mà thôi, chúng ta không có quyền đòi hỏi Chúa trả công.

Những người Biệt phái nghĩ rằng, họ được Thiên Chúa ban cho ơn này ơn khác, họ được lên Thiên đàng là do công phúc của họ. Vì thế, họ thường kể công trước mặt Chúa. Thậm chí, họ còn khinh bỉ anh chị em xung quanh, nhất là những người ngoại giáo, những người họ cho là tội lỗi. Câu chuyện người Biệt phái lên đền thờ cầu nguyện cho chúng ta thấy điều đó. Ông kể lễ các công đức của mình: không tham lam, bất chính, ngoại tình, mỗi tuần ăn chay hai lần, dâng cho Chúa một phần mười thu nhập. Rồi ông còn nói, con không như người thu thuế kia (x. Lc 18,9-14).

Trong thực tế cuộc sống, nhiều người trong chúng ta cũng có thái độ như những người biệt phái: đi lễ, đi nhà thờ, ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái…Có ý để Chúa trả công chứ không phải vì lòng mến Chúa hay vì làm việc đáng phải làm. Phải nhớ rằng: chúng ta luôn được mời gọi cộng tác với ơn Chúa để làm việc lành, việc thiện. Nhưng chúng ta không có quyền dựa vào việc lành, việc thiện của mình làm để đòi Thiên Chúa trả công. Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy tình thương của Ngài. Nhưng vì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và quảng đại, nên Ngài sẽ không bao giờ quên những việc lành, việc thiện chúng ta đã làm.

Lạy Chúa, xin ban thêm Đức tin cho chúng con, để chúng con có thể tin trọn vẹn những gì Chúa dạy và Hội Thánh truyền. Xin cho chúng con luôn có tinh thần phục vụ vô vị lợi theo khả năng và sứ mạng mà Chúa trao phó. Amen.

Lm. Anthony Trung Thành

-----------------------------------

 

TN 27-C96: Suy Niệm Chúa Nhật XXVII THƯỜNG NIÊN C

 

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm về hai điểm chính này: Đức Tin và tinh TN 27-C96


Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm về hai điểm chính này: Đức Tin và tinh thần phục vụ vô vị lợi.

1. Đức Tin

Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa ban, nhưng cũng là một hành động tự do sâu xa của con người. Đức Tin là một trong ba nhân đức đối thần. Đức Tin có thể biến những cái không thể thành những cái có thể. Đức Giêsu nói với các Tông đồ, dù có Đức Tin nhỏ bé cũng có thể làm được những chuyện lớn lao. Ngài khẳng định: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dù các con có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời các con”(Lc 17, 5-6). Như vậy, Đức Tin có sức mạnh vô biên: nhờ Đức Tin, các Thánh Tử đạo vượt qua được những cực hình đau đớn; nhờ Đức Tin, các Kitô hữu vui vẻ chấp nhận những thử thách đau khổ trong đời sống đạo; nhờ Đức Tin, nhiều người kitô hữu dấn thân trong các lãnh vực từ thiện, bác ái; nhờ Đức Tin, Thánh Giáo Hoàng Giao Phaolô II đã tha thứ cho kẻ ám sát mình là Ali Agca; nhờ Đức Tin, Mẹ Têrêxa Caculta đã dấn thân không mệt mỏi để phục vụ những người bị bỏ rơi trong xã hội. Hôm nay, mỗi chúng ta có mặt trong thánh đường này để cử hành thánh lễ cũng chính là nhờ Đức Tin. Chút nữa đây, chúng ta dọn mình sốt sắng lên rước lễ, tức là rước Mình Máu Thánh Chúa qua hình bánh rượu, đó cũng là nhờ Đức Tin…

Như vậy, Đức Tin hết sức cần thiết trong đời sống đạo. Đức tin là điều kiện để các thụ nhân lãnh nhận các Bí tích. Mỗi lần làm phép lạ, Đức Giêsu thường đòi hỏi Đức Tin hoặc Ngài công bố phép lạ xảy ra là nhờ Đức Tin: “Đức tin con đã cứu chữa con.” Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bảo chứng cho những điều ta không thấy (x. Dt 11,1). Khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, vị linh mục hỏi người dự tòng: “Đức Tin sinh ơn ích gì cho con?” Người dự tòng thưa: “Đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.”

Trong cuốn sách “Mỗi Ngày Một Ý Tưởng” của MS Anhre, có đoạn viết: “Nếu bạn mất tiền, bạn sẽ mất đi một ít; nếu bạn mất đi danh dự, bạn sẽ mất đi rất nhiều; nhưng nếu mất đức tin thì bạn sẽ mất tất cả. Đức Tin là chìa khoá để bạn bước vào kho báu của Đức Chúa Trời. Đức Tin là con đường dẫn bạn đến sự chiến thắng. Đức Tin là lối sống đẹp lòng Đức Chúa Trời. Đức Tin là chìa khoá vạn năng giúp bạn mở toang những cánh cửa của Nước Trời. Đức Tin là hành động giúp bạn biến điều bất năng thành khả năng. Vì thế đừng đánh mất Đức Tin mà hãy giữ Đức Tin cho đến cuối cùng thì phần thưởng của Đức Tin đang chờ đón bạn.”

Để không đánh mất Đức Tin, chúng ta phải năng cầu xin Chúa bên thêm Đức Tin cho chúng ta (x. Lc 17,5). Đồng thời, chúng ta phải học hỏi và thực hành Đức Tin trong đời sống, bởi vì“Đức tin không việc làm là đức tin chết tận gốc rễ” (Gb 2,26). Tinh thần phục vụ vô vị lợi là cách thực hành Đức Tin một cách cụ thể nhất.


Lm. Anthony Trung Thành

-----------------------------------

 

TN 27-C97: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI


- CN 27 TN C

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

 

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe không dài. Trong đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu đưa ra TN 27-C97


Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe không dài. Trong đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu đưa ra hai lời dạy:

Cha đố chúng con đó là những lời dạy nào?

Đầu tiên là lời dạy về sức mạnh của Đức tin.

+ Rất đúng. Chúng con rất giỏi.

Tiếp đến là về việc phục vụ cách khiêm tốn.

+ Cũng giỏi luôn. Cha chúc chúng con luôn giởi như vậy!

Nếu chỉ nhìn một cách thoáng qua thì chúng ta có cảm tưởng như hai lời dạy trên là hai lời dạy riêng biệt. Thế nhưng nếu nhìn kỹ thì chúng ta sẽ thấy đây chỉ là hai mặt của cùng một vấn đề.

Vậy vấn đề ở đây là vấn đề gì?

Chúng ta hãy trở lại với hai lời dạy trong bài Tin Mừng chúng ta sẽ thấy. Hai lời dạy này có liên hệ mất thiết với nhau. Lời dạy thứ nhất Chúa nói về sức mạnh dường như vô hạn của niềm tin. Lời dạy thứ hai Chúa muốn cảnh giác con người về cái hiểm họa có thể xẩy ra khi người ta nhờ niềm tin mà làm được những việc có thể coi như phi thường đó.

I. Như vậy vấn đề các môn đệ đặt ra hôm nay xem có vẻ rất là khẩn thiết: "Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con"

+ Qua câu trả lời, Chúa không nói gì đến việc thêm hay không thêm nhưng Chúa lại nói đến một vấn đề khác, Chúa bảo "Nếu chúng con có". Như vậy Chúa đã chuyển vấn đề qua một hướng khác. Điều cần phải xin với Chúa không phải ban thêm mà là để Chúa cho có được đức tin....Khi đã có được đức tin rồi thì mọi sự sẽ dễ dàng.

Để cho các tông đồ hiểu được việc có đức tin quan trọng như thế nào thì Chúa đã dùng thí dụ về hạt cải để giải nghĩa.

Chúng con hãy nghe câu chuyện này: Tại Ý có một thương gia giầu có. Ông không tin có đời sau. Thậm chí ông còn chế diễu những người tin như thế. Trước khi chết, ông cho làm một tờ di chúc. Trong tờ di chúc ông nói rằng sau khi đã an táng ông xong thì phải đập nắp phần mộ của ông bằng một tảng đá hoa cương nặng nhiều tấn. Theo ông nói thì sở dĩ ông cho làm như thế là để đề phòng giả như sau này có sự sống lại thì xác của ông cũng không thể chỗi dậy được. 

Sau khi ông chết, người ta đã làm y như lời ông di chúc. Thế nhưng một sự việc mà người ta thật đã không ngờ. Trước khi tảng đá hoa cương nặng nhiều tấn được đặt lên mộ của ông thì có một con quạ bay qua làm rớt bên cạnh phần một của người giầu có đó một hạt sồi. Hạt sồi là hạt cũng thật nhỏ. Nhưng khi nó được tiếp xúc với đất, nó có điều kiện để mọc lên. Với thời gian cây sồi càng ngày càng lớn. Rễ của nó cũng phát triển theo. Cùng với năm tháng, nó đã lớn đến nỗi có thể làm tất cả những gì cản sức phát triển của nó phải lùi bước. Tảng đá hoa cương nặng nhiều tấn chèn ép sự lớn mạnh của nó đã bị nứt và cuối cùng đã vỡ ra thành hai. Đây là một sự kiện có thật. Chúng ta cũng có thể thấy được những điều tương tự như thế trong cuộc sống của chúng ta.

Hạt sồi rất nhỏ ....nhưng có sức sống...và sức sống đã đem đến những điều hết sức bất ngờ.

II. Đức tin cũng thế. Đức tin có thể đem đến những kết quả nhiều khi ta không thể ngờ được. Và cũng chính vì niềm tin có sức mạnh không thể ngờ được như thế mà Chúa phải cảnh giác các môn đệ của Ngài cũng như cảnh giác cả chúng ta.

Chúng ta hãy nhớ lại một vài sự kiện trong Thánh Kinh. Sách Tông đồ công vụ kể:

Khi ấy, người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ. Ngày ngày họ đặt anh ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí.  Vừa thấy ông Phêrô và ông Gioan sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí.  Hai ông nhìn thẳng vào anh, và ông Phêrô nói:

Anh hãy nhìn chúng tôi đây!

Anh ta chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì.  Bấy giờ ông Phêrô nói:

- Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!

Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. Anh đứng phắt dậy, đi lại được; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh.(Cv 3,210)

Với đức tin Phêrô và Gioan đã làm được như vậy.

Trước đó như Tin Mừng cũng ghi lại: sau chuyến thực tập truyền giáo các tông đồ đã vui mừng mà khoe với Chúa là:

- Cả ma quỉ cũng phải vâng lời chúng con.

Đó quả là những điều rất tốt lành nhưng bên cạnh những điều tốt lành đó còn có những điều đáng sợ.

Câu chuyện Gioan và Giacôbê khi thấy người Samaria không chịu đón tiếp Chúa đã thưa với Chúa như thế nào thì chúng ta đã rõ:

- Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống tiệu diệt chúng không?

Sức mạnh của đức tin đã trở thành một hiểm họa. Thay vì xây dựng nó đã trở thành hủy diệt....Thật là kinh khủng.

Con người rất dễ biến những gì của Thiên Chúa ban cho thành của riêng mình. Chính vì thế mà Chúa muốn cho mọi người phải luôn ý thức về công việc của mình. Mỗi người trước mặt Thiên Chúa chỉ là những người đầy tớ. Người đầy tớ thì phải làm theo ý của chủ. Người đầy tớ không được phép làm theo ý riêng của mình. Và sau khi đã làm xong một việc thì cũng không được kể công. Phải luôn nhớ rằng tất cả mọi sự tốt đẹp trên đời này đều là ân ban của Chúa.

Một Linh mục qua đời....được đưa lên trước mặt thánh cả Phêrô để được kiểm tra trước khi được vào Thiên đàng hay phải vĩnh viễn ra đi.

Thánh Phêrô hỏi:

- Ở dưới thế, cha làm được điều gì xin cha hãy kể ra.

- Dạ thưa thánh cả (Linh mục nói với tất cả sự tự tin của mình) Ở dưới đất con đã xây được một ngôi thánh đường rất to lớn.

Thánh Phêrô lấy bút ghi vào tờ giấy 1 điểm

- Cha còn làm được nhưng gì nữa?

- Con đã xây trường học cho cả ngàn học sinh.

Được thêm một điểm nữa.

- Và gì nữa?

Linh mục bắt đầu suy nghĩ rồi trả lời:

- Dạ con đã cộng tác rất nhiều trong công việc xã hội, từ thiện và bác ái.

Được thêm một điểm nữa.

- Cha còn làm được gì nữa, xin cha tiếp tục cho biết?

Lần này thì vị linh mục bắt đầu cảm thấy lo lắng. Ngài hỏi lại thánh Phêrô:

- Dạ thưa bao nhiêu điểm thì được vào thiên đàng?

- Thánh Phêrô đáp lại: "1000"

Tới đây thì linh mục cảm thấy hoàn toàn mất hết sự tự tin. Kiếm đâu ra cho đủ một ngàn điểm trong khi kể như tất cả những chiêu độc đã được tung ra hết rồi.

Chưa biết trả lời ra sao thì thánh Phêrô thúc dục:

- Sao cha còn làm được gì nữa thì kể hết ra đi?

Với giọng nhuộm màu u tối nhưng cũng có một chút khiêm nhường linh mục chậm rãi trả lời:

- Dạ thưa thánh cả, nhờ ơn Chúa con còn làm được ít việc bác ái nho nhỏ nữa.

Vừa nghe thấy như thế thánh Phêrô tỏ vẻ hết sức vui mừng. Với cây viết đang cầm sẵn nơi tay, Ngài tủm tỉm nụ cười đặt bút viết con số 1000 thật lớn...Viết xong Ngài nói với linh mục:

- Thế là cha được 1003 điểm. Dư điểm rồi....Xin mời cha bước vào.

Vâng tất cả là hồng ân của Chúa. Không có Chúa chúng ta không thể làm được việc gì. Amen.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

-----------------------------------

 

TN 27-C98: NIỀM TIN THƯƠNG MẠI


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Ca dao có câu: Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Câu ca TN 27-C98


Ca dao có câu: Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Câu ca ngàn đời này ca ngợi công lao của cha mẹ lớn như trời biển, khi sinh thành và dưỡng dục con cái nên người. Và cũng từ đó giáo dục cho các thế hệ sau phải biết: “Một lòng thờ mẹ, kính cha – cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con”.

Thế nhưng, cuộc sống bộn bề những gánh nặng chồng chất bởi cơm áo gạo tiền, bởi kiếm kế sinh nhai khiến con cái ngày nay xem ra thực dụng hơn. Họ toan tính thiệt hơn khi phải chăm sóc mẹ cha và đôi khi tàn nhẫn phủi tay trách nhiệm với cha mẹ. Có những người con coi khinh cha mẹ già yếu, thậm chí còn ngược đãi, hành hạ cha mẹ…  .

Có một câu chuyện mang tựa đề “Ngày thứ 31” viết về một gia đình sinh ra được ba, bốn người con. Tuy điều kiện kinh tế khó khăn, nhưng đôi vợ chồng này vẫn cần mẫn nuôi con khôn lớn. Tới khi con cái trưởng thành, cũng là lúc ông bà kiệt sức bởi tuổi già và bệnh tật.

Việc chăm sóc nuôi dưỡng bố mẹ già dường như đã trở thành gánh nặng với các con, chúng đùn đẩy cho nhau. Không ai chịu ai nên chúng bổ đều mỗi người phải nuôi bố mẹ ba mươi ngày luân phiên, bi kịch đã xảy ra khi vào tháng có 31 ngày, không đứa con nào chịu nuôi bố mẹ cái ngày dôi ra ấy, ông bà đành chịu đói nằm chờ qua ngày để đến tháng tiếp theo.

Gần đây có biết bao chuyện đau lòng khi con cái bất hiếu với mẹ cha. Thí dụ như chuyện một đôi vợ chồng già do con cái tranh chấp nhà cửa mà bị đẩy ra sống vất vưởng ngoài đường. Rồi chuyện đứa con ngang ngược hành hạ mẹ già, chỉ vì không cấp đủ tiền cho chúng ăn chơi, hoặc đau lòng hơn, vì mâu thuẫn mà có những đứa con nhẫn tâm đoạt cả mạng sống của chính người đã sinh ra mình… Để lại vết thương lòng nhức nhối trong xã hội.

Đây là kiểu sống không có tình ; chỉ có tính thương mại. Đúng như người xưa nói: ‘Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày’.

Đây cũng là lối sống đạo đầy toan tính của con người thời đại hôm nay. Theo đạo để tìm lợi lộc vật chất như có người vẫn mong cầu trúng số, trúng thưởng hay được trả công bội hậu. Và cũng không thiếu những người xa rời đạo vì theo đạo chẳng được lợi lộc gì! Có người còn toan tính thiệt hơn khi cho Chúa, cho Giáo Hội họ sẽ nhận lại điều gì?

Các tông đồ năm xưa cũng từng hỏi Chúa Giê-su, họ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, họ sẽ nhận lại điều gì? Họ vẫn toan tính thiệt hơn theo kiểu thế gian “có qua có lại cho vừa lòng nhau”. Đây là loại người đức tin còn non yếu. Một đức tin chưa đủ trưởng thành để có thể tin tưởng hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Một đức tin chưa đạt đến mức độ dấn thân để bước đi theo đường lối của Chúa.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: đức tin sẽ giúp chúng ta đạt được những điều ngoài sức tưởng tượng và ngoài khả năng của chúng ta. Một đức tin có thể chuyển núi dời non. Một đức tin có thể làm những chuyện phi thường. Niềm tin chân thành cũng đòi hỏi chúng ta dấn thân hoàn toàn cho Chúa. Một sự dấn thân phó thác mọi sự trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm mọi sự theo ý Ngài, thế nên hãy để ý Chúa được hiển trị trong cuộc đời chúng ta khi chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Hãy để quyền năng Chúa hiển trị trên sự yếu hèn của chúng ta khi chúng ta tín thác nơi Chúa.

Điều quan yếu để đức tin mang lại hoa trái cho cuộc đời chúng ta chính là nhìn nhận sự nhỏ bé, bất toàn của mình để cậy trông vào Thiên Chúa. Nhìn nhận mình chỉ là một đầy tớ vô dụng nhưng được Thiên Chúa yêu thương ân ban biết bao ơn lành hồn xác. Sức khỏe, trí tuệ, sắc đẹp, công việc đều là ân ban của Thiên Chúa. Thử hỏi:

– Trí óc ta thông minh ư ? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.

– Sức khoẻ ta dồi dào ư ? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.

– Ta có nhiều năng khiếu ư ? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.

– Ta đẹp ư ?: cũng thế.

– Ta làm nhiều việc thành công ư ? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.

Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi. Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra sự yếu hèn của mình để biết trông cậy vào ơn Chúa và biết tạ ơn mỗi khi được nhận lãnh. Amen.

-----------------------------------

 

TN 27-C99: ĐỨC TIN BẰNG HẠT CẢI


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

Đức tin là điều cốt yếu để chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa và đi theo Người. Các môn đệ TN 27-C99


Đức tin là điều cốt yếu để chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa và đi theo Người. Các môn đệ khi xưa, nghe tiếng Chúa gọi, các Ngài bỏ tát cả mà đi theo Chúa.Họ đã đến, xem chỗ ở của Chúa, và rồi quyết tâm sống với Ngài.Cái trớ trêu đối với các Tông đồ là dù đã đi theo Chúa, sống thân mật với Chúa, nhưng các Ngài vẫn chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Do đó, các môn đệ một hôm  thưa với Chúa:” Thưa Thầy xin thêm lòng tin cho chúng con “ ( Lc 17,5 ).

 Vâng, thời gian theo Chúa mặc dầu chưa lâu lắm, nhưng các môn đệ đã chứng kiến việc làm của Chúa, các phép lạ,trừ quỷ, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, đặc biệt các Ngài được chính Chúa đào tạo, huấn luyện, uốn nắn vv…Gương cầu nguyện của Chúa, kỷ luật bản thân của Ngài, đời sống thiêng liêng đối với Thiên Chúa Cha, đời sống nhân bản, cách cư xử, ứng xử của Chúa Giêsu đối với các Ngài và đối với dân chúng đã là sự đào tạo liên lỉ và vững chắc, tuyệt hảo của Chúa đối với các Ngài. Tuy nhiên, các mon đệ vẫn còn cảm thấy thiếu, nếu không nói được là các Ngài chưa hiểu, chưa nhận ra Chúa, chưa tin tuyệt đối vào Ngài. Chúa trả lời:” Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dầu anh em có bảo cây dâu này:” Hãy bật rễ lên,xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em “ ( Lc 17, 6 ). Khi Chúa trả lời với các môn đệ như vậy, Ngài không né tránh vấn đề, Ngài cho hay “ Đức tin là điều tối cần, là điều kiện tiên quyết để các Ngài tin và nhận ra chân tướng đích thực của Chúa “. Đức tin cần thiết cho mọi người. Đức tin quan trọng nơi hiệu năng của nó. Nếu không có đức tin, con người không thể nhận ra Chúa và tin tuyệt đối vào Ngài.  Chúa đưa ra ví dụ “Hạt cải “ để cho thấy:” Hạt cải tuy nhỏ bé, nhưng gieo vào đất tốt, vun xới, chăm sóc, hạt nẩy mầm, cây lớn lên và chim trời có thể tới làm tổ. Chúa đưa ra dụ ngôn và sự ví một cách rất dí dỏm như thế để thấy đức tin cần thiết như thế nào. Cây cải được Chúa coi là Giáo Hội, Nước Trời:” Giáo Hội, Nước Trời tuy nhỏ bé giống như hạt cải, nhưng cứ tiệm tiến lớn lên đến nỗi quy tụ được mọi dân mọi nước “.

Như mẻ cá 153 con mà các môn đệ theo lệnh Chúa Phục Sinh đã thả xuống bên phải mạn thuyền, họ kéo lên được mẻ cá nhiều đến gần rách cả lưới. Chúa ám chỉ muôn dân nước sẽ nhập Giáo Hội, sẽ vào Nước Trời. Chúa cũng đã khen viên bách quản:” Ta chưa thấy lòng tin mạnh mẽ và lớn lao nơi dân Israen “.Hay người nữ bị băng huyết, Chúa cũng đã khen ngợi lòng tin mạnh mẽ, nhưng kín đáo của bà…Nhờ lòng tin mà nhiều người đã nhận ra Chúa và đi theo Ngài…” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “  biểu tỏ cho mọi người:” Đức tin cần phải tỏa chiếu bằng những việc làm tỏa sáng “. Các thánh là mẫu gương về đức tin cho chúng ta noi theo, bắt chước. Các thánh tử đạo đã can đảm, cương quyết làm chứng cho Chúa tới cùng. Một thánh Phanxicô Át Xi Di đã sống khó nghèo để làm chứng cho Chúa khó nghèo. Thánh Phanxicô Xavie, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm chứng cho Chúa bằng việc cầu nguyện truyền giáo. Thánh Têrêsa thành Calcutta đã yêu thương người nghèo vì họ chính là hiện thân của Thiên Chúa. Tất cả các thánh đã sống đức tin, làm chứng cho Chúa bằng chính những việc làm tỏa sáng của mình. Do đó, đức tin dù nhỏ bé nhưng nó lại lớn mạnh, cần thiết cho chính đời sống của người Kitô hữu.

Hôm nay, Giáo Hội cũng mừng lễ Mẹ Mân Côi. Mừng lễ Mẹ Mân Côi chúng ta hãy nghe lời Mẹ khuyên và thực hành điều Mẹ truyền dạy, xưa Mẹ đã hiện ra với ba em: Lucia, Phanxicô và Giacinta, Mẹ đã tự xưng Mẹ là Mẹ Mân Côi và khuyên ba em và thế giới:” Hãy năng lần chuỗi Mân Côi, ăn năn, hối cải, quay trở về với Thiên Chúa  để Thiên Chúa thứ tha “.

Chuỗi Mân Côi là mối giây liên kết, ràng buộc chúng ta với Thiên Chúa, với Mẹ và với mọi người. Lời kinh Mân Côi là lời kinh tuyệt vời vì Chuỗi Mân Côi là mối giây bền đỗ của mọi người chúng ta.

Lạy Mẹ Maria tước hiệu nào Thiên Chúa và Giáo Hội tặng ban cho Mẹ cũng cao quý, tuyệt vời, xin Mẹ giúp chúng con luôn noi gương bắt chước Mẹ lần chuỗi Mân Côi vì kinh Mân Côi mang lại phần rỗi cho chúng con.Amen.

-----------------------------------

 

TN 27-C100: ĐỨC TIN


Trần Việt Hùng

 

Đức tin ân sủng Chúa ban, Nguồn thiêng cao quý, chứa chan ân tình. Niềm tin hạt cải nhỏ xinh TN 27-C100


Đức tin ân sủng Chúa ban,
Nguồn thiêng cao quý, chứa chan ân tình.
Niềm tin hạt cải nhỏ xinh,
Cậy trông phó thác, an bình tâm can.
Ai mà tin tưởng nài van,
Ơn trên đổ xuống, tràn lan tâm hồn.
Khiến dâu bứng rễ ra cồn,
Nó liền vâng lệnh, trồng chôn biển này.
Lòng tin củng cố mỗi ngày,
Trau dồi học hỏi, sống ngay giữa đời.
Dụ ngôn đầy tớ gọi mời,
Là người vô dụng, một thời lao công.
Giúp cho ông chủ ruộng đồng,
Chu toàn bổn phận, kể công làm gì.
Nấu cơm dọn bữa thường khi,
Hoàn thành trách nhiệm, thực thi mọi điều.
Trả công sòng phẳng chi tiêu,
Chủ không mắc nợ, bao nhiêu việc nhà.
Các con đầy tớ thật thà,
Thi hành ý Chúa, mới là tôi trung.

Các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con. Đức tin là nguồn sức mạnh giúp ta làm những việc phi thường. Các Tông đồ là những người được Chúa gọi, chọn, theo và nghe Chúa cùng chứng kiến nhiều phép lạ, thế mà các ngài vẫn cảm thấy thiếu niềm tin. Các ngài xin Chúa thêm đức tin để chu toàn sứ vụ.

Chúa ví đức tin như hạt cải bé nhỏ, nhưng qua thời gian nó sẽ phát triển và lớn mạnh. Đức tin chỉ bé bằng hạt cải cũng có thể bứng cây dâu đi trồng dưới biển. Đức tin là tin tưởng và phó thác hoàn toàn trong quyền năng của Chúa. Đức tin không do học hỏi hay kiến thức mà có được. Đức tin là ơn Chúa ban. Có biết bao người trí thức, có bằng cấp nhưng họ không có đức tin. Trong khi những người quê mùa, thất học, đơn sơ lại có đức tin mạnh mẽ. Nếu đòi mọi sự sáng tỏ rồi ta mới tin, thì không còn là đức tin nữa.

Chúng ta thừa hưởng kho tàng đức tin qua Giáo Hội. Chúng ta nhận lãnh đức tin trong Bí tích Rửa Tội. Đức tin cần được trau dồi, học hỏi và cần sống niềm tin. Thánh Giacôbê nói rằng: Đức tin không việc làm là đức tin chết. Chúng ta không thể lãnh nhận đức tin rồi đem cất dấu nhưng cần được tỏa sáng ra bằng việc phục vụ.

Thánh Tôma Thiện mồ côi cha từ nhỏ. Thời Vua Minh Mạng ra lệnh cấm đạo và muốn tiêu diệt tận gốc người tin Chúa. Họ bắt người Công Giáo phải đạp ảnh thánh giá để tỏ dấu bỏ đạo. Năm 18 tuổi, Tôma bị bắt và bị đeo gông cùm giải về Quảng Trị và bị đánh đập tra tấn. Quan hứa rằng: Nếu chịu bỏ đạo sẽ được tha. Cậu trả lời: Đạo dậy tôi thờ kính Thiên Chúa là đạo thật, tôi không thể bỏ đạo. Quan lại nói: Có lệnh Vua, nếu không bỏ đạo, sẽ bị chém đầu. Cậu trả lời: Tôi sẵn sàng chịu chém đầu chứ không bỏ đạo. Dù quan có hứa đủ điều và dạy cách giả vờ chối đạo, cậu kiên trung không sợ chết để giữ vững đức tin và lãnh triều thiên tử đạo.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Có đức tin vào Thiên Chúa chúng ta sẽ vững tâm và sống an bình. Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và bình tâm trước mọi sự thử thách. Có người đến gặp bà hy vọng học được bí quyết để sống hạnh phúc. Ông hỏi bà: Thưa bà, có phải bà có đức tin lớn lao. Bà trả lời: Ô, không đâu, tôi không có đức tin lớn lao mà tôi có một đức tin nhỏ bé đặt vào Thiên Chúa lớn lao.

-----------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây