Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 10-C Bài 1-50 Con bà góa thành Naim sống lại

Thứ tư - 08/06/2022 07:10
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 10-C Bài 1-50 Con bà góa thành Naim sống lại
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 10-C Bài 1-50 Con bà góa thành Naim sống lại
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 10-C Bài 1-50

Con bà góa thành Naim sống lại

---------------------------------------

TN 10-C1: CON BÀ GÓA THÀNH NAIM SỐNG LẠI 2
TN 10-C2: Bà góa thành Naim.. 5
TN 10-C3: Tấm lòng ưu ái và dịu hiền của Chúa Giê-su. 6
TN 10-C4: Nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa. 8
TN 10-C5: Ân điển và sự tha thứ của Chúa. 13
TN 10-C6: MARIA LÀ KẾT TINH CỦA HỘI THÁNH VIÊN MÃN, 17
TN 10-C7: TIN TƯỞNG BƯỚC THEO CHÚA.. 20
TN 10-C8: NGƯỜI LÀNH, KẺ DỮ.. 22
TN 10-C9: Ba cuộc phục sinh. 23
TN 10-C10: Đấng chiến thắng sự chết 25
TN 10-C11. LÒNG THƯƠNG XÓT CỨU ĐỘ.. 27
TN 10-C12. Bà đừng khóc nữa! 30
TN 10-C13. LÒNG NHÂN TỪ HAY HY LỄ.. 32
TN 10-C14. CỨU CHỮA NGƯỜI TỘI LỖI 34
TN 10-C15. TÂM HỒN KHAO KHÁT.. 35
TN 10-C16. Nain. 36
TN 10-C17. Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người 38
TN 10-C18. Sự thương xót của Chúa sự sống. 42
TN 10-C19. Lòng tin nơi dân – R. Gutzwiller 44
TN 10-C20. Chúa thương dân khổ – Lm. ViKiNi 46
TN 10-C21: Sự sống hay nỗi chết – Thiên Phúc. 47
TN 10-C22: Tình người của Thiên Chúa rất đáng khâm phục. 49
TN 10-C23: Dấu chỉ thành Naim – André Sève. 51
TN 10-C24: Ngài vẫn còn làm phép lạ – Mark Link. 53
TN 10-C25: Suy niệm của Lm. Văn Quy & Lm. Trần Văn Khả. 56
TN 10-C26: Chú giải của Noel Quesson. 60
TN 10-C27: Chú giải mục vụ của Hugues Cousin. 63
TN 10-C28: con trai bà góa Nain sông lại 65
TN 10-C29: PHÉP LẠ CON BÀ GÓA Ở THÀNH NAIM... 70
TN 10-C30: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người 72
TN 10-C31: Đừng khóc nữa. 74
TN 10-C32: Thông cảm để “chạnh lòng thương”. 77
TN 10-C33: Đấng có Lời ban sự sống (Lc 7,11-17) 80
TN 10-C34: Tấm lòng để yêu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 83
TN 10-C35: NIỀM VUI GÓA PHỤ.. 85
TN 10-C36: LÒNG TRẮC ẨN.. 88
TN 10-C37: NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÓC.. 92
TN 10-C38: Để được sống. 94
TN 10-C39: Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 96
TN 10-C40: Thiên Chúa viếng thăm dân Người 99
TN 10-C41: Thương cảm – Lm. Mark Link. 100
TN 10-C42: Hãy chỗi dậy! - P. Trần Đình Phan Tiến. 103
TN 10-C43: Niềm tin sống lại từ cõi chết – Lm. Anmai 104
TN 10-C44: Nên giống Trái Tim Chúa – Lm. Nguyễn Nguyên. 107
TN 10-C45: Chết rồi sống – Lm. Trịnh Ngọc Danh. 109
TN 10-C46: Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 113
TN 10-C47: Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 116
TN 10-C48: Ý nghĩa của cuộc sống. 119
TN 10-C49: THIÊN CHÚA THẤU HIỂU VÀ THẤU CẢM... 120
TN 10-C50: ĐỪNG CÓ VÔ CẢM... 123

-----------------------------------------

 

TN 10-C1: CON BÀ GÓA THÀNH NAIM SỐNG LẠI


Lc 7,11-17

 

Lc là tác giả phúc âm duy nhất ghi lại cảnh tượng cảm động này. Ông đặt đoạn này sau phép: TN 10-C1


1. Lc là tác giả phúc âm duy nhất ghi lại cảnh tượng cảm động này. Ông đặt đoạn này sau phép lạ chữa lành đầy tớ của viên đội mà không xác định thời gian, và chỉ nói là xảy ra ở thành Naim. Thành này, ngày nay chỉ là một làng nhỏ, cách Capharnaum độ 7 hoặc 8 giờ đi bộ, ở hướng tây nam, về phía nam núi Tabore, cách Naxareth khoảng 8 cây số về hướng Đông Nam. gần làng, về hướng đông, người ta thấy những ngôi mộ được đào trong các tảng đá.

2. Vì người ta thường đưa đám ma vào lúc gần tối, nên hình như CGS đã gặp đám tang này vào lúc ban tối. Theo tục lệ phương đông, người chết được đặt vào trong quan tài không đóng nắp. CGS không đi một mình, ngoài các môn đệ còn có đám đông theo Ngài. Ngoài ra đám tang còn có đông đảo dân thành đi đưa tiễn. Các chi tiết này rất quan trọng vì đó là bằng chứng cho thấy phép lạ được thực hiện một cách công khai, do đó không phải là một chuyện hoang đường, bịa đặt.

3. Giai thoại này chứa đựng một giáo thuyết thần học sâu xa, vì nói lên một dấu chỉ thiên sai, tức là dấu chỉ phục sinh kẻ chết, dấu chỉ mà CGS sau này sẽ dùng để trả lời câu Gioan Baotixita hỏi: “Kẻ chết được sống lại” (7,22).

Đó là dấu chỉ mà Gioan Baotixita, với tư cách là một Elia phải đến trước (Mt 17,9-13) sẽ nhận ra cách chắc chắn: tiên tri Elia và tiên tri Elise đã chẳng phục sinh con trai độc nhất một bà góa (1V 17,17-24) và của một bà quý phái (2V 4,21-37) đó sao ? Vả lại ảnh tượng này còn nhiều ý nghĩa khác nữa. Quả thế, dù các truyền thuyết ghi lại các phép lạ CGS làm, thường không xác định địa danh xảy ra phép lạ. Nhưng ở đây, tác giả phúc âm lại cẩn thận nhắc đến tên thành Naim. Chính vì Naim rất gần với cổ thành: Shunem, là nơi mà Elise đã cho con trai độc nhất của một bà góa quí phái sống lại(2V 4,8). Thành ngữ “sau đó CGS trao nó lại cho người mẹ” ở Lc 7,15 giống với 1V 17,23 (theo bản LXX). Việc dân chúng chứng kiến phép lạ hô lên “một đại tiên tri đã xuất hiện giũa chúng ta” (Lc 7,16) cho thấy họ đã nghiệm thấy có sự tương hợp song song giữa các phép lạ này với các phép lạ trong CƯ. Họ còn chú giải thêm “TC đã viếng thăm dân người” chứng tỏ họ đã nhận ra ý nghĩa thiên sai của phép lạ này, ý nghĩa mà các môn đệ Gioan Baotixita phải báo cáo lại cho sư phụ của họ.

4. Đây là lần đầu tiên trong phúc âm, Lc gán cho CGS tước hiệu “Chúa” (ho kurios le Seigneur). Hình như việc các Kitô hữu đầu tiên tuyên xưng CGS (phục sinh) là Chúa, đã ảnh hưởng đến văn thể các bài trình thuật cuộc đời trần thế của CGS. Nếu CGS đã mang trong Ngài khả năng phục sinh kẻ chết, thì chính Ngài một cách nào đó đã là Chúa phục sinh, một ngày kia sẽ chiến thắng cái chết cách khải hoàn. Từ đấy, Lc thường dùng tước hiệu Chúa để chỉ CGS: 7,19; 10,1; 10,3c; 10,41; 11,39; 12,42; 13,15; 16,18; 17,5; 17,6; 18,6; 19,8; 22,6661; 24,34. Đây là những đoạn văn riêng của Lc. Chỉ ở Lc 19,31 mới có song song trong Mt và Mc: Mt 21,3 Mc 11,3. Tước hiệu Chúa là một tước hiệu Kitô hữu (x. Rm 10,9; Ph 2,11...) nói lên thần tính của CGS.

KẾT LUẬN

Qua phép lạ nhân từ này, CGS đã tỏ mình Ngài để mang hòa bình và niềm vui. Phải chăng hành động cứu rỗi của Ngài đã biểu lộ ra giữa mọi người khi Ngài “đi qua và làm phước” (Cvsđ 10,38). Chính đó là dấu hiệu mà người ta nhận biết Ngài thật sự là Đấng được TC sai đến.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Trong phúc âm này ghi lại một phép lạ được thực hiện vì lòng thương xót: “Chúa động lòng thương bà” (c.13). Lời chú giải hay nhất có lẽ là của thánh Phaolô: “Lòng nhân từ và tình yêu của TC Đấng cứu thoát chúng ta đã được tỏ hiện cho mọi người” trong thời gian rao giảng Tin mừng (Tit 3,4). Vì Con TC làm người không thể hờ hững trước nỗi thống khổ của loài người chúng ta (Dth 4,15-16; 2,17-18). Nếu phép lạ, và nhất là phép lạ sống lại là cao điểm đặc biệt của sự can thiệp đầy nhân từ của tình yêu TC. Chúng ta có thể tin chắc Ngài không thể để các tâm hồn đau khổ vì tang sầu hay lo lắng mà không an ủi họ (Lc 4,18-19). Trái tim CGS đầy lòng thương đối với mọi khốn khổ của nhân loại.

2. Khi phục sinh đứa con duy nhất của bà góa, CGS hành động như Elia đã làm đối với bà góa thành Sarepta (2V 3,32-37). Các tiên tri không làm phép lạ tại quê hương mình, cũng như CGS không làm phép lạ sống lại tại Nazareth, nhưng tại Capharnaum (con gái ông Gairô Mt 9,23-26), tại Gierusalem (Lazaro: Gio 11,32-44) hoặc ở Naim, sát bên làng của Ngài. Tại Naim, dân chúng nhìn nhận Ngài là tiên tri của TC (c.16). Nhưng ở Nazareth thì không, dù họ đã nghe các phép lạ Ngài đã làm ở nơi khác.

3. Người thì hô một đại diện tiên tri đã xuất hiện, kẻ khác thì nói: “TC đã viếng thăm dân Người” (c.16), điều này làm chúng ta liên tưởng đến thánh thi của Zacharia, thân phụ Gioan Baotixita (kinh Benedidtus). Trong thánh thi đó Zacharia nói lên lòng nhân ái của TC sắp viếng thăm chúng ta, như mặt trời mọc lên nơi cao để soi những kẻ ngồi trong tối tăm và dưới bóng sự chết, để đẫn đưa chúng ta trên đường an bình” (Lc 1,78-79). Quả thực, CGS viếng thăm nơi đâu là mang đến sự sống cho nơi ấy (thỉnh thoảng mang sự sống thể lý đến: ví dụ như ở đây Ngài cho kẻ chết sống lại; nhưng luôn ban sự sống thiêng liêng cho những ai muốn tin vào Ngài và chấp nhận sống theo sứ điệp Ngài), Ngài còn an ủi ("đừng khóc nữa”, CGS nói với bà góa thành Naim), ban bình an và niềm vui. Đi đến đâu CGS ban ơn đến đó: chính vì thế mà sau này thánh Phêrô trong một bài diễn từ có thể tóm tắt đời sống của CGS, một cuộc đời mà ông đã chứng kiến tận mắt (Cvsđ 10,38).

4. Chỉ mình TC, chủ sự sống và sự chết, mới có thể cho kẻ chết sống lại. Nếu CGS tự cho mình làm phép lạ phục sinh, là Ngài muốn qua đó chứng minh mình cũng là TC (Gio 5,21). Nhưng thực ra Ngài luôn luôn nhất trí hành động với Cha Ngài (Gio 11,41-42). Nếu Ngài cho các thánh nhân khả năng phục sinh kẻ chết (Cvsđ 20,9-12), luôn luôn là do quyền năng Ngài uỷ thác và nhân danh Ngài thi hành.

5. CGS đã động lòng thương chính bà mẹ của chàng thanh niên, vì bà góa phụ là mẹ của người con trai độc nhất. CGS cũng xót thương các bà mẹ đã mất con vì chiến tranh, bệnh tật, tai ương. Nước mắt các bà mẹ sẽ làm Chúa mủi lòng, vì Ngài là đấng an ủi những tâm hồn sầu đau (2Cor 1,4; 7,6) và có thể biến các giọt nước mắt cay đắng thành mối hoan lạc (Kh 3,17; 21,4) như khi Ngài hoán cải thánh Augustino để đáp ứng những giọt nước mắt âm thầm đau khổ của thánh nữ Monica, mẹ Audustino.

6. Hành động của CGS mang một giá trị tiên tri. Vì sau này đức Maria, góa phụ của thánh Giuse, sẽ thương khóc cái chết của CGS, con trai độc nhất của Ngài. Nhưng ngày phục sinh, chính CGS lại trao hiến cho mẹ Người Con đã phục sinh từ cõi chết.

7. Chỉ một lời CGS đủ khả năng ban sự sống cho thân xác cũng chỉ một lời Ngài phán đủ ban sự sống cho linh hồn. Thay vì nói “hãy chỗi dậy”, Ngài phán “tội con đã được tha”. Chúng ta hãy tín thác để CGS phục sinh chúng ta: Ngài là “Chúa”, là chủ sự sống, hằng thương xót loài người.

-------------------------------------------

 

TN 10-C2: Bà góa thành Naim 


Lc 7,11-17

A. Hạt giống...

 

Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim:- Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời: TN 10-C2


Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim:

- Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
- Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.
- Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.

B.... nẩy mầm.

1. Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác.

- Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm được cái khổ của người nghèo.
- Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm được nỗi đau của họ.
- Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…

Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt.

2. Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị: thấy được nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ cách tế nhị nhẹ nhàng như hôm đó Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.

3. “Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài”: việc này bị luật coi là ô uế. Nhưng để an ủi gia đình người chết, và để “tiến lại gần” (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương giúp đỡ đòi phải can đảm và hy sinh.

4. Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu giúp khiến tôi nghĩ đến cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không ngõ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.

Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ, Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.

5. “Chúa Giêsu lại gần sờ vào quan tài và nói: ‘Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy’. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói” (Lc 7,14-15)

Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ… Chúa nhựt nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải ?

Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ. Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà !

Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng gọi của nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy gọi con quay lại từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna)

6. Mầm khác:

-------------------------------------------

 

TN 10-C3: Tấm lòng ưu ái và dịu hiền của Chúa Giê-su


Lu-ca 7, 11-17

Sau đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám người rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà đừng khóc nữa !" Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy !" Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người." Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.

***

 

Nếu mục đích của thánh Lu-ca là trình bày cho các độc giả thấy tấm lòng ưu ái và dịu hiền của: TN 10-C3


Nếu mục đích của thánh Lu-ca là trình bày cho các độc giả thấy tấm lòng ưu ái và dịu hiền của Con Người Giê-su, thì chúng ta dễ hiểu tại sao, trong các tác giả viết Phúc Âm, chỉ một mình vị bác sĩ này kể lại câu chuyện cảm động Chúa cứu sống con trai của góa phụ thành Na-in. Không còn bức tranh nào đầy lòng xót thương trắc ẩn như thế. Na-in nằm cách Ca-phác-na-um một ngày đường. Thành này ở giữa En-đô-rơ và Su-nem, là nơi tiên tri Ê-li-sê xưa đã khiến con trai của một bà góa sống lại (2V 4, 18-37). Ngày nay, nếu từ Na-in đi bộ khoảng mười phút về phía En-đơ-rô chúng ta vẫn thấy một nghĩa trang có những ngôi mộ đục trong đá nơi chôn những người chết. Về nhiều phương diện, đây là câu chuyện chứa đựng những lời dậy dỗ đáng phải học.

Nó nêu lên sự cảm động cùng nỗi cay đắng của cuộc đời.

Đám ma được dẫn đầu bằng một đội khóc mướn với ống sáo và thanh la của họ phát ra những tiếng la ó khóc than inh ỏi. Có cả một nỗi sầu vạn cổ chứa chất trong câu nói đơn sơ khắc khổ này: "Người chết là con trai duy nhất của một bà góa kia." Từ trong bản chất của mọi sự, chúng ta buộc phải sống trong một thế giới đầy những tấm lòng tan vỡ.

Nhưng Lu-ca thêm tình thương của Chúa Giê-su vào những mối cảm xúc của đời người.

Chúa Giê-su cảm động sâu xa tận đáy lòng. Trong ngôn ngữ Hi-lạp không còn từ nào mạnh hơn để diễn tả lòng thương xót cảm thông, và đây là một từ đã được dùng nhiều lần cho Chúa Giê-su trong các chuyện Phúc Âm (Mt 1,14 ; 15,32 ; 20,34 ; Mc 1,41 ; 8,2) Đối với thế giới ngày xưa thì đây là một việc lạ lùng. Trong thời cổ, đức tin được kể là cao trọng nhất là đức tin của phái khắc kỷ. Các người của trường phái này tin rằng đặc tính thứ nhất của Thượng Đế là không tình cảm, không thể bị xúc cảm hay động lòng. Họ lập luận: nếu kẻ nào có thể làm cho kẻ khác buồn bã, lo âu, vui mừng, thỏa thích… có nghĩa là người đó có thể ảnh hưởng tới kẻ khác, có nghĩa là anh ta vượt trội hơn kẻ khác. Nhưng không ai có thể lớn hơn Thượng Đế, không ai ảnh hưởng được Ngài, cho nên lẽ đương nhiên, Thượng Đế phải là Đấng bất khả xúc động. Nhưng ở đây loài người được đứng trước một tư tưởng kỳ lạ về một nhân vật là Con Thượng Đế mà lại chịu cảm động đến tận đáy lòng Ngài. Đối với nhiều người, đây là một điều rất quý báu về Thượng Đế, Cha của Chúa Cứu Thế Giê-su.

Thêm vào tình thương của Chúa Giê-su, Lu-ca còn nêu lên quyền năng của Ngài nữa.

Chúa Giê-su tiến đến, rờ vào quan tài. Thực ra đó không phải là quan tài như chúng ta, mà là một cái rọ đan bằng mây để đem thi hài đến phần mộ. Đây là một khoảnh khắc vô cùng cảm động. Như một nhà giải thích Kinh Thánh đã nhận định: "Điều mà tử thần bắt lấy như miếng mồi của mình thì Chúa Giê-su lại nhận là phần sở hữu của Ngài." Có người cho đây chỉ là một phép lạ chẩn bệnh. Có thể Chúa Giê-su nhìn thấu suốt và biết rằng người thanh niên chỉ ở trong trạng thái hôn mê, và Ngài đã cứu anh khỏi bị chôn sống, điều thường xảy ra tại xứ Pa-lét-tin. Dầu vậy, điều đó cũng không quan trọng, sự thật vẫn là: Chúa Giê-su đã đòi quyền sống cho một con người đã bị phó cho tử thần. Chúa Giê-su không chỉ là Chúa của sự sống, Ngài còn là Chúa của sự chết, chính Ngài đã đắc thắng mồ mả và Ngài phán rằng bởi vì Ngài sống nên chúng ta cũng sẽ sống. (Ga 14,19)

Thêm vào tình thương của Chúa Giê-su, Ngài còn là Đấng Cứu Thế đầy quyền năng. Thầy thuốc Lu-ca còn nêu thêm một chi tiết cá biệt nữa. Chữ "Chúa" ở đây được tác giả dùng đầu tiên trong bản văn Hy văn, và theo nguyên ngữ có nghĩa là "Chủ". Lu-ca dùng đầu tiên hẳn ông phải có dụng ý. Ông muốn nói Chúa Giê-su, vì là chủ của sự sống, nên Ngài có thẩm quyền trên sự chết. Trong sự kiện này, không có người nào yêu cầu Chúa hành động, nhưng Ngài là Chúa, Chủ của sự sống, Chúa hiểu nỗi cô đơn của người mẹ có một đứa con trai, người đàn ông duy nhất để chăm sóc cho bà, Ngài động lòng trắc ẩn, an ủi bà đừng khóc. Ngài đã hành động ngay. Người thanh niên này đã vùng ngồi dậy, bắt đầu nói và được Chúa giao liền cho người mẹ. Còn nguồn hạnh phúc nào sánh cho bằng trong hoàn cảnh đau thương đó ! Phép lạ xảy ra vì Đấng Cứu Thế của nhân loại, Chủ của sự sống, luôn luôn yêu thương loài người, thăm viếng , hiểu và đáp ứng nhu cầu sâu xa nhất của con người, dù lắm khi người ta chưa hiểu biết Ngài, chưa kêu xin Ngài.

-------------------------------------------

 

TN 10-C4: Nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa


Lu-ca 7, 36 – 8,3

 

Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người: TN 10-C4


Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.

Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi !" Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: "Này ông Si-mon, tôi có điều muốn nói với ông !" Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói." Đức Giê-su nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn ?" Ông Si-mon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giê-su bảo: "Ông xét đúng lắm."

Rồi quay lại phía người phụ nữ, người nói với ông Si-mon: "Ông thấy người phụ nữ này chứ ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít." Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ:  "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội ?" Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."

Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà đã lấy của cải của mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.

Sách Tin Mừng của Lu-ca đặc biệt nhấn mạnh về ân điển và sự tha thứ của Chúa Giê-su. Chỉ một mình Lu-ca ghi lại lòng từ ái đối với quả phụ thành Na-in, và cũng chỉ sách này kể lại lòng ưu ái của Ngài dành cho người đàn bà tội lỗi đã xức dầu dưới chân Ngài nơi nhà người biệt phái Si-mon. Tuy nhiên, đây không chỉ là bức tranh về lòng từ bi thương xót của Chúa, mà cũng là bức tranh về lòng biết ơn vô bờ bến của kẻ đã nhận món quà vô giá của ơn tha tội.

Có một sự lầm lẫn nào đó trong khi giải thích, nên có người đã cho người phụ nữ này là cô Ma-ri-a Mác-đa-la hay Ma-ri-a em của Mát-ta ở Bê-ta-ni-a. Ba người này khác nhau. Thật ra Chúa có đuổi quỷ cho người thứ nhất, người thứ hai và người phụ nữ trong câu chuyện này đã xức dầu cho Chúa, nhưng có lý do khiến ta tin rằng trong ba người chỉ có một người là tội nhân.

Mọi việc diễn ra tại sân nhà ông Si-mon, một đạo sĩ Do-thái. Các nhà của giới giàu có thường được xây quanh một khu sân rộng như một công viên trống trải. Thường trong sân có vườn cây và giếng nước, vào mùa nóng nực người ta bày ăn tại đó. Ở Pa-lét-tin mỗi khi có một ra-bi nào đến nhà dự tiệc, thì mọi người được tự do đến nghe những lời khôn ngoan của ra-bi dạy. Thói quen đó giải thích sự có mặt của người đàn bà này trong nhà Si-mon. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây: chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một ra-bi danh tiếng. Đường xá đầy cát bụi và giầy chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân để rửa sạch bụi và làm mát chân khách. Người ta cũng đốt lên một nhúm hương liệu cho thơm, hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu khách. Phép lịch sự đòi hỏi những điều đó, nhưng trong trường hợp này chủ nhà lại bỏ hết. Khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc. Họ dựa trên những chiếc gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, tay mặt để tự do, hai chân duỗi thẳng về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đo cho phép người đàn bà có thể đứng gần chân Chúa Giê-su.

Si-mon là một đạo sĩ Do-thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái. Tại sao một người như vậy lại mời Chúa Giê-su tới nhà mình ? Rất có thể Si-mon này là người thích nổi tiếng, với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời chàng thanh niên kỳ lạ này đến ăn tiệc trong nhà mình. Vì thế ta hiểu tại sao có sự pha trộn vừa có vẻ tôn kính lại vừa bỏ qua phép lịch sự phải giữ. Hẳn Si-mon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giê-su.

Người đàn bà trên đây nổi tiếng là xấu nết, một gái mãi dâm. Dường như nàng đã đứng lẫn vào đám đông để nghe Chúa giảng, đã gặp Chúa trước đó, đã ăn năn tội của nàng và được Chúa tha thứ. Theo tập tục của phụ nữ Do-thái, một chai nhỏ dầu thơm nguyên chất, quen gọi là bình ngọc, rất đắt tiền thường được đeo trên cổ. Nàng chỉ ước ao được đổ bình dầu thơm đó lên chân Ngài, vì đó là tất cả những gì nàng có để dâng cho Ngài.

Nhờ lòng biết ơn, nàng được can đảm đi vào nhà Si-mon trước con mắt xoi mói của nhiều người khi Chúa Giê-su đang là khách trong nhà ông. Nàng đến để xức dầu chân Chúa, nhưng khi nhìn thấy Ngài, nàng quá cảm động nước mắt đổ ra chảy xuống chân Ngài. Nàng vội vã tháo tóc ra lau khô rồi đổ chai dầu thơm lên. Một phụ nữ Do-thái buông xõa tóc nơi công cộng là đã phạm một lỗi lớn về phẩm hạnh. Người đàn bà này tỏ ra quên hẳn mọi người có mặt chỉ còn thấy một mình Chúa Giê-su thôi. Đối với nàng không có cách nào hơn để biểu lộ lòng biết ơn và sự hy sinh nhiệt thành của mình.

Việc Chúa để cho một phụ nữ kém phẩm hạnh biểu lộ lòng kính yêu đối với Ngài khiến Si-mon kết luận rằng Chúa Giê-su có lẽ không phải là tiên tri, vì nếu là tiên tri hẳn Ngài phải biết sự thật về người đàn bà hư hoại này.

Câu trả lời của Chúa tỏ ra rằng Chúa có thể đọc được những ý tưởng thầm kín của ông chủ nhà. Câu trả lời chẳng những đáp lại lời chỉ trích thầm lặng của chủ nhà, mà còn cho thấy tình trạng tâm hồn của ông, Si-mon không biết sự thiếu thốn của mình, vì thế không cảm biết tình yêu, và cũng vì thế không nhận được ơn tha thứ. Chúa Giê-su đưa ra ví dụ về hai người mắc nợ rồi được tha, giải thích rằng lòng biết ơn nhiều hay ít tùy theo món nợ được tha nhiều hay ít, rồi áp dụng nguyên tắc ấy cho Si-mon và người đàn bà mà ông có ý khinh dể. Chúa Giê-su kể cặn kẽ Si-mon đã thiếu tình yêu đối với Ngài như thế nào rồi đem đối chiếu với sự ân cần của người phụ nữ. Khi vào nhà, Si-mon đã bỏ qua tục lệ đưa nước rửa chân cho Ngài, còn người đàn bà đã rửa chân Ngài bằng nước mắt ; Si-mon đã bỏ qua cái hôn mà đáng lẽ người chủ phải dùng để đón chào vị khách, người đàn bà đã nồng nhiệt hôn chân Ngài ; Si-mon không đem dầu thơm xức cho vị khách quý, còn người đàn bà này đến với mục đích duy nhất để xức dầu thơm lên chân Chúa.

Sứ điệp của Chúa thật rõ ràng qua thí dụ đó: "Yêu nhiều tha nhiều, yêu ít tha ít." Chúa không có ý nói rằng trước đó nàng chưa được tha tội cũng không có ý nói tình yêu là điều kiện để được tha tội. Ngài có ý nói rằng tình yêu của nàng là kết quả của sự tha thứ, và câu nói của Ngài diễn giải ra thế này thì đúng hơn: Ta nói cho ông hay, tội lỗi đầy dẫy nơi nàng đã được tha, ông có thể suy đoán điều đó căn cứ vào cách biểu lộ lòng yêu thương của nàng." Phần còn lại trong câu thì dành cho Si-mon: "Kẻ được tha ít thì yêu thương ít." Những lời ấy không minh chứng Si-mon được tha tội, câu ấy chỉ rằng sở dĩ ông thiếu tình yêu vì ông không cảm biết được sự thiếu thốn của mình, cũng vì thế ông đã không nhận được ơn tha thứ. Si-mon tin tưởng mình là người tốt trước mặt loài người và Thiên Chúa.

Rồi Chúa quay lại người phụ nữ nói một lời chúc phúc: "Tội của chị đã được tha rồi." Như vậy Ngài xác nhận sự tha tội đã được ban cho nàng rồi, hơn nữa Ngài cũng biện minh cho nàng trước công chúng để họ biết rằng nàng đã bước vào một cuộc sống mới. Họ ngạc nhiên khi nghe Ngài tuyên bố sự tha tội. Đây là chức vụ của Đấng Mê-si-a, nhưng Con Người lý tưởng mà Lu-ca ghi chép về tấm lòng nhân hậu ở đây, cũng đồng thời là Con Thiên Chúa. cuối cùng Ngài quay lại người phụ nữ phán cho nàng những lời ân huệ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."

Đây là bài học rõ ràng về việc đức tin đem lại ơn tha thứ, sự tha thứ đem lại lòng biết ơn và lòng biết ơn được diễn tả qua một hành động yêu thương tận tụy. Một thái độ như vậy có thể ra đi trong bình an nghĩa là hưởng được sự hiện diện liên tục của bình an này.

Con người tự sức mình đâu có đáng được tha thứ, vì tội xúc phạm tới Chúa thỉ sự nặng nề vô cùng. Do đó phải chạy đến với Bí tích Hòa giải, nơi đó Chúa tha thứ cho chúng ta nhờ công đức của Chúa Giê-su Ki-tô. Điều kiện duy nhất không gì có thể thay thế về phía của chúng ta là tình yêu và sám hối. Chúng ta nhận được tha thứ là tùy theo mức độ ta cảm nhận tình yêu mến ; khi lòng chúng ta đã tràn đầy tình yêu, thì đâu còn chỗ cho tội lỗi trong đó vì khi đó chúng ta đã dọn một chỗ rõ rệt cho Chúa Giê-su Đấng nói với chúng ta như đã nói với người đàn bà tội lỗi: "Tội con đã được tha." Lòng sám hối của chúng ta là bằng chứng lòng ta yêu Chúa. Nhưng thực ra chính Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4, 10). Khi Chúa tha thứ cho ta, Thiên Chúa biểu lộ Người yêu ta. Do đó, ta có yêu Chúa là chỉ đáp lại tình Ngài yêu. Sự tha thứ của Chúa là tưởng thưởng lòng biết ơn và tình yêu của chúng ta đối với Ngài.

Thánh Augustinô giải thích: "Ai được tha thứ ít thì yêu ít." Bạn nói là bạn không phạm nhiều trọng tội, tại sao bạn lại không phạm ? – Vì Chúa đã cầm lấy tay bạn. Không có tội nào mà người ta không thể phạm nếu Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, không cầm lấy tay (Serneon 99,6). Như thế, chúng ta phải yêu Chúa ngày càng nhiều hơn, vì chẳng những Ngài tha thứ tội được, mà còn nhờ ơn Ngài ban, gìn giữ ta khỏi vi phạm.

Chúa Giê-su tuyên bố rằng niềm tin đã dẫn đưa người phụ nữ tội lỗi tới quỳ dưới chân Ngài và tỏ lòng sám hối. Nhờ sám hối nàng đáng được ơn tha thứ. Cũng thế khi chúng ta tới tòa Hòa giải, chúng ta phải có một xác tín rằng đây không phải là cuộc đối thoại giữa con con người mà là đối thoại với Thiên Chúa ; đây là tòa công lý, dứt khoát. Nhưng trên hết là tòa thương xót mà quan án xét xử là Đấng đầy lòng yêu mến " Không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng mong nó ăn năn và được sống." (Ed 33,1)

Tinh thần tự mãn ngăn cách loài người với Thiên Chúa, và điều lạ là hễ ai càng tốt thì càng cảm biết tội lỗi của mình cách sâu xa. Phao-lô nói về tội nhân: "Trong số đó tôi đứng đầu." (2Tm 1,25) Thánh Phan-xi-cô As-si-si nói: "Không ở đâu có một tội nhân khốn nạn hơn tôi !"

Thật rất đúng khi nói rằng tội nặng nhất là không nhận biết tội mình, nhưng ai cảm biết mình thiếu thốn sẽ được mở cửa vào ơn tha thứ của Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu và vinh hiển lớn nhất cho tình yêu là được thấy người đời tìm cầu đến tình yêu.

-------------------------------------------

 

TN 10-C5: Ân điển và sự tha thứ của Chúa


Lu-ca 7, 36 – 8,3

Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi !" Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: "Này ông Si-mon, tôi có điều muốn nói với ông !" Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói." Đức Giê-su nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn ?" Ông Si-mon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giê-su bảo: "Ông xét đúng lắm."

Rồi quay lại phía người phụ nữ, người nói với ông Si-mon: "Ông thấy người phụ nữ này chứ ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít." Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ:  "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội ?" Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."

Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà đã lấy của cải của mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.

***

 

Sách Tin Mừng của Lu-ca đặc biệt nhấn mạnh về ân điển và sự tha thứ của Chúa Giê-su: TN 10-C5


Sách Tin Mừng của Lu-ca đặc biệt nhấn mạnh về ân điển và sự tha thứ của Chúa Giê-su. Chỉ một mình Lu-ca ghi lại lòng từ ái đối với quả phụ thành Na-in, và cũng chỉ sách này kể lại lòng ưu ái của Ngài dành cho người đàn bà tội lỗi đã xức dầu dưới chân Ngài nơi nhà người biệt phái Si-mon. Tuy nhiên, đây không chỉ là bức tranh về lòng từ bi thương xót của Chúa, mà cũng là bức tranh về lòng biết ơn vô bờ bến của kẻ đã nhận món quà vô giá của ơn tha tội.

Có một sự lầm lẫn nào đó trong khi giải thích, nên có người đã cho người phụ nữ này là cô Ma-ri-a Mác-đa-la hay Ma-ri-a em của Mát-ta ở Bê-ta-ni-a. Ba người này khác nhau. Thật ra Chúa có đuổi quỷ cho người thứ nhất, người thứ hai và người phụ nữ trong câu chuyện này đã xức dầu cho Chúa, nhưng có lý do khiến ta tin rằng trong ba người chỉ có một người là tội nhân.

Mọi việc diễn ra tại sân nhà ông Si-mon, một đạo sĩ Do-thái. Các nhà của giới giàu có thường được xây quanh một khu sân rộng như một công viên trống trải. Thường trong sân có vườn cây và giếng nước, vào mùa nóng nực người ta bày ăn tại đó. Ở Pa-lét-tin mỗi khi có một ra-bi nào đến nhà dự tiệc, thì mọi người được tự do đến nghe những lời khôn ngoan của ra-bi dạy. Thói quen đó giải thích sự có mặt của người đàn bà này trong nhà Si-mon. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây: chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một ra-bi danh tiếng. Đường xá đầy cát bụi và giầy chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân để rửa sạch bụi và làm mát chân khách. Người ta cũng đốt lên một nhúm hương liệu cho thơm, hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu khách. Phép lịch sự đòi hỏi những điều đó, nhưng trong trường hợp này chủ nhà lại bỏ hết. Khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc. Họ dựa trên những chiếc gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, tay mặt để tự do, hai chân duỗi thẳng về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đo cho phép người đàn bà có thể đứng gần chân Chúa Giê-su.

Si-mon là một đạo sĩ Do-thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái. Tại sao một người như vậy lại mời Chúa Giê-su tới nhà mình ? Rất có thể Si-mon này là người thích nổi tiếng, với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời chàng thanh niên kỳ lạ này đến ăn tiệc trong nhà mình. Vì thế ta hiểu tại sao có sự pha trộn vừa có vẻ tôn kính lại vừa bỏ qua phép lịch sự phải giữ. Hẳn Si-mon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giê-su.

Người đàn bà trên đây nổi tiếng là xấu nết, một gái mãi dâm. Dường như nàng đã đứng lẫn vào đám đông để nghe Chúa giảng, đã gặp Chúa trước đó, đã ăn năn tội của nàng và được Chúa tha thứ. Theo tập tục của phụ nữ Do-thái, một chai nhỏ dầu thơm nguyên chất, quen gọi là bình ngọc, rất đắt tiền thường được đeo trên cổ. Nàng chỉ ước ao được đổ bình dầu thơm đó lên chân Ngài, vì đó là tất cả những gì nàng có để dâng cho Ngài.

Nhờ lòng biết ơn, nàng được can đảm đi vào nhà Si-mon trước con mắt xoi mói của nhiều người khi Chúa Giê-su đang là khách trong nhà ông. Nàng đến để xức dầu chân Chúa, nhưng khi nhìn thấy Ngài, nàng quá cảm động nước mắt đổ ra chảy xuống chân Ngài. Nàng vội vã tháo tóc ra lau khô rồi đổ chai dầu thơm lên. Một phụ nữ Do-thái buông xõa tóc nơi công cộng là đã phạm một lỗi lớn về phẩm hạnh. Người đàn bà này tỏ ra quên hẳn mọi người có mặt chỉ còn thấy một mình Chúa Giê-su thôi. Đối với nàng không có cách nào hơn để biểu lộ lòng biết ơn và sự hy sinh nhiệt thành của mình.

Việc Chúa để cho một phụ nữ kém phẩm hạnh biểu lộ lòng kính yêu đối với Ngài khiến Si-mon kết luận rằng Chúa Giê-su có lẽ không phải là tiên tri, vì nếu là tiên tri hẳn Ngài phải biết sự thật về người đàn bà hư hoại này.

Câu trả lời của Chúa tỏ ra rằng Chúa có thể đọc được những ý tưởng thầm kín của ông chủ nhà. Câu trả lời chẳng những đáp lại lời chỉ trích thầm lặng của chủ nhà, mà còn cho thấy tình trạng tâm hồn của ông, Si-mon không biết sự thiếu thốn của mình, vì thế không cảm biết tình yêu, và cũng vì thế không nhận được ơn tha thứ. Chúa Giê-su đưa ra ví dụ về hai người mắc nợ rồi được tha, giải thích rằng lòng biết ơn nhiều hay ít tùy theo món nợ được tha nhiều hay ít, rồi áp dụng nguyên tắc ấy cho Si-mon và người đàn bà mà ông có ý khinh dể. Chúa Giê-su kể cặn kẽ Si-mon đã thiếu tình yêu đối với Ngài như thế nào rồi đem đối chiếu với sự ân cần của người phụ nữ. Khi vào nhà, Si-mon đã bỏ qua tục lệ đưa nước rửa chân cho Ngài, còn người đàn bà đã rửa chân Ngài bằng nước mắt ; Si-mon đã bỏ qua cái hôn mà đáng lẽ người chủ phải dùng để đón chào vị khách, người đàn bà đã nồng nhiệt hôn chân Ngài ; Si-mon không đem dầu thơm xức cho vị khách quý, còn người đàn bà này đến với mục đích duy nhất để xức dầu thơm lên chân Chúa.

Sứ điệp của Chúa thật rõ ràng qua thí dụ đó: "Yêu nhiều tha nhiều, yêu ít tha ít." Chúa không có ý nói rằng trước đó nàng chưa được tha tội cũng không có ý nói tình yêu là điều kiện để được tha tội. Ngài có ý nói rằng tình yêu của nàng là kết quả của sự tha thứ, và câu nói của Ngài diễn giải ra thế này thì đúng hơn: Ta nói cho ông hay, tội lỗi đầy dẫy nơi nàng đã được tha, ông có thể suy đoán điều đó căn cứ vào cách biểu lộ lòng yêu thương của nàng." Phần còn lại trong câu thì dành cho Si-mon: "Kẻ được tha ít thì yêu thương ít." Những lời ấy không minh chứng Si-mon được tha tội, câu ấy chỉ rằng sở dĩ ông thiếu tình yêu vì ông không cảm biết được sự thiếu thốn của mình, cũng vì thế ông đã không nhận được ơn tha thứ. Si-mon tin tưởng mình là người tốt trước mặt loài người và Thiên Chúa.

Rồi Chúa quay lại người phụ nữ nói một lời chúc phúc: "Tội của chị đã được tha rồi." Như vậy Ngài xác nhận sự tha tội đã được ban cho nàng rồi, hơn nữa Ngài cũng biện minh cho nàng trước công chúng để họ biết rằng nàng đã bước vào một cuộc sống mới. Họ ngạc nhiên khi nghe Ngài tuyên bố sự tha tội. Đây là chức vụ của Đấng Mê-si-a, nhưng Con Người lý tưởng mà Lu-ca ghi chép về tấm lòng nhân hậu ở đây, cũng đồng thời là Con Thiên Chúa. cuối cùng Ngài quay lại người phụ nữ phán cho nàng những lời ân huệ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."

Đây là bài học rõ ràng về việc đức tin đem lại ơn tha thứ, sự tha thứ đem lại lòng biết ơn và lòng biết ơn được diễn tả qua một hành động yêu thương tận tụy. Một thái độ như vậy có thể ra đi trong bình an nghĩa là hưởng được sự hiện diện liên tục của bình an này.

Con người tự sức mình đâu có đáng được tha thứ, vì tội xúc phạm tới Chúa thỉ sự nặng nề vô cùng. Do đó phải chạy đến với Bí tích Hòa giải, nơi đó Chúa tha thứ cho chúng ta nhờ công đức của Chúa Giê-su Ki-tô. Điều kiện duy nhất không gì có thể thay thế về phía của chúng ta là tình yêu và sám hối. Chúng ta nhận được tha thứ là tùy theo mức độ ta cảm nhận tình yêu mến ; khi lòng chúng ta đã tràn đầy tình yêu, thì đâu còn chỗ cho tội lỗi trong đó vì khi đó chúng ta đã dọn một chỗ rõ rệt cho Chúa Giê-su Đấng nói với chúng ta như đã nói với người đàn bà tội lỗi: "Tội con đã được tha." Lòng sám hối của chúng ta là bằng chứng lòng ta yêu Chúa. Nhưng thực ra chính Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4, 10). Khi Chúa tha thứ cho ta, Thiên Chúa biểu lộ Người yêu ta. Do đó, ta có yêu Chúa là chỉ đáp lại tình Ngài yêu. Sự tha thứ của Chúa là tưởng thưởng lòng biết ơn và tình yêu của chúng ta đối với Ngài.

Thánh Augustinô giải thích: "Ai được tha thứ ít thì yêu ít." Bạn nói là bạn không phạm nhiều trọng tội, tại sao bạn lại không phạm ? – Vì Chúa đã cầm lấy tay bạn. Không có tội nào mà người ta không thể phạm nếu Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, không cầm lấy tay (Serneon 99,6). Như thế, chúng ta phải yêu Chúa ngày càng nhiều hơn, vì chẳng những Ngài tha thứ tội được, mà còn nhờ ơn Ngài ban, gìn giữ ta khỏi vi phạm.

Chúa Giê-su tuyên bố rằng niềm tin đã dẫn đưa người phụ nữ tội lỗi tới quỳ dưới chân Ngài và tỏ lòng sám hối. Nhờ sám hối nàng đáng được ơn tha thứ. Cũng thế khi chúng ta tới tòa Hòa giải, chúng ta phải có một xác tín rằng đây không phải là cuộc đối thoại giữa con con người mà là đối thoại với Thiên Chúa ; đây là tòa công lý, dứt khoát. Nhưng trên hết là tòa thương xót mà quan án xét xử là Đấng đầy lòng yêu mến " Không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng mong nó ăn năn và được sống." (Ed 33,1)

Tinh thần tự mãn ngăn cách loài người với Thiên Chúa, và điều lạ là hễ ai càng tốt thì càng cảm biết tội lỗi của mình cách sâu xa. Phao-lô nói về tội nhân: "Trong số đó tôi đứng đầu." (2Tm 1,25) Thánh Phan-xi-cô As-si-si nói: "Không ở đâu có một tội nhân khốn nạn hơn tôi !"

Thật rất đúng khi nói rằng tội nặng nhất là không nhận biết tội mình, nhưng ai cảm biết mình thiếu thốn sẽ được mở cửa vào ơn tha thứ của Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu và vinh hiển lớn nhất cho tình yêu là được thấy người đời tìm cầu đến tình yêu.
-------------------------------------------

 

TN 10-C6: MARIA LÀ KẾT TINH CỦA HỘI THÁNH VIÊN MÃN,


ĐẤNG ĐỒNG CÔNG VỚI CHÚA CON CỨU ĐỘ NHẬN LOẠI.

 

Để minh chứng chân lý trên, trước hết ta phải biết sứ mệnh của Đức Maria đã được diễn tả qua: TN 10-C6


Để minh chứng chân lý trên, trước hết ta phải biết sứ mệnh của Đức Maria đã được diễn tả qua hai người đàn bà: Bà góa thành Sarepta và bà lớn thành Shunem, đồng thời biết lắng nghe giáo huấn của Hội thánh dạy ta hiểu Đức Maria là Hội thánh viên mãn thời cách chung:

1 Đức Maria hơn bà góa thành Sarepta và còn hơn bà lớn thành Shunem:

Luca đã ghi lại cho chúng ta lời Chúa Giêsu xác định sứ mệnh phổ quát của mình chiếu theo sứ mệnh của Êlia và Êlisê (xem Lc 4,24t). Do đó phép lạ Phục Sinh con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17) có ý thể hiện giá trị phép lạ Êlia cứu sống con trai bà góa thành Sarepta (1 V. 17,7t)  cũng như Phục Sinh con trai bà lớn thành Shunem (2 V. 4,8t) và như vậy Luca có ý cho độc giả của ông hiểu các bà giúp Êlya hoặc Êlysê chính là Đức Maria sinh dưỡng dục Chúa Giêsu:

Bà goá Sarepta đối với Êlia và bà lớn thành Shunem đối với Êlisê còn THUA XA Đức Maria đối với Chúa Giêsu:

1. Êlia và Êlisê chỉ là người.
2. Bà góa Sarepta và bà lớn Shunem chỉ là dân ngoại.
3. Nhờ Êlisê tiên báo cho bà lớn: Chúa cho bà sinh con.
4. Bà góa Sarepta chỉ giúp Êlia một chiếc bánh, còn Shunem cho Êlisê đến ngụ nhờ nhà bà mỗi khi ông ghé tới nhà bà.
5. Bà Sarepta nói với Êlia khi con bà chết: "Giữa tôi với ông có liên quan gì?" (1 V. 17,18a).
6. Bà góa Sarépta và làm theo Lời Chúa qua miệng Êlya nên hũ bột nhà bà không vơi!
7. Con bà lớn chết mà bà vẫn nói tôi bình an.
8. Bà lớn Shunem dù có chồng, nhưng bà bảo Êlia "Tôi không xin cho mình có con".
9. Êlia và Êlisê đều nằm trên thi thể hai đứa bé, miệng kề miệng, mắt kề mắt, tay kề tay mà cầu xin Chúa cho các cậu sống lại.

***

1. Đức Giêsu là Thiên Chúa.
2. Đức Maria là dân riêng của Chúa, nhất là còn là Mẹ Thiên Chúa, nên mới thật là bà lớn.
3. Nhờ sứ thần Chúa cho Maria biết: Thánh thần cho Maria sinh con Thiên Chúa. Maria trở thành bàlớn có phúc hơn các phụ nữ khác!
4. Maria sinh, dưỡng, dục Con Thiên Chúa suốt 33 năm trời.
5. Đức Giêsu nói với Đức Mẹ Maria khi Mẹ can thiệp cho tiệc cưới có đủ rượu ngon uống: "Giữa tôi và bà có liên quan gì? (Ga 2,4).
6. Maria dặn dò người làm theo Lời Chúa, nên họ có 06 chum rượu ngon! (Ga 2).
7. Con Maria bị giết, mà Mẹ vẫn đứng (bình an) nhìn con chết trên Thập Giá.
8. Mẹ Maria dù có chồng, nhưng không xin có con vì Mẹ Đồng Trinh.
9. Đức Giêsu Phục Sinh qua Bí Tích Thánh Thể, Ngài "chui" vào miệng các Kitô hữu con Mẹ -con Hội thánh- đã chết vì tội đã phạm, để làm cho họ được cùng một xương một thịt, cùng một sự sống với Thiên Chúa.

2. Đức Maria là Hội thánh cách chung:

Trong các phép lạ Chúa làm, chỉ có Luca ghi lại cho chúng ta phép lạ Chúa Phục Sinh cậu con trai duy nhất của bà góa thành Naim, mà không thấy có ai ngỏ ý xin Ngài, ta lại biết thành Naim nằm kế thành Shunem. Nhưng thế, Luca lưu ý độc giả hiểu rằng đây là phép lạ tiên báo thời cánh chung, trên trần thế chẳng còn ai kêu cầu Chúa cứu sống mình, chỉ còn Đức Maria trên trời hằng chuyển cầu cho con cái mình là các Kitô hữu, dù có chết vì tội cũng sẽ được sống lại. Uy tín của Mẹ cầu xin với Chúa còn vượt xa uy tín của bà góa thành Sarepta cũng như bà lớn thành Shunem cầu khẩn với Êlia và Êlisê cho con mình được sống lại!

Ta còn biết: Đức Maria không xin với Chúa nhân danh cá nhân mình, mà mẹ còn xin cùng Chúa dựa vào sứ mệnh đồng công cứu chuộc Con Mẹ, vì Mẹ là Hiền Thê của Chúa Kitô, nhưng lời giáo huấn của công đồng Vatican II trong hiến chế Hội thánh số 61-63.69 dạy.

Đức Maria đã cộng tác một cách hoàn toàn độc nhất vô nhị vào công trình của Đấng Cứu Thế, bằng lòng vâng phục, bằng đức tin, đức cậy, đức ái nồng nhiệt, để hoàn trả sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Mẹ thật là Mẹ chúng ta.

Vì thế, trong Hội thánh, Đức Maria được yêu cầu qua các tước hiệu: TRẠNG SƯ, VỊ BẢO TRỢ, ĐẤNG PHÙ HỘ, ĐẤNG TRUNG GIAN. Vai trò trung gian của Đức Maria không làm lu mờ  hay suy giảm vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ mãnh lực của sự trung gian ấy. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu độ của Đức Maria trên nhân loại, đều bắt đầu từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô.

 Do đó, Mẹ là một chi thể trội vượt và độc đáo nhất của Hội thánh, có thể nói: Mẹ là kiểu mẫu của Hội thánh.

Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đã được vinh hiển hồn xác lên trời, là hình ảnh và khơi thủy của Hội thánh sẽ hoàn thành đời sau thế nào thì cũng thế, dưới đất này cho tới ngày Chúa đến, Mẹ chuyển chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân chúng lữ hành.

(xem Sách Giáo lý Công Giáo mới 964-972).

Để minh chứng điều này, phục vụ hôm nay cho ta nhìn lại gương sống đạo của Phaolô trong bài đọc 2: Phaolô được kêu gọi hoàn lương trở nên tông đồ đắc lực cho Chúa là nhờ Stêphanô lên trời cầu nguyện cho, nhưng khi ông đã được ơn trở lại, ông còn phải hiệp thông với các tông đồ tiền bối, nhất là được tham kiến với thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi, là ông còn được Mẹ bầu cử cho ông trước mặt Chúa. Vì Mẹ là khuôn mẫu của Hội thánh viên mãn đang hiển trị với Con Một của mình bên hữu Chúa Cha, hằng chuyển cầu cho những ai đã trở thành chi thể Con của Mẹ trong Bí Tích thánh tẩy, cụ thể như Phaolô, để diễn tả dấu chỉ Chúa cho con trai bà goá thành Naim sống lại.

-------------------------------------------

 

TN 10-C7: TIN TƯỞNG BƯỚC THEO CHÚA


Mt 9, 9-13

 

Vào thời Chúa Giêsu, các nhân viên và chủ thầu thu thuế hầu như luôn lợi: TN 10-C7

Vào thời Chúa Giêsu, các nhân viên và chủ thầu thu thuế hầu như luôn lợi dụng chức vụ để làm giàu cách bất chính. Vì thế, người Do thái coi họ là hạng tội lỗi, bất lương. Lời trách của người Biệt phái cho thấy điều đó. Việc Chúa Giêsu kêu gọi Matthêu làm môn đệ là điều không thể chấp nhận được đối với người Biệt phái! Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa thì Matthêu có thể nên tông đồ thánh thiện. Chúa Giêsu đã thành công trong việc chọn gọi Matthêu như lịch sử đã chứng minh. Ông không chỉ theo Chúa làm tông đồ mà còn ghi lại Tin mừng cho chúng ta được tin Chúa mà được ơn cứu độ.

Chúa Giêsu gọi Matthêu và ông mau mắn đáp trả, ông không còn ngại về quá khứ trước kia, cũng không sợ người Do thái xì xào bàn tán về vết nhơ của đời thu thuế. Ngài hoàn toàn tin tưởng vào Đấng Messia.

Chúa Giêsu cũng hề nghi ngại về thời quá khứ của Matthêu, cũng không có thành kiến về những người thu thuế chưa trở lại đạo. Chúa Giêsu không sợ những người Do thái đang chống đối, rình rập để tìm cách hại Người. Chúa Giêsu vẫn cứ đồng bàn với người tội lỗi và trả lời thẳng thắn với họ: Ta đến để cứu chữa người tội lỗi. Ngài trả lời như thế không phải để họ không bẻ lại được nhưng để sửa lại quan niệm sai lầm của họ và răn dạy mọi người hiểu cho đúng luật Chúa trong Kinh thánh và vận dụng đúng vào cuộc sống hàng ngày.

Tôi cũng là người được Chúa gọi làm môn đệ, có lẽ quá khứ của tôi không như Matthêu nhưng tình yêu của tôi đối với Chúa còn kém xa Matthêu! Tôi thấy mình cần rèn luyện cho mình được mạnh dạn xưng danh Chúa Giêsu ra bằng đời sống của mình.

Chúa Giêsu ngồi ăn chung với nhiều kẻ tội lỗi là cớ vấp phạm lớn đối với người Do thái nhưng Người cố ý làm như vậy để sửa lại quan niệm sai lầm của họ: coi người tội lỗi như đồng nghĩa với tội lỗi và gần như loại họ khỏi cộng đoàn: không giao thiệp, không vào nhà, không ngồi ăn chung ... Chúa Giêsu rất nhân từ với người tội lỗi. Chúa đến trần gian nhằm mục đích cứu chúng ta là những kẻ tội lỗi chứ không phải đến cứu những thiên thần thánh thiện.

Chúa Giêsu đã gánh lên mình tất cả tội lỗi của chúng ta cũng như gánh lấy những sự nghi ngờ chống đối của nhóm biệt phái luật sĩ. Ngài đã mở hướng đi cho tội nhân, cứu lấy cuộc đời của những người tội lỗi công khai này. Chúa kêu gọi một người tội lỗi công khai làm tông đồ mà không sợ mất uy tín nhất là khi có nhiều người đang tìm cách bắt bẻ, tìm chỗ sơ hở để hạ bệ Chúa. Chúa đã tiếp xúc với người có tội, những người bị xã hội Do thái quan niệm là phải tránh xa: người cùi, gái điếm, thu thuế. Chúa Giêsu không ngại ngùng với những con mắt dò xét, bực tức. Ngài yêu người tội lỗi. Tình yêu có sức phá bỏ những rào cản bất nhân của con người, phá bỏ lệ do trần gian đặt ra. Nếu Chúa Giêsu không phá bỏ những rào cản này thì ai có thể phá được, ai có thể cứu những người lỡ đi vào nghề thu thuế nhưng có tấm lòng thiết tha trở về với Chúa.

Qua việc làm của chúa giêsu, chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu không tách bạch, không thể hiện rõ nội dung chính của lề luật là yêu thương chứ không phải để loại trừ thì Ngài không phải là Messia, không là Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu, là chân lý, không thể để con người hiểu lấp lửng giữa luật Chúa và lệ của con người vốn làm người ta thêm khổ sở và không giữ được đúng ý Chúa.

Tuy Chúa yêu người tội lỗi nhưng Ngài không hề chấp nhận tội lỗi, Ngài chỉ mở đường cho họ trở về nhà Cha, biết ăn năn sám hối chứ không hề tán đồng những việc làm sai trái của họ: dù một chấm phẩy trong luật Chúa cũng không được bỏ sót. Ai tự ý bỏ và dạy người khác làm như vậy sẽ không được vào nước Chúa.

Chúa Giêsu đồng bàn với người tội lỗi để sửa lại quan niệm khắt khe không đúng chỗ, vụ hình thức trong việc giữ luật Chúa lúc bấy giờ. Chúa muốn con người hiểu lời Chúa dạy, giữ luật Chúa trong tinh thần và thể hiện ra ngoài bằng lời nói và hành động cụ thể.

Tóm lại, Chúa Giêsu là người hiểu biết lề luật tận căn và đã dạy người khác làm như vậy. Ngài là Thầy và là Chúa nên đã không thể vì sự an toàn của thân xác mà lấp lửng trong cách sống và lời rao giảng được. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết hóan cải như thánh Matthêu, một khi đã nhận ra tình yêu chúa thì bỏ tất cả những lệ thuộc vật chất để sống cho Chúa và cho Tin mừng, mỗi ngày một thánh thiện và hữu ích hơn cho Giáo hội và xã hội.

-------------------------------------------

 

TN 10-C8: NGƯỜI LÀNH, KẺ DỮ


Mt 9, 9-13

 

Người Biệt phái tự cho mình là người lành vì họ trung thành chi li với Lề luật. Nhưng thái độ: TN 10-C8 (cần thay vì có lỗi VNI cuối)


Người Biệt phái tự cho mình là người lành vì họ trung thành chi li với Lề luật. Nhưng thái độ giữ luật nhiệm nhặt của họ trở thành một kỹ năng chỉ còn chú trọng đến hình thức bên ngoài mà thiếu lòng đạo đức bên trong. Đối với họ, chỉ có người công chính, là những kẻ giữ luật nhiệm nhặt, mới được Thiên Chúa yêu thương, còn hạng tội lỗi (không sống theo Lề Luật) chỉ kéo xuống trên bản thân cũng như trên tập thể cơn giận của Thiên Chúa.

Từ chổ cho mình là những người trung thành với Lề luật, người Biệt phái khinh miệt những ai không sống theo khuôn mẫu Luật dạy và bực bội trước thái độ của Chúa Giêsu đối với những hạng người nầy.

Hạng thu thuế, thời Chúa Giêsu, bị coi là những người tội lỗi, ngang hàng với dân ngoại đạo (Mt 18,17) và bọn đĩ điếm (Mt 21,31-32). Họ bị khinh ghét thậm tệ. Luật Do thái thời bấy giờ chẳng những cấm đổi tiền với họ hay nhận của họ tiền bố thí để giúp kẻ nghèo, vì cho đó là tiền phi nghĩa bất công; mà còn tước bỏ mọi quyền chính trị và công dân của họ, xem họ như là những nô lệ.

Matthêô là một người thu thuế, tất nhiên cũng là một người tội lỗi, là kẻ dữ trong mắt người Biệt phái. Vậy mà Chúa Giêsu lại chọn ông làm đồ đệ và còn thân thiết ngồi ăn cùng bàn với ông. Làm sao mà những Biệt phái không nổi đóa lên với Chúa?

Câu trả lời của Chúa Giêsu, trích dẫn sách Hôsê: “Ta muốn tình yêu chớ không cần hy lễ” (Hs 6,6). Văn mạch câu nầy có ý muốn nói: Chúa muốn thái độ bên ngoài phải biểu lộ tình yêu tha thiết bên trong đối với Chúa. Các nghi lễ không hồn kiểu cách chẳng là gì cả trước mặt Thiên Chúa. Và như vậy, thái độ của Chúa Giêsu khi lưu tâm đến người tội lỗi, là Người chỉ thực thi tình mến đối với tha nhân, là thứ tình yêu phải được đặt lên trên mọi quy luật về sự trong sạch, chiếu theo luật và đó là điều mà người Biệt phái đã không làm.

Trước mặt Chúa chẳng có ai là lành thánh vẹn toàn, chẳng có ai là vô tội cả. Không ai có quyền tự cho mình là công chính nhờ đó mà được rỗi. Ơn cứu chuộc đến từ Chúa Giêsu Kitô, do lòng thương xót của Thiên Chúa, nhằm đến tất cả mọi người, không trừ một ai. Ai cũng có một chổ đứng trong trái tim của Chúa. Vấn đề là mỗi người phải chân thành sám hối, từ bỏ lỗi lầm, bước đi theo Chúa. Vì thế mà Chúa Giêsu nói: “Ta khng đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mt 9,13)

Và tình thương đã gặp được tình thương. Tình thương của Chúa Giêsu đã chạm đến tâm hồn Matthêô, thôi thúc ông “đứng dậy đi theo Cha”. Đó là thái độ đáp trả bằng tình thương, quyết tâm lìa bỏ quá khứ đen tối để đi theo làm môn đệ của Thầy.

L k c ti, xin thánh Matthêô cng giúp chúng con quyết tâm từ bỏ qúa khứ ti tm lại sau lưng, để đăm đăm bước theo chân Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen

-------------------------------------------

 

TN 10-C9: Ba cuộc phục sinh


TIN MỪNG (Lc 7: 11-17)

 

Các tác giả Tin Mừng thuật lại cho chúng ta Chúa Giê-su thực hiện ba cuộc phục sinh: cuộc phục TN 10-C60


Các tác giả Tin Mừng thuật lại cho chúng ta Chúa Giê-su thực hiện ba cuộc phục sinh: cuộc phục sinh con gái ông Gia-ia thuộc nguồn chung của Tin Mừng Nhất Lãm, cuộc phục sinh con trai bà góa Na-im thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca và cuộc phục sinh anh La-da-rô thuộc nguồn riêng của thánh Gioan. Trong cuộc đời thi hành sứ mạng, cuộc phục sinh con trai bà góa thành Na-im là cuộc phục sinh đầu tiên.
 
1. Chúa Giê-su động lòng trước tình cảnh thương tâm của một bà góa (7: 11-13)
 
Na-im là một thị trấn cách Na-da-rét khoảng tám cây số về phía đông nam. Biến cố được đặt vào thời kỳ Chúa Giê-su thi hành sứ vụ tại Ga-li-lê: “Có các môn đệ và một đám đông cùng đi với Người”. Như vậy có hai đám đông gặp nhau: một đám đông theo Chúa Giê-su vào thành Na-im và một đám đông theo bà góa ra ngoài thành Na-im để chôn cất đứa con trai một của bà.
 
Chúa Giê-su xuất hiện ở đây như vị Thiên Chúa làm người giàu lòng xót thương, rất nhạy bén trước nỗi đau thương mất mát của tha nhân: “Trông thấy bà, Chúa Giê-su chạnh lòng thương”. Thánh Lu-ca đã sử dụng động từ Hy-lạp: “chạnh lòng thương” để diễn tả mối cảm xúc quặn đau từ tận tâm can của Chúa Giê-su. Không phải vì người chết mà Chúa Giê-su động lòng xót thương, mà vì cảnh ngộ của bà góa này thật thương tâm. Bà này đã mất chồng; bây giờ còn một người con trai duy nhất, bà cũng mất luôn. Vì thế, bà rất đau khổ, không có chỗ nương tựa trong cuộc sống tinh thần lẫn vật chất. Khi tường thuật câu chuyện này, thánh Lu-ca dư biết đó cũng là hoàn cảnh của Đức Ma-ri-a và Chúa Giê-su, người con trai duy nhất. “Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác…Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
 
Trong nỗi đau tận cùng, bà không biết người đàn ông đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giê-su, Đấng có quyền năng ban sự sống. Bà không ngỏ lời cầu xin Chúa. Nhưng Chúa động lòng thương, Ngài đích thân lại gần và kéo bà ra khỏi cơn đau khổ khi an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa!”. Qua lời an ủi này, Chúa Giê-su như muốn nói với bà: “Tôi không muốn thấy bà khóc; tôi đã đến trần gian để đem niềm vui và sự bình an”. 
 
2. Chúa Giê-su phục sinh con trai bà góa Na-im (7: 14-15)
 
Với tấm lòng thương cảm trước một cảnh ngộ bi thương như thế, Chúa Giê-su không ngại vượt qua những tập tục nghi thức về thanh sạch và ô uế khi “Người lại gần, sờ vào quan tài”, đụng chạm đến tử thi, một hành vi được xem là ô uế (Ds 19: 11, 16). Yêu thương giúp đỡ đòi hỏi phải can đảm dám vượt qua những dị nghị của người khác. Thời xưa, người Do thái thường đặt thi hài trên cái cáng. Nếu thi hài được đặt trong quan tài, thì làm sao liền ngồi dậy được? Ở đây, rõ ràng thánh Lu-ca đã dùng từ “quan tài” cho dể hiểu hơn đối với dân ngoại.
 
Chúa Giê-su truyền lệnh cho chàng thanh niên: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!”. Chúa Giê-su cũng truyền lệnh như thế cho con gái ông Gia-ia: “Này cô bé, chỗi dậy đi!” (Lc 8: 54) cũng như cho anh La-da-rô: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ” (Ga 11: 43). Trong Tân Ước, động từ “chỗi dậy” được dùng để diễn tả cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su. Lời Ngài: “Tôi bảo anh: hãy chỗi dậy” có tác dụng ngay tức khắc: “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói”, nghĩa là người thanh niên tái lập mối liên hệ với đám đông chung quanh, trước đây đã bị cắt đứt do cái chết.
 
“Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ”: Chi tiết này gợi nhớ đến câu chuyện ngôn sứ Ê-li-a phục sinh đức con trai duy nhất của bà góa thành Xa-rép-ta. Lòng xót thương của Thiên Chúa trong Đức Giê-su lại một lần nữa được nhấn mạnh. Tuy nhiên, có một sự khác biệt cần phải ghi nhận. Trong khi ngôn sứ Ê-li-a đã phải “nằm dài trên đứa bé” (1V 17: 21), còn Chúa Giê-su thì chỉ cần một lời đứa bé tức khắc sống lại. Chính với tư cách là Chúa có quyền năng trên sự sống và sự chết mà Chúa Giê-su hành động.
 
Thánh Âu-gút-ti-nô giải thích niềm vui khôn xiết của người mẹ này khi được hoàn lại đứa con trai của mình với niềm vui của Giáo Hội, Mẹ chúng ta khi những đứa con tội lỗi của Giáo Hội trở về với cuộc sống ân sủng: “Bà mẹ góa vui mừng vì đứa con của bà đã được sống lại, Giáo Hội, Mẹ chúng ta, vui mừng mỗi ngày khi dân chúng được tái sinh trong Thánh Thần. Cậu bé đã chết về phương diện thể lý; dân chúng đã chết về phương diện tinh thần. Cái chết của cậu bé đã được khóc than về phương diện hữu hình; cái chết của dân chúng là vô hình, vì thế không có tiếng khóc than. Ngài tìm kiếm họ, vì đã biết họ phải chết; chỉ mình Ngài mới có thể đem họ trở lại cuộc sống” (Sermon, 98, 2).
 
3. Mọi người đều kinh sợ (7: 16-17).
 
Như thường thấy trong các trình thuật phép lạ, đoạn kết ghi lại phản ứng của những người chứng kiến. Tác cả đám đông nhận thấy nơi Đức Giê-su “một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta”. Việc hiểu biết này dĩ nhiên chưa trọn vẹn, tuy nhiên không phải là không có giá trị, bằng chứng là mọi người nhận ra phép lạ này là dấu chỉ cho thấy “cuộc viếng thăm của Thiên Chúa”, Đấng đến giải thoát Ít-ra-en, đó là sự can thiệp đầy lòng xót thương mà ngôn sứ Da-ca-ri-a đã ca tụng (Dcr 1: 68-78). Và tin này đã được lan truyền ra “khắp cả miền Ga-li-lê và vùng phụ cận”.
 
Tác giả bài viết: Lm Hồ Thông HT68
Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

-------------------------------------------

 

TN 10-C10: Đấng chiến thắng sự chết


(Suy niệm Tin mừng Luca (7, 11-17) trích đọc vào Chúa nhật 10 thường niên)

 

Con người  không thể chiến thắng sự chết, Dù con người hiện nay có nhiều phát minh và sáng TN 10-C10


Con người  không thể chiến thắng sự chết

Dù con người hiện nay có nhiều phát minh và sáng chế thật tuyệt vời, đạt được nhiều thành tựu lớn lao về khoa học và kỹ thuật, thế nhưng, đứng trước sự chết, con người phải đầu hàng thua cuộc.

Với nhiều tiến bộ vượt bậc về y khoa, con người có thể đẩy lùi và tiêu diệt một số bệnh nan y như dịch tả, dịch hạch, phong cùi, ung thư…

Với nền khoa học tiên tiến, người ta có thể làm cho đời sống con người dễ chịu hơn: tạo ra phương tiện giao thông tiện nghi, giúp người ta đi lại nhanh hơn; tạo ra công nghệ thông tin tiên tiến để liên lạc với nhau dễ dàng nhanh chóng hơn.

Nói chung, nhờ khoa học kỹ thuật, con người có thể lập nên nhiều chiến công, thắng được nhiều nghịch cảnh, vượt qua nhiều thách thức, nhưng sẽ không bao giờ thắng được “Thần Chết.”
 
Chỉ có Chúa Giê-su mới chiến thắng sự chết
Hôm ấy, khi Chúa Giê-su và các môn đệ đến thành Na-in thì gặp người ta đi đưa đám người con trai duy nhất của một bà mẹ góa. Trông thấy người mẹ gào khóc thảm thiết, “Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà đừng khóc nữa! "Rồi Ngài lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Chúa Giê-su truyền cho người chết: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!" (Luca 7,11-14)

Lời Chúa Giê-su phán ra làm cho kẻ chết hồi sinh: “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.” (Luca 7,15)

Thế là đối đầu với Chúa Giê-su, thần chết phải chào thua!
 
Ngoài ra, Chúa Giê-su chứng tỏ Ngài chiến thắng sự chết khi làm cho con gái ông Giai-rô sống lại. Dù cháu bé này đã chết rồi, vậy mà Chúa Giê-su nắm lấy bàn tay cháu và nói: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được...” Mọi người chứng kiến đều kinh ngạc sững sờ. (Mc 5, 22-42)

Chúa Giê-su chứng tỏ Ngài chiến thắng Thần Chết khi La-da-rô đã nằm trong họng thần chết bốn ngày rồi, thế mà Chúa Giê-su vẫn đến bên mồ La-da-rô và kêu lớn: “La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! Tức thì La-da-rô liền đi ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn!”  (Ga 11, 43-44)

Và đặc biệt là trong cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, tử thần tưởng đã tiêu diệt Chúa Giê-su, hạ đo ván Chúa Giê-su, khiến Ngài phải tắt thở trên thập giá, rồi Ngài phải bị mai táng trong mồ. Các môn đệ của Ngài tỏ ra tuyệt vọng vì chủ tướng của mình đã bị thảm bại trước thần chết. Thần chết tưởng như đã chiến thắng Chúa Giê-su.Thế nhưng nó đã lầm. Chúa Giê-su đã sống lại và mở đường vào cuộc sống mới.

Thế là từ đó, một trang sử mới bắt đầu, một kỷ nguyên mới được khai sinh; đây là kỷ nguyên của Chúa Giê-su đánh bại thần chết và giải thoát muôn người khỏi tai ách của nó; Ngài không những giải thoát mà còn đưa họ vào cõi sống đời đời vinh quang bất diệt.

Cuộc chiến thắng oanh liệt của Chúa Giê-su trước thần chết đem lại cho chúng ta một hy vọng lớn lao, một niềm vui chan hoà, vì Chúa Giê-su là Đầu của chúng ta, là Chủ Tướng của chúng ta đã hoàn toàn chiến thắng thần chết và khải hoàn vào cõi sống, thì mai đây, Ngài cũng sẽ đưa chúng ta tiến vào cõi sống vĩnh cửu với Ngài.

Nhờ chiến thắng của Ngài, “Thân xác phải hư nát của chúng ta sẽ mặc lấy sự bất diệt; và thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (I Cr 15,53).

Và thế là “sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi… Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?... Tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (I Cr 15,54-57).
 
Lạy Chúa Giê-su,

Khát vọng mãnh liệt nhất của con người là được sống lâu dài hạnh phúc. Xin soi sáng cho chúng con hiểu rằng chỉ có Chúa mới có thể đáp ứng được khát vọng vô biên này, để chúng con luôn tìm đến với Chúa và sống gắn bó với Chúa là cội nguồn sự sống và là Đấng thông ban sự sống đời đời cho chúng con.
 
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

-------------------------------------------

 

TN 10-C11. LÒNG THƯƠNG XÓT CỨU ĐỘ

 

Cha biết rằng, sau khi con bị bắt vì can đủ mọi thứ tội, người ta đưa con vào nhà thương tâm TN 10-C11


Cha biết rằng, sau khi con bị bắt vì can đủ mọi thứ tội, người ta đưa con vào nhà thương tâm thần, trước khi xét đủ bằng cớ để tống con vào ngục. Trong phòng bệnh con ở, có đủ hạng người, phần đông lớn tuổi, trừ một bạn trẻ cỡ tuổi con. Không hiểu sao chúng con hợp ý nhau ngay từ phút đầu.

Theo lời các người trong phòng thì anh bạn này không thể đi đứng được, cũng không thể tự làm gì được. Thêm vào đó anh thật chướng kỳ, nếu không muốn nói là mất dạy. Anh đạp đuổi và khạc nhổ vào tất cả ai đến gần. Anh nói với con: “Ở đây toàn là bọn vũ phu !”

Vì thế, chỉ mình con có thể giúp anh trong mọi việc. Anh không phải tín hữu Công Giáo. Phần con, con thuộc Kinh Lạy Cha và con thường lẩm nhẩm đọc Kinh Lạy Cha nhiều lần trong ngày. Ngoài ra con có ảnh Thánh Giá và con đeo Thánh Giá ở cổ.

Anh bạn con, ngoài tính chướng kỳ, còn thêm tật khác là thỉnh thoảng lên cơn. Anh vùng vẫy, la hét, mặt mày đỏ gay và mồ hôi toát ra đầm đìa. Người bệnh trong phòng vì quá quen với cảnh này, nên họ bỏ mặc anh, hoặc cười nhạo anh. Nhưng con, con không thể chấp nhận sự việc người ta cười cợt, trước nỗi khổ đau của người khác. Tuy nhiên, con không giúp gì được trong lúc anh lên cơn như thế.

Một ngày, con bỗng nảy ra ý kiến. Đang lúc anh lên cơn la hét ầm ĩ, con đến gần và đặt vào tay anh, ảnh Thánh Giá của con. Mặc cho anh tiếp tục la hét vùng vẫy, con vẫn giữ chặt ảnh Thánh Giá trong tay anh. Và rồi anh ngừng hẳn, cơn điên hạ xuống.

Từ đó mỗi lần anh lên cơn, con liền đặt ảnh Thánh Giá vào tay anh, và cơn điên hạ xuống. Con nói với anh: “Tôi sẽ dạy anh một Kinh tôi vẫn thường đọc.” Anh trả lời: “Được, tôi sẵn sàng, nếu là Kinh anh vẫn đọc !” Con dạy anh đọc Kinh Lạy Cha.

Nơi bệnh viện tâm thần cũng có vị Linh Mục Tuyên Úy Công Giáo. Nhưng không hiểu sao bạn con không bao giờ muốn trông thấy mặt Cha Tuyên Úy. Chỉ cần cha Tuyên Úy mở cửa bước vào phòng là anh nổi cơn điên ! Vì thế cha Tuyên Úy chỉ đến phòng khi nào anh ngủ.


Khi mẹ con đến thăm, con năn nỉ xin mẹ mua cho bạn con một ảnh Thánh Giá. Mẹ con nhận lời mua và mang đến. Bạn con nắm chặt ảnh Thánh Giá trong tay suốt ngày. Và cũng từ đó anh không còn lên cơn điên nữa. ( Sr. JB. Minh Nguyệt, “Les histoires vraies du Frère Lucien”, Éditions S.O.S, Paris 1982, trang 47-52 ).

Trong câu chuyện trên, người bạn hay lên cơn điên chẳng phải Kitô hữu, nhưng vẫn được Chúa xót thương, cứu thoát khỏi bạo bệnh. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Luca thuật lại phép lạ cả thể, khiến dân chúng sửng sốt và sợ hãi. Đức Giêsu giàu lòng thương xót, đã cho sống lại chàng thanh niên, con một bà goá trong thành. Người luôn hiện diện trong lúc vui lẫn lúc buồn trong cuộc đời từng người, để kịp thời yêu thương giải cứu.

Lòng Thương Xót

Người mẹ goá theo sau quan tài đứa con trai, cúi đầu khóc lóc thảm thiết, chẳng hề ngước lên nhìn ai. Tâm hồn bà tan nát, vì chỗ dựa cuối cùng đã mất. “Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Đừng khóc nữa". Đức Giêsu nhìn thấy thảm cảnh cũng chẳng thể nào cầm nổi nước mắt. Người cũng đã đau khổ tuôn lệ, trước mộ phần người bạn Ladarô.

Trước những cảnh ngộ bi thương, Đức Giêsu vốn tràn đầy yêu thương, chí nhân, chí ái, thông cảm nỗi trầm luân con người. Không cần đến lời cầu xin, van nài, Người đã chạnh lòng trắc ẩn. “Chúa, Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tình yêu và thành tín” ( Xh 34, 6 ).

Trong nhiều phép lạ, Người cũng chạnh lòng thương, giải cứu những kẻ đang chìm đắm trong tuyệt vọng, như trừ quỷ ngay tại hội đường Capharnaum, trong ngày Sabát ( Lc 4, 33-37 ). “Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất" ( Lc 19, 10 ).

Giải cứu

Lòng Thương Xót trở thành hiện thực, không dừng lại mức đồng cảm, thương tâm, xót xa. “Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy !" Tức khắc lệnh truyền linh nghiệm. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó. Chỉ duy nhất Thiên Chúa mới có quyền trên sự sống và sự chết.

Con người sống lầm than trong tội lỗi là đã chết đi phần linh hồn, rất cần đến Lòng Thương Xót cứu thoát khỏi quỷ dữ. Bởi vì, chẳng ai có thể tự giải thoát khỏi cái chết phần hồn, nếu không cậy nhờ đến hồng phúc cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, nhờ lời nguyện cầu của người thân, của những tâm hồn đạo hạnh, thánh thiện, có thể cứu vãn những kẻ đang sống trong bùn nhơ trở về với Lòng Thương Xót vô biên. Đức Giêsu cũng tái xác nhận nhiệm vụ cao cả của Người đến thế gian: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" ( Lc 5, 32 ). Người hăng hái tìm về những con chiên lạc bầy. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất" ( Lc 19, 10 ).

Giải thoát con người thoát khỏi kiếp nô lệ tội lỗi, Đức Giêsu muốn con người được tự do trong ân sủng, đừng trở lại kiếp đoạ đầy.“Chính để chúng ta được tự do, mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” ( Gl 5, 1 ).

Hiện diện

Mặc dầu Đức Giêsu đã chịu chết và phục sinh về Trời, nhưng Người vẫn hiện diện giữa nhân loại qua Kinh Thánh và Thánh Thể. Người còn ban Đức Chúa Thánh Thần xuống khai tâm, soi sáng, hướng dẫn và trợ lực tín hữu trên đường hy vọng. "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người."

Hơn nữa, Người đặc biệt hiện diện nơi những anh chị em đau khổ, bệnh hoạn, khó nghèo, cô nhi quả phụ, đói khát, rách rưới, tù đầy, bị đối xử phân biệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội. “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta" ( Mt 25, 40 ).

“Biết trần gian là nơi tạm trú, sao con còn bo bo dành cho được sở này, chức kia, tiếc nuối chiếc bàn, chiếc ghế... ? Con sẽ mang nó theo vào Thiên Đàng "hưởng phúc đời đời" sao ? Phi lý và điên khùng !” ( Đường Hy Vọng, số 672 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh và cứu thoát chúng con khỏi đêm tối tội lỗi, xin giải thoát chúng con khỏi những cám dỗ, cạm bẫy, xin an ủi, che chở và nâng đỡ chúng con qua sự hiện diện của Người trong từng giây phút cuộc đời chúng con.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng chịu đựng trải qua biết bao thách đố cuộc đời từ khi thưa hai tiếng “Xin Vâng.” Xin Mẹ cầu bầu cùng Con Mẹ cho chúng con thoát ách tử thần, thoát khỏi sức mạnh ma quỷ, xác thịt và thế gian, hầu chúng con xứng đáng được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa đoái thương cứu rỗi. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

----------------------------------

 

TN 10-C12. Bà đừng khóc nữa!

 

CN 10 TN.C này, người ta thích thú với chủ đề dựa theo lời TV 46 như sau: “ ‘TC luôn’ sẵn sàng TN 10-C12


CN 10 TN.C này, người ta thích thú với chủ đề dựa theo lời TV 46 như sau: “ ‘TC luôn’ sẵn sàng giúp đỡ, khi ‘ai đó’ phải ngặt nghèo” (c.3). Lời Thánh Vịnh này trong Cựu Ước được xác định lại và còn nêu bậc một hiện thực chắc nịch, một sự thật, sẽ xảy đến dựa theo lời tiên tri Dacaria trong TM Luca: ‘TC ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta’ (1.78). TC là Đấng chân thật, trung tín, tình thương Ngài muôn năm bền vững, Ngài không thể để bất cứ ai lâm cảnh tột cùng đau đớn mà không dũ lòng thương, cách này cách khác, cứu lấy với tràn đầy âu yếm thương xót đỡ nâng. 

            Với ba bài đọc CN này, có ba bậc vị vọng nỗi bậc trong ba hình ảnh tương giao, và có thể nói, xuất hiện để gắn kết trong một mối tương quan mật thiết với nhau. Elia trong bài đọc một, Phaolô trong bài đọc hai, và ĐGS trong TM Luca bài đọc ba. Ba vị nổi bật vì Elia xuất hiện để là vị ngôn sứ đóng vai tiền cảnh, ĐGS xuất hiện là bậc vị vọng hậu cảnh, và Phaolô xuất hiện là nhân chứng vật chứng cho một niềm tin vào Đấng mà Dacaria đã nói tiên tri trong bối cảnh sau khi lấy lại khả năng nói được và đặt tên cho con trẻ Gioan, đứa con mà hai ông bà trong cảnh cao niên hiếm muộn đã sinh chào đời trong tình thương ân ban, mở toan định hướng khai mở dòng lịch sử thực tiển cứu độ.

            Trong cuộc đời, không niềm đau, nỗi khổ nào lớn hơn sự chết. Vì chết là vĩnh viễn biến mất trên cõi đời và thế là ‘hết’ theo cái nhìn chung chung của nhân loại. CN hôm nay nói đến hai cái chết đầy uẩn khúc ấy, như hai sự hủy diệt dứt điểm tồn tại cho hai thể lý mất hút bóng trên đời. Cái chết đứa con trai bà góa nghèo thành Sarepta trong sự hiện diện của Elia. Cái chết thứ hai cùng cảnh ngộ nơi đứa con bà góa nghèo thành Naim, trong sự chứng kiến của ĐGS khi người ta đang khiêng em đi qua cửa, ra ngoại thành an táng. Nỗi đau đớn của hai bà mẹ tiềm tàng ẫn khuất trong tiếng khóc than não nề. Elia và ĐGS, cả hai đều bị chạnh lòng. Mỗi vị đều cứu sống được người chết, nhưng không theo cùng một kiểu cách. Mỗi vị một cách khác nhau. Elia nằm lên mình người chết và ba lần ‘khẩn thiết kêu cầu’ lên Chúa. Với ĐGS, Người tiến lại gần quan tài đang trên vai những người đạo tỳ, chạm vào, những người khiêng dừng lại. ĐGS nói với người thanh niên đã chết: ‘Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy’ (c.14). Điều để thấy được, qua hai người chết được cứu sống theo hai cách khác nhau, chứng tỏ hai vị cứu tinh là hai vị có bản chất và hai uy quyền khác nhau.

            Phaolô sau này xuất hiện với ơn gọi làm một tông đồ hậu lai, cùng lên đường, ra đi khắp miền dân ngoại làm nhân chứng. Phaolô lấy cuộc đời quá khứ và hiện tại của chính mình dùng nó thành chứng tá bất biến xác thực. Phaolô một nhân chứng trong quá khứ là thù địch của ĐGS và những ai tin theo Người. Ngài đã can đảm tự thú: ‘Anh em hẳn đã nghe nói tôi ăn ở thế nào trước kia trong đạo do Thái: tôi đã đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của TC’ (Gl.1,13). Hiện tại Phaolô, như ngài đã khẳng định: ‘Nhưng TC đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Ngài. Ngài đã đoái thương mặc khải Con của Ngài cho tôi, để tôi loan báo TM về con của Ngài cho các dân ngoại’. Để những gì ngài quả quyết được thâm tín, Phaolô tiếp tục nói đến việc biết ĐGS, trước tiên ‘nhờ chính ĐGS mạc khải’ (c.12), không hề có việc do một tông đồ nào của Người dạy về Người cho ông, chẳng được nghe thấy ai truyền đạt gì vì ngài không hề có một lần gặp gỡ hay ăn ở cùng một hay nhiều người nào trong các ông ấy, ngoại trừ, vì là Cha tình thương, Thiên Chúa mặc khải Con yêu dấu Ngài cho ông. Nếu có gặp một tông đồ nào của ĐGS trước đó, thì quả thực, ba năm sau đó, ông cũng chỉ một lần, khi trên đường lên Giêrusalem, ông đã có gặp ông Kepha.

            Phaolô nhân chứng sống thuyết phục của ĐGS không chỉ xác tín mà còn dõng dạc truyền đạt niềm tin của ông vào ‘TC giàu yêu thương mà còn rất giàu lòng xót thương’. Một nguồn thác chảy tuôn hai dòng tình thấm đẫm từ trái tim mang lấy thịt máu nhân loại tuôn trào như đã được mặc khải riêng tư cho thánh nữ Maria Faustina. Phaolô hãnh diện và đầy diễm phúc với lẽ TC bất chấp quá khứ lầm lạc từ một tên thù nghịch của Ngài, biến ông thành một cộng sự tông đồ thân thiết đầy âu yếm của Ngài. Và khi trở nên là tông đồ ông cố ra sức tận hiến mọi sự cho TC bất chấp sinh mệnh còn mất chỉ để sinh hoa trái cho Ngài và cho lương dân thành những con ngoan thánh hiền của Ngài.  Hơn thế Phaolô còn cho mọi người nhận biết TC đó ‘Ngài là TC hằng hữu, hằng sống, là nguồn phát sinh sự sống mọi sự mọi loài’. Phaolô không trích Lời ĐGS, nhưng vững tin vào ĐGS đã đoan thệ cùng những người biệt phái và Pharisêu, khi Người nói với họ: ‘TC là Chủa của Abraham, TC của Isaac, TC của Giacop. Ngài không phải là TC của kẻ chết nhưng là của kẻ sống’ (Mc.12,26b-27). Tự bản thân Người, ĐGS, đã chết thương đau trên cây thập giá bởi những người của TC giết bỏ, sau ba ngày Người đã được TC phục sinh trong Thần Khí hằng sống của Ngài. Phaolô xác quyết và đức tin nhân chứng vào những chân thật đó sẽ bất biến cho dù có quyền lực mạnh hơn nào thuyết phục, thừa sức mạnh khả thi lay chuyển.

            Thưa vị thánh tông đồ dân ngoại, ngài đã là nhân chứng của ĐGS, Thầy các tông đồ, với ngài, ĐGS đã biến ngài nên tông đồ. Thánh nhân đã làm nhân chứng giữa muôn dân về trái tim đầy tình thương và giàu thương xót của ĐGS. Xin cho con cũng được là nhân chứng rập khuôn theo mẫu ngài giữa mọi người như vậy.

Lm Uyen Nguyen

------------------------------------

 

TN 10-C13. LÒNG NHÂN TỪ HAY HY LỄ


Mt 9, 9-15

Anh chị em thân mến,

 

Xin kể lại câu chuyện của Phúc âm Gioan 8, 2-11: người pharisêu bắt được một phụ nữ đang phạm: TN 10-C13


Xin kể lại câu chuyện của Phúc âm Gioan 8, 2-11: người pharisêu bắt được một phụ nữ đang phạm tội ngoại tình. Theo luật phụ nữ này sẽ bị ném đá cho chết. Họ đem đến để thử gài bẩy Chúa Giêsu. Nếu Chúa nói nên tha cho chị ta, họ sẽ kết tội Chúa vi phạm lề luật. Nếu Chúa bảo phải ném đá cho chết, họ sẽ kết tội Chúa tàn ác, đi ngược lại lời giảng dạy của mình. Xem ra bề nào Chúa cũng trúng kế họ. Nhưng cuối cùng Chúa trả lời một câu mà không ai ngờ tới: trong các ông, ai kể mình trong sạch, hãy ném đá chị ta trước đi. Bọn Pharisêu hoàn toàn kinh ngạc thán phục, dù rất ghét Chúa, họ đành bỏ đi…Chúng ta bỏ qua chuyện Chúa ăn hay thua… Câu chuyện này nói lên lời Chúa giảng dạy chính là Tình thương và sứ điệp của Thiên Chúa chính là Lòng thương xót. Câu chuyện này hoàn toàn phụ hợp với ý tưởng của bài Tin mừng Chúa Nhật hôm nay. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Người Do Thái nghĩ gì về Chúa Giêsu? Thời Chúa Giêsu, người thu thuế là hạng người xấu; vì họ làm việc cho La mã, lại lợi dụng quyền hạn của mình để định mức thuế cho cao, thu tiền cho nhiều. Do đó người Do thái, nhất là nhóm Pharisêu, nhóm tư tế rất ghét họ, đã cản trở không cho họ tham dự vào các lễ nghi phụng vụ trong hội đường và đền thờ. Người Do thái còn kể họ là người tội lỗi, nên ai giao thiệp với họ đều bị ô uế; một khi bị ô uế, thì không được tham dự các lễ nghi phụng vụ như một người Do thái bình thường.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm một việc ngược lại suy nghĩ và qui định của người Do thái: Người và môn đệ ngồi ăn chung với những người thu thuế, những người bị kể là tội lỗi, sau này còn chọn Matthêu làm môn đệ nữa… Theo cách nhìn của người Do thái, người tử tế không nên giao du với hạng người này. Chúa coi trọng hạng thu thuế, chính là Chúa muốn chống lại Luật và Tiền nhân, và xem ra Chúa muốn chống cả lãnh đạo tôn giáo bấy giờ, các thượng tế, kinh sư; hơn nữa, vì Chúa không phải thuộc hàng ngũ của họ. Vậy là Chúa muốn phá bỏ Lề Luật, ngay cả muốn phá bỏ cả tôn giáo của họ nữa… Chính vì họ hiểu như vậy, nên họ đã giết Chúa Giêsu. Cũng có thể còn một lý do thâm sâu hơn, họ giết Chúa Giêsu, chính vì Chúa hay chỉ trích tật xấu và tội ác của họ.

b/. Chúa Giêsu muốn nói gì? Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu không nghi kỵ người xấu, người tội lỗi. Xem ra Chúa có vẽ bênh vực họ nữa. Xã hội nào cũng có người tốt người xấu; kẻ xấu lại thường bị khinh bỉ, bị tẩy chay. Chúa hiểu rõ được tâm trạng này, nên Người rất cảm thông với kẻ xấu, tội lỗi. Không phải Chúa đứng về phía người tội lỗi, mà chính vì Người không phân biệt kẻ tốt người xấu, vì: Người mưa xuống trên kẻ lành cũng như người dữ. Hơn nữa, chính Chúa dạy: mọi người đều được Thiên Chúa dựng nên, đều là con cái Thiên Chúa; vì vậy Chúa nói: Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hi lễ. Rõ ràng lời nói của Chúa rất xác đáng: người đau ốm mới cần thầy thuốc; người lành mạnh không cần. Thật sự giáo lý của Chúa chính là giáo lý tình thương, của Lòng Thương xót…

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã sẵn sàng tha thứ cho Ali Aqca, kẻ đã bắn Ngài suýt chết tại quảng trường thánh Phêrô năm 1981….Một cha xứ cho một anh tội phạm ngủ nhờ, cho ăn uống tử tế nữa. Vậy mà anh này nữa đêm, trộm đồ của nhà xứ rồi bỏ đi. Anh đã bị cảnh sát bắt lại… Cha xứ bảo đó là đồ vật cha tặng anh ta. Cảnh sát đành bó tay… chỉ có những người chọn và theo Chúa Giêsu mới có cách đối xử yêu thương và không phân biệt người tốt, kẻ xấu như thế…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Là người Kitô hữu, ta có muốn sống yêu thương, quảng đại, tha thứ như Chúa Giêsu không? Đừng nói rằng từ nhỏ đến nay, ta chưa lần nào giận hờn, oán ghét kẻ khác! Nhưng nếu đã có, bây giờ ta có sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng yêu thương, sẵn sàng nhẹ tay với họ như Chúa mong muốn không?

--------------------------

 

TN 10-C14. CỨU CHỮA NGƯỜI TỘI LỖI


Mt 9, 9-13

 

Lời Chúa ngày hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu có một phương cách giao tế rất khác lạ với mọi: TN 10-C14


Lời Chúa ngày hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu có một phương cách giao tế rất khác lạ với mọi người. Người đời thường cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Nếu muốn mình không trở nên “đen” thì hãy tránh xa “mực”.

Theo cái nhìn của người Dothái, Matthêu chính là “mực”, là loại người tội lỗi công khai. Đối với loại người này cần phải tránh xa, nếu gần gũi họ sẽ bị “đen”, sẽ bị mắc nhơ uế. Theo lẽ này, khi Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, nơi Matthêu đang phạm tội công khai, thì Ngài phải phản đối, chỉ trích, lên án việc làm tội lỗi của Matthêu, rồi tránh xa ông để tỏ dấu khinh bỉ việc làm tội lỗi của ông.

Nhưng không, Chúa Giêsu không hề nhìn ông bằng cái nhìn khinh khi, trách móc hay oán ghét như người đời vẫn làm đối với những người tội lỗi. Nhưng cái nhìn của Chúa Giêsu là một cái nhìn thông cảm, cái nhìn vị tha độ lượng, một cái nhìn mời gọi có sức hoán cải và chữa lành. Cái nhìn vị tha và lời mời gọi có sức chữa lành này, đã xoá bỏ rào cản mặc cảm tự ti của một kẻ tội lỗi công khai, đã tạo cho Matthêu một cảm giác an toàn và lòng tin tưởng đối với Chúa Giêsu và vâng theo lời mời gọi của Ngài, như con bệnh luôn sẵn sàng tin tưởng và vâng theo lời chỉ dạy của thầy thuốc. Cái nhìn và lời mời gọi của Chúa Giêsu còn tạo ra nơi Matthêu một lòng tự trọng rất lớn. Khi bước theo Chúa Giêsu, chắc chắn là ông đã bắt đầu tin rằng mình sẽ bỏ được con đường tội lỗi, và sẽ trở nên tốt hơn. Và ông đã mạnh dạn từ bỏ tất cả để đi theo Chúa Giêsu. Kết quả là ông đã được hoán cải và được chữa lành.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng có cái nhìn thông cảm, vị tha và độ lượng đối với mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu vẫn đang nhìn chúng ta bằng một cái nhìn có sức hoán cải và chữa lành, để chúng ta luôn cảm thấy an toàn và tin tưởng khi cùng bước theo Ngài trong suốt cuộc đời của chúng ta.

Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta phải có cái nhìn như thế đối với những người tội lỗi. Thay vì khinh khi, chỉ trích, phê bình, lên án và xa lánh những người mà chúng ta cho rằng họ tội lỗi, chúng ta phải biết thương xót và chữa lành họ bằng lời cầu nguyện, bằng gương lành, bằng sự thông cảm, tha thứ, trân trọng và tin tưởng họ.

Nếu được như thế, thế gian này sẽ ngày một ít đi những người tội lỗi. Thế giới này sẽ trở nên thanh bình và hạnh phúc hơn.

--------------------------------

 

TN 10-C15. TÂM HỒN KHAO KHÁT


Mt 9, 9-13

 

Sinh ra làm con người, ai ai cũng chọn lựa cho mình một tương lai xứng hợp với khả năng: TN 10-C15


Sinh ra làm con người, ai ai cũng chọn lựa cho mình một tương lai xứng hợp với khả năng, nguyện vọng của mình. Khi đã chọn cho mình một nghề nghiệp cho tương lai thì người ta có thể sống chết với nghề của mình. Tuy nhiên, có những người chọn nghề vì yêu thích, có những người vì hoàn cảnh gia đình, có những người vì ngẫu nhiên… nhưng khi đã có cho mình một nghề nghiệp ổn định thì người ta khó đổi thay nhất là khó mà chọn lựa một thay đổi bấp bênh hơn.

Trường hợp của Mathêu trong đoạn Tin Mừng Mt9,9-13 thì lại hoàn toàn khác. Một Mathêu đang an toàn nơi bàn thu thuế, mặc dù theo những người đương thời đây là một nghề cấu kết với ngoại bang để bóc lột dân chúng, đồng hoá với bọn đĩ điếm…Nhưng nói thì nói vậy nhưng hạng người nầy vẫn đầy quyền uy vì họ là người của đế quốc, không ai làm hại gì được họ. Nhưng Matthêu đã đổi vận mệnh cuộc đời mình từ một cuộc đời yên ổn nơi bàn thu thuế để chọn theo một Giê su đầy bấp bênh, đã bỏ giá trị vật chất hiện có để chọn lời hằng sống nơi Đức Giê su.

Nhưng làm sao Matthêu có được một sự thay đổi dứt khoát như thế nếu như trước đây ông không nghe lời Chúa Giê su rao giảng, làm sao ông dám từ bỏ mọi sự mà theo một Giê su “vô sản” nếu như trước đây ông không nhận biết có một sự sống thần linh nơi lời Chúa Giê su. Tuy đã được nghe, tuy đã nhận biết nhưng làm sao Matthêu có thể trở thành môn đệ của Chúa Giê su nếu không được gọi mời. Niềm khao khát của Matthêu đã được Chúa Giê su lấp đầy bằng việc Ngài đến với ông. Không thể có sự biến đổi của Matthêu nếu không có lời mời gọi của Chúa. Không có sự trở lại của Matthêu nếu như Matthêu không khao khát mong chờ. Lòng khao khát của con người bắt gặp được tình thương của Chúa và làm cho Matthêu trở nên người môn đệ đích thực của Chúa.

“Lời Chúa là thần khí và là sự sống” (Ga6,63), Lời Chúa có sức biến đổi, điều ấy được chứng thực nơi cuộc đời của Matthêu. Tin tưởng vào Lời Chúa cho chúng ta một niềm hy vọng cho cuộc đời, chúng ta được đón nhận Lời Chúa, được nhận Lời Chúa làm sự sống hằng ngày… thế mà tại sao cuộc đời chúng ta chưa được đổi mới. Phải chăng ta chỉ đón nhận Lời Chúa trên môi miệng, phải chăng ta chỉ nghe lời Chúa như gió thoảng bên tai… Lời Chúa phải được đón nhận bằng sự sống, bằng sự khao khát. Tâm hồn chúng ta có rộng mở thì Lời mời gọi của Chúa mới có thể đến được với chúng ta.

Nhìn cuộc biến đổi của Matthêu cho chúng ta một bài học quý giá: đối với Chúa không có người xấu chỉ có người cố tình không đón nhận Lời Chúa, không có người không thể biến đổi chỉ có người không chịu biến đổi. Matthêu là hình ảnh tiêu biểu cho người tội lỗi đón nhận ơn hoán cải. Hoán cải không chỉ là hành động của con người nhưng là hành động của con người trong ân huệ của Thiên Chúa. Mọi người đều được mời gọi trở nên môn đệ của Chúa nếu biết để cho Lời Ngài tác động

Xin Chúa cho chúng con hằng để tâm suy niệm Lời Chúa để Lời Chúa hằng tác động nơi cuộc sống chúng con. Và cũng xin cho chúng con đừng vì mặc cảm tội lỗi mà quên đi tình thương của Thiên Chúa. Xin Chúa giúp chúng con mỗi ngày luôn bước theo Chúa, trở nên người môn đệ đích thực của Chúa.

---------------------------------------

 

TN 10-C16. Nain.

 

Phúc Âm kể lại rằng: Chúa Giêsu thổn thức xót thương cho người mẹ đang than khóc trước cái: TN 10-C16


Phúc Âm kể lại rằng: Chúa Giêsu thổn thức xót thương cho người mẹ đang than khóc trước cái chết của đứa con trai duy nhất. Và rồi Ngài đã làm phép lạ cho đứa con trai ấy được sống lại trước sự ngạc nhiên và thán phục của mọi người. Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là bài học chúng ta tìm thấy được qua sự kiện vừa nghe?

Chàng trai được đem đi chôn là hình ảnh tượng trưng cho tất cả những ai đã chết đi cho đời sống ơn sủng, do những tội lỗi mình vấp phạm. Thánh Gioan Kim Khẩu đã diễn tả về họ như sau: Mặc dù không bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, mặc dù không bị giòi bọ rút tỉa thân xác, nhưng tâm hồn họ thực sự đã chết và còn tệ hơn thế nữa là đàng khác, bởi vì tâm hồn họ đã bị những đam mê dục vọng sai quấy làm nhàu nát.

Còn người mẹ than khóc đứa con của mình là hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Đúng thế Giáo Hội luôn than khóc những đứa con bất hạnh của mình. Ngày cũng như đêm, Giáo Hội không ngừng cầu nguyện cho họ biết trỗi dậy trở về cùng Chúa, bởi vì Giáo Hội biết rằng con đường họ đang đi sẽ dẫn họ tới chốn diệt vong.

Hoàn cảnh khiến chàng thanh niên được cứu sống cũng chính là cách thức Chúa thường dùng để hoán cải các tội nhân. Chúa Giêsu đến gần người chết cũng như các tội nhân. Ngài có hàng ngàn cách thức để nói với họ, hầu thức tỉnh họ. Có thể đó là một bài giảng cảm động. Có thể đó là một trang sách vô tình họ đọc được. Có thể đó là một mẫu gương của một người đạo đức thánh thiện. Có thể đó là cái chết của một người thân yêu, hay một tai ương bất ngờ xảy đến, làm đảo ngược những dự tính của họ. Điều quan trọng là tâm hồn họ không chai lì để nhận ra tiếng nói của Chúa.

Phúc Âm còn kể tiếp: Bấy giờ Chúa Giêsu đụng tới quan tài và những người khiêng đứng lại. Các thánh giáo phụ thì nghĩ rằng những người khiêng là những đam mê dục vọng xấu xa, làm cho con tim trở nên mù loà và dẫn đưa chúng ta tới cái chết. Đó là những thói hư tật xấu làm cho chúng ta trở thành nô lệ cho ma quỷ. Để được giải thoát, chúng ta phải biết chạy đến cùng Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể bẻ gẫy xiềng xích và phá tan gông cùm của tội lỗi. Ngài sẽ cứu giúp chúng ta vì Ngài không muốn kẻ tội lỗi phải chết nhưng muốn họ ăn năn và được sống. Chính Ngài sẽ đi bước trước đến các tội nhân. Chính ngài đã phán với chúng ta: Một người tội lỗi ăn năn hối cải sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.

Rồi Chúa Giêsu nói với người đã chết: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy trỗi dậy. Lập tức chàng trai trỗi dậy và Chúa Giêsu trao chàng cho  người mẹ. Chúa Giêsu cũng nói với người đã chết đi vì tội lỗi như vậy: Hỡi người ngủ mê hãy trỗi dậy. Hỡi kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết hãy chỗ dậy. Chúa Giêsu sẽ tha thứ và sẽ rửa sạch mọi dấu vết tội lỗi bằng máu thánh của Ngài. Hãy trỗi dậy. Đức Kitô sẽ chiếu sáng và mặc cho ngươi tấm áo cưới và đem lại cho ngươi niềm vui mừng đã mất. Thế nhưng là những kẻ tội lỗi chúng ta đã thực sự nghe thấy tiếng gọi của Chúa và đã trỗi dậy, lên đường trở về với Ngài hay chưa?

------------------------------

 

TN 10-C17. Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người


(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

 

Tiên tri Êlya đã làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Đức Giêsu Kitô cũng đã làm phục: TN 10-C17


Tiên tri Êlya đã làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Đức Giêsu Kitô cũng đã làm phục sinh người thanh niên con bà góa thành Naim. Nhưng hai câu chuyện, hai cách thức làm cho kẻ chết sống lại khác nhau làm sao!

Tuy nhiên phụng vụ Lời Chúa hôm nay không muốn so sánh Êlya với Đức Giêsu. Phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về mặt đạo đức. Và bài học của phụng vụ nằm trong cả ba bài đọc. Không tất nhiên ba bài Kinh Thánh đều nói lên một ý; nhưng đọc kỹ chúng ta vẫn có thể nhận ra một chủ đề nào đó với nhiều ý tưởng phụ xoay quanh. Chủ đề ấy chúng ta sẽ dễ thấy nổi lên sau khi đọc lại các bài Kinh Thánh vừa nghe.

1) Tôi biết là Người Của Thiên Chúa

Bài sách Các Vua thuật lại một câu chuyện trong cuộc đời của tiên tri Êlya. Chúng ta chẳng có một sách tiểu sử đầy đủ nào về nhà tiên tri này. Sách Các Vua quyển I kể nhiều chuyện về ông. Nhưng đó là những "mẩu" chuyển rời rạc không dính vào nhau để làm thành một cuốn tiểu sử. Câu chuyện hôm nay chẳng hạn. Người ta thường gọi là chuyện Êlya làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Nhưng như chúng ta vừa nghe, chẳng có chữ nào trong bài kể hôm nay nói rằng bà góa ấy ở thành Sarepta. Chỉ vì trước đó sách Các Vua kể rằng Êlya theo lệnh Chúa đi đến Sarepta và lưu lại ở đó. Ông đã gặp một bà góa đi mót củi. Ông xin bà cho bánh ăn và nước uống. Và bà ta có một đứa con. Tuy nhiên chẳng có gì chắc chắn khiến người ta có thể bảo bà góa con côi ấy cũng chính là mẹ góa con côi trong chuyện này. Ngược lại, chỉ cần lưu ý ít nhiều đến danh từ và cách kể, người ta thấy đây là hai chuyện khác nhau. Bà góa đi mót củi ở Sarepta không phải là "bà chủ nhà" trong câu chuyện này. Tiếng "bà chủ nhà" khiến người ta phải nghĩ đến một mệnh phụ quí phái hơn người đàn bà đi mót củi. Và nhất là cuộc đối thoại giữa bà chủ nhà với nhà tiên tri trong câu chuyện hôm nay cho thấy giữa hai người dường như chưa hiểu nhau. Đang khi bà góa ở Sarepta đã hiểu biết nhà tiên tri rồi.

Đằng khác, ai hiểu biết Kinh Thánh có thể nhận ra ngay rằng câu chuyện kể trong sách Các Vua quyển II về tiên tri Êlya. Ông này cũng làm cho con một bà lớn ở Shumen sống lại. Do đó có người nghĩ câu chuyện kể hôm nay đã được môn đồ của Êlya viết thêm vào cuộc đời của Êlya làm cho nhà tiên tri này sáng giá hơn.

Quả thật, dường như đây là mục đích của chính bài tường thuật hôm nay. Người muốn viết cho mọi người biết Êlya là người của Thiên Chúa. Thoạt tiên bà góa kia cũng như hầu hết các người đồng thời không biết như vậy. Họ thấy Êlya là người khác thường. Họ biết ông có một nhiệt tình lạ lùng đối với Giavê. Luôn luôn ông kêu gọi người ta sống trung thành với giao ước và đừng thờ một thần nào khác ngoài Giavê. Lắm lúc ông đe dọa người ta những hình phạt khủng khiếp. Kể cả vua Israen thời bấy giờ. Nhà vua tránh né Êlya chỉ sợ gặp lại phải nghe các đòi hỏi của Thiên Chúa và các hình phạt theo sau nếu nhà vua không đáp ứng những đòi hỏi kia.

Do đó người ta sợ Êlya hơn là muốn nghe theo ông. Người ta chưa chắc ông là người của Thiên Chúa. Nói đúng hơn, vì yếu đuối và sợ các đòi hỏi của tôn giáo chân thật, người ta chưa muốn công nhận ông là người của Thiên Chúa.

Chính vì Êlya khiến người ta sợ hơn là lôi cuốn được hạ theo mình, nên khi Êlya ở tại nhà bà góa kia mà con bà bị bệnh chết, thì bà ta đã đổ tội cho nhà tiên tri. Bà nói: Ngài và tôi có việc gì (với nhau) mà ngài lại đến tôi để hạch tội tôi và làm con tôi chết? Nhà tiên tri bị buộc tội như vậy chẳng biết làm gì hơn để giải oan là xin lấy xác đứa con để làm sao cho nó sống lại.

Chúng ta thấy ông nằm dài trên đứa trẻ ba lần, khác nào như làm phù phép. Nhưng rõ ràng không phải cử chỉ và hành động này đã làm cho đứa trẻ sống lại, nhưng là lời Êlya cầu nguyện xin Thiên Chúa cho hồn vía đứa trẻ trở về lại mình nó. Chính lời cầu nguyện này đã kéo Êlya ra khỏi cảnh lúng túng và đem sự kiện lạ lùng này mà bà chủ nhà cũng như mọi người sẽ nghe biết chuyện mới thấy rõ Thiên Chúa ở với Êlya và ông thật là người của Thiên Chúa.

Do đó câu chuyện này xảy ra để giúp Êlya. Chủ ý của người viết là làm sáng giá cho nhà tiên tri. Tuy nhiên câu chuyện cũng dạy dân Do Thái một bài học: Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Và chết chưa phải là hết. Nếu người ta tin vào Chúa và biết cầu xin với Người thì Người có thể làm cho con người sống lại. Một niềm tin như thế đòi hỏi ta phải biết sống như thế sẽ có sự phục sinh. Ai không thấy đó là một mạc khải lớn lao và đầy hy vọng cho con người, nhất là ở thời xa xôi và tại những nơi chưa có lời giảng dạy chắc chắn nào về đời sau. Riêng đối với chúng ta, cần nhờ câu chuyện trong bài sách Các Vua hôm nay để hiểu hơn về bài Tin Mừng trong thánh lễ này.

2) Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Của Người

Người ta có thể nói tác giả Luca đã vay muộn một số nét của bài kể trong sách Các Vua. Nhưng những điểm dị đồng đáng để ý hơn nhiều, nhất là chủ ý của hai tác giả rất khác nhau.

Luca thuật lại một câu chuyện đã xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, có đông đảo dân chúng chứng kiến, đang khi bài sách Các Vua chỉ tường thuật việc xảy ra trong nhà một mẹ góa con côi. Và như vậy có thể nói một việc đã xảy ra có hệ đến toàn dân, còn việc kia chỉ liên quan đến một gia đình, nếu không muốn nói là một người. Chúng ta hãy tạm bỏ câu chuyện xưa xảy ra thời Êlya, để chú ý đến việc xảy ra dưới thời Chúa Giêsu mà Luca đã thuật lại để nói rằng nó rất có hệ đến chúng ta thời bây giờ.

Hôm ấy Đức Giêsu đi với môn đồ và đông đảo quần chúng đến một thành gọi là Naim. Người đi vào xã hội loài người vì theo Kinh Thánh "thành" là nơi loài người sinh sống. Và "thành" mà không có Chúa thường được ví như một góa phụ. Hơn nữa "bà góa" ấy không nuôi nổi con mình. Cố gắng của loài người không có thể làm cho con người được sống thật và sống đời đời.

Do đó khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì này người ta đang khiêng đi chôn đứa con gái của bà góa. Thật là não nuột. Có một đứa con mà bà góa vẫn không giữ được. Xã hội loài người cũng bất lực bó tay. Dân chúng trong thành chỉ biết đi chôn đứa con với bà.

Người thường, nếu nhìn thấy cũng chỉ biết cảm thông. Đức Giêsu thì khác, Người đi vào thế gian là để cứu sống nên tác giả Luca viết: "Chúa chạnh lòng thương". Lần đầu tiên trong tác phẩm của ông, Luca xưng Đức Giêsu là "Chúa". Từ ngữ này, các tác giả Tân Ước chỉ dùng để nói về Người sau khi Người đã sống lại. Luca còn dùng kiểu nói "chạnh lòng thương" là kiểu nói chỉ dùng để nói về chính Thiên Chúa khi Người muốn biểu lộ tình thương cứu độ đối với dân Người. Như vậy trong câu nói vắn tắt kia, Luca đã nhìn thấy nơi Đức Giêsu, chính Thiên Chúa đang muốn tỏ lòng thương cứu độ nhân loại khổ sở nằm chết trong tội lỗi. Hơn nữa tác giả còn ngầm ý bảo rằng: nơi Đức Giêsu có sự phục sinh.

Thật vậy, ở đây Đức Giêsu không cầu nguyện như Êlya. Người bảo bà góa đừng khóc lóc nữa. Người đụng đến quan tài. Các kẻ khiêng đứng lại tức khắc. Sao Người uy quyền như vậy? Người ta đã tin ở Người rồi, vì nếu không, các kẻ kia không dễ vâng lời như thế. Rồi Người truyền lệnh: "Thanh niên! Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy". Và người chết ngồi chồm dậy và lên tiếng nói, (để làm chứng đã sống lại thật).

Phản ứng của mọi người là kinh sợ trước quyền và công việc Thiên Chúa. Thiên Chúa đang ở trước mặt họ. Người vừa cho họ thấy một biểu dương uy quyền của Người. Bà góa thành Sarepta thấy Êlya cầu nguyện mà làm cho con bà sống lại, thì nhận ra Êlya là người của Thiên Chúa nên được Chúa nhận lời, còn ở đây người ta thấy sự sống lại do chính Đức Giêsu mà đến, nên Người là một tiên tri cao cả, và đúng hơn, Người là chính Thiên Chúa cứu độ mà loài người chết trong tội lỗi đang chờ đợi.

Do đó như các bài sách Các Vua đã muốn chứng tỏ Êlya là người của Thiên Chúa, thì bài Tin Mừng Luca muốn làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Nơi Người có sự phục sinh để làm cho loài người sống lại, nên Người là vị tiên tri cao cả và là Thiên Chúa đến viếng thăm dân của Người. Chúng ta hãy tin vào sức mạnh cứu độ của Người. Và điều này bài thư Phaolô cũng muốn làm chứng.

3. Thiên Chúa đã mạc khải Con của Người trong tôi

Quả vậy, Phaolô viết thư cho người Galát để ít ra trong đoạn trích hôm nay - Xác minh mình là tông đồ chân chính. Trước đây người Galát vẫn tin như vậy. Nhưng nay có mấy người Do Thái đến đặt điều vu khống và dèm pha uy tín của người, để lôi kéo người Galát trở về với những tập tục Do Thái là cắt bì và giữ luật Môsê. Họ nói rằng Phaolô đã không được đặt làm tông đồ. Người đã làm việc tự ý. Tin Mừng người rao giảng không đáng tin.

Phaolô phản kháng mạnh mẽ. Trong đoạn văn này. Người khẳng định chính Thiên Chúa đặt người làm tông đồ, khi mạc khải Đức Giêsu Kitô cho người. Quả vậy, xưa người không như thế. Người cũng chỉ biết đạo Do Thái và chỉ hơn đồng đạo ở điểm hăng say phục vụ.người đã tình nguyện đi bắt bớ và ra công triệt hạ Hội Thánh của Thiên Chúa. Tại đâu người đã thay đổi ra như ngày nay? Chính nhờ Thiên Chúa đã tách người ra ngay từ lòng mẹ và kêu gọi người. Phaolô ý thức ơn người đã được là do lòng thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn và kêu gọi người như Giêrêmia ở đây để nói lên niềm tin ấy. Hơn nữa khi kêu gọi người, Thiên Chúa đã không mạc khải một sứ điệp, hoặc một sứ mệnh, như trong trường hợp các tiên tri. Thiên Chúa cho Phaolô biết Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, để từ nay người phải rao giảng Ngài.

Do đó Phaolô không cần học với một ai. Chính Thiên Chúa đã dạy Phaolô biết Chúa Giêsu, biết tất cả các chân lý về Ngài và mọi điều phải rao giảng về Ngài. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác không cần thiết tuyệt đối theo nghĩa Phaolô phải cần học hỏi thêm với các ngài. Khi đã nhận được mạc khải của Đức Giêsu Kitô và được đặt làm tông đồ rồi, người ta muốn nắm vững các chân lý của đạo. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác chỉ có ý nghĩa hiệp thông, duy nhất. Và nếu nó có làm giàu thêm cho kho tàng mạc khải mà mỗi người đã lãnh nhận, thì cũng chỉ là một sự soi sáng thêm để đi sâu hơn vào chân lý mà thôi. Phaolô không những được quyền lợi và vinh dự như mọi tông đồ; nhưng vì đã được mạc khải một cách đặc biệt và độc đáo, người còn xứng đáng được tôn vinh như một tông đồ độc hạng và kiệt xuất. Và được như vậy, một lần nữa người ta nên biết, là tự người đã được ơn hiểu biết Chúa Giêsu Kitô một cách phi thường. Do đó, hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là điều quan trọng và quan trọng hơn hết. Bài Tin Mừng đã muốn làm cho người ta được sự hiểu biết này. Bài thư Phaolô làm chứng khi sự hiểu biết này sâu sắc đặc biệt, thì người ta cũng được chọn một cách đặc biệt. Vinh dự và hạnh phúc của người ta vượt xa sự sung sướng của bà góa thành Sarepta khi hiểu biết tiên tri Êlya.

Chúng ta tự nhiên muốn được sự hiểu biết này. Hội Thánh muốn giúp đỡ chúng ta không ngừng. Đặc biệt trong các thánh lễ. Phụng vụ Lời Chúa là một mạc khải liên tục về Chúa Giêsu Kitô. Và nhất là Bí tích cử hành nơi bàn thờ. Tại đây Chúa Giêsu Kitô không muốn cho chúng ta gặp Người như Phaolô trên đường Đamas sao? Chúng ta phải nói còn hơn thế nữa. Chúng ta sẽ lãnh nhận chính mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là chính mầu nhiệm của Người, là chính mầu nhiệm biểu lộ Người hoàn toàn và đầy đủ hơn hết. Người không những là Đấng Tiên Tri của Thiên Chúa, nhưng còn là chính Con Thiên Chúa sinh ra làm người để tha thứ tội lỗi và làm cho chúng ta được sống lại và sống sự sống mới. Chúng ta hãy có lòng tin yêu để  đón nhận và để sống sự sống của Chúa Giêsu Kitô.

--------------------------------

 

TN 10-C18. Sự thương xót của Chúa sự sống.


(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

 

Thánh Luca, vị tông đồ viết Phúc Âm đã nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu. Bài: TN 10-C18


Thánh Luca, vị tông đồ viết Phúc Âm đã nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay là một gương mẫu mạnh nhất, lớn nhất cho việc nhấn mạnh này.

Việc cho đứa con bà góa sống lại, Chúa Giêsu đã chứng tỏ rằng Ngài là Chúa của sự sống, nhưng trong tâm trí của Thánh Luca câu chuyện này thì không hoàn toàn đặt trọng tâm rõ ràng vào người góa phụ, trong đó nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu.

Hầu hết những góa phụ vào thời của Chúa Giêsu thì sống rất khó khăn. Và không có sự giúp đỡ của nhà nước: không có tiền trợ cấp, không có lương hưu, không có bảo hiểm xã hội, nói chung chỉ là những người nghèo, nếu không có việc làm. Khi Chúa Giêsu nhìn vào đoàn người đám tang trong Phúc Âm ngày hôm nay. Chúng ta có thể giả thiết rằng, một người nào đó đã thông báo cho Chúa Giêsu về trường hợp bà góa này đang chôn đứa con độc nhất của bà.

Thánh Luca đã quan sát Chúa Giêsu, thấy Ngài xúc động và động lòng thương khi nhìn thấy bà. Cảm tình của Người đã đi trực tiếp đến người đàn bà không phải là do cái chết của đứa con. Chúa Giêsu hiểu rằng thời gian khó khăn nhất của người góa phụ thì không phải bây giờ nhưng là sau đó, khi chôn cất xong bà sẽ trở về lại một mình trong căn nhà trống rỗng. Chúa Giêsu nhận thấy rằng sự đau thương của bà thì rất sâu thẳm bởi vì sợ về tương lai và bà cũng có thể khó mà sống sót được. Lúc ấy, trong tâm trí Chúa Giêsu có thể nhìn thấy người góa phụ khác trong năm tới, hoặc sau cuộc đóng đinh đi theo thân xác vô hồn của đứa con độc nhất của bà đề tới ngôi mộ. Ngài đã nói với người góa phụ “Đừng khóc nữa”. Từ chúng ta, những lời này sẽ vang lên một cách trống rỗng nhưng từ nơi Người chúng đã đem lại sự an ủi và niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã nói những lời thương xót như thế cho người góa phụ như cho chính Mẹ Người.

Chúa Giêsu đã đụng đến cái cáng và chạm đến thân xác của người chết. Người khiêng cáng đã ý thức được Chúa Giêsu muốn cho họ dừng lại, người đàn bà chờ đợi một điều gì đó sắp sửa xảy ra và những gì Chúa Giêsu sẽ làm. Tiếp đó, bà nghe những lời đầy thương xót cũng như quyền năng: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy trỗi dậy”. Mọi đôi mắt đều hướng về người chết. Anh ta ngồi dây và bắt đầu nói. Đó không phải là giả tưởng. Sau cùng lòng thương xót của Chúa Giêsu là cho người góa phụ, Thánh Luca đã cẩn thận thêm: “Chúa Giêsu đã trao anh lại cho mẹ anh”.

Thánh Phaolô ngày hôm nay chú ý đến đặc ân ngài đã được Thiên Chúa mặc khải Con của Người cho ngài để ngài có thể rao truyền Tin Mừng cứu độ. Và đặc ân đó cho cả chúng ta nữa, qua bài Phúc Âm này theo Thánh Luca, chúng ta cũng đã được mặc khải cho Tin Mừng tình yêu của Chúa. Vị Chúa này đã Phục Sinh chúng ta từ cõi chết tội lỗi và giới thiệu chúng ta đến với mẹ thiêng liêng của chúng ta là Giáo Hội, người mẹ đó giờ đây đang nuôi dưỡng chúng ta xuyên qua những lời Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể.

Hãy chú ý đến sự khác nhau giữa những gì tiên tri Êlisa đã làm và những gì Chúa Giêsu đã làm. Cả hai đối đầu với sự chết. Êlisa đã kêu cầu Chúa và cầu nguyện rằng: “Xin Ngài phục hồi sự sống cho đứa con của người đàn bà, còn Chúa Giêsu đã nói nhân danh Chúa và bởi quyền lực của chính mình. Ngài đã nói những lời rất quyền năng. Êlisa thật sự là một tiên tri của Thiên Chúa nhưng còn Chúa Giêsu chính Chúa của sự sống”. Chúng ta khâm phục và tôn kính vị tiên tri nhưng đối với Chúa Giêsu chúng ta lại kêu lên như trong lời tuyên xưng trong Thánh Lễ của chúng ta: “Bằng sự chết, Người đã phá hủy sự chết của chúng ta. Bằng việc sống lại Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”.

Tất cả chúng ta một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa là Chúa của sự sống nhân lành.

------------------------------

 

TN 10-C19. Lòng tin nơi dân – R. Gutzwiller

 

Việc Chúa Giêsu chỉ tỏ ý muốn, là người đầy tớ viên sĩ quan được chữa lành trong Tin Mừng Luca: TN 10-C19


Việc Chúa Giêsu chỉ tỏ ý muốn, là người đầy tớ viên sĩ quan được chữa lành trong Tin Mừng Luca 7,1-10 là một dấu chứng nói lên uy quyền của Thiên Chúa. Còn ở đây là trường hợp phải đương đầu với một hoàn cảnh thực tuyệt vọng. Một cậu con trai đã chết. Chàng là con độc nhất của người mẹ goá. Cái chết cắt đứt mọi mối dây liên hệ và thật vô phương cứu chữa. Bà mẹ lẽo đẽo bước theo sau quan tài lòng đau như cắt, không còn nghĩ gì hơn được, hy vọng gì hơn được… Đám đông cứ tiến hành việc chôn cất, nào ai có thể làm chi hơn được? Ngay cả các môn đệ, họ chẳng hề nghĩ tới việc cầu cứu Chúa Giêsu: vì một người đã chết không phải như một cây đã trụi hết lá mà như một cây đã bị bứng cả gốc rễ. Vô phương cầu cứu.

Thế nên, chính Chúa Giêsu đã đưa sáng kiến, đã đi bước đầu. Ngài chạnh lòng thương, nghĩa là Ngài cũng khổ với ai cùng khổ. Nên Ngài ra tay cứu chữa.

Viên sĩ quan đã cậy vào quyền truyền khiến của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cũng dùng thứ quyền ấy. Ngài ra lệnh cho kẻ chết: ‘Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy!’. Một giọng điệu đầy dũng lực, quyền uy. ‘Ta bảo người!’, Ngài không cầu cứu ai, không xin với Cha trên trời, nhưng phán quyết nhân danh chính mình, ra lệnh theo ý mình và quyền mình. Chỉ một lời nói, một mệnh lệnh đơn giản: ‘Hãy trỗi dậy!’ là kẻ chết được phục hồi sức sống.

Phép lạ phục sinh kẻ chết này lạ lùng quá, đến độ mọi người đứng đấy đều phát kinh hãi: ‘Mọi người đều sợ hãi’. Họ đã tin, và họ tôn vinh Thiên Chúa; họ công-nhận-Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người, vì Ngài đã làm nên muôn việc kỳ diệu trong dân Israel, nói lên quyền năng của Ngài. Nhưng lòng tin của họ còn khiếm khuyết. Một niềm tin chưa chạm trán với những vấn đề cốt thiết. Nó chỉ nhá nhem niềm xác tín: ‘Một tiên tri cao cả đã trỗi dậy giữa chúng ta’.

‘Dân Do thái chưa hề nhận biết thần tính nơi Chúa Giêsu và thua cả niềm tin của viên sĩ quan. Nếu Ngài chỉ là một tiên tri cao cả thôi, thì Ngài đã chẳng chu toàn điều cốt thiết nhất. Và như thế, mọi chuyện vẫn nằm trong kế hoạch bình thường của Israel, tức là thỉnh thoảng lại xuất hiện nơi Israel các vị tiên tri.

Đó chỉ là việc lập lại mà chẳng có gì mới, nghĩa là một sự nối dài dòng dõi tiên tri thôi. Trong trường hợp đó, Thiên Chúa không đích thân trực tiếp đến viếng thăm dân Người mà vẫn chỉ như xưa, là sai vị sứ giả và nhờ vị trung gian này, Ngài mới cứu giúp dân Người.

Trong khi ở đây, với Chúa Giêsu, trên thực tế, một sự mới mẻ thực sự được thể hiện; thế là chấm dứt mọi quá khứ, khởi đầu một cái gì hoàn toàn khác biệt. Quả thực, dân Do thái có lòng tin, nhưng lòng tin ấy chưa chân xác lắm. Họ có tôn vinh Thiên Chúa, nhưng chưa tôn vinh sự cao cả vô biên của Thiên Chúa. Thì đây, việc phục sinh kẻ chết phải đoan chứng cho họ thấy một sự sống mới bắt đầu tỏ lộ, vì chủ của sự sống và sự chết đang ở giữa họ.

Từ đây, không còn là vấn đề một mắt xích mới tiếp nối trong giây xích, một trang sử mới tiếp nối trong lịch sử dân Do thái nữa, mà là một đầu mối khác hoàn toàn mới mẻ. Đó là: việc phục sinh kẻ chết và bắt đầu một đời sống mới.

--------------------------

 

TN 10-C20. Chúa thương dân khổ – Lm. ViKiNi


(Trích dẫn từ ‘Xây Nhà Trên Đá’)

 

Nhiều gia đình buồn tủi vì không con trai, như gia đình ông bà kia nói: “Vợ chồng chúng tôi sinh: TN 10-C20


Nhiều gia đình buồn tủi vì không con trai, như gia đình ông bà kia nói: “Vợ chồng chúng tôi sinh chín con gái mà chưa có con trai. Ngày tết năm Giáp Dần (tháng 02/1974) nhân dịp tới Trung Chánh, chúng tôi đến khấn tại đền Thánh Giuse Mỹ Hòa. Chín tháng sau nhờ lời cầu bầu của Thánh cả, chúng tôi sinh được một con trai ngày mồng 08 tháng 10 năm 1974. Chúng tôi đặt tên thánh cháu là Giuse để trọn đời nhớ ơn ông thánh” (Châu Thủy: Thánh Giuse trong Phúc Âm 1974 trg. 19-20)

Được có con trai vui mừng biết mấy! Nhưng nếu con trai duy nhất đó chết thì khốn khổ đến chừng nào!

Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đã đau khổ gấp đôi vì chồng đã chết rồi, nay con trai duy nhất còn lại cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho các phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà được bảo lãnh về bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn biệt con của bà. Một đám dân rất đông khác đang tiến về thành Naim đã gặp đám tang con bà tại cửa thành. Một đám vui vẻ như ngày hội, một đám buồn sầu tang tóc. Đám đông vui vẻ ồn ào đã im bặt, họ xì xèo rỉ tai nhau, tin tức về bà góa có con trai duy nhất chết làm mọi người cảm thương tội nghiệp. Một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Người đó là Đức Giêsu. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy thương xót những hạng người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã mủi lòng xót thương, khẽ an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”

Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xẩy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Mãi thời Vua Achab (874-853 A.C) mới xẩy ra hai lần người chết sống lại, một lần ngôn sứ Êlia cho bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó. Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại”. (1V. 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Shunem (Su-nem) và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại … Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35). Thời các tông đồ ở thành Trôa, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại, thánh Luca kể: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv. 20, 7-12)

Người ta kinh ngạc về cái chết phần xác được sống lại, thì càng phải kinh ngạc biết chừng nào khi được Chúa cho sống lại về cái chết phần hồn. Chết phần hồn là những cái chết của những kẻ lao đầu vào chốn nghiện ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè, chơi bời trác táng, có những kẻ chết vì cuộc đời đen tối tuyệt vọng không lối thoát, có những kẻ chết vì tham ô móc ngoặc gian dối bất công. Có những kẻ chết vì khủng hoảng tiền của, danh vọng, địa vị, và hàng trăm thứ chết như vậy nữa. Những hạng người này khó thấy mình sầu khổ trong lúc chết. Chỉ khi nào họ thoát ra khỏi những mê hồn trận đó, họ mới thấy rùng rợn sợ hãi cho quãng  đời quá khứ của họ. Họ chẳng khác gì kẻ nghiện ma túy nhờ cai nghiện được khỏi, lúc đó họ mới thấy sợ. Tất cả những cái chết tinh thần như thế đều được Chúa thương cứu sống họ trong phép Giải tội. Và thật lạ lùng, họ càng chết bao nhiêu lần thì Chúa sẽ cho họ sống lại bấy nhiêu lần. Lòng thương xót của Chúa không ai hiểu thấu.

Còn một cái chết thứ ba nữa là chết cả xác cả hồn: Cái chết này thật rùng rợn kinh khủng vì chẳng bao giờ Thiên Chúa cứu sống nó được nữa. Nó chết đời đời. Nó đã tự chọn cái chết đó, vì nó cố chấp chết trong tội lỗi như Giuđa. Trước khi Giuđa đi thắt cổ, Đức Giêsu vẫn gọi nó là bạn thân thiết. Nó đã từ chối và lao mình vào cái chết đời đời.

Lạy Chúa, Chúa đã thương cứu chữa bao nhiêu người khốn khổ. Con là kẻ khổ nhất, xin Chúa cứu chữa xác hồn con được sống lại với Chúa. Đừng để con phải chết cả hồn lẫn xác đời đời trong ngày kinh khủng ấy.

------------------------------------

 

TN 10-C21: Sự sống hay nỗi chết – Thiên Phúc


(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

 

Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với: TN 10-C21 FB


Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh: “Tôi đã thấy thần chết”.

Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện.

Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.

Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang ra tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu.

Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng: “Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và ta sẽ chiếm trọn kho tàng”.

Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau: “Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn”.

Khi kẻ mang lương thực về đến hang động. Họ liền giết hắn và nuốt trọn thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã cùng nhau đi gặp thần chết như lời vị ẩn sĩ tiên báo.

--------------------

Vì tham lam của cải mà ba sinh mạng đã bị thần chết cướp đi trong nháy mắt. Vì chạnh lòng thương xót người quả phụ cô độc, hôm nay Đức Giêsu đã giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà góa thành Naim.

Đức Giêsu đã can thiệp mau lẹ, xử lý nhanh gọn, ra tay tức thời, không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ. Người nhìn rõ nỗi buồn mất con, Người hiểu thấu nỗi cô đơn của bà góa không nơi nương tựa, Người liền an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Rồi Người sờ vào quan tài và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy” (Lc 7,14)

Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Người muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng. Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhất của con người là sự chết, thì Người cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết.

Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở đó. Người còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu: Người muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời. Con trai bà góa thành Naim sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường. Đó mới là sứ mạng của Người khi xuống trần gian.

Sự kiện con trai bà góa thành Naim được Người cho sống lại chính là hình bóng báo trước biến cố vô cùng lớn lao hơn. Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo: Đó chính là nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời.

Thiên Chúa yêu thương con người, Người muốn giải thoát con người khỏi lưỡi hái của tử thần, nhưng con người vẫn có tự do để chọn sự sống hay nỗi chết. Ba tên cướp vì tham lam của cải đã chọn cho mình hai cái chết: cái chết của thể xác và cái chết của linh hồn. Trong cái hang tử thần ấy không chỉ có những con người tham của mà còn vô số những kẻ tham danh vọng, địa vị, chức quyền; không chỉ có những người mê của mà còn hằng hà những kẻ mê hút sách, rượu chè, cờ bạc, trai gái.

Cái chết phần xác thì ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, nhưng cái chết phần hồn thì chỉ có những con người can đảm, bền chí và trung thành với Đức Kitô và giới luật của Người mới có thể vượt qua để sống viên miễn với Người trên nơi vĩnh phúc.

Lạy Chúa, chúng con ước mong được chết để cùng sống lại vinh quang với Người. Nhưng trước khi chết xin cho chúng con biết dứt lòng từ bỏ những gì là xấu xa của ma quỷ, thế gian và xác thịt để chúng con được tự do thong dong về với Chúa là Cha đầy yêu thương. Amen.

----------------------------

 

TN 10-C22: Tình người của Thiên Chúa rất đáng khâm phục.


(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

 

Làng Naim ở phía nam Nagiarét. Thánh Luca là một y sĩ, cho nên điều dễ hiểu là bài tường thuật: TN 10-C22


Làng Naim ở phía nam Nagiarét. Thánh Luca là một y sĩ, cho nên điều dễ hiểu là bài tường thuật của ông về phép lạ con trai bà góa sống lại đượm một tình người nồng thắm. Đức Giêsu được thánh chép sử xưng tụng là Đức Chúa. Các bộ Phúc Âm được viết sau biến cố Phục Sinh. Do đó Đức Giêsu trở nên Đức Chúa có mọi quyền năng dưới đất cũng như trên trời. Từ ngữ Đức Chúa ở đây gợi ý một tương quan với sự phục sinh của chính Đức Kitô. Đức Giêsu có mọi quyền năng trên sự chết, Người giải thoát những kẻ khác, cũng như Người đã tự giải thoát khỏi sự chết. Đức Giêsu chạm tay vào người chết, một lần nữa chúng ta thấy Người tự cho mình quyền tự do xử sự đối với những vật mà Lề Luật coi là ô uế, vì luật định rằng chạm tay vào một người chết là trở nên ô uế, phải thanh tẩy cho hết dơ bẩn. Phép lạ này đám đông chứng kiến và nhìn nhận. Dân chúng phản ứng theo lối thông thường, họ khiếp sợ nhưng không vì thế mà lòng họ thay đổi. Một sự kiện phi thường rất khó lay động tâm hồn người ta, chỉ gây sợ hãi, kinh hoàng, đôi khi khiến kẻ chứng kiến phải suy nghĩ, nhưng chỉ lát sau đâu lại hoàn đấy, người ta trở lại suy nghĩ hành động theo những điều vốn chất chứa trong lòng. Người ta hiểu được tại sao những phép lạ của Đức Giêsu không tự động làm phát sinh đức tin –giả sử là thế sẽ không đúng cung cách Thiên Chúa. Qua các phép lạ, Thiên Chúa ra dấu, Người không ép buộc con người. Chúng ta đối chiếu phép lạ hôm nay với phép lạ con bà góa ở Serepta được Chúa cho sống lại. Phép lạ Serepta là một điềm báo tiến thêm một bậc, phép lạ Naim là một sự loan báo. Thực tại được báo trước là sự phục sinh của Đức Giêsu –thực tại toàn diện sẽ là sự sống lại ngày sau hết. Tất cả suy luận trên cho chúng ta thấy hai sự thật:

1) Chúng ta không sống trong một thế giới đóng kín trong giới hạn của sự chết.

Thoạt xem, chết là dứt điểm mọi tiến hóa, mọi sinh hoạt. Vậy mà Đức Giêsu đã can thiệp bằng công việc và bằng bản thân, Chúa cho thấy sự thể khác hẳn. Thậm chí, đã có lần Thiên Chúa ủy nhiệm cho những người như ngôn sứ Elia quyền năng trên sự chết. Những sự can thiệp rõ ràng của sức mạnh Thiên Chúa không đi ngược trật tự thiên nhiên, nhưng cốt đáp ứng nguyện vọng sâu sắc nhất của thiên nhiên. Thiên nhiên miễn cưỡng chịu đựng hiện tượng sự chết, và ai cũng biết rằng bản năng sâu sắc trong bất cứ sinh vật nào là bản năng tự tồn. Giữa ước nguyện của thiên nhiên và phép lạ phục sinh có một sự phù hợp mật thiết. Tử thần phải chăng là tên cai ngục canh giữ nhà lao người ta quen gọi là thế giới? Thiên Chúa cho thấy nghĩ thế là lầm.

2) Nếu thế giới không phải là một lao tù, ý nghĩa thế giới là gì?

Nếu thế giới không phải là một sự phi lý, thế giới hướng về đâu? Đức Kitô giải đáp câu hỏi ấy bằng phương pháp đi vào định mệnh nhân loại và kéo nó theo hướng định mệnh của Chúa. Đức Chúa có một trái tim cảm thông với trái tim chúng ta. Người xúc cảm rất tự nhiên với nỗi sầu đau của bà góa ở Naim trước xác chết con bà (có thể lúc đó Người liên tưởng đến nỗi sầu đau của một bà mẹ khác, buổi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, dưới chân thập giá…). Có thể nói rằng lòng thương cảm nhân đạo của Đức Giêsu làm phát động quyền năng của Thiên Chúa có trong bản thể Người. Chúa cho anh thanh niên sống lại, nghĩa là Người làm một dấu tỏ rõ ý nghĩa sự can thiệp của Người giữa nhân loại. Chúa kêu gọi loài người trở lại sự sống, một sự sống toàn diện (linh hồn được cứu rỗi, thân xác được sống lại) sẽ ban cho bất cứ ai không từ chối tin vào Chúa.

---------------------------

 

TN 10-C23: Dấu chỉ thành Naim – André Sève


(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

 

Chúng ta đang đứng trước một mạc khải lớn của Tin Mừng được viết ra do thánh Luca: lòng thương: TN 10-C23


Chúng ta đang đứng trước một mạc khải lớn của Tin Mừng được viết ra do thánh Luca: lòng thương của Chúa chỉ có một câu ngắn trong đó từ ‘thương xót’ nói lên tất cả: “Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương: bà đừng khóc nữa!”

“Vừa thấy bà”. Khi Chúa Giêsu nhìn thì chính Thiên Chúa nhìn. Chúng ta chỉ hiểu được Tin Mừng ngày nào mà chúng ta nhận rõ được điều này: Chúa Giêsu là cái nhìn phàm nhân của Thiên Chúa. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa nói với chúng ta Ngài nhìn chúng ta như thế nào. Điều này không được mạc khải cho chúng ta qua các triết gia, qua các thần học gia cũng như qua các nhà thần bí mà là qua phản ứng của Chúa Giêsu: vào một ngày nọ, tại cổng thành Naim, Ngài đã thấy một góa phụ đi bên quan tài của đứa con trai độc nhất.

Luca nói: “Chúa Giêsu động lòng thương”. Đây là lời nói có sức mạnh mạc khải mà tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh đến. Lời đó có nghĩa là: bối rối, thương xót. Trong Tin Mừng lời này chỉ được dùng để nói Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người mà thôi. Chúa Giêsu “thương xót” đám đông, những người bệnh tật; người cha của đứa con hoang đàng (nghĩa là Thiên Chúa) “động lòng thương” khi thấy lại con trai của mình. Chúng ta có nghĩ rằng Thiên Chúa nhạo báng chúng ta khi làm cho chúng ta nghĩ rằng Ngài động lòng thương hay không?

Ở đây Ngài chứng tỏ điều đó: Chúa Giêsu bị động lòng do một trong những nỗi bất hạnh lớn nhất trên trái đất chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng cảm nghiệm sự đau khổ của con người, trong khi không thể chịu đựng được đau khổ hơn chúng ta: “Bà đừng khóc nữa”. Đây là một lòng thương xót có hiệu quả. Bằng một lời nói, với sự giản đơn của quyền năng toàn vẹn, Ngài làm cho sống lại: “Hãy trỗi dậy!” Một cử chỉ tế nhị kết thúc việc chứng minh cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa: “Ngài trao nó lại cho mẹ nó!”. Ngài không trả lại con cho tôi… Ngài không trả lại cô vợ ba mươi tuổi của tôi… Ngài không trả lại vị Linh mục trẻ mà chúng tôi cầu nguyện cho rất nhiều.

Đây vẫn luôn luôn là bí ẩn đó và sự hiểu lầm đó. Không phải Chúa Giêsu đã đến và đang đến để sửa chữa đau khổ ở đây hoặc ở kia, Ngài đến để sửa chữa tất cả. Việc cậu con trai thành Naim sống lại vừa là một cử chỉ thương yêu mãnh liệt, vừa là dấu hiệu của một lòng thương xót vô cùng mãnh liệt: Thiên Chúa hành động vì sự cứu độ thế giới và vì cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Chúng ta sẽ đau khổ biết bao nếu đứng trước mỗi cái chết, chúng ta nghĩ: hết rồi, tất cả đều chấm dứt.

Chắc chắn bà mẹ thấy con mình sống lại thì hết sức hạnh phúc. Còn đám đông thấy điều khác, đó là “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài”. Chúng ta, những người đang đọc Tin Mừng, chúng ta phải –thậm chí đang ở trong nỗi đau khổ lớn lao- để cho dấu chỉ của thành Naim mở lòng của chúng ta ra cho toàn bộ thực tế mầu nhiệm của việc Chúa đến viếng thăm.

Lòng thương xót của Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng chúng ta được yêu thương. Nhờ Ngài, Thiên Chúa làm một chuyến viếng thăm không thể tưởng tượng được: đích thân đến thăm chúng ta, cứu chuộc và sống lại theo những điều kiện trên trái đất này.

Vâng, nhưng ở đây trí khôn của chúng ta chựng lại: công việc cứu chuộc dẫn đưa Chúa Giêsu đến thập giá, công việc này để cho các bậc cha mẹ bị tan nát cõi lòng mãi mãi, cho đến tận thế, rồi những bạo lực và ích kỷ, làm sao hiểu được công việc cứu chuộc? Đâu là những biện pháp và cái nhìn của Thiên Chúa? Chúng ta muốn ít ra là Ngài giải thích công việc đó cho chúng ta.

Chúa làm điều đó, điều mà chúng ta gọi là Mạc Khải, nghĩa là tất cả những điều mà Thiên Chúa đã đặt dần dần trong tầm hiểu biết, và tấm lòng của chúng ta qua Thánh Kinh: quan điểm của Ngài, công cuộc sáng tạo và ơn cứu độ của Ngài, sự nhẫn nại và tình yêu của Ngài, Tình Yêu của Chúa! Tình yêu này sẽ luôn luôn vượt lên, bằng chiều rộng và chiều sâu trên điều mà chúng ta có thể hiểu được.

Không cấm việc đặt câu hỏi với Chúa. Đây cũng là một cách để yêu mến người Cha, tất cả các bậc cha mẹ đều biết điều này. Nhưng đây phải là cuộc đối thoại của một con người đặt câu hỏi với Thiên Chúa trong khi biết rằng con người sẽ nhận được những câu trả lời mà một con người có thể nắm và chuyển tải.

- Lạy Chúa, sau những gì đè bẹp chúng con vào lúc này, làm sao có thể nghĩ rằng Ngài yêu thương chúng con? Ngài đã để cho xảy ra, Ngài ở xa, Ngài im lặng.

- Ta không ở xa đâu. Ta đã đến tận thành Naim. Ta không im lặng đâu. Khi Ta nói: “Hãy trỗi dậy!” Ở Naim, thì đó là Ta nói với tất cả những người bị đè bẹp, với tất cả những người chết. Cho đến tận cùng, một con người vẫn có thể trỗi dậy, và một ngày nào đó tất cả mọi người sẽ trỗi dậy.

------------------------------------

 

TN 10-C24: Ngài vẫn còn làm phép lạ – Mark Link


(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)

Chủ đề: Việc làm cho con trai bà góa trong Phúc Âm sống lại tiên báo Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu

 

Khó có một nhà đạo diễn phim nào dàn dựng được một pha hấp dẫn như quang cảnh được ghi lại trong: TN 10-C24


Khó có một nhà đạo diễn phim nào dàn dựng được một pha hấp dẫn như quang cảnh được ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay. Thánh sử Luca đã trình thuật lại quang cảnh này như sau: “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Để mục kích rõ hơn quang cảnh này, chúng ta hãy tưởng tượng mình đang ở trên một chiếc trực thăng cùng với đoàn làm phim có máy ghi hình từ xa đang quay lại diễn biến đó. Nhìn từ trên trực thăng xuống, chúng ta thấy một thị trấn nhỏ có một bức tường chắn chung quanh. Phía bên trong tường thành chúng ta thấy một đám người bận toàn bộ đồ tang đen đang từ từ bước ra cổng chính, còn phía ngoài tường thành, có một đám đông khác cũng đang tiến lại cái cổng đó vừa đi vừa cười cười nói nói huyên thuyên. Vài phút sau đó, cả hai đám đông này cùng gặp nhau tại trạm dừng ở cổng thành. Và lúc đó điều ngoạn mục đã xảy ra.

Từ trong đám đông phía ngoài cổng thành, Chúa Giêsu bước ra đi thẳng tới cỗ quan tài, đoạn vừa cầm tay người thanh niên chết nằm trong đó, Ngài vừa phán: “Hỡi chàng thanh niên, Ta truyền cho anh hãy trỗi dậy”. Lập tức một sự yên lặng kinh hồn phủ xuống trên cả hai đám đông. Ai nấy đều như ngộp thở khi nhìn thấy chàng thanh niên bắt đầu cử động. Kìa chàng ta sống lại rồi! Thánh sử Luca kết thúc trình thuật trên bằng những lời sau đây: “Dân chúng đều rất sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa”.

Bây giờ, chúng ta hãy nhắm mắt lại tưởng tượng pha kế tiếp sau đó nhé! Màn đêm buông rơi, chúng ta đang ở trong thành phố Naim. Công viên trung tâm đầy người đang chúc mừng và kháo láo với nhau về phép lạ vừa rồi. Một cụ già nói với người bạn: “Này, ông cắt nghĩa thế nào về sự kiện xảy ra ngày hôm nay? Tại sao Ngài Giêsu đã làm phép lạ ấy? Phải chăng chỉ vì xót thương mụ góa nọ?”. Cụ già kia suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Không, theo tôi nghĩ thì không phải chỉ vì lý do đó thôi đâu. Chúng ta phải đặt phép lạ ấy trong toàn bộ những chuỗi phép lạ khác của Ngài nữa chứ; chẳng hạn chữa lành người ốm, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe… Bộ ông không nhớ lời tiên tri Isaia đã loan báo à? Tiên tri có nói rằng khi Nước Chúa đến, tức là khi Đấng Mêsia xuất hiện, thì sẽ xảy ra một số dấu hiệu để minh chứng, chẳng hạn: “Mắt người mù sẽ mở, tai kẻ điếc sẽ thông, người què sẽ nhảy như nai và người câm sẽ ca hát được” (Is 35,5-6). Tôi nghĩ rằng phép lạ ngày hôm nay càng làm rõ dấu hiệu cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến và đồng thời cho thấy Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia được Thiên Chúa hứa ban”.

Bây giờ, chúng ta hãy quay về với giáo đường này ngày hôm nay. Chúng ta phải cắt nghĩa phép lạ trên như thế nào sau hơn 20 thế kỷ qua? Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua phép lạ đó?

Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy nghe câu chuyện sau: Linh mục thừa sai Paul Belliveau ở Maryknoll cai quản một trong những giáo xứ đặc biệt nhất thế giới. Giáo xứ này gồm khoảng 11 ngàn người tỵ nạn Salvador sống trong một trại tập trung ở Honduras. Đa số họ là phụ nữ, trẻ em và người già. Họ giống như những tù nhân bị giam lỏng, bởi vì chung quanh trại, đám lính luôn canh chừng không cho họ trốn chạy đi tìm tự do ở nơi khác chẳng hạn như ở Mỹ. Đây là hai đoạn trích từ một quyển nhật ký mà Linh mục Belliveau còn giữ lại. Đoạn thứ nhất được ghi lại vào một ngày Chúa Nhật, nội dung như sau: Tôi để ý thấy nhiều dân tỵ nạn cứ dán mắt vào những tấm ván hở để nhìn ra phía ngoài nhà nguyện khi có 18 người lính gác Honduras đi ngang qua trại. Tôi cảm thấy hình như họ rất sợ hãi. Biết bao nhiêu lần chính mắt họ đã từng nhìn thấy những toán lính vũ trang như thể tiến vào giết chóc và tiêu diệt làng mạc của họ tại El Salvador. Tôi đã phải trấn an họ trước khi chúng tôi tiếp tục Thánh lễ. Đoạn thứ hai đề ngày thứ ba, nội dung như sau: Khi đến khu trại số 5, tôi thấy có nhiều phụ nữ đang đọc kinh trong nhà nguyện. Tôi bước vào và ngồi xuống. Khoảng 80 phụ nữ đang gẫm Đàng Thánh Giá. Mỗi một chặng ngắm họ đều so sánh nỗi đau đớn của Chúa Giêsu với khổ đau mà dân tỵ nạn đang gánh chịu. Hai người phụ nữ kể cho tôi rằng họ đã đặt tên cho nhóm của mình là ‘Nhóm các bà mẹ mất con vì bạo lực ở El Salvador’.

Trong khi nói chuyện với đám phụ nữ, Linh mục Belliveau nhìn thấy nơi khuôn mặt họ nỗi đau đớn mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi khuôn mặt bà góa thành Naim. Cha hết lòng ao ước phải chi cha có thể làm cho những người con đã chết của họ sống lại giống như Chúa Giêsu đã làm cho con trai của bà góa nọ. Nhưng tiếc thay Belliveau không phải là Chúa Giêsu. Nhưng rồi vị Linh mục chợt nhận thấy một điều gì đó. Cha nhận ra rằng lúc này đây, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện thực sự trong nguyện đường này giống như Chúa đã từng hiện diện nơi làng Naim hơn 2000 năm về trước; và hơn thế nữa, Chúa Giêsu vẫn đang thực hiện nơi nhà nguyện bé nhỏ này phép lạ còn vĩ đại hơn phép lạ tại Naim nữa; Vì nhờ lời cầu xin của các phụ nữ góa bụa này, Chúa Giêsu không phải chỉ phục sinh đám con cái họ về mặt thể lý, vì điều này cũng sẽ chỉ kéo dài nhiều lắm là 30-40 năm, trái lại, Ngài ban cho lũ con ấy cuộc sống vĩnh cửu, như lời Ngài đã phán: Đây là ý Chúa Cha: Hễ ai thấy Chúa Con và tin vào Ngài sẽ được sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày tận thế (Ga 6,40). Và bỗng dưng, Linh mục Belliveau nhận ra rằng phép lạ Chúa Giêsu thực hiện cho các tín hữu còn vĩ đại hơn nhiều so với phép lạ Ngài đã làm cho con trai bà góa thành Naim.

Đây là sứ điệp Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay. Ngài muốn chúng ta nhìn thấy nơi phép lạ thành Naim không chỉ là dấu chứng lòng thương của Ngài đối với bà góa nọ, cũng không chỉ là dấu hiệu minh chứng Ngài là Đấng Mêsia, mà còn là dấu chỉ báo trước điều Ngài sẽ thực hiện cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Ngài, nghĩa là Ngài sẽ làm cho chúng ta sống lại không phải chỉ với một thân xác mới mẻ về mặt thể lý mà còn với một cuộc sống trường tồn vĩnh cửu nữa. Đó chính là Tin Mừng Ngài ban cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay. Tin Mừng mà chúng ta cùng tụ họp nơi đây để hân hoan mừng kính.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:

Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào mắt kẻ mù lòa để đem lại cho họ thị giác. Xin hãy chạm vào đôi mắt chúng con để mắt chúng con nhìn thấy Chúa.
Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào lỗ tai kẻ điếc để phục hồi thính giác cho họ. Xin hãy chạm vào tai chúng con để tai chúng con nghe thấy Chúa.
Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào thân xác người thanh niên làm cho thân xác ấy được sống. Xin hãy chạm vào chúng con để chúng con được sống muôn đời.

---------------------------------

 

TN 10-C25: Suy niệm của Lm. Văn Quy & Lm. Trần Văn Khả


(Trích dẫn từ ‘Phúc Âm Chúa Nhật’)

I. TÌM HIỂU

 

Câu truyện này chỉ có một mình thánh Luca kể lại. Ngài kể tiếp theo câu truyện chữa tên đầy tớ của: TN 10-C25


Câu truyện này chỉ có một mình thánh Luca kể lại. Ngài kể tiếp theo câu truyện chữa tên đầy tớ của viên sĩ quan La mã. Nhưng không cho biết rõ thời giờ, chỉ tả về sự việc xẩy ra ở Naim.

Naim, nay là một làng nhỏ cách Capharnaum độ 7, 8 giờ về phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin. Naim không cách Sunem bao xa, nơi mà tiên tri Êlidê đã làm cho con bà chủ nhà trọ sống lại. Gần làng, về phía đông, người ta đã khoét vào núi những lỗ sẵn dùng để chôn cất. Naim, một thành nhỏ chỉ có một cửa để đi về đồng quê và ra nơi chôn cất.

Thường thường việc chôn cất làm cuối ngày, có lẽ lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong thành thì gặp đám xác ở trong thành đi ra, ngay ở cửa thành.

Theo thói tục Đông phương, người chết để trong áo quan không đậy nắp, và đã được quấn khăn liệm kỹ lưỡng. Cùng đi với Chúa Giêsu có môn đệ và một số đông dân chúng. Đám xác có đông người tham dự.

Điều đó quan trọng để chứng minh việc sống lại này có thật chứ không giả tạo. Chàng thanh niên đã sống lại thật sự:

- Anh đã đứng lên và bắt đầu nói được.
- Chúa cầm tay trao lại cho mẹ cậu.
- Thái độ sửng sốt sợ hãi của mọi người làm chứng một biến cố quan trọng đã thực sự xẩy ra.
- Việc sống lại đã được loan truyền khắp vùng.

Câu truyện kể một cách rất đơn sơ, không có chi tiết của một câu truyện hoang đường.

“Trông thấy bà, Chúa động lòng thương”. Trong bài tường thuật này chúng ta cũng nên chú ý một điểm: đây là lần thứ nhất mà thánh sử dùng chữ ‘Chúa’ để chỉ về Chúa Giêsu.

Phép lạ chứng tỏ lòng nhân hậu của Chúa: lý do trước nhất khiến Chúa làm phép lạ mà thánh sử ghi nhận là “Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: Đừng khóc nữa”.

Lòng thương xót biểu lộ trong câu nói: “Thôi đừng khóc nữa”. Đây là lời chia buồn với khổ chủ. Thái độ của Chúa còn biểu lộ trong cử chỉ rất nhã nhặn đem cậu trả cho mẹ. Đứa con là hy vọng độc nhất của bà và đã là căn cớ cho bà đổ không biết bao nhiêu là nước mắt.

Quyền năng Chúa biểu lộ qua câu nói: “Hỡi chàng thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy”.

So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36 do tiên tri Êlia và tiên tri Êlidê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlidê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Còn Chúa Giêsu chỉ phán có một lời, không cầu, không xin, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên sống lại.

Cảm giác của dân chúng

- Đầu hết sợ sệt.
- Sau họ ca ngợi Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể làm được những việc như thế.
- Quan niệm về thời kỳ cứu chuộc sống động lại trong tâm hồn dân chúng.

Hiệu quả: Danh tiếng Chúa đồn khắp xứ Giuđêa, và các vùng lân cận, vào cả trong ngục thất nơi giam cầm vị Tiền hô. Vì thế ngài đã sai sứ giả đến hỏi Chúa về sứ mạng của Chúa

II. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

1) Êlia làm sống lại con trai bà quả phụ ở Sarepta

Trong thời gian Êlia đang ở trong nhà bà quả phụ thì cậu con trai của bà ngã bệnh, và bệnh tình trầm trọng đến nỗi cậu ngã ra chết, vô phương cứu vãn.

Bà quả phụ quá buồn thưa với tiên tri rằng: ‘Hỡi người của Chúa, ngài với tôi có liên quan gì chăng? Ngài đến nhà tôi để nhắc lại những lỗi lầm thầm kín của tôi làm cho Chúa giết chết con tôi’. Vị tiên tri nói với bà: Đem nó lại đây. Rồi ông bế lấy đứa nhỏ khỏi tay mẹ nó, đem lên phòng cao nơi ông ở và đặt nó trên giường. Ông kêu cầu Đức Chúa rằng: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?" Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Đức Chúa rằng: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!" Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống. Ông Êlia liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: "Bà xem, con bà đang sống đây!" Bà nói với ông Êlia: "Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng."

2) Êlidê làm cho một em nhỏ sống lại

Một hôm, ông Êlidê đi qua Sunêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: "Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó." Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Đi gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà và bà đến trước mặt nó. Ông Êlidê bảo nó: "Hãy nói với bà ấy: Bà đã quá lo lắng bận rộn vì chúng tôi. Chúng tôi biết phải làm gì cho bà đây? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà không?" Bà trả lời: "Tôi sống yên hàn giữa dân tôi." Ông Êlidê nói với tiểu đồng: "Nên làm gì cho bà ấy?" Giê-kha-di đáp: "Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già."

Ông Êlidê bảo: "Đi gọi bà ấy." Nó đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. Ông Êlidê nói: "Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai." Bà mới nói: "Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!" Quả nhiên, bà ấy có thai, và năm sau, vào thời kỳ, vào độ mà ông Êlidê đã nói, thì bà sinh con trai. Đứa trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt, nó nói với cha: "Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!" Người cha bảo anh đầy tớ: "Bồng nó về cho mẹ nó." Người tớ trai bồng nó, đem về cho bà mẹ. Đứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở trong rồi đi ra. Bà đi gọi chồng và nói: "Xin ông sai đến tôi một anh đầy tớ và một con lừa cái. Tôi chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về." Người chồng bảo: "Tại sao bà lại đi gặp ngài ngày hôm nay? Không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sa-bát." Nhưng bà trả lời: "Ông cứ yên tâm!" Rồi bà cho thắng lừa và nói với anh đầy tớ: "Hãy đưa tôi đi và lên đường! Chỉ dừng xe lại khi tôi bảo." Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi Các-men.

Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Kìa bà Su-nêm. Con hãy chạy ra đón và nói với bà ấy: "Bà có được mạnh khoẻ không? Ông nhà có được mạnh khoẻ không? Cậu bé có được mạnh khoẻ không?" Bà trả lời: "Vâng, mạnh khoẻ cả." Khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: "Để yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Đức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết." Khi ấy, bà nói: "Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói: "Xin đừng đánh lừa tôi, đó sao?" Ông Êlidê bảo Giê-kha-di: "Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta trên mặt cậu bé."

Mẹ cậu bé nói: "Có Đức Chúa hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài." Ông trỗi dậy và đi theo bà. Giê-kha-di đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Êlidê và trình ông: "Cậu bé đã không thức dậy." Khi ông Êlidê tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên. Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. Ông Êlidê gọi Giê-kha-di và bảo: "Đi gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà; bà đến với ông, ông nói: "Bà hãy đem con đi!"

Giáo Huấn của Công Đồng Vatican II

Chúa Giêsu Kitô là người được Thiên Chúa sai đến: “Sau khi phán dạy nhiều lần, nhiều cách qua các Tiên Tri, "nay là thời cuối cùng, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Chúa Con" (Dth 1,1-2). Thực vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng sáng soi mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Gio 1,1-18). Bởi vậy, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể "là người đã được sai đến với loài người", "nói tiếng nói của Thiên Chúa" (Gio 3,34) và hoàn thành công trình cứu rỗi của Chúa Cha đã giao phó cho Ngài thực hiện (x. Gio 5,36; 17,4). Vì thế, chính Ngài, Đấng mà ai thấy, tức là thấy Chúa Cha (x. Gio 14,9), đã đến bổ túc và hoàn tất mạc khải, bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang từ kẻ chết, sau cùng bằng việc phái Thần Chân Lý đến, bằng chứng tích của một Thiên Chúa, Ngài xác nhận Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi phục sinh chúng ta để được sống đời đời.

Vậy nhiệm cuộc Kitô giáo, vì là giao ước mới và vĩnh viễn, sẽ không bao giờ mai một. Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang (x. 1Tm 6,14; Tit 2,13).
(Hiến Chế Tín Lý Về Mạc Khải Của Thiên Chúa – số 4)

-----------------------------------

 

TN 10-C26: Chú giải của Noel Quesson


Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain.

 

Ngôi làng này hiện nay vẫn còn, dưới phân núi Tabo, cách Nadarét mười kilômét. Đức Giêsu đi bộ: TN 10-C26


Ngôi làng này hiện nay vẫn còn, dưới phân núi Tabo, cách Nadarét mười kilômét. Đức Giêsu đi bộ đến đó có nhiều người đi theo Người, gồm cả đàn ông và đàn bà, họ khao khát lắng nghe lời Người và nhìn xem các phép lạ của Người.

Có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất và mẹ anh ta lại là một bà góa.

Luca, thánh sử của Đức Maria (ngài là người duy nhất cũng kể lại nhiều kỷ mềm về thời thơ ấu của Đức Giêsu) hẳn đã thu lượm các chi tiết này từ chính miệng của Đức Maria. Sự sống lại này được thực hiện trong một ngôi làng gần Nadarét không thể không đến tai của Đức Maria. Và sau khi con Mẹ sống dậy, Người ta biết bằng cách nào mà các kỷ niệm có thể trỗi dậy khi Mẹ có thể đối chiếu hai hoàn cảnh: Một góa phụ... một con trai duy nhất đã chết...được trao lại cho bà mẹ...

Luca, thánh sử về phụ nữ, không bỏ qua việc nhấn mạnh những chi tiết cảm động. Trong Kinh Thánh "các quả phụ” chính là biểu tượng của loài người nghèo mà Thiên Chúa bảo vệ một cách đặc biệt. Ở đây, sự đau thương tới mức cùng cực. Người đàn bà ấy đã thình lình chịu hai cái chết sớm: chồng bà và con trai bà. Vả lại trong thời đại ấy (ngày nay cũng chẳng như thế hay sao, dù quy mô có khác?)  điều kiện của người phụ nữ ' đặc biệt khắc nghiệt khi họ không có chăng, và con trai: Chỉ người chồng hoặc con trai đủ để tạo thành sự bảo trợ hợp pháp và bảo đảm các phương tiện sống cho bà. Tôi có quan tâm đến những cảnh nghèo khó và khốn khổ âm thầm, những cảnh khốn  khổ đã trở thành quen thuộc?

Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.

Trong tất cả các thánh sử, Luca là người kể chuyện biết mồ tả tỉ mỉ câu chuyện như trong hình thức văn chương. Ở đây hiệu quả của phim ảnh đã được chuẩn bị tốt: Vậy có hai "đám đông", hai đoàn người sắp gặp nhau ở cổng thành Nain. Một đám ma đi ra. Các môn đệ của Đức Giêsu tiến đến.

Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương.

Không phải vì sự tình cờ mà Luca sử dụng từ "O kurios" trang trọng để nói về Đức Giêsu. Luca chiếu trước ánh sáng Phục sinh trên người chết ấy mà người ta đem đi chôn. Danh hiệu Đức Chúa chỉ Chúa Thượng (Yahvé) trong bản Bảy mươi (Kinh Thánh dịch ra tiếng Hy Lạp một vài năm trước Đức Kitô) và Giáo Hội tiên khởi sẽ áp dụng cho Đấng Phục sinh. Luca thích dùng từ' này trước cả lúc Chúa Phục sinh. Đó là cách ngài dùng để gđit lên tăn tính mầu nhiệm của Đức Giêsu Nadarét. Luca dùng mười chín lần danh hiệu vinh quang này, trong khỉ Mát-thêu và Máccô mỗi Người chỉ dùng có một lần. Cũng thế, từ "chạnh lòng thương”, “esplanchnisthè" không được dùng mà không có lý sao. Từ Hy Lạp này, có nghĩa chính xác là "xúc động đến ruột gan", hầu thư luôn luôn được áp dụng cho tình yêu thương của Thiên Chúa. Đối với loài người trong các Phúc âm. Phần đông các tôn giáo lớn đã được xây dựng trên ý tưởng về một thượng đế “vô cảm", "xa lạ", "toàn năng". Ít-ra-en đã nhập được mạc khải về một Thiên Chúa "như mẹ hiền" có lòng dạ, ruột gan (Hôsê 1,6-7 - 2,21; Thánh Vịnh 51,3..; Isaia 49,15). Còn giờ đây trong Đức Giêsu, Thiên Chúa xuất hiện rất là nhân bản, dễ bị tổn thương, gần giũ, có thể cảm xúc trước cảnh tang thương. Đức Giêsu chính là nhân tính của Thiên Chúa, có thể nói như Vậy.

Không nên có ý định hợp lý hóa những điều đó. Các Công  đồng của ba thế kỷ đầu tiên, dù đã sử dụng những ý niệm rõ ràng hơn của triết lý HyLạp nhưng ít ra đã can đảm không giản lược mầu nhiệm Đức Giêsu và khẳng định một cách rõ ràng hai khía cạnh mâu thuẫn trong ngôi vị của Người vừa là người vừa là Đức Giêsu. "Đức Chúa xúc động đến ruột gan". Luca đã dám viết nhu thế. Lạy Chúa là Đức Giêsu, con cám ơn nhân tính của Ngài? Trong giây phút này đây, con muốn chiêm ngắm sự xúc động đang làm trái tim Chúa thổn thức Trước mọi người đã' qua đời của trái đất này, Lạy Chúa, Chúa luôn luôn có sự xúc động đó. Chúa sắp làm gì trong- ngôi làng bé nhỏ Nain gần cổng thành? Chúa sẽ ban cho dấu chỉ nào?

Người nói: "Bà đừng khóc nữa!" Rồi Người lại gần sờ vào quan tài.

Tôi nghĩ đến mọi bà mẹ đang khóc thương con mình... đã chết, đã đi xa, lầm lạc, đã gieo bao lo lắng, đánh mất đức tin. Mầu nhiệm đáng tôn trọng của những dòng nước mắt các bà mẹ của chúng ta là một phần sức nặng không thể tránh khỏi của thân phận con người. Với tất cả những ai tín thác nơi Người và đi đến tận cùng đức' tin của họ thì Đức Giêsu sẽ mang lại một sự an ủi chân thật. Không có một tấm lòng đau buồn nào của người mẹ khóc than mà Đức Giêsu không dịu dàng đến gần nói nhỏ: "Đừng khóc nữa”. Lạy Chúa xin hãy tăng thêm đức tin trong con.

Các người khiêng dừng lại, Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”

Từ "hãy trỗi dậy!" này là mệnh lệnh cách của động từ  “égeirein" là động từ được dùng để chỉ sự sống lại của Đức Giêsu (Lc 9,22 - 24,6-34), và sự sống lại của những người được chọn trong ngày cánh chung (Lc 20,37). Nhưng động từ này cùng chỉ điều xảy ra một cách mầu nhiệm trong phép rửa tội: "Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi''(Ephêsô 5,14). "Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép  rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người (Côlôsê 2;12). "Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa" (Côlôsê 3,l).

Vì thế, lời khẳng định sau đây của Garaudy là đúng nhưng không đầy đủ: ' "Sự sống lại đối với Đức Kitô và các môn đệ Người chính là một cách tồn tại mới…phép lạ thật sự có thể nhận thấy và không thể bác bỏ về mặt lịch sử.  Đó là một sự việc lạ lùng còn hơn cả một sự vi phạm thần kỳ các quy luật của sinh học, hơn cả một câu chuyện về ngôi mộ trống, hoặc về một trận động đất đáp lại tiếng kêu của người đang hấp hối... phép lạ thật sự, không chỉ là Đức Kitô, mà là tất cả các môn đệ ngày hôm trước còn sợ hãi); họ đã bắt đầu sống một cuộc sống mới cuộc sống của Thần Khí" (Lời kêu gọi gởi những  người sáng, tr. 182).

Nếu sự sống lại của Đức Giêsu chỉ là  chuyện "thần kỳ" thì mọi cuộc "nổi dậy để giải phóng" của chúng ta rất đáng nực cười. Sự sống lại đích thực là sự thánh thiêng. Nó không thuộc quyền năng của con người. Và vì thế, chúng ta hãy, nói rõ điều này, sự sống lại không thể do tưởng tượng, cũng không thể do lý luận bằng những ý niệm rõ ràng.

Tuy nhiên, người ta không thể nói rằng sự sống lại trái với tự nhiên, "vi phạm quy luật của sinh học", ít là trong một ý nghĩa nào đó. Bởi lẽ sự trường tồn là ước nguyện phổ quát của toàn 'thể tự nhiên: Mọi sinh vật, dù là thực vật hay động vật đều được khắc ghi trong nó một bản năng.mạnh mẽ và dai dẳng về sự bảo tồn và sinh sản để được sống mãi... và mọi nền văn minh và tôn giáo đều có niềm tin vào sự sống đời đời. Chỉ có con người phương Tây từ ít lâu nay đã đánh mất xác tín vào sự sống đời đời. Về vấn đề này, so với toàn thế giới, họ chỉ là thiểu số.

Về vấn đề phổ quát ấy, tính độc đáo của đức tin Kitô giáo hợp lý tuyệt vời theo cách của nó. Vì là một "mạc  khải” đến từ Thiên Chúa, đức tin ấy chủ yếu là dám khẳng định rằng với Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước vào số phận hay chết của con người chúng. ta (Phi-lip-phê 2,6-11) để lôi kéo chúng ta đi theo số  phận thánh thiêng hằng sống của Người: "Như Chúa Cha, là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ chờ tôi mà được sống như vậy" (Ga 6,57). "Và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6,40).

Phép rửa tội là sự tham dự trước vào đời đống vĩnh cửu ấy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế cũng như  Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới" (Rôm 6,4).

Còn chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội, chúng ta có thật sự sống một đời sống mới chưa?

Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kính sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người". Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lên cận.

Từ "viếng thăm" của Thiên Chúa rất gợi ý. Một cuộc “viếng thăm" là một sự can thiệp tạm thời ngắn ngủi. Như  thế Thiên Chúa không hiện ra cách liên tục như quyền lực chiến thắng sự chết. Và vì "một thanh niên" ngày hôm đó sống lại trong một ngôi làng miền Giu-đê trong số hàng tỉ người đã chết, thật vậy, từ lúc thế giới bắt đầu. Nhưng trong cuộc viếng thăm đặc biệt này mà Thiên Chúa thực hiện trong Đức Giêsu, Người đã cho chúng ta "dấu chỉ thời thế mạt": Một ngày kia, khi Thiên Chúa sẽ là "tất cả trong tất cả”,  lúc đó sẽ không còn nước mắt, sẽ không còn sự chết, tang tóc, kêu than và đau khổ nữa (Khải huyền 21,4). Thế gian không còn phi lý nữa. Nó không còn bị giam hãm trong sự hữu hạn. Không phải là Thiên Chúa, nghĩa là bất toàn trong một thời gian, chúng ta được hứa cho thông phần vào "bản tính của Thiên Chúa" (2 Pí I,4).

Sự sống lại ấy của người thanh niên ở Nain liên quan đến tôi ở điểm cao cả nhất.

--------------------------------------

 

TN 10-C27: Chú giải mục vụ của Hugues Cousin


Phục Sinh Cho Con Trai Bà Góa Thành Nain

 

Một trình thuật phép lạ thật khéo. Việc chữa lành này, trong đó Chúa Giêsu cho một kẻ chết trở về: TN 10-C27


Một trình thuật phép lạ thật khéo. Việc chữa lành này, trong đó Chúa Giêsu cho một kẻ chết trở về cuộc sống trần gian, là riêng của Luca; ngoài câu chuyện về con gái ông Gia-ia (8,49tt, với các đoạn song song ở Maccô và Matthêu), Luca còn kể lại hai lần làm cho kẻ chết sống lại nữa trong Công vụ do Phêrô (Cv 9,36-43) và do Phaolô (Cv 20,7-12). Trình thuật này được sắp xếp ở đây để chuẩn bị lời đáp của Chúa Giêsu cho câu hỏi của vị Tẩy Giả về căn cước của Ngài: “Kẻ chết sống lại” (7,22).

Hai đám đông gặp nhau, một đám theo Chúa Giêsu, đám kia theo một bà goá đi chôn đứa con trai ở ngoại thành. Theo phong tục, người ta chôn cất chính ngày chết hay vài giờ sau đó. Không phải vì người chết mà Chúa Giêsu chạnh lòng thương, mà vì người phụ nữ từ nay không còn đứa con trai để nuôi sống gia đình nữa.

Trình thuật của Luca đưa độc giả theo hai hướng. Một đàng, trong diễn tiến của trình thuật Luca gọi Chúa Giêsu là Chúa, đúng tước hiệu của Đấng bị đóng đinh và đã sống lại (Cv 2,36); đó là tuyên xưng Chúa Giêsu là vị chiến thắng tử thần. Đàng khác, Luca tăng thêm những quy chiếu về một trong hai phép lạ tương tự trong Cựu Ước, việc Phục Sinh con trai bà goá thành Sarepta do Êlia (1V 17,17-24), bà goá này đã được Chúa Giêsu nhắc đến ở Nagiaret khi nói về phép lạ khác của Êlia mà bà đã được hưởng nhờ (4,26); Luca nói đến cửa thành đến một bà goá mất đứa con trai duy nhất, đến người chết lại nói được, đến công thức: “Người trao anh ta cho mẹ anh”. Đó là những ghi chú để cho thấy rằng Chúa Giêsu có một quyền năng giống như Êlia, vị ngôn sứ vĩ đại sẽ trở lại vào thời kỳ cuối cùng (Ml 3,22-24); hơn nữa, những gì Cựu Ước nói về Êlia cho biết rõ hơn về Chúa Kitô. Đối với Luca, người cẩn thận tránh đồng hoá vị Tẩy Giả với Êlia (khác với mc 9,11-13; Mt 17,10-13), Chúa Giêsu đích thị là Êlia của thời cuối cùng.

Một trong những nét của trình thuật Luca khác với khuôn mẫu của Cứu chuộc không phải là không có ý nghĩa. Khi mà Êlia phải nằm dài ra lên trên đứa bé (1V 17,21) và người kế vị ông là Êlisê phải thực hiện bảy lần thở nhân tạo (2V 4,34-35), thì Chúa Giêsu chỉ cần một lời nói; việc Ngài sờ vào quan tài chỉ là để cho đoàn đưa đám ngừng lại. Với uy quyền, Ngài truyền cho người thanh niên trỗi dậy, đó là một trong hai từ được dùng trong bài giảng Phục Sinh để tuyên xưng việc Phục Sinh của Chúa Giêsu; chính với tư cách là Đức Chúa có quyền trở nên sự sống và sự chết mà Chúa Giêsu hành động. Lời nói của Ngài tái lập liên hệ giữa chàng thanh niên với đám người chung quanh, đã bị cắt đứt do cái chết: anh bắt đầu nói. Cần ghi nhận rằng việc anh được trả lại cho mẹ anh ta nhắc ta nhớ chính vì cảm thương bà mà Chúa Giêsu đã làm như thế.

Như rất thường thấy trong các trình thuật phép lạ, đoạn kết ghi lại phản ứng của những người chứng kiến. Tất cả, đám đông và các môn đệ (cc.11-12), nhận thấy nơi Chúa Giêsu một vị Ngôn Sư vĩ đại đã trỗi dậy –cũng một động từ như câu 14! Việc nhận biết này dĩ nhiên chưa phải là trọn vẹn, bởi vì nó không tuyên xưng Chúa Giêsu là vị Ngôn Sứ cuối cùng, Đấng phải đến (c.19). Tuy nhiên không phải nó không có giá trị, bằng chứng là mọi người nhận ra trong phép lạ, cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, Đấng đến để giải thoát Israel, đó là sự can thiệp đầy nhân hậu mà Giacaria đã ca tụng (1,68-78). Và tin này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.

Đâu là biến cố lịch sử ẩn tàng trong câu chuyện về việc trở lại tạm thời với đời sống trần thế – quả thực, người thanh niên ở Nain này đã chết thật sự một tháng, mười năm hoặc năm mươi năm sau khi Chúa Giêsu cho anh sống lại? Vào thế kỷ thứ nhất, nơi dân Do Thái, người ta nghĩ rằng tinh thần của người chết lảng vảng trong ba ngày xung quanh thân xác trước khi xuống nơi chốn dành cho người chết. Cũng tương tự như vậy, nghiên cứu hiện đại cho biết cái chết không phải là việc đứt đoạn trong giây lát, mà là một tiến trình phức tạp, là nhiều những tan vỡ liên tiếp cộng lại; cái chết gồm nhiều giai đoạn. Nhân danh điều gì để từ chối tin rằng một thanh niên, đã vượt qua nhiều rào cản của sự chết, đặc biệt là sự bất hiệp thông, đã có thể trở lại cuộc sống nhờ lời của Chúa Giêsu? Dù sao, vấn đề của các cộng đoàn Kitô sau Phục Sinh thì lại hoàn toàn khác; họ không tìm để biết cái gì đã xảy ra sau khi người thanh niên được chữa lành một cách lạ lùng! Họ đã khởi đi từ sự kiện này để giảng dạy một giáo lý về quyền năng của Chúa Kitô trên cái chết: Đấng Phục Sinh sẽ ban cho những kẻ thuộc về Ngài, sau khi họ chết, một đời sống vĩnh hằng hoàn toàn mới mẻ.

-----------------------------------

 

TN 10-C28: con trai bà góa Nain sông lại


(Luca 7,11-17 – CN X TN - C)

1.- Ngữ cảnh

 

Sau bài diễn từ trong đồng bằng, Đức Giêsu đi vào Caphácnaum. Tại đây Người chữa lành một người: TN 10-C28


Sau bài diễn từ trong đồng bằng, Đức Giêsu đi vào Caphácnaum. Tại đây Người chữa lành một người nô lệ sắp chết (7,1-10). Do đó, ta có thể thấy có một sự tiến triển từ truyện ấy đến truyện đọc hôm nay: ở 7,1-10, ta ghi nhận là tại Caphácnaum, Đức Giêsu chữa lành  một người nô lệ “gần chết”; ở 7,11-17, tại Nain, Đức Giêsu  cho một thanh niên, con một bà góa, đã chết, được “trỗi dậy”.

          Hai dấu chỉ này lại không tách biệt với những gì đến sau: trong câu trả lời cho những người được Gioan cử đến, Đức Giêsu gửi họ trở lại với những phép lạ cho người chết sống lại (7,22). Như vậy, chức năng của hai truyện Caphácnaum và Nain đã rõ: tác giả dùng để chuẩn bị cho câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu và câu trả lời của chính Người. Nhờ hai hành vi quyền lực này cũng như những cuộc chữa lành khác (x. 7,21), Đức Giêsu có thể nói: anh em cứ nhìn xem những gì tôi đã làm! Nhưng việc nếu người ta có thể nhận biết Người là bởi vì các phép lạ đáp lại một sự chờ đợi này được gây nên bởi một lời hứa: trong câu trả lời, Đức Giêsu nhắc lại bản văn Isaia đã đọc tại hội đường Nadarét, cũng như những bản văn khác (x. Is 26,19; 29,18; 35,5-6; 61,1), để nói lại lần nữa rằng trong tất cả những chuyện này, phải thấy là các lời ngôn sứ được ứng nghiệm. Đàng khác, nếu rảo qua tất cả các xen nằm trong Lc 7,1–7,49, ta thấy rõ toàn khối có tính thống nhất: từ đầu cho đến cuối chương 7 này, đề tài là tư cách ngôn sứ của Đức Giêsu và những dấu chỉ cho phép nhận ra Người. Để thấy được diểm này, ta có thể so sánh Lc 7,1-10 // 7,11-17; 7,18-23 // 7,24-28; 7,29-35 // 7,36-49.

2.- Bố cục

          Bản văn có thể chia thành ba phần:
          1) Giới thiệu các nhân vật (7,11-12);
          2) Hành động của Đức Giêsu (7,13-15);
          3) Phản ứng của dân chúng: ca ngợi và phổ biến (7,16-17).

3.- Vài điểm chú giải

- Nain (11): Một thành ở về phía nam Galilê, chỉ được nhắc đến ở đây trong Kinh Thánh. Thành ở không xa Enđo về phía tây bắc của Nêbi Đahi, một quả đồi ở giữa Ghinbôa và núi Tabo, cách Nadarét về phía tây nam vài dặm.

- Bà đừng khóc nữa (13): Dạng mệnh lệnh hiện tại có nghĩa là “Bà đừng tiếp tục khóc nữa!”. Đức Giêsu không ngăn cản nỗi đau của một người mẹ, nhưng khuyên bà như thế là nhắm đến hành vi Người sắp làm.

- ngôn sứ (16): Hẳn là sự kiện này nhắc nhớ đến sự việc ngôn sứ Êlia cho người con một của bà góa Sarépta sống lại. Có thể so sánh 1 V 17,20 // Lc 7,12; 1 V 17,17.20 // Lc 7,12; 1 V 17,22 // Lc 7,15; 1 V 17,23 // Lc 7,15; 1 V 17,24 // Lc 7,16. Sau này chính tác giả Lc cho thấy đám đông coi Đức Giêsu là Êlia của thời cuối cùng (9,18). 

- Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (16): Câu này nhắc lại minh nhiên câu mở đầu và câu kết của bài Benedictus (1,68.78). Có lẽ tác giả thấy trong cả hai trường hợp, có việc ban tặng một người con: cho Dacaria và Êlisabét đã lâu vẫn xin có được một con trai, và cho bà góa vừa mất đứa con một.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Giới thiệu các nhân vật (11-12)

          Bài tường thuật bắt đầu với việc giới thiệu các nhân vật qua hai bước (= hai thì). Câu 11 cho thấy Đức Giêsu đang tiến về một thành gọi là Nain, có các môn đệ và một đám đông cùng đi với Người. Còn c. 12 thì kể rằng khi Đức Giêsu đến cửa thành thì gạp một người chết là con trai một, được đưa đi chôn, mẹ của anh là một bà góa, và một đám đông đáng kể của thành đi với bà.

          Chúng ta ghi nhận sự song đối: có hai đám đông, nhưng đi theo hai hướng đối ngược. Đây là hai nhóm người không có gì chung cả: những người thuộc nhóm thứ nhất đi theo một người có uy quyền, còn những người thuộc nhóm thứ hai đi theo một người chết.

* Hành động của Đức Giêsu (13-15)

Chúng ta không biết gì về tình cảm của cả hai nhóm. Nếu tác giả không ghi lại các tình cảm của những người đi theo người chết cũng như phản ứng của các môn đệ nhằm lưu ý Đức Giêsu về tình trạng bất hạnh của bà góa, thì không phải là vì ngài quên, nhưng ngài muốn nêu bật kết quả: phần giới thiẹu ngắn gọn và hoàn toàn khách quan, bề ngoài, về các nhân vật, nhằm giúp tập trung chú ý vào lòng thương cảm của Đức Giêsu: Người là chủ ngữ của tất cả các động từ trong cc. 1-15: thấy, chạnh lòng thương/đầy lòng tắc ẩn (splanchnizomai: ruột gan quặn thắt), nói (với bà góa), lại gần, sờ, nói (với người chết), trao anh ta cho bà mẹ. Cũng như trong truyện Dakêu (Lc 19,1tt), chính sáng kiến của Đức Giêsu gây ra sự cố: nếu Đức Giêsu đi qua mà không dừng lại trước bà góa hoặc không ngỏ lời với ông trưởng nhóm thu thuế, thì hẳn là chẳng một ai trong những nhân vật ấy đã được nếm cảm niềm vui. Trong cả hai trường hợp, lời Đức Giêsu nói cho thấy Người hiểu thấu trái tim con người hoặc Người vén mở cho thấy dần dần căn tính của con người. Quả thật, chính Đức Giêsu nói lên ý thức về nỗi phiền muộn của người phụ nữ: “Bà đừng khóc nữa!” (c. 13), và về tuổi tác của người chết: một người thanh niên (c. 14)!

Đặc biệt lời Người nói có sức mạnh vô song, bởi vì tức khắc điều Người truyền đã xảy ra: từ lời quyền năng của Người trào vọt ra mọi thay đổi tiếp đó. Ta ghi các lời nói tuôn trào từ lời của Đức Giêsu: “Đức Giêsu nói: Hãy trỗi dậy! Người chết liền … bắt đầu nói … Mọi người đều nói: Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện … Lời này (logos) được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê”. Tác giả đã đưa chúng ta chuyển đi từ cái nhìn trên nhóm người đi đưa đám sang chú ý vào Đức Giêsu bằng cách gọi Người là “Chúa” (kyrios, c. 13). Ngài không nói trong tư cách là người tường thuật một sự kiện, một biến cố, nhưng trong tư cách tín hữu. Đối với tác giả, chính chúa tể của sự sống và sự chết  đang ngỏ lời với bà góa. Có hai chi tiết khiến ta nhờ đến bài thánh ca Benedictus: Lòng trắc ẩn của Đức Giêsu (1,78: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn”) và lời của dân chúng: “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (7,16; x. 1,68: “đã viếng thăm cứu chuộc dân Người”). Từ đó, có thể nói: khi Đức Giêsu cứu chữa vì lòng trắc ẩn, Thiên Chúa đã đến gặp dân Ngài. Chính dân Israel đã đón Thiên Chúa đến viếng thăm (7,17).

Cũng cần ghi nhận một điểm nữa. Vừa giới thiệu xong hai nhóm, tác giả ghi nhận một hành động của Đức Giêsu: “trông thấy bà, idơn autçn” (c. 13a). Không phải người chết khiến Đức Giêsu phải động lòng thương, nhưng là người mẹ đang khóc. Chính do ghi nhận này của tác giả mà người đọc hiểu rằng bà đang yêu thương và đang đau khổ như chỉ một người mẹ mới có thể đau khổ, và chính nỗi đau đớn này khiến trái tim của Đức Giêsu không chịu nổi. Chuyện người chết bắt đầu nói cũng không quan trọng gì ở đây, vì điểm nhắm là người mẹ đau khổ như bản văn nối tiếp cho thấy: c. 13a, “Chúa chạnh lòng thương bà”; c. 15b, “Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”. Chúng ta ghi nhận rằng chủ ngữ của động từ “chạnh lòng thương” là “Chúa” (trong phép lạ cho con gái ông Gia-ia sống lại, chủ ngữ luôn là “Đức Giêsu”: 8,40.41.45.46.50): dường như tác giả muốn nêu bật tư cách Mêsia của Đức Giêsu, hơn là chiến thắng của Người trên sự chết. Như vậy, việc cho người con trai của bà góa sống lại được coi như một trong các kỳ công của Đấng Mêsia, nhằm chứng thực cho sứ vụ của Đức Giêsu (x. Lc 7,19: Gioan sai các môn đệ đến hỏi “Chúa”). Tuy nhiên, cả hai lần từ “Chúa” xuất hiện đều thuộc về người kể truyện. Lý do: tác giả muốn giữ một khoảng cách so với tiếng nói của những người có mặt (các môn đệ và đám đông), vì họ đang tung hô Người là “một vị ngôn sứ vĩ đại” (7,16). Tác giả vừa duy trì ý kiến chung của mọi người coi Đức Giêsu là “ngôn sứ vĩ đại” (c. 17: “Lời này về Đức Giêsu…”), vừa đưa vào một sự hiểu biết mới mẻ và đúng đắn hơn về Đức Kitô.

Người phụ nữ trở thành mẹ vào lúc bà đón nhận người con trai từ tay Đức Giêsu, khi bà đón lấy làm con người thanh niên vừa nhận sự sống không phải từ bà nữa nhưng từ Đấng Tạo hóa: từ cử chỉ của Đức Giêsu, cả bà lẫn chàng trai nhận được chân tính là mẹ và là con. Tác giả vẫn không muốn nói về các tình cảm của bà mẹ, chẳng hạn hy vọng trước khi phép lạ xảy ra và tri ân sau khi người con đã được trả lại vì ngài chỉ nhắm làm cho mọi người biết rằng mọi chuyện đều được Đức Giêsu biết và làm cho xảy ra.

* Phản ứng của dân chúng: ca ngợi và phổ biến (16-17)

Tuy không nói gì về các tâm tình của hai mẹ con, tác giả Lc không làm cho ta nghĩ họ là những con người vô ơn: bản văn nhấn mạnh rằng “mọi người” không ngoại lệ “tôn vinh Thiên Chúa” (c. 16), và cũng như ở Lc 19,7, tính từ “mọi / tất cả [người]” (pantes) có một ngoại diên tối đa bao hàm cả người phụ nữ và chàng trai.

Cho dù trong cc. 16-17, Đức Giêsu không nói cũng không hành động nữa, Người vẫn hiện diện, hoặc thậm chí hiện diện khắp nơi, bởi vì danh tiếng Người tràn lan ra đến tận biên cương xứ Paléttina. Lời Người nói cũng như việc Người làm nay biện minh cho việc dân chúng nhìn nhận Người là “ngôn sứ” như Êlia (1 V 17,17-24 LXX) của thời đại cuối cùng (x. Lc 9,18) và sự kiện danh tiếng Người được đồn thổi khắp nơi. Cuối cùng, Thiên Chúa cũng được ca ngợi là “đã viếng thăm dân Người”. Câu 16c này rõ ràng nhắc lại lời mở và kết của bài Benedictus (1,68.78). Việc Đức Giêsu đi ngang qua được coi như là việc Thiên Chúa viếng thăm nhằm cứu độ dân Ngài.

+ Kết luận

Trong bài tường thuật này, các hàng rào bị phá vỡ. Đức Giêsu chạm tới thi hài, ngược lại mọi luật lệ về trong sạch (x. Ds 19,11-16). Nhưng ở một độ sâu hơn nữa, Người triệt tiêu giới hạn giữa sự chết và sự sống, bằng cách làm cho chàng trai sống lại và ban lại niềm hy vọng cho ai đã hoàn toàn mất hy vọng. Thế rồi “lời” băng qua cổng thành và tràn lan khắp vùng. Ý nghĩa của phép lạ có tính phổ quát: có một Đấng có thể làm cho người chết sống lại. Việc triệt hạ các hàng rào mở ra một cửa sổ trên mầu nhiệm của Đấng, khi tỏ ra thương xót và biểu lộ ơn cứu độ cho dân Người, được nhìn nhận là vị ngôn sứ vĩ đại, đồng thời là Chúa tể của sự sống.

Bằng khả năng viết tài ba, tác giả Lc đã tiến hành bằng cách mô tả hai nhóm, rồi tập trung vào nhân vật chính là Đức Giêsu (phản ứng của Người, sáng kiến, lời năng động và các hậu quả), rồi ngay sau đó trở lại với nhóm đã được thống nhất (“mọi người”). Sự biến đổi không chỉ hệ tại việc đưa chàng trai trở về cõi sống, hay trong việc một người mẹ mất con nhận lại anh ta vẫn sống từ tay Chúa, nhưng còn trong sự kiện hai đám đông tách biệt nay hiệp nhất với nhau mà ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa.

          Phần các môn đệ, nếu các ông đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia của Thiên Chúa , điều này có nghĩa là Đức Giêsu đã làm những dấu chỉ cho phép các ông nhận ra Người. Do đó, các môn đệ sẽ phải bước theo Thầy trên nẻo đường đưa tới cái chết và cuộc tôn vinh, hầu cho hành vi nhận biết được nên thật.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Điểm quan trọng của bản văn không phải là người chết hoặc cái chết, hoặc việc trở lại cõi sống, nhưng là sự kiện một người mẹ, đã là góa bụa, lại vừa mất đứa con một và Đức Giêsu không chịu để cho bà phải khóc lóc. Việc trở về cõi sống không phải là mục tiêu mà sáng kiến Đức Giêsu nhắm tới. Hành động của Đức Giêsu đã kết thúc với một nhận xét đẹp: “Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ” (c. 15). Chuyện người chết bắt đầu nói cũng không quan trọng gì ở đây, vì điểm nhắm là người mẹ đau khổ như bản văn nối tiếp cho thấy: c. 13a, “Chúa chạnh lòng thương bà”; c. 15b, “Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.

2. Chúng ta có thể suy ngẫm về lời và cử chỉ của Đức Giêsu, một lời hết uy quyền  và một cử chỉ hết sức khả ái. Người đã gọi người chết trở về cõi sống và trao anh ta cho bà mẹ. Trong tư cách là Đấng Tạo hóa, Người đã ban cho anh sự sống rồi trao anh cho mẹ. Chính khi đó, người phụ nữ trở thành mẹ và chàng trai trở lại làm con.

3. Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng nhân loại chính là sự hiện diện của Thiên Chúa cứu độ. Sự hiện diện này không chỉ đưa lại sự an ủi, khích lệ, mà còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Chính những hiệu quả này giúp dân chúng nhận ra rằng Thiên Chúa đã đến viếng thăm họ nơi “vị ngôn sứ vĩ đại” này. Đấy hẳn cũng phải là điều các môn đệ của Đức Giêsu ở mọi thời phải chứng tỏ.

4. Lời đáp của đám đông mang dấu ấn là nỗi sợ hãi và tâm tình tôn vinh Thiên Chúa. Đây là phản ứng tiêu biểu của con người khi đứng trước sự biểu lộ của thế giới siêu việt, của Thiên Chúa (x. Lc 1,12.65; 2,9; 5,26), nỗi sợ hãi có kèm theo việc tôn vinh Thiên Chúa (Lc 2,20; 5,26; 13,13; 17,15; 18,43; 23,47), dấu chứng tỏ có hiểu biết về Thiên Chúa và đáp lại bằng lời cầu nguyện với mạc khải của Thiên Chúa.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

-----------------------------

 

TN 10-C29: PHÉP LẠ CON BÀ GÓA Ở THÀNH NAIM


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN, năm C

Lc 7, 11-17

 

Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là yêu thương. Chúa giảng dạy, giáo huấn và làm phép lạ là nói lên: TN 10-C29


Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là yêu thương. Chúa giảng dạy, giáo huấn và làm phép lạ là nói lên lòng nhân từ vô biên của Chúa. Thánh Luca viết Tin Mừng nói lên mặc khải lớn lao của Chúa Giêsu:” Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương xót: bà đừng khóc nữa “.

Tin Mừng của thánh Luca thuật lại phép lạ của Chúa Giêsu làm cho con trai bà góa thành Naim, đã chết, người ta đang khiêng đi chôn, nhưng Chúa Giêsu đã làm cho sống lại. Tin Mừng viết:” Vừa thấy bà “, thánh Luca cho thấy một mặc khải cao siêu về lòng thương xót của Chúa Giêsu.Chúa nhìn là Thiên Chúa nhìn. Chúa thấy bà góa là Thiên Chúa Cha thấy bà góa. Chúa đưa bà góa ra khỏi nỗi tuyệt vọng. Con người đặc biệt bà góa lúc này đang lâm cơn tuyệt vọng. Chúa Giêsu động lòng thương. Lời nói của Chúa Giêsu có sức mạnh mặc khải, có sức mạnh giải thoát con người. Chúa thương xót khi thấy đám đông đi theo Ngài và Chúa đã làm phép lạ để nuôi sống nhiều ngàn người ăn. Chúa chạnh thương chữa lành những người mang bệnh hoạn tật nguyền. Chúa động lòng thương khi thấy đứa con trai hoang đàng của mình trở về. Ở đây, trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã cảm thông, đã cảm động khi thấy bà góa bên cạnh quan tài của con một đã chết. Ngài cảm thông với nỗi đau khổ của người đàn bà góa. Chúa làm cho bà đầy hy vọng. Chúa bảo bà:” Bà đừng khóc nữa “. Chúa đã cho bà niềm hy vọng vì Ngài làm phép lạ cho cậu con trai của bà sống lại, khiến mọi người kinh hãi nhưng đầy thán phục Ngài. Bà mẹ hết sức vui mừng, hạnh phúc, biết ơn Chúa vì từ nỗi tuyệt vọng mất con, bà đã lấy lại hy vọng và cùng với mọi người xác tín mạnh mẽ: tình yêu của Thiên Chúa mạnh hơn tất cả. Đồng thời đám đông cũng nhận ra một điều thật sâu xa là Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài .

Các bài đọc và đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cho chúng ta hiểu lòng thương xót của Chúa. Chính vì lòng nhân từ thương xót của Ngài mà Chúa đã được sai đến trần gian để yêu thương và cứu độ nhân loại, cứu thoát con người.Tuyệt đỉnh của việc viếng thăm dân là cái chết trên thập giá. Đây là mặc khải tuyệt đỉnh của lòng thương xót Chúa.Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã để ý đến những vân đề của con người: sinh, bệnh, lão, tử.Đứa con của bà góa đã sinh ra, đã bệnh và đã chết. Chúa đã yêu thương, can thiệp vào những vấn đề thực tế như thế để cho nhân loại hiểu: Chúa có quyền trên sự sống và sự chết.

Cuộc đời là bể khổ bởi vì có ai luôn hạnh phúc, luôn sung sướng, luôn an vui đâu ! Ngộ giả con người luôn sung sướng, luôn hạnh phúc thì đâu họ có cần đến Chúa nữa. Do đó, con người luôn cần đến Chúa. Ai trong chúng ta cũng đều gặp đau khổ trong cuộc đời. Thử thách, bệnh hoạn, tật nguyền Chúa đều biết hết. Ngài luôn yêu thương, quan tâm, giúp đỡ nếu con người biết chạy đến, kêu cầu và van xin Ngài. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có hy vọng, trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta vẫn có niềm tin, đừng tuyệt vọng, đừng buông xuôi, luôn tin tưởng và bám chặt lấy Chúa.Ngài luôn sẵn sàng cứu giúp và giải thoát chúng ta.

Xin mượn lời của Denis Sonet để kết luận bài suy niệm này:” Hãy chỗi dậy”. Đây cũng là lời mà Đức Giêsu phán với chúng ta khi chúng ta chịu phép rửa tội: Hãy trỗi dậy, hãy sẵn sàng cho sự sống mới, hãy phục sinh ! liệu chúng ta có để cho sự sống ân sủng mà chúng ta đã lãnh nhận bị lịm tắt? Chúng ta không phải là những kẻ chết đối với tình yêu, và đối với đời sống siêu nhiên hay sao ? Hôm nay, chúng ta hãy lắng nghe tiếng mời gọi tha thiết của Đức Kitô:” Ta truyền cho ngươi: hãy bước ra khỏi tội lỗi của ngươi, hãy ra khỏi sự tầm thường của ngươi, hãy hồi sinh ! “.

Lời nói này, Chúa Giêsu sẽ nói với mỗi người chúng ta sau khi chúng ta chết đi, Người “ sẽ đánh thức “ chúng ta dậy để bước vào đời sống vĩnh cửu. Phép lạ Naim, giống như phép lạ phục sinh của Đức Kitô, là những dấu chỉ báo trước cho sự phục sinh của chính chúng ta “.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng vào quyền năng của Chúa vì Chúa có quyền trên sự sống và trên sự chết. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Cụm từ “ chạnh lòng thương “ nói lên điều gì ?
2.Đứa con trai bà góa thành Naim đã chết và người ta đang khiêng cậu đi chôn nói lên gì ?
3.Chúa đã làm gì cho con trai bà góa thành Naim ?
4.Phép lạ này nói lên gì ?
5.Cụm từ “ Bà đừng khóc nữa “  có ý nghĩa gì ?

-----------------------------------

 

TN 10-C30: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người


CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Lu-ca 7:11-17)

 

Tin Mừng Lu-ca nói nhiều đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với kẻ tội lỗi, những người: TN 10-C30


 Tin Mừng Lu-ca nói nhiều đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với kẻ tội lỗi, những người cùng khốn trong xã hội và cả những người dân ngoại.  Câu chuyện Chúa Giê-su cho con trai bà góa thành Na-in sống lại là tường thuật duy nhất chỉ có thánh Lu-ca ghi lại.  Bà góa thành Na-in này nằm trong số những người cùng khốn được Chúa đoái thương.  Điều khiến người ta kinh sợ, đó là quyền năng của Chúa Giê-su làm cho người đã chết được sống lại.  Nhưng có lẽ điều làm cho chúng ta cảm động chính là những gì Chúa Giê-su làm cho kẻ còn sống, những gì Người đã phục hồi cho một bà mẹ đã mất mát tất cả khi đứa con trai duy nhất qua đời.

          Trong câu chuyện, điều đầu tiên Chúa Giê-su làm cho bà góa thành Na-in là “trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa’”.  Chúa Giê-su không chỉ trông thấy bà bằng con mắt, nhưng bằng trái tim.  Một cái nhìn lập tức nảy sinh ra lòng thương xót.  Không chạnh lòng thương sao được khi nhìn thấy một bà mẹ khóc vật vã, lảo đảo đi bên cạnh xác đứa con trai duy nhất!  Mất chồng, bà ký thác tất cả đời mình vào tương lai của đứa con trai này.  Nhưng thần chết đã cướp mất nó, để lại cho bà một thiếu vắng không có gì bù đắp được.  Có lẽ chúng ta cũng nhiều lần đến với những người bạn có người thân qua đời và nói ít lời an ủi.  Rồi có thể chúng ta cũng đã lập lại chính những lời Chúa nói với bà góa thành Na-in:  “Thôi đừng khóc nữa”.  Nhưng chúng ta chỉ có thể làm những gì trong khả năng của mình, hoặc chưa biểu lộ được lòng thương cách trọn vẹn.  Chúng ta thử tưởng tượng ra cung cách của Chúa Giê-su khi Người nói với bà góa:  “Bà đừng khóc nữa”.  Chúa nói những lời này với tất cả tình yêu thương, bằng ánh mắt hiểu được tận cùng nỗi đau khổ của bà và với giọng nói dịu dàng an ủi làm rung động trái tim bà.  Tuy nhiên bên cạnh cung cách biểu lộ “lòng thương”, những lời nói của Chúa Giê-su còn đem lại niềm hy vọng đích thực, một bảo đảm rằng “vị ngôn sứ vĩ đại” này chắc chắn sẽ làm một việc gì đó để tỏ ra một cách cụ thể lòng thương xót của Người.  Biểu lộ cụ thể ấy là Chúa đã đến gần người chết, truyền lệnh cho anh ta trỗi dậy.

          Cử chỉ thứ hai Chúa Giê-su làm đối với bà góa thành Na-in là sau khi cho con trai bà sống lại, Người “trao anh ta cho bà mẹ”.  Thanh niên này đâu còn phải là một đứa bé, vậy mà Chúa trao anh ta cho bà mẹ!  Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giê-su đã “chạnh lòng thương” trước mất mát quá lớn lao của bà mẹ này thế nào, thì Người cũng “chạnh niềm vui” khi Người làm một cử chỉ của bà mẹ trao con cho bà mẹ đã mất mát như vậy!  Chúng ta cũng thử tưởng tượng ra khuôn mặt Chúa lúc trao anh ta cho bà mẹ.  Ánh mắt Người chứa đựng cả một trời sao vui.  Nụ cười rạng rỡ của Người như bình minh rực lên nắng hồng.  Thần chết đã tàn nhẫn cướp đi mọi sự của bà thì giờ đây Chúa Giê-su giành lại và trao tận tay cho bà.  Cử chỉ trao lại của Chúa quả thực đầy ắp ý nghĩa.  Chúng ta không nghe nói gì thêm sau khi Chúa trao lại cho bà người con.  Nhưng chắc chắn đã có hai cuộc sống lại:  người con trai duy nhất đã sống lại thể xác và bà mẹ góa đã sống lại phần tinh thần và tình cảm.  Những cuộc sống lại ấy đều là kết quả do việc Chúa chạnh lòng thương!

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Sách Tin Mừng Lu-ca nhiều lần xưng hô Chúa Giê-su là “Chúa”.  Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giê-su không chỉ là vị ngôn sứ vĩ đại, nhưng là Chúa, là “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”.  Với quyền năng Thiên Chúa, Người đã viếng thăm bà góa thành Na-in, phục hồi sự sống cho con bà và cả bà nữa.  Trong cuộc sống đầy khó khăn và thử thách, bị mất mát quá nhiều, có khi nào bạn nghe Chúa nói “Con đừng khóc nữa” không?  Hoặc có khi nào Chúa đến gần, chạm vào con người thiêng liêng của bạn đã chết do tội lỗi và truyền lệnh:  “hãy trỗi dậy!” không?  Có thể bạn đã gặp một mất mát quá lớn khi một người thân yêu qua đời, lúc ấy bạn có để cho Chúa “trao lại” cho bạn niềm vui và bình an đã mất hay không?  Rồi sau khi đã được phục hồi, bạn hãy cùng với mọi người tôn vinh và loan truyền Chúa Giê-su cho thế giới!

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

-------------------------------

 

TN 10-C31: Đừng khóc nữa


Một ngày kia, Chúa Giêsu sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh.

 

Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm: TN 10-C31


Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm vui, một sự sống mới đi vào trần thế. Nhưng khi con người giã từ cuộc đời thì không tự mình khóc được, bao nhiêu người khác sẽ khóc thay trong đau buồn thương tiếc. Một người ra đi sẽ không còn hiện hữu trên trần gian này nữa. Vì thế, đây là tiếng khóc da diết, thảm buồn nhất. Sự chết quy tụ người ta lại trong tiếng khóc. Và chính tiếng khóc này là nơi gặp gỡ của tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu đem niềm vui đến, tiếng khóc không còn, chỉ còn nụ cười hân hoan và lời ca ngợi khen.

Thánh Luca là một y sĩ cho nên bài tường thuật về phép lạ con trai bà góa sống lại thắm đượm tình người. “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Naim, nay là một làng nhỏ ở phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin.Naim cũng gần Sunem là nơi tiên tri Êlisê đã làm cho con bà chủ nhà trọ được sống lại.

Thường thường việc chôn cất người chết vào lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong làng thì gặp đám tang đang đi ra.

Một người thanh niên chết và anh là con trai duy nhất của một bà góa.Bà mẹ rất đau khổ vì chồng đã chết nay con trai duy nhất cũng ra đi.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, và rất đông dân làng đã đi tiễn biệt con trai vắn số của bà. Thông thường lúc chết, người ta được mọi người quan tâm và yêu thương hơn lúc nào hết.

Có một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Đó là Đức Giêsu. Với lòng thương xót những người cùng khốn, với con tim nhạy bén trước nổi đau của con người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi Ngài sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”. Câu chuyện đã được loan truyền khắp vùng.

Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xảy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Từ thời Vua Achab (874-853 A.C) có xảy ra hai lần người chết sống lại.Ngôn sứ Êlia cho con của bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó.Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại” (1V 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Sunem và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại…Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35).

Thời các tông đồ, Sách Công vụ kể, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv 20, 7-12).

So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36, do tiên tri Êlia và tiên tri Êlisê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlisê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Chúa Giêsu chỉ phán một lời, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên liền sống lại. Trong Phúc Âm kể lại câu chuyện Chúa cho con gái ông Giairô đã chết được sống lại (Mc 5, 22-42); Chúa cho Ladarô đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11, 43-44)…

Tuy nhiên, những người đã chết được Chúa cho sống lại rồi họ cũng chết lần nữa và thân xác về bụi đất. Sứ điệp chính của Tin mừng là sự sống viên mãn, sự sống dồi dào đằng sau cái chết.

Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo sự phục sinh của Ngài. Đây chính là niềm tin, là niềm hy của Kitô hữu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Chúa Giêsu đến thế gian để cứu độ con người. Sự hiện diện này đem lại niềm an ủi, khích lệ và còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, mỗi người chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con... Thầy sẽ trở lại đón các con...”. Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời:”Chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).Những người có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ niềm hy vọng cho con người.

Trên phần mộ cũng thường có tấm bia có khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia có khắc 3 chữ: R. I. P. Ðây là 3 chữ tắt của câu bằng Latinh: requiescat in pace - Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu ! Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha đời tôi. Và tôi biết Ngài hằng yêu mến tôi.

Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương tiếc nhớ làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui năm xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người đang sống: tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu. Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống. Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa. Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.

Mọi người, một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa nhân lành là Chúa của sự sống viên mạn.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An


--------------------------------

 

TN 10-C32: Thông cảm để “chạnh lòng thương”


Qua phép lạ Naim, Chúa Giêsu tiên báo một cuộc phục sinh vĩ đại cho toàn thể nhân loại.

Jos.Vinc. Ngọc Biển

 

Con người ai sinh ra trên đời này cũng đều trải qua 4 cửa ải là sinh, lão, bệnh, tử. Hay chết là một trong: TN 10-C32


Con người ai sinh ra trên đời này cũng đều trải qua 4 cửa ải là sinh, lão, bệnh, tử. Hay chết là một trong 4 khâu của định luật "thành, trụ, hoại, diệt". Có một câu danh ngôn rất hay: “Sự chết là con lạc đà đen quỳ đợi ngay trước cổng nhà của tất cả mọi người” (Abe-el-Kader). Nói theo tam đoạn luận thì: ông này bà nọ là con người; mà đã là con người nên họ đều phải chết; vì thế, tôi cũng là con người, nên tôi cũng phải chết.

Như vậy, không ai tránh khỏi cái chết. Mọi người đều phải kết thúc cuộc hành trình trên trần gian này bằng cái chết. Đã có sinh thì ắt phải có tử. 

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại cho chúng ta thấy Chúa Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum và gặp thấy đám tang con trai bà góa thành Naim đang được đem đi chôn. Hình ảnh đám tang của con trai bà góa này cho chúng ta thấy: người thanh niên này đã trải qua cuộc sống dương thế. Anh ta đã chết. Anh ta đã kết thúc tại cửa ải thứ 4 là “tử”; khâu cuối cùng là “diệt”. Người thanh niên này đã bị cái chết chiến thắng. Thần chết đã thống trị. 

Thế nhưng, khi gặp được Chúa Giêsu, cái chết có phải là đã kết thúc mọi chuyện và là mồ chôn vĩnh viễn thân phận cát bụi của người thanh niên kia không?

Không! Tin Mừng cho chúng ta thấy cái chết không phải là ngõ cụt, nhưng nó là một giai đoạn cần phải trải qua để đi vào sự sống vĩnh hằng. Cái chết như là một cửa khẩu để qua đó, ta sang được bến bờ bình an và hạnh phúc viên mãn. Niềm tin ấy đã được Chúa Giêsu hé mở và củng cố qua cái chết của con trai bà góa thành Naim hôm nay.

Hình ảnh đám tang ở trong thành đi ra, còn Chúa Giêsu và các môn đệ thì đi vào. Hai hình ảnh không thuận chiều nhau mà là trái chiều. Nhưng hai nhóm người đó đã gặp nhau tại một điểm giao. Điểm giao đó là “tình yêu”, “lòng thương xót” của Chúa Giêsu. 

Quả thật, Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót, mà Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót đó, nên Ngài luôn yêu thương và thông cảm cho nỗi khốn cùng của con người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương” (esplanchnisthè), mà theo tiếng Hy Lạp, có nghĩa chính xác là “xúc động đến ruột gan”. 

Thật thế, Ngài đã có lòng thương cảm sâu đậm cho hoàn cảnh éo le của gia tang. Hơn nữa, mẹ của người chết lại là một bà góa, chồng bà đã chết, mọi hy vọng đều đổ dồn vào người con trai duy nhất, nay con bà chết, bà biết trông vào ai? Nỗi cô đơn trở nên tột cùng khi những kỳ thị của dân tộc sẽ đến với bà. Sự bất hạnh lại càng lên đến đỉnh cao khi những truyền thống trong xã hội Dothái thời bấy giờ coi thành phần các bà góa là những người không có tiếng nói, là hạng người thấp cổ bé họng.

Đứng trước tình cảnh như thế, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Chúa Giêsu đã động lòng trắc ẩn, an ủi bà đừng khóc nữa, rồi sau đó Ngài hành động ngay. Ngài truyền cho những người khiêng cáng dừng lại, sau đó Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, ta bảo anh: Hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.

Hành vi Chúa Giêsu bảo những người khiêng cáng dừng lại và Ngài truyền lệnh cho người chết chỗi dậy thể hiện quyền năng của một vị Thiên Chúa uy quyền và làm chủ sự sống lẫn sự chết; đồng thời cũng cho chúng ta thấy bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1 Ga 4,16). Một Thiên Chúa luôn yêu thương, chữa lành; một Thiên Chúa đem lại cho con người niềm an ủi và hạnh phúc sau những đắng cay tủi nhục; một Thiên Chúa gieo vào trong tâm hồn con người niềm hy vọng khi mọi chuyện tưởng chừng như đã chấm dứt bằng cái chết.

Tuy nhiên, đấy mới chỉ là những cách giải thoát mang tính hiện sinh mà thôi, bởi lẽ người thanh niên hôm nay được Chúa cho sống lại, nhưng rồi một ngày nào đó anh ta cũng sẽ phải chết. Nhưng điều mà Chúa Giêsu muốn đi xa hơn qua việc cho người thanh niên này sống lại, đó chính là đem lại cho con người sự sống viên mãn, một sự sống dồi dào đằng sau cái chết. Vì thế, Ngài đã muốn giải thoát con người khỏi cái chết đời đời, để thay vào đó là sự sống trường tồn mai hậu. Đây là trọng tâm của sứ điệp mà hôm nay Chúa muốn nhắn gửi nơi mỗi người chúng ta. 

Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo một cuộc phục sinh vĩ đại cho toàn thể nhân loại qua cái chết và sự phục sinh của chính Ngài. Đây chính là niềm hy vọng siêu việt, viên mãn của mọi người Kitô hữu chúng ta.

Quả thật, trình thuật về việc con trai Bà goá thành Naim được sống lại, Chúa Giêsu không chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Thiên Chúa dành cho những người bé mọn, cũng không chỉ dừng lại ở việc Chúa cảm thông với nỗi cô đơn, mất mát to lớn của bà goá nọ. Nhưng điều quan trọng hơn những cảm xúc đó chính là dấu chỉ tiên báo trước việc Chúa sẽ sống lại và những ai tin vào Ngài thì cũng sẽ được sống lại và được đưa vào nơi tràn đầy hạnh phúc và bình an.

Như vậy, hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về hai bản tính của Ngài qua việc cho con trai bà goá sống lại. 

Về nhân tính: Chúa Giêsu cũng cảm thông, xúc động và “chạnh lòng thương” đến người cùng khổ. Với hoàn cảnh cụ thể của bà góa, Ngài có sự cảm thông sâu xa khi thấy gia cảnh của bà lúc này: mất chồng, mất luôn cả người con duy nhất của mình trong lúc tuổi già để nâng đỡ những lúc đau bệnh và bênh vực khi bị người đời chèn ép hay an ủi trong lúc cô đơn…

Về mặt thiên tính: Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài đã cho người chết trỗi dậy. Sự chết không còn quyền chi đối với Ngài. Ngài làm chủ sự sống và sự chết khi truyền cho người chết trỗi dậy.        

Qua mạc khải trên, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta bài học: 

Trước tiên, cần phải có sự thương cảm với những người kém may mắn. Không ai sống trên đời này như một hòn đảo. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: “Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12,15). Việt Nam ta có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”. Không thể đứng đó và nhìn xem nỗi bất hạnh của người khác rồi hả hê cười đùa vui vẻ; cũng không phải huênh hoang tự kiêu khi thành công để rồi khinh bỉ người cùng khốn.  

Thứ đến, sống theo tinh thần của Chúa là chúng ta hãy biết ra khỏi chính để đi đến với những ai cần đến bàn tay, khối óc, con tim của chúng ta. Chúng ta phải biết ra khỏi chính mình, ra khỏi ốc đảo của tự kiêu để như Chúa Giêsu, đi đến đâu thì thi ân giáng phúc tới đó (x. Cv 10,38). Ngài luôn an ủi kẻ cô đơn, chữa lành người bệnh tật và đem lại niềm vui, hy vọng cho những người thất vọng.  

Ước gì, tâm tình của Thánh  Phanxicô Assisi được diễn tả qua Kinh Hoà Bình lại được vọng lại nơi tâm hồn của mỗi chúng ta khi nghe bài Tin Mừng hôm nay: “Chính lúc hiến thân là lúc được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết rung động trước những nỗi đau của con người, biết nhạy bén trước những nhu cầu của anh chị em đồng loại, để đem lại cho họ niềm vui, bình an và hạnh phúc. Xin cho chúng con biết ra khỏi chính mình, để không bị rơi vào tình trạng co cụm lại nơi bản thân. Bởi vì nếu co cụm lại với chính mình mà thôi, thì đấy là lúc chúng con đang đánh mất chính mình. Amen.

--------------------------------

 

TN 10-C33: Đấng có Lời ban sự sống (Lc 7,11-17)


Lời Chúa là Lời quyền năng, mang lại sự sống đời đời.

 

Hôm ấy tại hội đường Ca-phác-na-um, sau khi Chúa Giê-su tự giới thiệu Người là Bánh ban sự: TN 10-C33


Hôm ấy tại hội đường Ca-phác-na-um, sau khi Chúa Giê-su tự giới thiệu Người là Bánh ban sự sống, nhiều thính giả cảm thấy gai chướng trước những lời Người nói và bất bình bỏ đi. Ngay cả một số môn đệ của Chúa Giê-su cũng rời bỏ Người. (Ga 6, 41-66)

Bấy giờ Chúa Giê-su buồn rầu hỏi Nhóm Mười Hai thân tín: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6, 67-68)

Không biết bởi đâu mà Phê-rô dám tuyên bố: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” Xem ra đây là một khẳng định khó tin, khó chấp nhận.
 
Nếu bảo rằng: lương thực, cơm cháo… mang lại sự sống thì ai cũng chấp nhận vì rõ ràng những thứ nầy giúp cơ thể tăng trưởng và giúp người ta có sức lao động, học tập, sinh hoạt hằng ngày.

Nếu bảo rằng thuốc men kéo dài sự sống cho người đau yếu, bệnh tật thì ai cũng đồng tình vì thuốc men thực sự làm tăng cường sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật và kéo dài tuổi thọ.

Còn bảo rằng chỉ nguyên lời nói mà thôi lại có thể đem lại sự sống, mà lại là sự sống đời đời nữa, thì quả là rất khó chấp nhận.

Thế nhưng, nếu tìm đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá lời Chúa Giê-su thực sự đem lại sự sống như lời khẳng định của thánh Phê-rô. Những sự kiện sau đây chứng thực chân lý nầy:
 
1. Lời Chúa truyền cho con gái ông trưởng hội đường sống lại.

Hôm ấy, có ông trưởng hội đường tên là Giai-rô có đứa con gái đau bệnh sắp chết, đến gặp Chúa Giê-su và khẩn khoản nài xin Người đặt tay cứu chữa nó. Người liền ra đi với ông.

Nhưng đang đi dọc đường thì “có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”

Tuy vậy, Chúa Giê-su vẫn cứ đi. Đến nơi, “Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Nghe thế, họ chế nhạo Người.

Chúa Giê-su vào nơi đặt xác đứa bé, “Người cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!”

Lời Chúa Giê-su tức thời mang lại sự sống cho đứa bé: “Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi.” Mọi người chứng kiến đều kinh ngạc sững sờ. (Mc 5, 22-42)
 
2. Lời Chúa truyền cho La-da-rô đã chết bốn ngày sống lại.

Khi Chúa Giê-su đến với gia đình La-da-rô ở Bê-ta-ni-a thì ông nầy đã chết. Lòng thổn thức xúc động, Chúa Giê-su cùng với đám đông đi ra đến mộ và truyền cho người ta lăn tảng đá lấp mộ ra. Nhiều người không đồng tình với việc nầy vì La-da-rô đã được mai táng bốn ngày rồi và mùi tử khí xông lên nồng nặc.

Bấy giờ Chúa Giê-su ngước mắt cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, rồi “Người kêu lớn tiếng: “La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!" 

Lời Chúa Giê-su khiến người chết đội mồ sống lại: “Tức thì La-da-rô liền đi ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn!”  (Ga 11, 43-44)
 
3. Lời Chúa truyền cho người thanh niên sống lại.

Lần khác, khi Chúa Giê-su và các môn đệ đến thành Na-in thì gặp người ta đi đưa đám người con trai duy nhất của một bà mẹ góa. Trông thấy người mẹ khóc thảm thiết, “Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà đừng khóc nữa! "Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!" (Luca 7,11-14)

Một lần nữa, Lời Chúa Giê-su phán ra làm cho kẻ chết  hồi sinh: “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.” (Luca 7,15)
 
Lời Chúa ban sự sống vĩnh cửu cho những ai tin.

Sự kiện Chúa Giê-su dùng Lời của Người hồi sinh những người đã chết là những dấu chỉ báo trước một thực tại lớn lao hơn. Đó là Lời của Người không chỉ trả lại cho người ta sự sống giòn mỏng tạm bợ đời ở nầy mà còn ban cho họ sự sống vĩnh cửu hoan lạc mai sau.

Chúa Giê-su khẳng định điều nầy với Mác-ta trước khi dùng lời truyền cho người em là La-da-rô sống lại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 11,25-26)
 
Lạy Chúa Giê-su,

Nếu có thứ thần dược nào có thể giúp người ta sống lâu trăm tuổi được giới thiệu trên thị trường thì mọi người sẽ đổ xô tìm kiếm để mua cho được với bất cứ giá nào. Vậy mà, tiếc thay, Lời Chúa vốn có sức mang lại hòa bình, hạnh phúc và sự sống đời đời cho nhân loại, lại được Chúa thương trao tặng miễn phí cho mọi người, thì còn nhiều người vì chưa biết, chưa tin nên chưa đón nhận.

Xin cho chúng con luôn vững tin vào Lời quyền năng mang lại sự sống đời đời của Chúa để chúng con tích cực giới thiệu “thần dược” nầy cho mọi người, ngõ hầu nhân loại được hưởng những hồng ân vô giá Chúa tặng ban.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà


----------------------------

 

TN 10-C34: Tấm lòng để yêu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: “Sống trên đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em có biết TN 10-C34


Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: “Sống trên đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em có biết không? Để gió cuốn đi…”,  và cũng chính ông đã ngụ ý rằng, chỉ với một tấm lòng nhỏ nhoi ấy thôi, mà con người vượt rất xa những loài vật khác. Tấm lòng mà Họ Trịnh muốn nói đến chính là sự thương yêu, sự quan tâm, sự chia sẻ để cho gió mang đến cho mọi người. Con người sống, cần có tấm lòng không phải chỉ để đó cho bản thân, hay cất kỹ cho riêng mình nhưng để trở thành làn gió mang lại sự dịu mát cho tha nhân. Chính trong làn gió mà tấm lòng con người được đến với muôn người, được ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để sống có ích cho đời và cho tha nhân.

Thế nhưng, tấm lòng đó hôm nay đang chôn chặt trong sự ích kỷ của lòng người khiến thế giới thiếu đi tình người, tình liên đới, tình hiệp nhất sẻ chia. Tấm lòng của con người hôm nay không để cho gió cuốn đi mà đang khư khư giữ lại riêng cho mình, đang cất dấu cho bản thân.

Mấy ngày qua, tấm ảnh một tên trộm xe ở gần trường Đại học Hải Phòng bị trói ngược hai tay vô một gốc cây, người đầy máu... Một đám đông dừng xe, vây quanh kẻ trộm với những đôi mắt tò mò, và có cả những người đi đường chưa rõ đầu đuôi câu chuyện cũng xúm vô hùa đánh kẻ trộm nhưng tuyệt nhiên không có một ai can ngăn. Đành rằng trộm cắp là điều xấu nhưng hùa nhau để đánh một người vẫn là điều không đáng có trong xã hội chúng ta.

Cũng trong mấy ngày gần đây, dư luận lại xôn xao về clip đánh ghen ở Bình Dương. Hình ảnh một phụ nữ và đứa con trai lột quần áo tình địch giữa đường được tung lên mạng. Bên cạnh chuyện ai nợ tình ai và mối tình tay ba của gia đình này, còn một vấn đề khiến nhiều người đặt câu hỏi: “Đám đông ở đâu?”.

Trong clip này, hiện diện rất rõ đám đông vây quanh. Khi người phụ nữ đang ra lệnh cho cậu con trai “Lột quần nó! Lột quần nó!” thì một người trong số đám đông đứng đó quay lại sự việc bằng điện thoại di động. Vài người đứng xem. “Thôi đừng đánh nó nữa!” - đó là một trong những lời can ngăn nhẹ nhàng nhưng cũng hiếm hoi.

Có ai đó nói rằng: tình cảm như những hạt mưa, hạt mưa càng to, càng nặng thì càng giập tắt được những ngọn lửa của lòng thù hận, ghen ghét, bi ai và nó cũng làm dịu mát những mảnh đời bất hạnh lầm than khi được cảm thông, nâng đỡ, sẻ chia...

Thiên Chúa tạo dựng con người có một tấm lòng. Một tấm lòng biết yêu thương như Chúa. Một tấm lòng yêu thương là họa ảnh của tình yêu Thiên Chúa giữa nhân trần. Con người phải biết yêu thương là một định luật tất yếu của đời người. Yêu thương là căn tính của con người. Thế nên, khi con người không yêu thương thì con người đang đánh mất căn tính của mình và làm mất đi vẻ đẹp cao quý nơi phẩm giá loài người của mình.

Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài luôn bày tỏ cảm xúc của mình trước những bất hạnh của tha nhân. Ngài chạnh lòng thương đám đông bơ vơ đang đói lả. Ngài nhìn thương hại người thanh niên giàu có. Ngài khóc thương cho bạn mình là Lagiarô đã chết. Hôm nay, Ngài không khỏi bùi ngùi trước sự đau đớn của người mẹ mất con. Ôi, còn cái đau đớn nào hơn cái đau đớn mà cha ông ta nói rằng: “Lá vàng còn ở trên cây - Lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời?” Chúa đã đồng cảm nỗi đau của người mẹ. Chúa đứng lại an ủi người mẹ. Nhưng xem ra lời an ủi chẳng nghĩa lý gì trước cảnh tang thương. Người mẹ vẫn đau khổ vì mất con. Chúa đã làm một phép lạ không chỉ là bày tỏ quyền năng mà hơn hết chính là bày tỏ một tấm lòng thương xót người góa phụ. Ngài đã gọi người thanh niên trỗi dậy trước sự ngỡ ngàng của mọi người và trong niềm vui khôn tả của người mẹ nhận lại con.

Con người là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người cũng có một trái tim vốn giàu tình thương. Nhưng xem ra, vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn cảm xúc trước những khổ đau của tha nhân.

- Có thể vì thấy người nghèo thường quá, chúng ta không còn cảm xúc trước cái khổ của người nghèo.

- Có thể vi thấy người bệnh thường quá, chúng ta không còn cảm được nỗi đau của họ.

- Và có thể vì thấy người tội lỗi quen quá, chúng ta dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…

Ước gì chúng ta luôn có cái nhìn đầy cảm xúc của Chúa để mở rộng lòng trước những bất hạnh của tha nhân. Xin cho chúng ta luôn biết mở toang tấm lòng của mình để gió cuốn ta đi đến với mọi hoàn cảnh khổ đau, với những mảnh đời bất hạnh hầu xoa dịu những thương đau cho anh em như Chúa đã sống vì yêu thương nhân trần chúng ta. Amen.

------------------------------------

 

TN 10-C35: NIỀM VUI GÓA PHỤ


“Trông thấy bà, Chúa động lòng thương”.

 

Ôi, con mắt của Thiên Chúa, cái nhìn thấy của Thiên Chúa có khác con mắt và cái nhìn của con: TN 10-C35


Ôi, con mắt của Thiên Chúa, cái nhìn thấy của Thiên Chúa có khác con mắt và cái nhìn của con người trần gian.

Trước cái chết của một con người, ai cũng ngậm ngùi thương tiếc người đã ra đi, ai cũng thở than cuộc người sao ngắn ngủi. Có người lại còn suy luận rằng: “Ta rồi cũng phải chết. Thế thì không hưởng thụ cho hết cuộc đời này trước khi chết, thì thật là dại dột”. Họ còn tự phong cho cái suy luận của mình như thế là có khoa học, là văn minh, là kim chỉ nam cho mình, là chủ trương, là đường lối cho thuộc hạ mình noi theo ! Thật tồi tệ !

Trong Tin Mừng hôm nay, trước cái chết của anh con trai duy nhất của bà góa thành Naim, điều mà Chúa Giêsu thấy trước tiên lại là nỗi đau của người mẹ đã mất chồng, nay lại mất con, nỗi đau của người sẽ cô độc đến cuối đời. Và Chúa động lòng thương bà ấy.

Người đã chết rồi còn đau khổ gì không ?
Kẻ góa bụa tan nát lòng, đứt ruột
Một đời yêu trên dương trần cơ cực
Được mấy ngày thực hạnh phúc bên nhau
Chút con trai niềm vui sống ngọt ngào
Lấp khoảng trống trước sau căn nhà nhỏ
Tình mẹ con sớm chiều thương bày tỏ
Cũng vội vàng từ bỏ mẹ mà đi….
(  “Chúa đã viếng thăm”– Ba Chuông  )

Không chỉ động lòng thương theo kiểu người đời, thường chỉ là một chút xúc động hời hợt bất thường, một tình cảm tự nhiên chóng qua, Chúa Giêsu còn thể hiện tình thương ấy bằng việc “đưa tay chạm vào quan tài” người thanh niên, một việc mà thời bấy giờ người ta cho là ô uế, nhớp nhúa. Ngay cả thời nay, lúc hãy còn sống, thì thân người ôi thơm tho, người muốn nắm tay người, người muốn hôn lên môi người, người muốn ôm lấy thân người để biểu tỏ tình cảm với người, nhưng khi người đã nhắm mắt xuôi tay, nào ai dám đến gần vuốt mặt, cầm tay… nghĩ cũng đáng buồn cho kiếp người !

Chúa chạm tay vào quan tài, và Lời Chúa tuyên phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy". Nắp áo quan bỗng mở ra. Một thi hài bất động bỗng ngồi lên cười nói trước mắt mọi người, trước mắt nhóm người theo Chúa và trước mắt nhóm người đi đám tang.

“Thanh niên hỡi, hãy trỗi dậy rỡ ràng”
Tấm nắp mở toang, người chết đang ngồi dậy
“Này góa phụ, con trai bà sống lại”
Thật diệu kỳ, mẹ ôm lấy con yêu
(  “Chúa đã viếng thăm”– Ba Chuông  )

Tất cả mọi người sững sờ trước chuyện xưa nay chưa từng có. Có thể họ đã bàn tán xôn xao: Con mắt của Người nhìn thấu tận tâm can, thấu từng nỗi đau mà người đời khó thấy. Bàn tay của Người thực hiện bao việc lạ lùng. Lòng thương của Người thật vĩ đại. Lời Người thật quyền năng. Thánh Luca ghi rõ tâm trạng của những người chứng kiến việc thanh niên kia sống lại là “sợ hãi và ngợi khen”. Đây hẳn không phải sự sợ hãi trước một sự dữ khủng khiếp kinh hoàng, nhưng là sự nghiêng mình kính phục trước quyền năng và lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa.

“Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người".

Và khi đã mục kích, đã hết lòng khâm phục, đã yên tâm tin tưởng vào quyền năng và lòng từ ái ấy, họ trở thành chứng nhân cho Thiên Chúa: “Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận”.

Cho mọi người hiểu biết về Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, kính phục tôn thờ mến yêu tin tưởng Thiên Chúa nơi Người, và loan truyền Ơn Cứu Độ của Người khắp cùng thiên hạ, là mục đích của Người qua phép lạ làm cho con trai bà góa thành Nain sống lại.

“Xin ngợi ca lòng nhân Chúa tỏ tường
Vinh hiển Chúa khắp mười phương thiên hạ
Hằng hà sao hằng hà ơn phước cả
Vạn niềm đau, muôn phép lạ lẫy lừng”
(  “Chúa đã viếng thăm”– Ba Chuông  )

Qua trang Tin Mừng hôm nay, ước gì mỗi chúng ta được:

- Mặc lấy cái nhìn yêu thương, thông cảm của Chúa, để biết chạnh lòng xót thương những mảnh đời đau khổ.

- Không ngại khiêm cung cúi thấp mình xuống để chạm vào nỗi đau của anh em, không ngại tanh hôi, thối vữa, không ngại những lời chỉ trích phê phán của những kẻ chỉ thích ăn trên, ngồi trước, sống chết mặc ai dưới chân mình.

- Tin tưởng Lời Chúa có sức làm cho chính mình được ơn Phục Sinh, ơn đổi mới, ơn công chính và cũng dùng chính Lời Chúa làm động lực thi thố lòng thương xót của Chúa đối với tất cả mọi người.

- Tạ ơn Chúa, tôn vinh Chúa trong cuộc sống chúng ta bằng cách sống trọn vẹn ơn công chính để trở thành lời chứng cho Tin Mừng, lời chứng cho Danh Thiên Chúa trên khắp vũ hoàn.

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa uy quyền và giàu lòng thương xót, xin cứu sống linh hồn chúng con, và cho chúng con ca tụng danh Chúa đến muôn đời. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, QN 6.6.2013

------------------------------

 

TN 10-C36: LÒNG TRẮC ẨN

 

Người đời nói: “Đời là bể khổ”. Chúa Giêsu nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày đó” ( Mt 6, 34 ): TN 10-C36


Người đời nói: “Đời là bể khổ”. Chúa Giêsu nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày đó” ( Mt 6, 34 ). Quả thật, cuộc đời có quá nhiều nỗi đau khổ, thế nên rất cần tình yêu thương.

Mặc dù không là Kitô hữu, nhưng cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã có thể nhạy bén cảm nhận: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không ? Để gió cuốn đi…! Hãy nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình, chỉ lặng nhìn, không nói năng, để buốt trái tim… !” ( Để Gió Cuốn Đi ). Nghe chừng chua chát, nhưng cuộc đời là thế đó !

Bất kỳ ai cũng rất cần biết động lòng trắc ẩn, như Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương những người khốn khổ ( Mt 9, 36; Mt 14, 14; Mt 15, 32; Mt 18, 27; Mt 20, 34; Mc 1, 41; Mc 6, 34; Mc 8, 2; Lc 7, 13 ), thế nên Ngài muốn người ta cũng phải biết chạnh lòng mà sẵn sàng và thành tâm thương xót nhau, như người Samari, chứ đừng như thầy tư tế và thầy Lêvi ( Lc 10, 30 – 37 ), có chức quyền và có “tiếng” mà không hề có “miếng”. Vậy là vô ích vì chỉ lẻo mép !

TỬ NHI PHỤC SINH

Vì thiên tai, bà góa ở Xarépta, thuộc Xiđôn, chỉ còn ít bột làm bánh để ăn rồi chờ chết, thế nhưng bà vẫn không ngần ngại chia sẻ phần bánh với ngôn sứ Êlia, và rồi bà được Chúa làm phép lạ cho “hũ bột không vơi, vò dầu chẳng cạn” ( 1V 17, 14 ). Nhưng sau đó, đứa con trai của bà ngã bệnh trầm trọng đến nỗi nó tắt thở. Bà trách với ông Êlia: “Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải chết ?” ( 1V17, 18 ). Bà biết ông Êlia là “người của Chúa” nhưng bà vẫn trách ông, vì bà chạnh lòng do tội mình và bà rất thương con mình.

Thấy chạnh lòng thương, ông Êlia nói: “Bà đưa cháu cho tôi”. Ông bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở, và đặt nó nằm lên giường. Rồi ông kêu cầu Chúa: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con ! Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao ?” ( 1V 17, 20 ). Ông có “cách lạ” là ông nằm lên trên đứa trẻ ba lần, đồng thời kêu cầu Chúa: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó !” ( 1V 17, 21 ). Và rồi Chúa đã nghe tiếng ông kêu cầu, cho hồn vía trở về với đứa trẻ, và nó sống.

Ông Êlia liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó và nói: “Bà xem, con bà đang sống đây !” ( 1V 17, 23 ). Bà không ngạc nhiên khi thấy con mình chết rồi mà được sống lại vì bà có Đức Tin mạnh mẽ. Bà nói với ông Êlia: “Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng” ( 1V 17, 24 ). Mẹ góa, con côi, Thiên Chúa đã chạnh lòng thương mà làm cho họ hai phép lạ, nhưng nguyên nhân chính là bà biết tín thác vào Thiên Chúa.

Tv 65, 12 nói: “Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi”. Vâng, “tất cả là Hồng ân” ( Rm 4, 16 ). Vì thế, chúng ta phải biết tạ ơn Chúa. Chúng ta càng phải tạ ơn Chúa khi được cứu thoát khỏi cảnh khổ: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, con kêu lên cùng Chúa, và Ngài đã cho con bình phục. Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” ( Tv 30, 2 – 4 ).

Với kinh nghiệm bản thân, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” ( Tv 30, 5 – 6 ). Người Việt chúng ta cũng cảm nhận và nói: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Xem chừng yêu thương cũng chẳng dễ, vì phải biết cách yêu cho phù hợp.

Khi cầu xin: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ” ( Tv 30, 11 ), Thiên Chúa liền cứu giúp, vì “khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho lễ phục huy hoàng” ( Tv 30, 12 ). Chúa dễ thương quá chừng, Chúa đáng yêu biết bao ! Do đó, hãy thân thưa với Ngài: “Tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” ( Tv 30, 13 ).

Thánh Phaolô xác nhận: “Thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết,  Tin Mừng tôi loan báo không phải là do loài người. Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mặc khải” ( Gl 1, 11 – 12 ). Rồi Thánh nhân giải thích: “Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do Thái,  tôi đã quá hăng say bắt bớ, và chỉ muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ đạo Do Thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi,  hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” ( Gl 1, 13 – 14 ). Thánh Phaolô đã sáng “con mắt Đức Tin”, nhận ra sai lầm nghiêm trọng của mình sau khi bị ngã ngựa, bị mù và được sáng mắt lại.

Không chỉ vậy, Thánh Phaolô còn nhận thức sâu xa hơn và giải thích thêm: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giêrusalem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Á Rập, rồi lại trở về Đamát. Ba năm sau tôi mới lên Giêrusalem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. Tôi đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Giacôbê, người anh em của Chúa” ( Gl 1, 15 – 19 ).

Tất cả không ngoài Thánh Ý Quan Phòng và Tiền Định của Chúa, đó chính là cách chạnh lòng thương của Ngài, là Tình Yêu vĩnh hằng, là Lòng Thương Xót đời đời của Ngài.

THANH NIÊN SỐNG LẠI

Có nhiều kiểu chạnh lòng, nhưng chạnh lòng thương mới là điều quan trọng. Vì không chạnh lòng nên ngày nay người ta hóa vô cảm. Vô cảm là chứng “ung thư” của thời đại vì “tế bào” chạnh-lòng-thương đã bị miễn nhiễm, như người ta thường nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.

Lối sống “ung dung tự tại” như vậy là trái ngược với Luật Chúa: Yêu thương – nghĩa là cơ bản nhất phải biết “chạnh lòng thương”. Quả thật, chính Ngài luôn chạnh lòng thương người khác ( Mt 9, 36; Mt 14, 14; Mt 15, 32; Mt 20, 34; Mc 1, 41; Mc 9, 22 ), dù họ chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt, Ngài còn chạnh lòng thương đến bật khóc trước cái chết của Ladarô ( Ga 11, 32 – 35 ).

Và Ngài chạnh lòng thương với cả con trai của một bà góa nọ. Điều này cũng chứng tỏ sự sống vô cùng quan trọng, vì thế mà mọi người đều phải bảo vệ sự sống, dù chỉ là một sinh linh bé nhỏ, một thai nhi. Hôm đó, khi Đức Giêsu đến gần cửa thành Nain ( thuộc Galilê, cách Nadarét khoảng 6 dặm về phía Nam ), người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá. Mẹ mất con thì đau lòng mẹ lắm. Tình mẫu tử vô cùng kỳ diệu. Chắc hẳn trông người mẹ này rất thảm não. Thế nên vừa trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa !” ( Lc 7, 13 ). Mẹ mất con mà sao Ngài lại bảo “đừng khóc” ư ? Ngược đời chăng ? Không. Bởi vì Ngài biết mình sắp làm gì: Tỏ lòng thương xót cho mẹ góa con côi này.

Rồi Ngài lại gần, sờ vào quan tài. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh,  hãy trỗi dậy !” ( Lc 7, 14 ). Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Chuyện xảy ra nhãn tiền trước mặt cả đám đông mà y như trong phim. Thật kỳ diệu ! Chắc chắn không ai có thể vui sướng hơn bà góa vào lúc này.

Quả là một sự kiện lạ lùng vô tiền khoáng hậu ! Thế nên khi thấy vậy, mọi người không chỉ ngạc nhiên mà còn kinh sợ, phải công nhận và lên tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” ( Lc 7, 16 ).

Thánh Luca cho biết rạch ròi: “Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận” ( Lc 7, 17 ). Không loan truyền sao được khi nghe nói về sự lạ, mà đây lại chính họ tận mắt tỏ tường.

Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ, mục đích không phải để được nổi tiếng lẫy lừng mà là xác nhận cho mọi người biết rằng Ngài đích thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, đến thế gian để trao ban Lòng Chúa Thương Xót cho những người thành tín. Ngài đã chứng tỏ quyền năng trên mọi loài, trên bệnh thể lý và tinh thần, kể cả cái chết, và ngay cả Xatan cũng phải chịu “bó tay” khi đối đầu với Ngài.

Cái chết là thất bại lớn nhất của nhân loại. Người ta tìm mọi cách để chữa bệnh hoặc kéo dài sự sống, nhưng cũng chỉ trong giới hạn nào đó, dù có thể cải lão hoàn đồng, nhưng không thể trường sinh bất tử. Sự chết không là hình phạt của tội lỗi mà là hậu quả của tội lỗi ( x. St 3, 17 – 19 ). Điều đó xác quyết rằng “ai cũng phải chết một lần” ( x. Dt 9, 27 ). Sự chết là chấm dứt sự sống, nhưng không là hủy diệt. Chết là trả lại hơi thở cho Thiên Chúa ( x. Gv 12, 7 ). Con người gồm hai phần: Xác và hồn. Xác không hơi thở thì chỉ là tử thi ( x. Gc 2, 26 ).

Tại sao chúng ta chết về thể lý ? Thánh Phaolô nói: “Anh em đã chết vì những sa ngã và tội lỗi của anh em” ( Ep 2, 1 ). Còn cái chết tâm linh ? Cũng như cái chết thể lý, đó là linh hồn xa cách Thiên Chúa: “Không phải Đức Chúa ngắn tay không thể cứu, cũng chẳng phải Người nặng tai không nghe được, mà chính lỗi lầm của các ngươi đã phân cách các ngươi với Thiên Chúa các ngươi; chính tội lỗi các ngươi đã khiến Người ẩn mặt để khỏi nhìn, khỏi nghe các ngươi” ( Is 59, 1 – 2 ). Đó là vấn đề mà ai cũng phải đối mặt: “Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” ( Rm 3, 23 ). Nhưng có cái chết thứ hai còn nguy hiểm hơn: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt, đó là cái chết thứ hai” ( Kh 21, 8 ). Cái chết thể lý chấm dứt cuộc sống đời này, nhưng cái chết tâm linh mới là hậu quả vĩnh viễn !

Cái chết bị coi là kẻ thù ( 1Cr 15, 25 – 26 ). Nhưng Chúa Giêsu lại dùng cái chết để giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ hãi và hệ lụy của Tử Thần ( Dt 2, 14 – 15 ), như người ta thường nói: “Dĩ độc trị độc”.

Đối với các Kitô hữu, chết không là chấm hết, mà là hy vọng: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” ( 1Tx 4, 13 – 14 ). Chết là một mối lợi ( Pl 1, 21 ), và là niềm hạnh phúc: “Phúc thay những người đã chết, mà được chết trong Chúa ! Họ sẽ được nghỉ ngơi, không còn vất vả nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo họ” ( Kh 14, 13 ).

Đối với các Kitô hữu, cái chết không là mối sợ hãi, mà là sự giải thoát. Họ có niềm hy vọng khác thường, nhưng chắc chắn chứ không mơ hồ hoặc hão huyền, vì chết là biến đổi, là trường sinh bên Thiên Chúa vĩnh hằng. Người không là Kitô hữu không thể nào hiểu được điều này, và rất có thể họ coi các Kitô hữu là những kẻ điên rồ ! Phải chăng vì vậy mà người ta luôn tìm cách bách hại các Kitô hữu cho “biết tay”, và thách thức xem chúng ta phản ứng thế nào chăng ? Có thể lắm !

Lạy Thiên Chúa, xin chạnh lòng thương xót kiếp phàm nhân yếu đuối của chúng con mà lau sạch nước mắt chúng con. Xin giúp chúng con biết chạnh lòng thương tha nhân, nhất là những người bất hạnh, như Đức Kitô đã làm, để cho chúng con xứng đáng làm hậu duệ của Ngài và có thể xứng đáng được đồng hưởng vĩnh phúc Thiên Quốc muôn đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

---------------------------------

 

TN 10-C37: NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÓC


CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN

(Lc 7,11-17)

 

 Những giọt nước mắt cứ đua nhau chảy tràn trề trên khuôn mặt người đàn bà. Suốt từ hai, ba ngày: TN 10-C37


          Những giọt nước mắt cứ đua nhau chảy tràn trề trên khuôn mặt người đàn bà. Suốt từ hai, ba ngày nay, từ lúc được tin đứa con trai mình chết, bà đã khóc. Bà khóc, bởi khúc ruột của bà vừa chết. Bà khóc, bởi bà bất lực không thể làm gì được trước cái chết của đứa con. Giờ này, thì bà hiểu được một cách vô cùng thấm thía về sự lạnh lùng, khô khốc của cái chết; và sự bất lực hoàn toàn của con người trước thực tại phủ phàng này. Bà đi sau quan tài, vừa đi vừa khóc. Gặp ngay lúc Chúa Giêsu đi ngang. Ra hiệu cho đám tang ngừng lại; Chúa nói với người đàn bà: “Thôi, bà đừng khóc nữa”. Thôi khóc sao được thưa Chúa! Bởi đó là nỗi đau mất mát vô cùng to lớn, mà không sao lấy lại được. Thôi khóc sao được Chúa ơi, bởi tiếc xót lắm, một sự sống vừa mất đi, không gì bù lấp. Rồi Chúa chạm vào quan tài và nói: “Hỡi thanh niên, ta truyền cho anh sống lại”. Người thanh niên ngồi bật dậy. Mọi người ngạc nhiên ngỡ ngàng, nhưng ngạc nhiên nhất phải là người đàn bà. Bà chợt khám phá:

          1. Chúa chính là nguồn sự sống

          Tất cả mọi sự sống nơi vũ trụ này, đều không thể tự mình mà có; mà tất cả đều là nhận từ Thiên Chúa. Người mẹ có sinh ra con, không phải là cho con sự sống, mà chỉ là thông truyền sự sống. Người mẹ ấy, như tất cả mọi người mẹ khác, cũng đã đều nhận sự sống từ bố mẹ mình. Đứa con đã chết, con người đứng nhìn luyến tiếc ngẩn ngơ, bó tay bất lực. Và Chúa gọi thanh niên ấy sống lại, rõ ràng Ngài chính là Thiên Chúa. Bởi chỉ có mình Thiên Chúa mới làm được sự sống.

          2. Và Chúa muốn con người tôn trọng sự sống

          Sự sống là gia tài quý báu nhất mà Thiên Chúa trao ban. Vì thế, con người phải biết trân trọng nó. Biết bao những người trẻ, đã phung phí sự sống của mình. Lao mình vào những thú ăn chơi nguy hiểm, như hút sách, hít keo, thuốc lắc. Rồi lại còn liều lĩnh, lao mình trong những cuộc đua xe ngông cuồng. Những đứa con trai, con gái, mặt mũi non choẹt, ngồi lên chiếc xe máy, đã tháo hết thắng: thắng tay, thắng chân, và lao mình vào những cuộc đua với tốc độ tối đa. Sự sống được đem ra đùa giỡn, phung phí. Sự sống là hồng ân to lớn nhất, mà Chúa trao ban cho con người. Vì vậy, trong lúc, người ta tìm mọi cách để cứu vớt những người già, cố gắng tìm cách để kéo dài tuổi thọ, thì người ta lại mâu thuẫn, ác độc giết chết những thai nhi nhỏ bé dễ thương.

          3. Hãy lo lắng cho sự sống vĩnh cửu

          Người thanh niên Chúa cho sống lại đó, sau một thời gian rồi cũng như mọi người, sẽ chết. Sự sống về thân xác sẽ mất đi, nhưng sự sống linh hồn vẫn còn tồn tại. Vì thế, nếu các bà mẹ đã khóc lóc thảm thiết khi đứa con mất đi sự sống thân xác, thì cũng hãy biết lo lắng, khóc lóc, khi thấy con mình, đánh mất sự sống thần linh, khi lao đầu vào những con đường tội lỗi, hư vong.

          Câu hỏi:

1- Bạn có biết cám ơn Chúa vì  thấy mình được sống?
2- Linh hồn bạn giờ này đang sống hay chết?
 Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên

---------------------------------

 

TN 10-C38: Để được sống

 

Bấy giờ Chúa Giêsu đang tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim. Dân chúng đông đúc chen lấn TN 10-C38 Lượng


Bấy giờ Chúa Giêsu đang tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim. Dân chúng đông đúc chen lấn bước theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà goá kia. Từ trong đám đông, Ngài bước ra, đi thẳng tới cỗ quan tài, vừa cầm tay chàng thanh niên vừa nói: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho anh chỗ dậy. Lập tức một sự yên lặng phủ xuống. Ai nấy đều hồi hộp khi thấy chàng thanh niên bắt đầu cử động. Và thánh Luca đã kết thúc bài tường thuật của mình: Dân chúng rất sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa.

Chắc hẳn sự việc này đã tạo được một chấn động lớn cho dân thành. Người ta không ngớt bàn tán với nhau: Ngài dựa vào đâu mà làm được như thế? Tại sao Ngài đã làm phép lạ ấy? Vì xót thương người mẹ? Chắc hẳn không hoàn toàn là như vậy. Chúng ta phải đặt phép lạ này trong toàn bộ những phép lạ khác như chữa lành người bệnh, cho kẻ mù được thấy, người điếc được nghe, để rồi chúng ta liên tưởng tới lời tiên tri Isaia: Khi Đức Kitô xuất hiện, thì mắt người mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông, người què sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ ca hát được. Và như vậy, phép lạ hôm nay muốn nói với chúng ta rằng: Nước Thiên Chúa đang đến và Đức Kitô chính là Đấng cứu thế Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.

Từ đoạn Phúc Âm trên chúng ta đi vào cuộc sống hôm nay. Trong một trại tập trung ở Nonduras mà phần lớn là đàn bà trẻ em và người già cả. Họ giống như những tù nhân bị giam lỏng. Họ bị đối xử tàn nhẫn, thiếu thốn mọi sự và thường xuyên bị đe doạ bởi cái chết. Thế mà trong ngôi nhà nguyện nhỏ, các phụ nữ vẫn thường xuyên tụ tập để cầu nguyện và đi đàng thánh giá. Mỗi chặng ngắm, họ đều so sánh nỗi đớn đau của Chúa Giêsu với nỗi đớn đau mà họ đang gánh chịu. Khuôn mặt họ phảng phất nét buồn phiền của bà goá thành Naim. Và người ta nhận ra rằng lúc này đây, Chúa Giêsu vẫn đang thực sự hiện diện trong nguyện đường này giống như Chúa đã từng hiện diện ở thành Naim 2000 năm về trước. Và hơn thế nữa, Ngài vẫn đang thực hiện nơi nhà nguyện bé nhỏ này một phép lạ còn vĩ đạo hơn phép lạ tại Naim nữa, bởi vì nhờ lời cầu xin của những người phụ nữ, của những người mẹ này, Chúa Giêsu không phải chỉ phục sinh đám con cái họ về mặt thể xác, vì điều này chỉ kéo dài nhiều lắm là 30-40 năm. Trái lại Ngài ban cho con cái họ cuộc sống vĩnh cửu, như lời Ngài đã phán: Ai tin vào Ta thì sẽ sống. Và ai sống mà tin Ta, thì sẽ không phải chết đời đời.

Để kết luận, chúng ta cùng nhau kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, đôi tay Chúa chạm vào mắt kẻ mù loà để cho họ được thấy. Xin hãy chạm vào đôi mắt con để con được nhìn xem Chúa. Đôi tay Chúa chạm vào lỗ tai kẻ điếc để họ được nghe, xin hãy chạm vào tai con để con được nghe thấy tiếng Chúa. Đôi tay Chúa chạm vào chàng thanh niên để chàng được sống. Xin cũng hãy chạm vào con để con được sống muôn đời.
 
 

---------------------------------

 

TN 10-C39: Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty.


THIÊN CHÚA CHẠNH THƯƠNG NỖI THỐNG KHỔ CỦA CON NGƯỜI

 

Đoạn Tin Mừng ‘Đức Giêsu cho con trai một bà góa thành Na-in sống lại’ được xếp vào một trong TN 10-C39


Đoạn Tin Mừng ‘Đức Giêsu cho con trai một bà góa thành Na-in sống lại’ được xếp vào một trong số ít các phép lạ Người chủ động thực hiện, không qua lời khẩn cầu đôi khi phải rất khẩn khoản đầy tin tưởng của chính các nạn nhân, hoặc thân nhân của họ. Trong trường hợp cụ thể này, đơn giản là vì như được Lu-ca ghi nhận: ‘Người chạnh lòng thương’ trước tình cảnh éo le của một bà mẹ góa bụa vừa mất đi người con trai duy nhất. Chỉ có thế mà Người đã ra tay can thiệp với một phép lạ cả thể. Về phía dân chúng, đứng trước phép lạ cả thể, là một người đã chết đang trên đường đi chôn cất… bật ‘ngồi lên và bắt đầu nói’, họ không khỏi kinh ngạc tới độ cất cao tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Chúa đã viếng thăm dân Người”. Còn riêng với tôi, phép lạ này càng gây kinh ngạc khi tôi nhận ra mối quan tâm sâu sắc mà Thiên Chúa quyền uy cao cả dành cho số phận bọt bèo của một phàm nhân tầm thường: Người chạnh lòng thương! Đối với tôi phép lạ này phản ảnh một trong các nội dung quan trọng nhất của mầu nhiệm Nhập Thể: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…” (Ga 3:16) và, qua Đức Giêsu, Người quả thực rất quan tâm gần gũi với mọi tầng lớp con người.
Thật ra nội dung ‘chạnh lòng thương’ này không mấy xa lạ với Kinh Thánh nói chung. Trước cảnh nô lệ mà dân Do Thái phải chịu bên Ai-cập, Đức Chúa đã phán bảo Mô-sê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng…” (Xh 3:7) Từ đó xuất hiện trong Ít-ra-en một thái độ tin tưởng rất ấn tượng đối với Đức Chúa: “Con lâm cảnh ngặt nghẻo, Ngài lo lắng chăm nom, chẳng trao nộp thân này vào tay thù địch, nhưng cho con rộng bước thênh thang (Tv 30:9) Thế nhưng, hình như cũng đã rất sớm xuất hiện một khuynh hướng trái nghịch muốn đẩy Thiên Chúa ra xa, tới một nơi tôn nghiêm cực thánh, để rồi Người bị coi như một kẻ xa lạ, đầy thịnh nộ và quyền uy, phải được làm nguôi ngoai bằng các nghi thức lễ tế rườm rà. Từ đó lời cầu khẩn cũng không còn là hoàn toàn tin tưởng phó thác nữa, một chất chứa bồn chồn lo lắng: “Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và hồn con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 12:3); thậm chí còn tỏ ra nghi ngờ Đức Chúa xót thương, “Xin Chúa đừng chê bỏ chúng con, đừng rẻ rúng tòa vinh hiểu của Ngài. Dám xin Ngài nhớ lại đừng hủy bỏ giao ước giữa Ngài với chúng con” (Gr 14:21).

‘Thiên Chúa luôn đi bước trước…, vì lòng nhân ái vô biên của Người’ là nét nổi bật nhất trong toàn bộ mạc khải của Đức Giêsu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (xem Ga 3:16). Khảng định của niềm tin Ki-tô hữu chúng ta không chỉ là: tôi tin vào một ‘Thiên Chúa yêu thương’ nhưng còn hơn thế nữa, tôi tin vào một “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước…” Và Thánh Gio-an còn thêm: chính vì vậy mà “Tinh yêu không biết đến sợ hãi, trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1 Ga 4:18-19). Đặc điểm lớn nhất của mạc khải Giêsu chính là Thiên Chúa chủ động trong tình yêu của Người đối với con người đến nỗi, sau này Người đòi nó phải trở thành mẫu mực cho mọi tương quan tình yêu giữa người với người: “Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương chúng con” (Ga 13:34-35).

Thế nhưng cũng như thời Cựu Ước, thời gian dần trôi làm phát triển ngay giữa các Ki-tô hữu một khuynh hướng, đặc biệt trong lãnh vực phụng tự, đề cao sự vinh quang thánh thiện tột đỉnh của Thiên Chúa, nhấn mạnh sự cách biệt giữa Thiên Chúa và con người như trời với đất… Rất nhiều Ki-tô hữu rơi vào suy tưởng đầy ngộ nhận là: Thiên Chúa rất ít, hoặc hiếm khi, quan tâm tới số phận của tôi. Do ảnh hưởng của các tôn giáo vây quanh mà học thuyết phổ biến của họ là: các thần linh đòi phải được khẩn cầu và cung phụng, nhiều Ki-tô hữu không xác tín nổi rằng: có một Thiên Chúa từ nhân thực sự quan tâm tới con người yếu hèn, tới hoàn cảnh sống, nhất là tới những trạng huống đau thương của cuộc đời mình. Họ hoàn toàn đánh mất thái độ ‘như trẻ thơ nép mình bên lòng mẹ’, thái độ của con đường thơ ấu đầy tin thác của Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu tới độ, phải tới đầu thế kỷ XX Hội Thánh mới được nghe biết và coi như một khám phá độc đáo của thời đại. Dầu vậy cho tới ngày nay (sau Tê-rê-xa gần cả trăm năm) thực tế đã có bao nhiêu Ki-tô hữu thực sự xác tín rằng: niềm tin của mình là Tin Mừng…, vì biết rằng Thiên Chúa đã yêu thương mình cách vô điều kiện, bất chấp những lỗi lầm mình phạm?

Và còn hơn thế nữa, trong việc làm ăn sinh sống hàng ngày, niềm tin Ki-tô chúng ta có gì khác hơn so với sự cầu khẩn van xin của tín đồ các tôn giáo khác? Nếu cũng chỉ là khấn vái lạy lục để nhận được ân này huệ nọ, thì Lời Chúa hôm nay hẳn sẽ không có một giá trị nào hết. Lúc đó cùng lắm chúng ta sẽ coi việc Đức Giêsu làm phép lạ cho con trai bà góa thành Na-in sống lại cũng chỉ là một trong nhiều dịp, để Người biểu dương quyền năng tối thượng của mình mà thôi.

Vậy thì phép lạ mà Tin Mừng Chúa đề cập tới hôm nay chắc hẳn phải có giá trị củng cố niềm cậy trông còn rất yếu kém của chúng ta nhiều lắm đấy!

Lạy Chúa, xin củng cố đức tin của con, đặc biệt trong năm đức tin này. Xin cho con không chỉ tin rằng: Chúa hiện hữu, mà còn là hiện hữu chỉ vì yêu con; tin rằng Chúa yêu con không phải vì con xứng đáng mà chính vì con yếu đuối bất toàn; tin rằng Chúa hằng quan tâm chăm sóc con không phải vì con trung thành phụng sự, nhưng là vì tự bản chất, Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót. Xin cho niềm tin này có sức đổi mới cuộc đời, cất khỏi con mọi nỗi lo âu buồn nản, nâng đỡ con lúc gặp thử thách gian nan…, để con có khả năng đem niềm vui của Chúa đến cho mọi người, đặc biệt các bạn trẻ sầu khổ thất vọng. Amen.
 
 

---------------------------------

 

TN 10-C40: Thiên Chúa viếng thăm dân Người


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy niệm

 

Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim. Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và TN 10-C40


Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim. Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông. Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain. Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra. Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ. Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết. Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng, và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường. Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết, dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai. Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ. Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa. Bà đã dự đám tang của người chồng. Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất. Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi. Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ. Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất. Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?

Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt. Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13). Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác. Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33), Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34). Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy: Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15). Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết. Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì. Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại. Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn, chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái. Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14). Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh. Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23). Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu? Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác. Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ, khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.

Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16). Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44), Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới. Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác, và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.

Cầu nguyện:

- Lạy Chúa Giêsu, Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương. Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời. Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch, và bầu trời vắng tiếng chim. thì đó là lỗi của chúng con.

- Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người, vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói, bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời, bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp. Đó là lỗi của chúng con.

- Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương, vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình. Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi. Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi. Đó là lỗi của chúng con.

- Lạy Chúa Giêsu ở Belem, Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ, nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu. Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan. Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc. Đó là lỗi của chúng con. Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại, và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu. Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem, xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa để yêu trái đất lạnh giá này hơn, và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

---------------------------------

 

TN 10-C41: Thương cảm – Lm. Mark Link

 

Walter Payton là một trong những cầu thủ nổi tiếng của đội dã cầu Chicago Bears. Ở Chicago, ông TN 10-C41


Walter Payton là một trong những cầu thủ nổi tiếng của đội dã cầu Chicago Bears. Ở Chicago, ông thường được gọi là “Sweetness” và cũng là một trong những cầu thủ giỏi nhất chơi cho đội Bears. Về phương diện cá tính cũng như nghề nghiệp, ông xứng đáng với cái tên “Sweetness”. Ông mất sớm, và sau khi từ trần không lâu, một bà trước đây ở Chicago gửi một lá thư cho tờ Dallas Morning News. Bà kể khi tham dự một cuộc triển lãm xe hơi ở Chicago, ông Walter Payton đang đứng trên một cái bục, ký tên lưu niệm. Một bé trai, khoảng 12 tuổi, đưa cho người giúp việc một trái banh dã cầu mà em đã đem theo từ nhà để được ông Payton ký tên vào đó. Ông Payton ký tên, ném trái banh xuống cho bé trai này, và tiếp tục ký tên lưu niệm. Ông không thấy một thiếu niên cao lớn khác đã chụp lấy trái banh này và lẻn ra khỏi đám đông. Em bé trai ôm mặt khóc. Một phụ nữ đứng cạnh đó đã len qua đám đông để lưu ý người giúp việc về sự kiện xảy ra. Ông này đã nói lại cho ông Payton biết về sự việc và ông Payton đã gọi em bé trai đến. Ông hỏi tên và địa chỉ của em và cho biết ông sẽ gửi cho em một trái dã cầu có chữ ký của ông. Người phụ nữ viết thư cho tờ báo đó nói: "Tôi chưa bao giờ được thấy nước mắt trở thành một nụ cười tươi rói sau khi em bắt tay ông Payton." Bà kết luận: "Tôi tin rằng ông Payton không chỉ là “Mr. Sweetness” ở ngoài sân banh, nhưng còn trong mọi khía cạnh của cuộc đời ngắn ngủi của ông." (Lorraine Rukavina, Carrollton, Texas)

Trong một cách nào đó, tôi nghĩ rằng câu chuyện này cho chúng ta một cái nhìn về loại người của ông Walter Payton hơn là tất cả những thành tích thể thao của ông. Nó cho thấy ông là một người có tâm tình và lòng thương cảm. Nó cho thấy ông là một người có thể đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Nó cho thấy ông là một người không chỉ thông cảm được sự đau khổ của người khác nhưng còn sẵn sàng thi hành điều gì đó cho sự đau khổ đó. Nói tóm, nó cho thấy ông là loại người mà Đức Giêsu đã là và đã từng dạy dỗ các môn đệ: một con người biết thương cảm.

Việc phục hồi sự sống cho người con trai duy nhất của bà goá nghèo trong Phúc Âm chỉ là một trong nhiều thí dụ về sự thương cảm đầy dẫy trong cuộc đời của Đức Giêsu. Đó là một trong những nghĩa cử thúc giục Đức Giêsu đến với người khác và chữa lành cho họ. Về điểm này, Donald Senior, một học giả Kinh Thánh, viết: "Các Phúc Âm cho thấy rõ ràng rằng sự thương cảm là một động lực đằng sau công việc chữa lành của Đức Giêsu. Sự thương cảm đã thúc giục Đức Giêsu chạm đến người cùi và chữa họ lành (x. Mc 1,15-21). Sự thương cảm với cái đói của đám đông đã khiến Người nuôi họ ăn (x. Mt 14,14). Sự thương cảm… khiến Người chiêu mộ các môn đệ để thi hành cùng một sứ vụ này (x. Mt 9,36). Và sự thương cảm bà goá thành Nain đã đưa Đức Giêsu đến việc phục hồi sự sống con trai của bà (x. Lc 7,13).

Điều đó đưa chúng ta đến một điểm quan trọng về các phép lạ chữa lành của Đức Giêsu. Sự chữa lành người mù, sự chữa lành người điếc, sự phục hồi sự sống cho con trai bà goá - đây không chỉ là các dấu hiệu về lòng thương cảm của Đức Giêsu nhưng còn là dấu chỉ của một số điều khác nữa.

Đôi mắt sáng của người mù rồi cũng sẽ mờ dần với tuổi tác. Thính giác rõ ràng của người điếc cũng sẽ mờ dần. Và con trai bà goá sau cùng cũng sẽ chết khi đến tuổi già. Vậy, điều gì quan trọng hơn và bền vững hơn? Đó là các dấu chỉ cho người ta biết Đức Giêsu là ai và Người đến thế gian để làm gì. Đó là các dấu chỉ, đã được báo trước bởi các ngôn sứ, đó là Đức Giêsu là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu. Đó là các dấu chỉ rằng Đức Giêsu đang khai mở Vương Quốc Thiên Chúa mà đã được mong đợi từ lâu. Việc chữa lành người mù là một dấu chỉ cho dân chúng thời Đức Giêsu thấy được ánh sáng của một ngày mới. Việc chữa lành người điếc là một dấu chỉ để họ mở tai lắng nghe những gì Đức Giêsu nói. Việc phục hồi sự sống cho con trai bà goá là một dấu chỉ là họ phải tái sinh và bắt đầu một cuộc đời mới trong Vương Quốc Thiên Chúa.

Các phép lạ của Đức Giêsu là “tiếng báo động” trong lịch sử, nó làm chói tai những người thờ ơ lãnh đạm. Đó là các dấu chỉ của sự ngự đến của Vương Quốc Thiên Chúa. Và Vương Quốc này là gì? Đó là một trật tự mới, trong đó tình thương sẽ thay thế hận thù, sự lưu tâm sẽ thay thế sự vô tâm, ánh sáng sẽ thay thế tối tăm và sự sống sẽ thay thế sự chết.

Người đàn ông vô gia cư, người phụ nữ khát nước, trẻ em trần truồng, các tù nhân - giờ đây những người này sẽ tìm thấy một người bạn và người giúp đỡ, mà trước đây họ chỉ thấy người xa lạ, đi ngang qua họ như con tầu trong đêm tối. Trật tự mới này sẽ tiếp tục. Người Kitô chúng ta được kêu gọi để tiếp tục các phép lạ của Chúa Giêsu, và trở nên các dấu chỉ hy vọng, cùng nhau hoạt động để biến đổi thế giới chúng ta với tình thương và sự lưu tâm. Trong phương cách cá biệt của chính chúng ta, chúng ta sẽ là người biết thương cảm, hàng ngày thi hành loại công việc mà ông Payton đã thi hành trong câu chuyện ở trên.

Trong những lời được cho là của Thánh Têrêsa Avila: Đức Kitô giờ đây không có thân xác, nhưng có thân xác của chúng ta, không có đôi tay nhưng có đôi tay của chúng ta, không có chân nhưng có đôi chân của chúng ta. Đôi mắt của chúng ta là đôi mắt mà qua đó lòng thương cảm của Đức Kitô nhìn đến thế giới. Đôi chân của chúng ta là đôi chân mà trên đó Người bước đi để thi hành các việc tốt lành. Đôi tay của chúng ta là đôi tay mà qua đó Người tiếp tục thi hành các phép lạ trong thế giới chúng ta.
 
 

---------------------------------

 

TN 10-C42: Hãy chỗi dậy! - P. Trần Đình Phan Tiến

 

Người đời dù có lòng trắc ẩn đến đâu cũng đành bất lực trước cái chết của người khác. Viếng đám TN 10-C42


Người đời dù có lòng trắc ẩn đến đâu cũng đành bất lực trước cái chết của người khác. Viếng đám tang, chia sẻ nỗi buồn của người đồng loại, cầu nguyện, phúng điếu, đưa tang là những việc nói lên nghĩa cử chia sẽ với người khác nỗi đau khi mất mát người thân. Vâng! Kính thưa quý vị, không ai trong chúng ta chưa một lần chứng kiến đám tang, của thân nhân, hay của bạn bè. Đứng trước đám tang không ai khỏi chạnh lòng, nỗi đau mất mát người thân là một nỗi đau không gì có thể bù đắp được. Mất của còn có thể làm lại được, nhưng mất người thân, thì không thể tìm lại được. Vì vậy nỗi đau càng lớn hơn.

Cái chết là nỗi bất hạnh nhất của con người, vì sự sống không còn nơi thân xác nữa, không có gì quý hơn sự sống.

Đoạn Tin Mừng (Lc 7,11-17) hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có tâm trạng đau xót trước cảnh tang tóc, Người tình cờ trông thấy một đám tang tại thành Na-in, mà là một đám tang đặc biệt, đặc biệt vì đơn độc lại càng đơn độc “đám tang con trai bà góa”, góa bụa là nỗi đau, nay mất con lại càng đau hơn. Như vậy, nỗi đau nầy là nỗi đau gấp bội, vâng! Chính Chúa Giêsu cũng cảm thấy đau như nỗi đau của Người.

Trước thái độ là người, như khách bộ hành, Chúa Giêsu cũng có thể làm ngơ, hay chắp miệng chua xót, rồi tiếp bước bỏ đi, vì sự bất lực của nhân sinh. Nhưng với quyền uy của Thiên Chúa, Người đã dừng lại khiến cho người chết chỗi dậy. Tuy chưa đến “thời giờ mà Người tỏ vinh quang”, nhưng đứng trước sự đau khổ của người khác, sự bất hạnh của nhân loại, Chúa Giêsu đã không thể làm ngơ. Chúng ta thấy, uy quyền của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu mới có thể hành động như vậy được. Người đời cho dù có lòng trắc ẩn đến đâu cũng đành bất lực trước thần chết. Nhưng Chúa Giêsu thì không, Thiên tính của Người tiêu diệt tử thần . Phép lạ nầy không phải để “lấy le”, ra oai với mọi người, mà là tiên báo, Người sẽ làm chủ thần chết, vượt qua tử thần, và chính Người sẽ làm như vậy. Điều nầy còn nói lên ý nghĩa, dù là Con Thiên Chúa, Nhưng Chúa cũng phải bước qua tử nạn rồi mới đến phục sinh. Như vậy, đức tin cho thấy rằng dù tin vào Đức Kitô, nhưng con người cũng phải chịu đau khổ và chết chóc theo quy luật tự nhiên. Vì muốn sống lại tất nhiên phải bước qua sự chết. Nếu người con trai bà góa thành Na-in không chết, thì anh ta đâu có được sống lại. Vì vậy, chúng ta thấy cuộc tử nạn của Chúa GIÊSU là hữu lý, dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã mặc lấy nhân tính, thì Người cũng phải bước qua cái chết. Vậy chết không còn là sự sợ hãi, nỗi bất hạnh cho con người có niềm tin vào Đức Kitô. Vì chính Chúa là sự sống và là sự sống lại cho con người.

Điều thứ hai: cho thấy sự sống ở đời nầy là sự sống tạm, vì sự sống trần gian rồi sẽ mất đi, rồi sự sống vĩnh cửu sẽ đến. Hình ảnh Chúa Giêsu cho con trai bà góa thành Na-in sống lại là một niềm hy vọng cho tất cả những ai tin vào Đức Kitô. Hình ảnh sống lại theo nghĩa đen của con trai bà góa thành Na-in là một ý nghĩa tiên trưng cho sự sống lại của nhân thế, nếu tin vào ơn cứu độ.

Đừng trước cái chết của người có niềm tin, chúng ta chỉ có bổn phận cầu nguyện và đặt trọn lòng tin vào Thiên Chúa, vì không ai là không thể chết, vì chết là một nỗi bất hạnh, nhưng chết trong Đức Kitô thì không bao giờ là nỗi thất vọng, bởi vì chính Chúa đã chết cho chúng ta.

Về thời gian thì chúng ta có phúc hơn con trai bà góa thành Na-in, bời vì anh ta chỉ hưởng ơn phục sinh nhãn tiền rồi sau đó về già anh ta cũng phải chết, rồi cũng phải chờ đến ngày Chúa Giêsu quang lâm thì anh ta mới được phục sinh thật sự. Còn chúng ta được hưởng ơn cứu độ qua cuộc tử nạn của Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ được phục sinh khi chúng ta đặt trọn niềm tin vào Người.

Vậy chết không còn là nỗi sợ hãi khi chúng ta tin vào Thiên Chúa, nhưng sự chết vẫn xảy ra, vì đó là quy luật tự nhiên, và hơn thế nữa sự sống siêu nhiên mới là sự sống đích thực, và Chúa Giêsu không hứa ban bạc vàng cho những ai bước theo Người, nhưng Người hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.

Lạy Chúa Giêsu, Người là sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, vì vậy nơi Người không có sự chết, nhưng Người phải bước qua cuộc tử nạn để đến phục sinh. Xin thương ban cho chúng con biết cậy trông vào Chúa để có sự sống viên mãn. Amen.

---------------------------------

 

TN 10-C43: Niềm tin sống lại từ cõi chết – Lm. Anmai

 

Con người được Thiên Chúa dựng nên là để sống và sống hạnh phúc. Ngài không làm ra cái chết. TN 10-C43


Con người được Thiên Chúa dựng nên là để sống và sống hạnh phúc. Ngài không làm ra cái chết. Chính vì thế mà sự chết luôn luôn đi ngược lại bản năng và ước vọng của con người và luôn làm cho họ hoảng sợ. Ngày Chủ nhật là cơ hội tốt để đánh thức niềm tin Ki tô của chúng ta bởi khi cử hành sự Phục sinh của Đức Ki tô, chúng ta tường niệm Ngài đã chiến thắng sự chết để dành lại sự sống cho chúng ta.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng về niềm tin của chúng ta về sự sống lại của con người là như thế. Thiên Chúa Hằng Sống! Thiên Chúa hiện sống, Thiên Chúa hằng sống để rồi những ai tin vào Thiên Chúa cũng sẽ được hưởng vinh quang trong Nước của Thiên Chúa.

Thiên Chúa Hằng Sống và Ngài quyền năng trên tất cả muôn vật muôn loài, Thiên Chúa là chủ con người, là chủ của sự sống này.

Trải qua dòng chảy lịch sử cứu độ, niềm tin vào Thiên Chúa Hằng Sống và là chủ của sự sống được xác tín, được tuyên xưng trên môi miệng của các ngôn sứ, của những người tin Chúa, của những người nói lời Thiên Chúa....

Ông Gióp là một người giàu có và có lòng kính sợ Thiên Chúa, nhưng rồi bao nhiêu tai nạn dồn dập đã xảy ra trên đời sống ông: con chết, tài sản tiêu tan và chính ông mắc phải một chứng nan y không thuốc thang nào chữa trị được. Vợ ông trước hoàn cảnh đó chẳng những không thông cảm lại còn lên tiếng chế nhạo, còn những người bạn thì cho rằng ông tội lỗi đầy mình nên mới nên nông nỗi đó. Trong hoàn cảnh đau khổ và cô đơn tột cùng, ông Gióp đã thốt lên, bày tỏ niềm tin của ông nơi Thiên Chúa.

Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống, đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất. Sau khi da tôi tức xác thịt nầy đã bị tan nát, bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa của tôi.

Đây là câu nói đầy hy vọng vì hai lý do: Thiên Chúa là Đấng hằng sống và có đời sống sau khi chết. Dù trong hoạn nạn, bệnh tật và tang tóc, ông Gióp biết rằng Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Ông gọi Ngài là Đấng Cứu Chuộc hàm ý chính Chúa là Đấng giải cứu cả hồn lẫn xác. Và cũng chính niềm tin tưởng nơi cuộc sống đời sau giúp ông có thể thốt lên câu nói sau: "Sau khi da tôi tức xác thịt nầy đã bị tan nát, bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa của tôi." Ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa của tôi đó chính là niềm tin và hy vọng của người tin Chúa. Chúa sống và chúng ta sẽ được cùng sống với Chúa.

Lời của một con người đau khổ là ông Gióp cho chúng ta thấy rằng sự sống chúng ta đến từ Thiên Chúa. Chúa ban cho, Chúa cất đi, tất cả nằm trong tay Ngài. Nhưng Thiên Chúa không phải là Ông Trời oái oăm chúng ta thường than trách. Ngài là Đấng yêu thương, dẫn dắt, thử rèn để chúng ta nên người. Ngài là Đấng sống và niềm tin của chúng ta nơi Chúa sẽ đưa chúng ta đến chỗ sống với Chúa đời đời.

Với ngôn sứ Isaia thì Isaia công bố rằng: Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế. Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy. (Is 25, 6-8).

Quyền năng của Thiên Chúa làm chủ sự sống hôm nay chúng ta thấy được qua ngôn sứ Êlia.

Ngôn sứ Êlia phục sinh con gái bà góa Sarépta hôm nay chúng ta vừa được nghe lại (1V17,17-24), hay tiên tri Êlisê cứu sống con trai bà Sunamita (2V4,18-37) phải khẩn cầu quyền năng của Thiên Chúa trước khi ra tay làm phép lạ. Quyền năng diệu kì đó cho thấy Chúa Giêsu chính là Chúa của sự sống.

“Thiên Chúa không làm ra cái chết”: Không chỉ là chết thể xác mà còn cả cái chết thiêng liêng đưa con người vĩnh viễn rời xa Thiên Chúa. Cuộc sống sau cái chết không phải là niềm tin được tất cả mọi người chấp nhận: người Pharisêu thì tin, còn người Sađukêô thì không. Nói chung, người ta vẫn tin rằng số phận của tất cả mọi người sau cái chết đều giống nhau, đó là một cuộc sống ở âm phủ xa cách Thiên Chúa. Phần thưởng và hình phạt diễn ra ngay ở đời nầy: sống lâu, đông con nhiều cháu, giàu sang. Sách Khôn ngoan khẳng định một cách chắc chắn phần thưởng là cuộc sống với Thiên Chúa dù không nói đến sự sống lại của thân xác. Bài tin mừng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Chúa của sự sống khi phục sinh người con trai duy nhất của bà góa.

"Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ.", đó là lời hứa của Đức Giêsu, một lời hứa đem lại niềm hy vọng cho biết bao người qua muôn thế hệ. Các tông đồ thấy dấu lạ nước hoá thành rượu ở Cana thì đã tin vào Đức Giêsu. Những người Do thái khi thấy Đức Giêsu mở mắt người mù từ thuở mới sinh và hôm nay họ lại chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho Lazarô sống lại, thì cũng đã tin vào Người. Và chính nhờ tin vào Đức Giêsu, biết bao nhiêu người đã có đủ can đảm, để vượt qua mọi thử thách, đau khổ trong cuộc sống hàng ngày. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Mỗi ngày chúng ta cũng đang chứng kiến biết bao nhiêu là dấu lạ Thiên Chúa đang thực hiện quanh ta, thế nhưng chúng ta có tin không?

Nếu ta có được một niềm tin vào Thiên Chúa, thì những cách ứng xử trong cuộc đời ta sẽ mang một dáng dấp khác hẳn. Ta không phải là những người lúc nào cũng sợ tương lai, hoặc chỉ sống cho hiện tại. Cuộc sống hằng ngày của tôi sẽ mang một nét đặc biệt khác, trong viển tượng vượt qua, từ một "giấc ngủ" Chúa Giêsu sẽ đánh thức ta một ngày nào đó. Ta sẽ có một niềm xác tín khác và một sự bình an thanh thản lớn hơn trong tâm hồn.

Lắng nghe lời Chúa hôm nay, chớ gì ngay từ giờ phút này, mỗi người chúng ta xác tín hơn vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy quyết tâm gắn bó với Chúa nhiều hơn qua việc siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh lễ và hiệp lễ, để nhờ có Đức Giêsu trong mình, mỗi người chúng ta cũng sẽ nhận được sự sống muôn đời, như lời Ngài đã hứa. Amen.

---------------------------------

 

TN 10-C44: Nên giống Trái Tim Chúa – Lm. Nguyễn Nguyên

 

Tâm lý thường tình của con người là “ăn có mời, làm có khiến”. Đây quả là một nguyên tắc xử thế rất TN 10-C44


Tâm lý thường tình của con người là “ăn có mời, làm có khiến”. Đây quả là một nguyên tắc xử thế rất hay. Tuy nhiên, vì cuộc sống luôn có biến đổi, nên con người không thể đóng khung vào nguyên tắc, hơn nữa nếu cách cư xử giữa người với người mà chỉ căn cứ vào nguyên tắc thì điều đó chắc chắn sẽ giết chết tình cảm và mọi sự tế nhị trong liên hệ giữa người với người. Đoạn tin mừng mà chúng ta vừa nghe như muốn chứng minh điều ấy.

Thật thế, khi cùng đoàn môn đệ đến một thành nhỏ tên là Nain, vừa vào trong cổng thành, thì bị cắt ngang đường bởi một đám ma đang khiêng người con trai duy nhất của một bà goá ra chốn mộ phần. Dẫn đầu đám tang là bà mẹ, theo sau là đám đông cư dân trong thành cùng đi theo để đưa tiễn chàng trai đến nơi chín suối. Hơn một lần phải tiễn đưa người chồng đến nơi an nghỉ cuối cùng, bà đã thấm thía nỗi đau của sự mất mát. Ấy vậy mà hôm nay, đứa con trai duy nhất, núm ruột bà đứt ruột sinh ra, và là niềm hy vọng cho tuổi già của bà, lại cũng đành đoạn bỏ bà ra đi.

Thế nhưng, mọi sự đã thay đổi khi đoàn người của sự chết gặp đoàn người của sự sống mà dẫn đầu là Chúa Giêsu. Lẽ ra Ngài đã đi ngang qua hay đợi cho đến khi người ta gọi Ngài. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài đã có sáng kiến đi bước trước, Ngài đã chạnh lòng thương xót mà cho người con trai bà sống lại, dù không một ai, bà mẹ hoặc những người đi đưa đám cầu xin Ngài giúp đỡ. Như thế, Chúa Giêsu đã thực hiện một phép lạ không phải vì Ngài là con người hoàn toàn như chúng ta nên cũng có mọi xúc cảm của con người như buồn phiền, khóc thương… cũng không dựa theo nguyên tắc xử thế của con người mà chỉ vì lòng Chúa yêu thương.

Từ thái độ của Chúa Giêsu, nhìn về cách sống của bản thân ta, ta thử hỏi xem ta đã biết cách sống yêu thương mọi người đi ngang qua con đường đời ta hay chưa, liệu ta có quan tâm đến những bất hạnh của họ hay không, và mối quan tâm ấy có dẫn đưa ta tới chỗ hành động một cách hiệu quả hay chưa; hay biết bao lần trong đời nhìn thấy những cảnh đời thương tâm, thế mà ta vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, rồi tự xoa dịu sự áy náy lương tâm mình bằng nhiều lý lẽ. Thế nhưng, dù có lý lẽ nào đi nữa thì chúng vẫn không thể biện hộ cho sự chai lỳ, dửng dưng của ta về sự thiếu lòng yêu thương.

Thế nên, lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết quan tâm và cảm thông đến những bất hạnh của người khác, biết “chạnh lòng thương” đến những người đau khổ quanh ta. Tuy nhiên, thái độ cảm thông và thương xót của chúng ta cần phải được bộc lộ qua những việc làm, phải được ưu tiên thể hiện ra với những người mà chúng ta đang chung sống, với những người Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta, ngày lại ngày, trong gia đình, trong cộng đoàn, với tất cả những ai đang cần yêu thương nâng đỡ nhất. Nếu như chúng ta từ chối nhiều cơ hội chợt đến với mình mỗi ngày để thực thi bác ái yêu thương cho những người thân thuộc trong gia đình, giữa nơi xưởng thợ, chốn văn phòng, hay cho những người cộng sự cùng làm việc bên cạnh chúng ta, thì chúng ta chỉ là những người như câu ca dao cha ông ta thường nói “làm phúc nơi nao mà cầu áo rách nát”, và như vậy thì chúng ta chỉ là những người “khoe mã” mà thôi.

Vậy, xin Chúa Giêsu là nguồn tình yêu, biến đổi trái tim chai đá của chúng ta mà thay vào đó là trái tim bằng thịt để chúng ta thấy được nhu cầu và biết rung động, thông cảm, sớt chia với hoàn cảnh của những người sống chung quanh, để chúng ta có thể vui với người vui, buồn với kẻ buồn. Xin Ngài biến đổi chúng ta thành những người sống và san sẻ niềm vui hạnh phúc cho mọi người mọi nơi mọi lúc. Đồng thời cũng xin cho mỗi chúng ta biết nhìn ra Chúa không chỉ đến an ủi, đem lại cho con người sự phục sinh thân xác mà còn là sự sống đời sau, để chúng ta luôn biết nghe lời Chúa kêu gọi, từng ngày bước ra khỏi sự trói cột của ma quỉ, tội lỗi mà sống trong sự sáng của Thiên Chúa. Amen.
 
 

---------------------------------

 

TN 10-C45: Chết rồi sống – Lm. Trịnh Ngọc Danh

 

Chết là một trong bốn nỗi khổ của kiếp sống con người: Sinh, bệnh, lão, tử. Ai cũng muốn sống lâu, TN 10-C45


Chết là một trong bốn nỗi khổ của kiếp sống con người: Sinh, bệnh, lão, tử. Ai cũng muốn sống lâu, sống trường thọ; nhưng ước vọng ấy cũng chỉ là ước vọng. Chết là số phận mà ai ai cũng phải một lần đi qua.

Có người chết vì tuổi già, có người chết vì bệnh hoạn, chết vì tại nạn, chết vì chiến tranh… Không ai muốn chết và cũng không ai hay biết được giờ nào mình phải ra đi. Nhưng có những cái chết làm bàng hoàng người sống, mang nhiều nỗi nhớ thương, đó là cái chết vào tuổi thanh xuân, khi cuộc sống mới bắt đầu chớm nở.

Phải chết đi mà lại được sống lại, thật là một niềm vui khôn tả đối với người chết và người thân đang sống. Hôm nay chúng ta được nghe thuật lại hai trường hợp chết đi sống lại của hai người trẻ tuổi.

Sau khi làm phép lạ cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn đủ cho hai mẹ con bà goá ở Xarépta và cho mình sống lâu ngày, tiên tri Êlia được tạm trú tại nhà bà goá. Thế rồi bất ngờ, con bà ngã bệnh và chết. Bà khóc lóc trách móc Êlia đã mang cái xui xẻo đến cho bà. Êlia bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở và đặt nó nằm lên giường. Ông nằm lên trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn viá đứa trẻ này lại về với nó!” và Thiên Chúa đã nghe lời ông kêu cầu. Đứa trẻ đã sống lại. Đó là chuyện xảy ra trong thời Cựu Ước.

Vào thời Tân Ước, thánh sử Luca lại thuật lại một việc sống lại khác như sau: Chúa Giêsu cùng các môn đệ và đám đông đi đến thành Naim. Khi gần đến cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng một người chết đi chôn; người chết là con trai duy nhất của một bà goá. Thấy bà khóc thảm thiết, Chúa Giêsu chạnh lòng thương; Ngài tiến lại gần, sờ vào quan tài và nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” Chàng thanh niên liền ngồi lên và bắt đầu nói.

Cả hai người chết đều là những người chết trẻ, lại là những người con duy nhất của những bá góa. Con là niềm vui và hy vọng cho tương lai của hai bà trong lúc tuổi già. Thế mà những đứa con duy nhất của họ đã ra đi. Còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn mất đứa con yêu dấu của mình!

Êlia không trực tiếp làm cho người chết sống lại. Ông phải kêu cầu vào quyền năng của Thiên Chúa; còn Chúa Giêsu là Đấng có quyền lực trên sự sống và sự chết, trên thân xác và linh hồn, Ngài đã ra lệnh cho người chết sống lại.

Trong trường hợp đứa bé của bà góa ở Xarépta sống lại, có một điểm chúng ta cần lưu ý, đó là lời cầu xin của Êlia: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn viá đứa trẻ này lại về với nó!”

Đứa trẻ của con bà góa ở Xarépta đã chết. Linh hồn đã lià khỏi xác. Tiên tri Êlia đã ba lần nằm lên đứa bé đã chết để truyền sinh khí cho nó, nhưng sinh khí ấy cũng chưa đủ để làm cho đứa bé sống lại; ông đã phải xin Thiên Chúa cho thần khí của đứa trẻ trở lại với thân xác. Hồn trở về với xác và đứa trẻ đã sống lại.

Như thế, chúng ta có thể xác tín rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con người là một thực thể đơn nhất gồm hồn và xác, vừa thể xác vừa tinh thần: “Thiên Chúa lấy đất sét nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật” (St. 2:7). Linh hồn là sự sống, là sự toàn diện, là cái thâm sâu nhất của con người, là cái giá trị nhất nơi con người; nhờ đó con người là hình ảnh của Thiên Chúa cách đặc biệt: linh hồn là nguyên lý thần linh nơi con người. Linh hồn bất tử. Thân xác chết, nhưng linh hồn vẫn sống.

Nhưng đứa trẻ kia, chàng thanh niên nọ, hay người đầy tớ của người sĩ quan kia hay ông Lagiarô, Chúa cho họ sống lại là vì lòng xót thương nỗi đau khổ của người thân đang sống. Họ được sống lại, nhưng rồi cũng phải chết. Chết hai lần!

Sinh ký tử quy. Con người phải chết, đó là điều tự nhiên.

Chết là chấm đứt khoảng thời gian chúng ta có mặt trên trần thế. Trong khoảng thời gian ấy, con người thay đổi, già đi rồi chết, bệnh hoạn rồi chết, tai nạn rồi chết…không ai biết được cái chết sẽ đến lúc nào.

Nhờ cái chết, chúng ta biết thân phận mình có hạn, nhưng với con mắt đức tin, chết là linh hồn lià khỏi xác. chết là ra đi, chết là trở về để chờ ngày phục sinh cùng với thân xác. Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế, kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và thương xót để chúng ta sống cuộc đời trần thế theo ý Chúa và quyết định số phận tối hậu của mình. Muốn được phục sinh với Đức Kitô, chúng ta cũng phải chết với Ngài.

Chết không phải là sự đau buồn mất mát, nhưng là một niềm mong đợi như thánh Phaolô đã nói: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kito”.( Pl. 1:23); đối với thánh nhân: “Sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1: 21) và thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trước những giây phút cuối cùng của cuộc sống cũng đã nói: “Tôi không chết, nhưng đang bước vào cuộc sống”.

Khi chết, linh hồn lià khỏi xác. Thân xác lâm cảnh hư nát trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa.

Bất cứ cảnh tang chế nào cũng đau buồn. Là những người đang sống, chúng ta khóc thương cho người thân đã chết. Đau buồn trước mất mát của người thân yêu là điều tốt và cần thiết; nhưng trong cảnh đau thương ấy lại là một niềm vui cho người quá cố. Đức tin là một sự an ủi và nâng đỡ người sống trong lúc có tang chế, nó làm cho chúng ta đau buồn trong niềm hy vọng sẽ gặp lại những người thân yêu. Họ ra đi để trở về với sự sống vĩnh cửu. Họ chết nhưng lại không chết. Họ chết về thân xác nhưng linh hồn vẫn sống. Họ chỉ thay đổi thế giới. Họ không trở lại với chúng ta nhưng rồi chúng ta sẽ đi gặp họ. Những người chết là những người ra đi trước chúng ta. Khóc thương người chết là khóc thương cho số phận linh hồn của họ không biết thế nào sau cái chết hơn là cho thân xác. Cầu nguyện cho các linh hồn là chúng sống liên kết với họ.

Đứa con của vua Đavít với vợ ông Urigia bị bệnh nặng. Vua Đavít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất. Các kỳ mục trong nhà của vua nài nỉ xin vua trổi dậy, nhưng vua không chịu và cũng không ăn uống chút gì với họ. Đến ngày thứ bảy, đứa bé chết. Triều thần vua Đavít sợ không dám báo cho vua biết đứa bé đã chết, vì họ bảo nhau: “Khi đứa trẻ còn sống, chúng ta đã nói với đức vua, nhưng ngài không nghe. Bây giờ làm thế nào để nói với ngài là đứa bé đã chết? Hẳn ngài sẽ làm liều!” Thấy triều thần thầm thì với nhau, vua Đavít hiểu là đứa trẻ đã chết. Vua Đavít hỏi triều thần: “Có phải đứa bé chết rồi không?” Họ thưa: “Vâng, chết rồi!”.

Bấy giờ vua Đavít từ dưới đất trỗi dậy, tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo; rồi vua vào Nhà Đức Chúa mà phủ phục. Trở về nhà, vua yêu cầu người ta dọn bữa và vua đã ăn. Triều thần nói với vua: “Ngài làm gì vậy? Khi đứa bé còn sống, thì ngài ăn chay và khóc lóc vì nó. Khi đứa bé chết rồi, thì ngài lại trỗi dậy và dùng bữa!” Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc, vì ta tự bảo: Biết đâu Đức Chúa sẽ thương ta và đứa bé sẽ sống! Bây giờ nó chết rồi, ta ăn chay làm gì? Hỏi rằng ta còn có thể làm cho nó trở lại được không? Ta đi đến với nó, chứ nó không trở lại với ta”. ( 2Sm, 12: 16-23)

Chúa Giêsu không nói: Ta là sự sống và là sự sống lại, nhưng Ngài nói: Ta là sự sống lại và là sự sống”. Sống lại với Đức Kitô để rồi như Ngài sống vinh hiển trong Nước Thiên Chúa. “Nếu ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài”( 2Tm 2: 11)

Thánh Phaolô đã cho chúng ta một kinh nghiệm sống: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl. 2:20).

Sống là cảnh giác những gì mà tác giả thánh vịnh đã xin: “Lạy Chúa, tôi ca tụng Chúa vì đã giải thoát tôi, và không để quân thù hoan hỉ về tôi. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn tôi thoát xa âm phủ, Ngài đã cứu tôi khỏi số người đang bước xuống mồ”. ( Tv. 29)

Mọi người đã chết đều sẽ phục sinh. “Ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống, ai đã làm điều dữ thì sẽ sống lại để bị kết án” ( Ga. 5:29)

Chỉ có sự phục sinh trong ngày sau hết mới thực sự đem thân xác và linh hồn chúng ta vào cõi sống vĩnh hằng.

Sống là chuẩn bị chết; và chết là đi vào cõi sống. Chúng ta đã, đang và sẽ chuẩn bị gì cho sự sống sau cái chết?.
 
 

---------------------------------

 

TN 10-C46: Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Trải qua lịch sử ơn cứu độ, toàn bộ Kinh Thánh đã trình thuật rất nhiều phép lạ. Thiên Chúa trực TN 10-C46


Trải qua lịch sử ơn cứu độ, toàn bộ Kinh Thánh đã trình thuật rất nhiều phép lạ. Thiên Chúa trực tiếp hoặc qua các sứ giả đã thực hiện nhiều phép lạ vĩ đại để can thiệp làm thay đổi tiến trình của luật tự nhiên. Nhưng phép lạ làm cho kẻ chết sống lại thì rất họa hiếm: Thời Cựu ước, Tiên tri Êlia đã cầu xin Thiên Chúa ban lại sự sống cho một bé gái. Trong sách Các Vua đã tường thuật sự kiện cứu em bé của Êlia: Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ và kêu cầu Thiên Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, con xin cho hồn vía đửa trẻ này lại trở về với nó!: (1Vua 17, 21). Tiên tri đã cầu khẩn cùng Thiên Chúa ban đặc ân cho bà góa và con trai yêu quí của bà. Lời cầu đã được Thiên Chúa nhậm lời:Thiên Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó và nó sống (1Vua 17, 22).

Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Chúa đã hoàn sinh cậu con trai của bà góa. Anh ta chết nằm trong quan tài đang trên đường đưa đi chôn:Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiên dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy (Lc 7, 14). Và Phúc âm còn kể sự kiện Chúa Giêsu cho ông Lazarô chết và đã chôn trong mồ đã bốn ngày, được sống lại. Đây là Tin Mừng. Tin Mừng tuyệt vời nhất là chính Chúa Giêsu đã chịu chết, chôn trong mồ và đã tự mình sống lại. Chúng ta tin rằng con người gồm có hồn và xác. Thân xác bao gồm các thành phần của vật chất nên chịu ảnh hưởng của luật đào thải tự nhiên. Giống như sự kết cấu của muôn loài: Xác thân vật chất được sinh ra, phát triển, già nua và chết. Sự sống của con người bị giới hạn trong thân xác. Khi thân xác không còn đủ điều kiện sống, xác hồn lìa nhau. Thân xác sẽ mục nát hư thối và tiêu tan theo ngày tháng. Hồn được về qui ẩn nơi hằng sống.

Theo luật thời gian đào thải, mọi loài và mọi vật có lúc sinh và lúc tử. Đời này nối tiếp qua đời kia, chúng ta không biết đã có bao nhiêu đời đi trước. Thế giới vẫn tiếp tục xoay vần và sự sống được tiếp tục truyền sinh. Giống nào theo giống đó, loài nào theo loài ấy. Đời sống con người lâu nhất cũng chỉ vỏn vẹn trên dưới một trăm năm. So sánh cuộc đời một người với đời đời cũng chỉ là một dấu chấm rất nhỏ trong không gian và thời gian. Mỗi con người được sinh ra mang một số phận. Kẻ trước người sau theo nhau đi về nguồn cội. Quan sát cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng các loài thụ tạo đều có một khởi điểm và chung kết rất khác biệt. Số phận mỗi người kết thúc một cách.

Suy tư về sự sống và sự chết, con vẫn nhớ hình ảnh của chú em đã qua đời cách đây gần một năm. Chỉ trong vòng một tháng, cuộc đời đã biến đổi. Trước đó sức khỏe tương đối, tuy nhiên có vài triệu chứng sụt cân và mệt mỏi. Khi đi khám bệnh, các bác sĩ chẩn đoán có dấu hiệu ung thư hạch. Thế là tinh thần xuống dốc như xe không thắng. Chỉ sau hai tuần, thân xác trở nên tiều tụy, gầy còm và bệnh hoạn. Thân xác thì yêu đuối và tinh thần thì lo lắng nhưng vẫn giữ lòng trông cậy và hy vọng. Thế rồi, điều gì phải tới đã tới. Ung thư lan nhanh khắp thân thể. Kéo theo những triệu chứng của lục phủ ngũ tạng suy xụp. Bác sĩ đành bó tay. Trở về gia đình được khoảng 10 ngày. Chú nằm thoi thóp, đau đớn và chuẩn bị tinh thần bước sang thế giới bên kia. Thần chết đang rình chực.

Người thân trong gia đình trong tư thế sẵn sàng chờ đợi một cuộc ly biệt ngàn thu. Tâm tư vừa hồi hộp, vừa lo lắng bồn chồn và buồn đau. Chỉ biết cầu xin cho người thân được ơn chết lành. Trước giờ chết, chú đã vẫy tay chào mọi người và xin tiếp tục cầu nguyện. Con chứng kiến cái sống và cái chết kề cận. Chú đã sống cho tới chết. Có nghĩa là một thân xác cường tráng khỏe mạnh đã bị yếu liệt từ từ cho tới hơi thở cuối cùng. Sau cùng, hơi thở nhẹ dần và ngưng thở. Hồn lìa xác. Chết! Chú đã qua đời. Chú đã qui tiên tổ. Thật đau lòng. Mất mát quá lớn. Khoảng cách lại qúa xa. Từ thế giới kẻ sống đi vào thế giới bên kia. Bước hững vào lẽ vô thường. Thế là kết thúc một cuộc đời dương thế.

Niềm tin càng xác tín. Mọi người chỉ biết bám víu vào Chúa Kitô. Vợ con và bà con thân tộc qúa thương tiếc. Không ai dám xin Chúa ban cho sống lại nhưng chỉ xin cứu lấy linh hồn người thân. Đối diện trước cái chết, niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh là tuyệt đối. Niềm hy vọng hưởng phúc bên Chúa là một an ủi lớn lao nhất. Niềm tin vào Chúa là sức mạnh tuyệt vời giúp chúng ta đối diện với cái chết. Giờ đây chết không phải là hết mà là hiện diện với chúng ta một cách khác. Đã có rất nhiều Hội đoàn, gia đình và anh chị em, bạn bè đến chia buồn, cầu kinh và tham dự lễ an táng. Những lời kinh hòa nhập với những giọt nước mắt đau thương mất mát đã làm vơi đi những sầu đau. Chúng ta phó thác và tin tưởng hoàn toàn vào lòng từ nhân của Thiên Chúa.

Trong hai bài đọc lễ Chúa Nhật 10 quanh năm, chúng ta nghe hai câu truyện về hai cái chết và được ban lại sự sống. Hai người bị mắc bệnh nguy kịch và đã chết. Bà mẹ buồn đau than trách tiên tri Êlia, Êlia đã cầu xin Chúa. Vì lời than khóc của bà góa, Chúa đã thương ban lại sự sống cho anh thanh niên:Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ (Lc 7, 15). Hai người được sống thêm một thời gian trên cõi đời rồi cũng sẽ phải chết. Sự can thiệp quyền năng của Thiên Chúa là một niềm hy vọng và Tin vui mừng cho cả nhân loại. Chúa có uy quyền ban sự sống, cất sự sống, trao lại sự sống và ban cho sự sống đời đời.

Thánh Phaolô đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng. Ngài xác tín Tin mừng do chính Chúa mạc khải:Thật vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin mừng tôi loan báo không phải là do loài người (Gal 1, 11). Đây là một đặc sủng riêng biệt, chính Thiên Chúa đã chọn và sai Ngài đi rao giảng tin vui cho mọi người: Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người (Gal 1, 15). Tin mừng cứu độ là hồng ân Chúa ban cho nhân loại qua chính Con của Ngài. Tin mừng mang lại niềm hy vọng của sự sống và sự sống lại. Chúa của sự sống đã can thiệp vào cuộc sống tự nhiên của con người. Đón nhận tin mừng là đón nhận sự đổi đời, hối cải và bước vào con đường sự sống.

Chúa ban sự sống cho hết mọi loài nhưng sự sống lại là để hưởng vinh phúc đời đời cần có sự cộng tác của con người. Chúng ta phải ước muốn, yêu thích, nuôi dưỡng, tận tâm tìm kiếm và thực hành sống niềm tin. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng sự sống lại và sự sống đời sau. Chúng ta cần có điểm khởi hành và hướng về cùng đích. Tất cả mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống đạo đều góp phần vào mục tiêu sau cùng. Chúng ta không thể sống đạo một cách nửa vời, giai đoạn hay khoảng thời gian. Kitô hữu là Kitô hữu suốt đời. Sống đạo can đảm trong mọi trạng huống của cuộc đời. Chúng ta cần tránh những thái độ tương đối hoặc âm ấm. Sự thật không nằm ở sự đồng ý của nhiều người và cũng không theo ý muốn của con người. Sự thật của Tin Mừng cứu độ được ban cho chúng ta qua chính Đức Kitô Phục Sinh.

Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết tôn trọng sự sống ngay từ lúc khởi đầu cho đến khi lìa đời cách tự nhiên. Thiên Chúa ban sự sống đời này và Chúa hứa ban cho chúng con sự sống đời sau. Một hồng ân vô cùng cao quý. Chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa đã cho chúng con được sinh ra làm con người, làm con Chúa và được hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.
 
 

---------------------------------

 

TN 10-C47: Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


CHÚA ĐỘNG LÒNG THƯƠNG VÀ BẢO BÀ RẰNG: "ĐỪNG KHÓC NỮA"

 

Bước vào Chúa nhật X thương niên, Giáo hội muốn giúp chúng ta khám phá ra khuôn mặt của một Vì TN 10-C47


Bước vào Chúa nhật X thương niên, Giáo hội muốn giúp chúng ta khám phá ra khuôn mặt của một Vì Thiên Chúa tình thương, qua chính con người, lời nói cũng như việc làm của Đức Giêsu làm cho con trai bà góa thành Na-in chỗi dậy từ cõi chết. Đây là dấu chỉ vĩ đại của Thiên Chúa là làm cho kẻ chết sống lại bởi đặc tính của Ngài là làm cho sống, khiến cho dân chúng phải kêu lên: "Một vị ngôn sứ vĩ đại xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người." (Lc 7, 16)

Sống mãi, sống vui và sống hạnh phúc là ước muốn của con người. Tiếc thay, cái chết là rào cản lớn nhất khiến con người buồn sầu, thất vọng. Đức Giêsu phục sinh con trai bà góa thành Na-in chứng tỏ Thiên Chúa viếng thăm không chỉ một số người Ít-ra-en, mà là toàn thể nhân loại; không chỉ hoàn sinh để rồi lại chết như một vài trường hợp được sống lại từ cõi chết, nhờ đó con người hy vọng và tin tưởng: Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của con, con còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời con, con khiếp gì ai nữa? Chính bọn thù địch, bọn làm khổ con phải lảo đảo té nhào. (Ca nhập lễ)

* Bài đọc Phụng vụ Năm A

- Ôs 6, 3-6: Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ
- Tv 50, 1: Chúng ta hãy tiến bước trên đường của Chúa
- Rm 4, 18-25: Abraham vững tin mà làm sáng danh Chúa
- Mt 9, 9-13: Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi

* Bài đọc Phụng vụ Năm B

- St 3, 9-15: Loan báo cuộc chốn Satan
- Tv 130, 1: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giầu ơn cứu độ
- 2 Cr 4, 13 à 5, 1: Niềm hy vọng của thánh Phaolô trong những cơn thử thách
- Mc 3, 20-35: Chúa Giêsu chống lại Satan

* Bài đọc Phụng vụ Năm C

- 1 V 17, 17-24: Êlia, Thiên Chúa đã cho con trai bà góa sống lại.
- Tv 30, 3: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa, vì Chúa giải thoát tôi.
- Gal 1, 11-19: Tin Mừng của Thánh Phaolô không phải do loài người
- Lc 7, 11-17: Đức Giêsu cho con bà góa thành Nain sống lại

Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vì yêu thương, đã tạo dựng con người, và cho con người chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, vì yêu thương, Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người trong đau khổ, Ngài chữa lành mọi bệnh tật, trả lại sự sống cho con người, mang lại cho con người sự bình an, niềm hy vọng. Thiên Chúa vẫn mãi mãi là Thiên Chúa yêu thương con người. Nếu như thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã nhận lời Ngôn sứ Ê-li-a cầu xin Chúa cho đứa con của bà goá nghèo thành Xê-rép-ta được sống (1 V 17,17-24), thì thời Tân Ước, trước nỗi đau khổ tột cùng của bà goá thánh Na-im khi đứa con duy nhất, là niềm vui, chỗ dựa tinh thần của bà chết, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, cho anh thanh niên trỗi dậy từ cõi chết, mang lại niềm vui mẹ anh và cho mọi người.

Thiên Chúa luôn đồng hành với con người, bởi con người được sáng tạo giống hình ảnh Chúa. Con Thiên Chúa là Đức Giêsu đã làm người, sống kiếp phận con người, để phục hồi phẩm giá con người đã bị méo mó do tội lồi.

Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mở Công đồng Vaticanô II. Hiến chế (Gaudium et Spes), • 22 dậy chúng ta rằng:

Chúa Kitô, Con Người Mới là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Col 1,15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.

Là Chiên vô tội Người tự ý đổ máu ra để cho chúng ta được sống, và chính trong Người Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và hòa giải giữa chúng ta với nhau cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỉ và tội lỗi, do đó mỗi người chúng ta đều có thể nói như Thánh Tông Đồ rằng: Con Thiên Chúa "đã yêu thương tôi, lại hiến thân cho tôi nữa" (Gal 2,20). Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Người nêu gương để chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng ta theo Người thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới.

Con người Kitô hữu khi trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em đông đúc, họ nhận được "những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần" (Rm 8,23)... Nhờ Thánh Thần làm "bảo chứng cho quyền thừa tự" (Eph 1,14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm cho tới khi "thân xác được cứu rỗi" (Rm 8,23): "Nếu Thánh Thần Chúa là Đấng đã khiến Chúa Giêsu từ kẻ chết sống lại cư ngụ trong anh em, chính Đấng đã khiến Chúa Giêsu Kitô từ kẻ chết sống lại đó cũng sẽ làm sống động thân thể hay hư nát của anh em nhờ Thánh Thần Ngài ở cùng anh em" (Rm 8,11)...

Đó là tính chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc Khải Kitô giáo soi sáng cho các tín hữu. Vậy nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào sự sống để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu lên trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha!
 
 

---------------------------------

 

TN 10-C48: Ý nghĩa của cuộc sống

 

Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham TN 10-C48


Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.

Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.

Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn": "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".

Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.

Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.

---------------------------------

 

TN 10-C49: THIÊN CHÚA THẤU HIỂU VÀ THẤU CẢM


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí Giáo sư ĐCV Xuân Lộc

 

Một trong những thái độ sống của nhiều người trong xã hội ngày nay đó là sự dửng dưng, người ta TN 10-C49


Một trong những thái độ sống của nhiều người trong xã hội ngày nay đó là sự dửng dưng, người ta có thể mất cả giờ để xúm lại xem một tai nạn, nhưng không mấy người nghĩ đến việc giúp đưa người bị nạn đến bệnh viện, người ta có thể mất cả buổi ngồi tại quán càphê hay quán nhậu nhưng lại không dám dành thời giờ cho người khác, người ta có thể theo và thông thạo tin tức khắp nơi trên thế giới, nhưng người ta lại không nhìn thấy người hàng xóm bên nhà hôm nay không có tiền đi bệnh viện…nhiều người mải mê với công việc riêng và những toan tính cá nhân, khiến cho họ trở nên dửng dưng vô cảm với nhau. Tình trạng này không chỉ xảy ra trong xã hội, mà người ta còn dửng dưng vô cảm ngay với những người thân trong gia đình của mình.

Lời Chúa của ngày Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta mang lấy trái tim của Chúa, đó là một trái tim một tâm hồn thấu hiểu và thấu cảm với đau khổ và thân phận của nhân loại. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một vị thần vô cảm dưng dưng trước nỗi đau của con người, mà qua Đức Giêsu Ngài thực sự là Đấng luôn luôn lắng nghe và luôn luôn thấu hiểu với những nhọc nhằn đau khổ chủa chúng ta.

Đau khổ là nỗi ám ảnh và là một tình trạng luôn đeo bám con người, và nó gắn liền với thân phận con người. Cuộc sống của con người dường như những ngày vui ít hơn ngày buồn, nước mắt nhiều hơn nụ cười, có khi niềm vui chưa qua thì nỗi buồn và đau khổ đã đến, mà đau khổ lại muôn màu muôn vẻ, người thì khổ vì gia đình, người thì khổ vì cuộc sống, có người đau khổ vì chính bản thân, khổ vì yêu, khổ vì đau yếu bênh tật, nhưng cái đau khổ tột cùng nhất của con người vẫn là cái chết, nó không chỉ khiến cho người đối diện với nó đau khổ sợ hãi, mà nó còn khiến cho người ở lại đau buồn tê tái.

Với những đau khổ tràn lan như thế, thì Thiên Chúa đã cho con người có một khả năng để có thể làm giảm bớt đau khổ của anh em đồng loại và có thể đem lại sức mạnh giúp anh em vượt qua đau khổ. Thế nhưng do sự ích kỷ, do lối sống dửng dưng, con người đã đánh mất khả năng đó, nên nhiều người đã để cho trái tim mình trở nên vô cảm, dửng dưng với đau khổ của đồng loại. Chính vì thế Thiên Chúa đã phải đến với con người để tái tạo lại cho con người một trái tim mới, một trái tim bằng thịt và biết yêu thương. Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa đã làm người để dạy chúng ta biết sống như Người, Người có một tâm hồn nhạy bén trước nỗi đau của con người, thấu cảm với nỗi đau tột cùng là sự chết. Câu chuyện thánh Luca thuật lại cho thấy có một sư khác biệt trong lần làm phép lạ cho con trai bà góa thành Naim sống lại, tất cả những lần phép lạ khác như làm cho Lazarô hoặc con gái ông trưởng hôi đường sống lai, Chúa Giêsu đều đòi những người thân phải tuyên xưng niềm tin của họ vào quyền năng của Thiên Chúa, nhưng lần này chỉ mới nhìn thấy cảnh mẹ góa con côi, tuổi già khóc mái đầu còn xanh, người mẹ góa đau đớn đi sau xác con, thì Chúa đã chạnh lòng thương và bảo bà: đừng khóc nữa.

Hoàn cảnh của bà góa này thật đáng thương, vì bà đã quá đau khổ, khổ vì mất chồng là nơi nương tựa, là chỗ dựa trong xã hội, bị coi thường và khinh bỉ, bây giờ bà lại mất đứa con là niềm hy vọng cuối cùng của bà, và là nơi bà tựa nương trong lúc tuổi già, chính vì mất tất cả như thế, nên có lẽ tiếng khóc của bà thảm thiết hơn và nó đã lọt vào tai, vào tim của chúa Giêsu khi Người đi ngang qua thành Naim. Bằng một mệnh lệnh: Hỡi thanh niên ta truyền cho con chỗi dây, và chàng trai liền ngồi lên và nói chuyện được. Thánh Luca còn kể tiếp: Đức Giêsu trao anh ta lại cho bà mẹ, cử chỉ này cho thấy, Chúa Giêsu đã trao tặng cho bà một niềm vui, một món quà quá lớn vượt sức tưởng tượng và còn gây ngạc nhiên cho bao người chung quanh, và họ nhận ra quyền năng Thiên Chúa ơ nơi Người và còn tin rằng với phép lạ này, thì đã đến giờ Thiên Chúa viếng thăm dân Người. Khi nhắc đến cụm từ giờ Thiên Chúa viếng thăm dân Người là nhắc đến cả một kỷ niệm của biến cố vượt qua, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người để giải thoát cả dân tộc Israel ra khỏi cảnh đau khổ của kiếp nô lệ bên Aicập, thì hôm nay Thiên Chúa viếng thăm dân Người để giải thoát nhân loại ra khỏi cảnh nô lệ của đau khổ và sư chết.

Sự kiện Chúa Giêsu cho con trai bà góa thành Naim đang khiêng đi chôn được sống lại, làm cho chúng ta nhớ đến câu chuyện Thiên Chúa luôn yêu thương và chạnh lòng trước những đau khổ của những con người thấp kém. Cựu Ước cũng đã ghi lại phép lạ Chúa cho con bà goá tại Sarepta được sống lại nhờ lời cầu xin của Elia. Elia đã cầu xin Thiên Chúa trả công cho bà vì bà góa này đã có một tấm lòng quảng đại nuôi sống Elia qua những năm hạn hán đói kém, và phép lạ này như là một sư trả ơn của vị tiên tri đối với lòng quảng đại của bà góa. Với Chúa Giêsu, phép lạ Ngài làm hoàn toàn xuất phát từ tình yêu, sự chạnh thương đến hoàn cảnh của bà góa Naim

Thánh Phaolô đã cảm nhận được tình yêu quảng đại của Thiên Chúa dành cho Ngài, và đã chia sẻ với cộng đoàn Galata về cảm nghiệm ấy: Tác giả cho thấy, Ngài cũng chỉ là một người như muôn người, và trước khi trở lại, Ngài đã sống một cuộc sống mù quáng đáng thương tội nghiệp, nhưng vì được Thiên Chúa thương nhìn đến và đã chon Ngài biến Ngài trở thành một tông đồ nhiệt thành rao giảng về tin Mừng của chúa Giêsu, và chính Thiên Chúa đã cho Ngài một tâm hồn mới một lòng nhiệt thành mới và một cuộc đời mới, điều đó cũng giống như một cuộc sống lại mới.

Thưa quý OBACE, Đức Giêsu luôn cảm thông luôn thấu hiểu thân phận con người chúng ta, vì Ngài cũng đã từng mang thân phận con người với bao giới hạn và với tất cả đau khổ của con người, Ngài không thể làm ngơ trước những giọt nước mắt, trước những nỗi lòng của con người, chính vì thế, chúng ta đừng ngai ngần, mà hãy đến với Ngài, trải lòng ra với Ngài và trình bảy cho Ngài những đau khổ thầm kín trong cuộc đời của mình, để Ngài an ủi nâng đỡ chúng ta. Hãy gặp gỡ Chúa Giêsu bằng những giờ phút cầu nguyện trong ngày, hãy dâng cho Chúa những lao khổ nhọc nhằn của cuộc sống, hãy tin tưởng phó thác những lo toan cho Chúa, Ngài sẽ đỡ đần cho chúng ta, Ngài cũng sẽ lấy tình yêu thương để nói với chúng ta rằng: Đừng khóc nữa, và Ngài sẽ trả lại cho chúng ta niềm vui.

Nhiều bậc cha mẹ đang âm thầm ngày đêm đau khổ vì những đứa con ngỗ nghịch, nó còn sống mà như đã chết, có những đứa con đang sống trong nhà, nhưng cha me không thể nói chuyện được với nó, không thể khuyên bảo được, có những cha mẹ đang đau khổ khi nhìn thấy những đứa con đang chết vì khói trắng, vì tiên nâu,... Đừng thất vọng, các bậc cha mẹ hãy chạy đến với Chúa Giêsu, hãy giải bày với Ngài, hãy để cho Ngài chỉ dạy quý vị biết phải sống và cư xử thế nào, vì Ngài luôn muốn lắng nghe và luôn thấu cảm với chúng ta. Ngày xưa Chúa chỉ nhìn thấy cảnh bà góa khóc lóc vật vã vì đứa con đã chết, thì chắc chắn Chúa cũng sẽ chạnh lòng trước sư thành tâm cầu xin của chúng ta.

Hởi thanh niên ta truyền cho con chỗi dậy, đó cũng là mệnh lênh và là lời mời gọi của Chúa dành cho các bạn trẻ, Chúa mời gọi các bạn hãy chỗi dây khỏi những tình trạng tội lỗi và chết chóc, chỗi dây để giũ bỏ khỏi mình nhữ đam mê, những lối sống lười biếng, dễ dãi buông thả, và chỗi dây khỏi những mặc cảm của quá khứ đang trói buộc bản thân để bắt đầu một cuộc sống mới với một tinh thần và một trái tim mới, trái tim biết rung cảm biết chia sẻ, biết yêu thương và phục vụ.

Xin Cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng trải lòng mình ra với Chúa khi vui cũng như khi buồn, luôn tin tửng cậy trông vào tình thương của Chúa, và xin Chúa ban tặng mỗi người trái tim biết yêu thương biết cảm thông như Chúa. Amen


---------------------------------

 

TN 10-C50: ĐỪNG CÓ VÔ CẢM


(Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật X Thường Niên năm C)

Bài viết: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


Thể hiện: Minh Quân

 

Chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Năm Thánh Lòng Thương Xót, Năm mà Đức Thánh TN 10-C50


Chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Năm Thánh Lòng Thương Xót, Năm mà Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta "xóa bỏ sự thờ ơ, vô cảm, đánh mất cảm xúc …" (x.Misericordiae Vultus số 15).

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: "Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót". Ngài cũng bày tỏ: "Tôi mong muốn biết bao rằng nơi nào Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và các cộng đoàn của chúng ta, nơi ấy sẽ trở thành những hải đảo thương xót giữa lòng đại dương vô cảm!"

Nhân loại đang sống trong một thế giới với các phương tiện hiện đại tân kỳ. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, người ta đang cố gắng tạo ra rô-bốt thật giống người hơn để giúp con người trong các việc nặng nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều, trong khi các nhà khoa học đang "vò đầu bứt tóc" không biết làm sao có thể tạo ra một con chíp "tình cảm" để khiến "những cỗ máy vô tình" biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.

Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình. Thấy Chân, Thiện,Mỹ mà không ngưỡng mộ. Gặp cảnh bi thương lại thờ ơ, không động lòng thương xót, không rung động tâm can. Giá trị đạo đức bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật và cá nhân chủ nghĩa, dẫn đến "bệnh vô cảm". Bệnh này thể hiện ở chỗ, không động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác, cũng như không hề phẫn nộ trước những tệ nạn xã hội đang xảy ra. Con người hầu như trở nên vô tình trước cuộc sống của người khác. Vậy đó còn là con người không, hay chỉ là xác khô của một cỗ máy?

Lời Chúa hôm nay vang lên như tiếng chuông báo động về lòng thương xót: "Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương xót: bà đừng khóc nữa"(Lc 7,13). Một Thiên Chúa động lòng thương xót khi thấy đám đông đi theo mình và đã làm phép lạ để nuôi sống nhiều ngàn người ăn. Chúa chạnh lòng thương chữa lành những người mang bệnh hoạn tật nguyền. Chúa động lòng thương khi thấy đứa con trai hoang đàng của mình trở về. Và trong đoạn Tin Mừng hôm, Chúa Giêsu đã cảm động khi thấy bà góa bên cạnh quan tài của con một đã chết. Cảm thông với nỗi đau khổ của người đàn bà góa,Chúa bảo bà: "Bà đừng khóc nữa"(Lc 7,13), làm cho bà đầy hy vọng.

Lòng thương xót vô điều kiện, bằng chứng là không ai xin Chúa và Chúa cũng không đòi hỏi lòng tin nơi người được chữa lành, hay nơi những người liên quan. Chỉ đơn thuần trên đường đi, Chúa Giêsu bà đang đi chôn cậu con trai yêu quí Chúađã ra tay phục sinh cho con của bà.

Chúa thấy hoàn cảnh của bà thật đáng thương. Đáng thương vì chồng bà mất sớm, khiến bà trở nênmẹ góa con côi. Đáng thương hơn nữa, vì giờ đây đứa con trai duy nhất của bà cũng bỏ bà ra đi vĩnh viễn. Bà lâm vào cảnh “Tre già phải khóc măng non”, và thành người bơ vơ không nơi nương tựa. Tất cả dường như sụp đổ, cuộc sống bà xem ra không còn hy vọng gì cả, bà chỉ có một niềm an ủi, một động lực để sống là đứa con thì nay niềm hy vọng cuối cùng đó cũng không còn nữa.

Sống ở trên đời, nhiều người trong chúng ta cũng muốn lau những giọt nước mắt của tha nhân và nói với họ rằng: "Đừng khócnữa" (Lc 7,13). Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay, các phương tiện truyền thông cho chúng ta thấy rõ những khổ đau của nhân loại, nhiều vô kể! Nếu có thể được, chúng ta sẽ nói với những người ấy rằng:"Hãy đứng dậy" (Lc 7,14). Nhưng rất tiếc chúng ta không phải là Thiên Chúa nên không thể! Tận đáy lòng, chúng muốn nói với họ: trong lúc bị đau khổ bủa vây, hãy nhìn lên Chúa Giêsu và xin Chúa giúp!

"Động lòng thương" với những người sầu khổ, là thái độ của những người nhận ra hình ảnh của mình nơi người khác thật [mong manh]. Chăm sóc vết thương của tha nhân là điều trị vết thương của chính mình. Lòng trắc ẩn trở thành một sự hiệp thông, cầu nối, thêu dệt tình bằng hữu.

Hãy "tiêu diệt" căn bệnh vô cảm một cách triệt để, hãy trao yêu thương và nhận thật nhiều yêu thương. Một xã hội vô cảm là một xã hội chết! Một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt của một cỗ máy vô tri, hẳn không ai muốn. Một nhà văn Nga đã từng nói: "Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương". Con người sống mà không có tình thương thì chẳng khác chi con vật, giốngcái xác không hồn, tồn tại giữa dòng đời một cách vô nghĩa, và sẽ chết dần mòn trong cô đơn, lạnh lẽo. Thế nên, chúng ta hãy tích cực chống lại "bệnh vô cảm", phải sống có tình thương, có trách nhiệm với cộng đồng và đặc biệt là phải mở lòng mình ra với cuộc sống.

Xin Chúa cất khỏi chúng ta trái tim chai cứng và ban tặng cho chúng ta trái tim mềm mại của Chúa, trái tim biết yêu thương, để chúng ta luôn biết thổn thức, biết chạnh lòng trước những hoàn cảnh, trước những mảnh đời đau khổ và bất hạnh để ra tay trợ giúp họ. Amen


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

---------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây