Suy Niệm Tin Mừng Lễ Thăng Thiên ABC-Bài 351-400 Chúa lên trời là đi dọn chỗ cho chúng ta

Thứ hai - 03/06/2019 04:54
Suy Niệm Tin Mừng Lễ Thăng Thiên ABC-Bài 351-400 Chúa lên trời là đi dọn chỗ cho chúng ta
Suy Niệm Tin Mừng Lễ Thăng Thiên ABC-Bài 351-400 Chúa lên trời là đi dọn chỗ cho chúng ta
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên ABC- Bài 351-400 Chúa lên trời là đi dọn chỗ cho chúng ta
--------------------------------------
Năm A:
Phúc Âm: Mt 28,16-20 Thầy đã được trao toan quyền trên tời dưới đất.

Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu
Khi ấy, mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giê-su đến gần, nói với các ông : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------------------------
Năm B:

Phúc Âm: Mc 16, 15-20 "Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo. - Ðó là lời Chúa.
-------------------------------------------------------------------------------
Năm C:
Phúc Âm: Lc 24, 46-53: "Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống". Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen. - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------
LênTrời ABC-351: Bình an và Vui mừng. 3
LênTrời ABC-352: Cùng ở lại trong thành. 4
LênTrời ABC-353: Chuyển sang một giai đoạn mới 7
LênTrời ABC-354: Chúa Nhật Chúa Lên Trời 19
LênTrời ABC-355: Ấn tín - Lm. Vũ Đình Tường. 20
LênTrời ABC-356: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 22
LênTrời ABC-357: Lễ Chúa Thăng Thiên. 26
LênTrời ABC-358: Rao giảng với Chúa Thánh Thần. 27
LênTrời ABC-359: Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc. 29
LênTrời ABC-360: Chúa Nhật Thăng Thiên. 31
LênTrời ABC-361: Chúa Thăng Thiên. 33
LênTrời ABC-362: Hãy là chứng nhân của Thầy. 34
LênTrời ABC-363: Chuyện ông Giuse. 38
LênTrời ABC-364: Đức Giêsu Phục Sinh lên trời 39
LênTrời ABC-365: Bàn tay giơ ra để chúc lành. 41
LênTrời ABC-366: Chúa lên trời – Fr Thomas Tuý. 43
LênTrời ABC-367: Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng hành động. 45
LênTrời ABC-368: Được sai đi truyền giáo thế chân các tông đồ. 46
LênTrời ABC-369: Tìm ý để dọn bài giảng về đề tài: Thiên Đàng. 47
LênTrời ABC-370: CUỘC TỪ BIỆT MANG CHIỀU KÍCH PHUNG5 VỤ(*) 51
LênTrời ABC-371: CÁC CON LÀ CHỨNG NHÂN.. 59
LênTrời ABC-372: CHÚA VỀ QUÊ.. 67
LênTrời ABC-373: MỪNG CHÚA LÊN TRỜI 69
LênTrời ABC-374: Nối kết giữa trời và đất 71
LênTrời ABC-375: Suy Niệm Tin Mừng: Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên Năm B.. 73
LênTrời ABC-376: NIỀM HI VỌNG VÀO ĐẤNG VỀ TRỜI 74
LênTrời ABC-377: CHÚA GIÊSU KYTÔ LÊN TRỜI MÀ VẪN Ở DƯỚI ĐẤT ?. 76
LênTrời ABC-378: PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG.. 79
LênTrời ABC-379: SỨ MẠNG PHỔ QUÁT.. 81
LênTrời ABC-380: Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông. 92
LênTrời ABC-381: THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ! 100
LênTrời ABC-382: HÃY NGẨNG ĐẦU NHÌN LÊN.. 103
LênTrời ABC-383: Cùng loan Tin Mừng với Chúa Giê-su. 106
LênTrời ABC-384: Suy niệm của Đgm. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên. 108
LênTrời ABC-385: Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha. 110
LênTrời ABC-386: THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ.. 113
LênTrời ABC-387: LỄ THĂNG THIÊN C.. 115
LênTrời ABC-388: Chúa Thăng Thiên. 123
LênTrời ABC-389: CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN_C.. 124
LênTrời ABC-390: NIỀM VUI TRONG CHÚA.. 127
LênTrời ABC-391: VỀ TRỜI 129
LênTrời ABC-392: KÌ CÔNG HIỂN HÁCH.. 131
LênTrời ABC-393: LÀM CHỨNG CHO CHÚA.. 133
LênTrời ABC-394: NIỀM VUI TỪ CHÚA KITÔ VINH HIỂN.. 135
LênTrời ABC-395: TỪ “LIKE” CHUYỂN THÀNH “AMEN”. 137
LênTrời ABC-396: Chúa Về Thiên Quốc Sáng Ngời Vinh Hiển. 141
LênTrời ABC-397: LỜI TRAO BAN VÀ HỨA HẸN.. 145
LênTrời ABC-398: ĐƯỜNG LÊN TRỜI 146
LênTrời ABC-399: NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG TA.. 147
LênTrời ABC-400: CHÚA GIÊ-SU VỀ TRỜI DỌN CHỖ CHO CHÚNG TA.. 150

-----------------------------------------

 

LênTrời ABC-351: Bình an và Vui mừng

 

Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các Tông Đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, LênTrời ABC-351


Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các Tông Đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhì

Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các Tông Đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.

Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuổng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.

Khi các Tông Đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng. Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.

Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh Tông Đồ nhiệt thành theo Chúa.

Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người ?

Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bậm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. ( Đường Hy Vọng, số 607 )

Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. ( Đường Hy Vọng, số 611 )

Lay Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.

Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

--------------------------------

 

LênTrời ABC-352: Cùng ở lại trong thành


(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Khi ngôn sứ Êlia sắp được về trời, thì môn đệ Êlisa khô
ng muốn xa thầy. Ông Êlia nói với ông Êlisa: “Xin anh ở lại đây, vì Đức Chúa sai thầy đến Bết Ên.” Nhưng ông Êlisa thưa: “Có Đức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy.” Rồi các ông đi xuống Bết Ên. Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Êlisa và nói: “Ông có biết không, hôm nay Đức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?” Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi!”

Hành trình của hai ông Êlia và Êlisa tiếp tục đến Giêricô, rồi Giôđan, sự kiện lập lại y như ở Bêt Ên. Ông Êlia bảo ông Êlisa ở lại, nhưng môn đệ Êlisa vẫn không chấp nhận, kể cả các anh em ngôn sứ sở tại cũng khuyên nhủ ông Êlisa hãy thuận theo.

Sau khi dẫn ông Êlisa qua sông Giođan, ông Êlia nói với ông Êlisa: “Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh, trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?” Ông Êlisa nói: ”Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” Ông Êlia đáp: “Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.” Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai ông ra. Và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc. Thấy thế, ông Êlisa kêu lên: “Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Israel!” Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. Ông lượm lấy áo choàng của ông Êlia rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Giôđan. (2V 2, 1-13)

 

Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên. “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các LênTrời ABC-352


Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên. “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” (Cv 1, 9)

Còn trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ một cách đơn sơ. Không cầu kỳ và bi thảm chia ly như ngôn sứ Êlia với đệ tử Êlisa. Tuy nhiên, cả hai cuộc về trời đều có nhiều điểm tương đồng và dị biệt đầy ý nghĩa.

Sau đó, Người dẫn các ông đến gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24, 50-53)

Chứng nhân & Đi gieo

Không âu sầu, đau đớn như ngôn sứ Êlisa tiễn biệt tiên tri Êlia, các tông đồ đã canh tân, lột xác thật sự, không còn u buồn, sầu não trước cảnh biệt ly, mà thật sự bình an, khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thăng thiên.

Không hoành tráng cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa đón ngôn sứ Êlia, mà chỉ có một đám mây mỏng manh, tựa như làn hương thơm quyện lấy Chúa Giêsu, cất Người lên trước mặt các tông đồ.

Ngày xưa, khi ra đi, Ngôn sứ Êlia thả lại tấm áo choàng, mà trước kia Êlia đã ném lên người Êlisa, để trao ơn gọi và sứ vụ, (1V 19, 19), thì nay Êlia muốn trao lại Êlisa sức mạnh và quyền năng của ngôn sứ.

Bây giờ, Chúa Giêsu chính thức ngỏ lời trao sứ vụ cụ thể cho các tông đồ, cũng như tín hữu Kitô hai nhiệm vụ chính yếu: Chứng nhân và Đi gieo Tin Mừng. Để trở thành chứng nhân đích thực phải dứt khoát canh tân, lột xác, thay đổi, chuyển hóa, để có thể sống đúng theo Lời Chúa, phản ảnh chính xác chân dung Người, hầu không làm méo mó, sai lệch hình ảnh của Người.

Trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô nhắc nhủ canh tân bản thân: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24)

Khi Kitô hữu đổi mới, trở về nguyên bản được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, sống công chính và thánh thiện, thì mới xứng đáng trở nên chứng nhân Đức Kitô, mới có thể nhân danh Người, đi rao giảng cho muôn dân. Nếu bản thân không canh tân, đổi mới, thì chẳng có thể thuyết phục được ai để kêu gọi sám hối, hầu được ơn tha tội. Như thế canh tân là điều kiện tiên quyết và thiết yếu của sứ vụ Đi gieo Tin Mừng.

Do vậy, tín hữu Kitô không chỉ canh tân bản thân để được hưởng ơn Cứu Độ, mà còn có bổn phận và nghĩa vụ với tha nhân, quen biết, xa lạ, hay thù địch, cùng đưa họ về với Lòng Thương Xót của Chúa. Đó chính là mệnh lệnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Bình an & Vui mừng

Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các tông đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.

Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các tông đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuổng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.

Khi các tông đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng. Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.

Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu,, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh tông đồ nhiệt thành theo Chúa.

Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người?

Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bậm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. (Đường Hy Vọng, số 607)

Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. (Đường Hy Vọng, số 611)

Lạy Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.

Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-353: Chuyển sang một giai đoạn mới


(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

"Hãy nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân"
(Lc 24,47)

I. Dẫn vào Thánh lễ

 

Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây LênTrời ABC-353


Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".

Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.

Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.

Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Cv 1,1-11

Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên:

Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.

Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.

Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.

2. Đáp ca: Tv 46

Thánh vịnh này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Thánh vịnh này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.

3. Bài đọc II: Êp 1,17-23

Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

4. Bài Tin Mừng: Lc 24,46-53

Bài Tin Mừng này có hai phần:

1. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49):

Sự cần thiết của Thập giá: đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.

Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.

Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.

2. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53): Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là

Ngài thay đổi tình trạng: không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.

Ngài cũng thay đổi cách hiện diện: từ nay Ngài không thường xuyên hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một cách vô hình dù chúng ta không thấy.

IV. Gợi ý giảng

1. Thời kỳ sứ mạng của Giáo Hội

Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca: Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập: tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói: việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.

Trước hết, sứ mạng ấy là gì? Thưa là sứ mạng "làm chứng", như lời Chúa Giêsu nói "Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy". Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.

Chúng ta làm chứng cho ai? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Ngài thực sự.

Chúng ta làm chứng thế nào? Sách Công vụ có ghi một chi tiết: Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ: "Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời". Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau:

Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động, hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.

Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đàng với Chúa Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay từ trần thế này.

Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu? Chúa Giêsu đã nói rõ: "Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới". Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.

Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay:

Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho người khác nữa.

Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đàng, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến những việc đời sau, hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay tại cuộc sống trần thế này.

Và ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc của chúng ta.

Đó chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa. Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.

2. Hiện diện và vắng mặt

Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.

Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói "đồng sàng, dị mộng" (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).

Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.

Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.

Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.

Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của họ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài trong vinh quang.

Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.

Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.

Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)

3. Loan Tin Mừng và học Tin Mừng

Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ: "Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem..." Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.

Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng?

Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v...

Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v

Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc “mù mà lại dắt mù», và kết quả là “cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14; Lc 6,39).

Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì “cho đi cái mình chẳng có»? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?

Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.

4. Cuộc sống chứng nhân (Lc 24,46-53)

Báo "Le Figaro" mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

Hỏi - Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Trả lời - Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

***

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân" (Lc 24,47). Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: "Tôi tự hào là một người tín hữu... Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn".

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: "Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người!"

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: "Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người".

***

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những ngư
ời chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc, năm C)

5. Sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội

Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa Giêsu đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).

Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).

1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời:

Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.:"...Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con" (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26; 15, 26-27).

Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: "Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần ".

Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).

Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).

Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế

2. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao:

Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội:" Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân...Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 17-20).

Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.

Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa:" Các con là muối ướp cho mọi người...Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được... ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời " (Mt 5,13-16)

Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)

6. Sứ mệnh của người Kitô hữu

Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:

"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con."

Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:

1. Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.

2. Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.

3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.

4. Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu Á Châu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa: "Anh em hãy đi đến với muôn dân", "Anh em hãy làm chứng cho Thầy". Chúc anh chị em bình an.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-354: Chúa Nhật Chúa Lên Trời

 

Hôm nay chúng ta long trọng mừng Chúa về Trời. Trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, là nơi chúng ta LênTrời ABC-354


Hôm nay chúng ta long trọng mừng Chúa về Trời. Trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, là nơi chúng ta sẽ về nên Trời còn là quê hương vĩnh cửu của chúng ta. Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa cho thấy rõ hơn, Chúa lên trời là vì chúng ta, cũng như tất cả những việc người làm là vì loài người chúng ta, như lời kinh tin kính chúng ta đọc: "vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ trời xuống thế..." rồi Chúa lên trời là vì loài người chúng ta như lời Chúa nói: "Con muốn Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con". Cũng từ đó mà chúng ta nhận ra được một sự thật căn bản là quê hương chúng ta ở trên Trời. Mà nếu quê hương chúng ta ở trên trời thì hiện giờ chúng ta đang trên đường đi về quê hương đó. Đường về trời còn dài và lắm khó khăn vậy mà chúng ta lại mang quá nhiều hành lý. Những hành lý nào không nhãn hiệu đời đời, sẽ làm cho bước chân chúng ta chùn lại, khó đi. Biết bao nhiêu thứ hành lý chúng ta không thể mang vào Nước Trời được vậy mà chúng ta cứ cố tranh dành với người này, người nọ. Thật uổng công.

Nhiều người cho rằng chết là hết. Nhưng với người kitô hữu thì khác, cái chết chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương nước trời. Tin vào Nước Trời là một thách đố lớn đối với chúng ta. Bởi vì ở nơi đó, chúng ta chưa từng có kinh nghiệm, chưa từng sống. Vì thế, Thánh Phaolô nói về Nước Trời như sau: "Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài. Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc nước trời. Đó là nơi vinh quang, đó là nơi ánh sáng, đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự Chúa." Muốn vào Nước Trời, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới. Niềm tin của người Kiô hữu được Chúa Giêsu mời gọi và hứa ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và khi chúc lành thì người rời khỏi các ông. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp các tông đồ hiểu được lời Chúa và làm cho các ông dám sống chứng nhân.

Chúa về trời còn cho chúng ta biết Chúa hoàn thành sứ mạng của mình và giờ đây, Người trao lại sứ mệnh đó cho chúng ta. Liệu chúng ta có ý thức được điều đó không? Chúng ta có làm cho người quanh ta hiểu rằng: Chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu chết rồi mới được tôn vinh. Vậy, vai trò của chúng ta giờ dây là sống chứng nhân cho Chúa Giêsu. Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiadi đoạn 41, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau: "Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo Hội sẽ Phúc Âm hoá thế giới, nói cách khác, bằng sự chứng tá sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu - chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, vể sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian - nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện.

Chúng ta hãy làm cho người quanh ta hiểu rằng quê thật của con người là Trời chứ không phải trần gian. Thiên Chúa trên trời, Ngài muốn chúng ta yêu thương giúp đỡ nhau tiến về quê Trời. Đó là chúng ta đã làm chứng cho Chúa Giêsu.

Xin Chúa chúng con ý thức rằng: Chúa về trời nhưng vẫn hiện diện vô hình với chúng con. Chúa về Trời để dọn chỗ cho chúng con, xin cho chúng con biết quý trọng những sự cao siêu trên Trời, là quê hương đích thật của chúng con mong tới, để từ nay chúng con chỉ sống cho Chúa mà thôi. Amen.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-355: Ấn tín - Lm. Vũ Đình Tường

 

Sản phẩm hàng hoá thường ghi chi tiết nơi sản xuất đồng thời đóng dấu hiệu cầu chứng. Thí dụ LênTrời ABC-355


Sản phẩm hàng hoá thường ghi chi tiết nơi sản xuất đồng thời đóng dấu hiệu cầu chứng. Thí dụ như ghi sản xuất tại Việtnam, hay Nhật Bản. Có những loại hàng sản xuất một nơi, đóng thùng một nẻo nên ghi thêm chi tiết hàng được công ti A nhập cảng và công ti B đóng thùng. Mục đích việc làm này mong giúp giới tiêu thụ không rơi vào trường hợp con buôn vì ham lợi đánh lận con đen, mua hàng giả dán nhãn thiệt thu lợi nhiều.

Kitô hữu cũng có nhãn hiệu không phải nhãn hiệu cầu chứng mà là ấn tín chứng thực. Mỗi người trong chúng ta là sản phẩm của Thiên Chúa, được Thiên Chúa sáng tạo, đóng ấn tín cho từng người. Đây không phải là điều bịa đặt mà là một thực tại có từ thời sáng tạo vũ trụ. Sách Sáng Thế Kí chương đầu 1, câu 27 trong phần lịch sử sáng tạo ghi rõ. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Người. Như thế chúng ta vào đời là thành quả yêu quí của Thiên Chúa yêu thương.

Trước khi cho ngươi thành hình người trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi. Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi. Jer 1,4

Hãy xem Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta Is 49,6

Dấu Ấn

Sản phẩm thường mang dấu hiệu cầu chứng thương mại, ghi rõ mã số cầu chứng. Kitô hữu không mang dấu hiệu cầu chứng thương mại mà là ấn tín đức tin. Ấn tín đức tin đó được ghi nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy với dấu thánh giá trên trán con người và được xức dầu thánh hiến để trở thành hàng thật, Kitô hữu thật trong Đức Kitô. Ấn tín thập giá là nhãn hiệu của mỗi Kitô hữu dưới danh hiệu chúng ta là con cái Thiên Chúa. Kitô hữu sống làm vinh danh thập giá là Kitô hữu chính hiệu. Đó là tiếp tục sứ mạng Đức Kitô đã bắt đầu như lời tiên báo của tiên tri Is 61,1-2

Thần Khí Chúa ngự trên tôi và đã xức dầu sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho kẻ giam cầm, phóng thích tù nhân và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma 8,17 còn cho biết là con cái Thiên Chúa nên được trở thành kẻ thừa tự, thừa hưởng tình yêu viên mãn và cuộc sống đời đời của Thiên Chúa.

Nhập cảng và đóng dấu

Chúng ta chính thức gia nhập Giáo Hội trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy nơi xứ tạo ta đang cư trú. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta được đóng gói, được đúc khuôn để trở thành người Kitô hữu tương lai. Xứ đạo địa phương dẫn dắt chúng ta trên con đường học đạo và hành đạo. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta cùng hội họp, cầu nguyện, lãnh nhận bí tích, cùng chia sẻ và nhận những đóng góp, hỗ trợ trong tinh thần Kitô hữu. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta kết hợp trong Chúa qua các buổi cùng cầu nguyện, cùng sinh hoạt. Vì thế có thể coi xứ đạo địa phương đóng góp rất lớn vào việc giúp thành hình và phát triển đức tin. Điều này ít nhiều gây hiểu lầm trong việc hành đạo. Kitô hữu quá cứng ngắc gắn bó với xứ đạo, nhà thờ, trung tâm gây nên chia rẽ trong cộng đoàn giáo xứ. Lí do chính là sống trong sợ hãi. Sợ hãi làm tâm hồn mất tự do. Có thể họ là người đạo đức, siêng năng, cần mẫn nhưng căn bản là đức tin chưa trưởng thành. Địa điểm thờ phượng là phương tiện cho chúng ta gặp gỡ, cầu nguyện. Viện ra đủ lí lẽ tranh đấu biến địa điểm thờ phượng thành nơi đấu lí có khác chi mượn chính đạo làm việc tà đạo. Tình trạng ngấm ngầm cạnh tranh về mọi phương diện giữa họ lẻ với giáo xứ không thể biện minh là làm việc đạo đức.

Đức Kitô về trời cho xác tín một điều quê hương chúng ta ở trên trời. Là công dân nước trời cần có tinh thần, coi trọng việc hướng về thiên quốc, luôn nhớ mọi sự trần gian đều qua đi. Vật thể cần cho cuộc sống, cần cho việc giữ đạo, Kitô hữu khôn ngoan dứt khoát từ bỏ bất cứ điều gì khi chúng trở thành vật cản bước tiến về thiên quốc, chắn tầm nhìn nước trời.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-356: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Con người qua mọi thời đại vẫn có những người không tin có đời sau, không tin có Thiên Đàng. Nhưng LênTrời ABC-356


Con người qua mọi thời đại vẫn có những người không tin có đời sau, không tin có Thiên Đàng. Nhưng với chúng ta là những người Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống đời sau, tin có Thiên Đàng. Chúng ta tuyên xưng niềm tin đó qua Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”. Vậy, Thiên Đàng là gì? Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng? Làm thế nào để được lên Thiên Đàng?

1. Thiên Đàng là gì?

Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, và đã hoàn toàn được thanh tẩy, sẽ sống muôn đời với Chúa Kitô. Họ sẽ mãi mãi giống như Thiên Chúa, vì họ thấy Ngài “Đúng như Ngài là” (1Ga 3,2), “Mặt giáp mặt”, không qua trung gian của một tạo vật nào hết. Sự sống hoàn hảo như thế với Ba Ngôi cực thánh, sự hiệp thông về sự sống và tình yêu với Chúa Ba Ngôi, với Trinh Nữ Maria, các Thiên thần và tất cả các Thánh, được gọi là “Thiên Đàng”. Như vậy, Thiên Đàng là cùng đích tối hậu và là sự thực hiện những khát vọng sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh viễn (x. GLHTCG số 1023-1024).

2. Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng?

“Kinh Thánh nói về Thiên Đàng qua những hình ảnh: sự sống, ánh sáng, bình an, bữa tiệc cưới, rượu của Nước Trời, nhà Cha, thành Giêrusalem trên trời, Thiên Đàng: Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe thấy, lòng trí con người chưa từng nghĩ tới, đó là tất cả những gì Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai yêu mến Ngài” (x. GLHTCG số 1027). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu bằng cách này hay cách khác đã nói với nhân loại về Thiên Đàng. Xin được đơn cử một số dẫn chứng sau đây: Ngài khẳng định: "Tôi tự trời mà xuống" (Ga 6,38); Ngài còn nói với người Do-Thái rằng: "Các ông bởi hạ giới; còn Tôi, Tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 8,23); Khi đưa các Tông đồ lên núi Taborê, Ngài đã hé mở vinh quang Thiên Đàng cho các Tông đồ thấy; Ngài kể dụ ngôn người phú hộ và ông Lazarô để nói lên số phận khác biệt giữa hai người là Thiên Đàng và Hoả Ngục (x. Lc 16, 19-31); Ngài còn nói: “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”(Ga 14,2); Đặc biệt, trên Thánh giá, Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43)…

Thánh Phaolô thì khẳng định: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng như sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Chính bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay, cũng cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu rời các Tông đồ mà lên trời (x. Cv 1,11; Lc 24, 51). Như vậy, chính những lời của Chúa Giêsu và các Tông đồ làm chứng cho chúng ta có Thiên Đàng.

3. Làm thế nào để được lên Thiên Đàng ?

Có nhiều cách để lên Thiên Đàng, xin được gợi ý một số cách thế sau đây:

Thứ nhất, xa tránh tội lỗi. Có những vị thánh sống trên đời này không hề phạm bất cứ một tội trọng nào, chẳng hạn: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu; Thánh Louis Gonzaga, Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse…Đúng như thánh vịnh 15 diễn tả: Đó là những “Kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã. Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI, lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15, 2-5).

Thứ hai, thống hối ăn năn tội. Bản chất của con người là yếu đuối, hay nghiêng chiều về sự dữ, nên con người thường sa ngã phạm tội. Vì thế, tội lỗi như là rào cản lớn nhất làm cho con người không đến được với Thiên Chúa. Đó cũng là rào cản không cho phép con người lên Thiên Đàng. Chính vì vậy, để đến với Chúa, để được lên Thiên Đàng, con người cần phải cố gắng xa tránh tội lỗi. Thánh Gioan khuyên dạy chúng ta “Đừng phạm tội nữa"(x. 1Ga 2,1). Bởi vì: "Ai phạm tội thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sỡ dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá công việc của ma quỷ"(1 Ga 3,8). Nhưng Ngài vẫn biết, con người không dễ gì mà làm được điều đó, vì bản tính con người yếu đuối dễ sa ngã phạm tội, nên Ngài khuyên chúng ta hãy đến với Bí tích Giao hoà để được khỏi tội: "Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng bảo trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính. Chính Đức Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta, mà còn vì tội lỗi cả thế gian nữa"( 1 Ga 2,1).

Thực tế cho chúng thấy có rất nhiều tội nhân, nhờ thống hối ăn năn trở về với Thiên Chúa nên đã được lên Thiên Đàng, các Ngài trở thành thánh, nghĩa là trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta noi theo, ví dụ: Kẻ trộm lành, Thánh Maria Mađalêna, Thánh Augustinô, thánh Phêrô...

Thứ ba, yêu thương anh em. Yêu thương là chu toàn lề luật. Yêu thương nhau là thực hiện lệnh truyền của Chúa Giêsu. Trong ngày phán xét chung, Chúa Giêsu, vị thẩm phán chí công sẽ dựa vào điều này như là tiêu chuẩn, là giấy thông hành để nhận hay không nhận chúng ta vào Thiên Đàng (x. Mt 25, 31- 46).

Bởi vì: Ai yêu thương thì đi trong ánh sáng (x. 1Ga 2,9), đi trong ánh sáng thì chắc chắn sẽ đến cùng Thiên Chúa là nguồn gốc của ánh sáng. Ánh sáng đó chính là Thiên Đàng. Còn ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối (x. 1Ga 2,9-10), đi trong bóng tối là đi theo đường lối của ma quỷ và chắc chắn sẽ không thể tìm thấy ánh sáng vĩnh cửu trên Thiên Đàng.

Yêu thương là dấu chỉ của sự sống thiêng liêng. "Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương nhau" (1 Ga 3,14).

Yêu thương là dấu chỉ của người môn đệ Chúa, chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó, Ngài nói: "Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau" (Ga 13,35).

Như vậy, ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa, và ở đâu có Thiên Chúa thì ở đó có Thiên Đàng. Trên Thiên Đàng người ta sống bằng Tình Yêu.

Khi nói về sự khác nhau ở Thiên Đàng và Hoả Ngục, người ta tưởng tượng câu chuyện sau đây: Cả Thiên Đàng và Hỏa Ngục đều dùng bữa với thức ăn như nhau trong một khung cảnh giống hệt nhau, trong đó mỗi người phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Trên Thiên Đàng mọi người không tự gắp thức ăn cho mình, mà lại gắp thức ăn cho người khác. Vì thế, ai cũng ăn được no. Còn những người trong hỏa ngục thì chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn đút vào miệng mình, mà đũa thì dài nên chẳng ai có thể đút được thứ gì vào miệng mình. Thế nên ai cũng đói, đến khi hết giờ ăn mà họ vẫn cứ đói, vì thế nên họ chỉ biết gây gỗ và căm thù nhau.

Thứ tư, chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Chúa Giêsu đã lên trời sau khi chu toàn bổn phận Chúa Cha trao phó. Mỗi người kitô hữu chúng ta muốn được lên Thiên Đàng cũng phải chu toàn bổn phận Chúa Giêsu trao phó. Đó chính là bổn phận loan báo Tin mừng. Trước khi về trời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,17). Như vậy, loan báo Tin Mừng là lệnh truyền. Lệnh truyền thì bắt buộc người thừa lệnh phải tuân giữ. Công đồng Vatican II khẳng định: “Loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô” (x. Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16) và đó cũng là bản chất của mỗi người kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy chu toàn bổn phận đó trong gia đình và nơi mọi môi trường chúng ta sống:

Vợ chồng loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá đời sống gia đình bằng cách chu toàn bổn phận yêu thương, chung thuỷ, sinh sản và giáo dục con cái. Giáo viên, học sinh, sinh viên loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá trường học. Công nhân viên chức, bác sỹ, y tá loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá công sở, bệnh viện…Tóm lại, dù ở đâu, trong cương vị nào chúng ta hãy trở thành những cuốn Tin Mừng sống để qua chúng ta mọi người nhận biết Chúa và được lãnh nhận ơn cứu độ. Bởi vì, Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).

Chúa Giêsu đã từng nói: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12). Đó chính là sức mạnh của sự gìn giữ mình vô tội. Đó là sức mạnh của sự hy sinh từ bỏ tính mê nết xấu tội lỗi. Đó là sức mạnh của yêu thương tha thứ. Đó là sức mạnh của việc chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Xin cho mỗi người chúng ta biết cố gắng gìn giữ mình khỏi mắc tội, nhưng nếu sa ngã phạm tội thì hãy cố gắng thống hối ăn năn, đồng thời biết sống yêu thương tha thứ và chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng để ngày sau được lên Thiên Đàng. Amen.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-357: Lễ Chúa Thăng Thiên

 

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa Giêsu về trời LênTrời ABC-357


Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa Giêsu về trời đem lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao, đó là chúng ta sẽ được về trời với Chúa sau khi hoàn tất cuộc đời trần gian này. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trong giây phút hiện tại hôm nay.

Có một sự thật mà con người thường không muốn nhắc tới hay không muốn bàn luận nhiều về nó. Tuy nhiên, cho dù con người muốn trốn tránh nhưng nó vẫn xảy ra đó là cái chết. Rất nhiều người muốn biết chết rồi sẽ đi đâu, sau cái chết sẽ như thế nào? Và không ai có thể trả lời được câu hỏi này ngoài một mình Chúa Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Trước sự bất lực của cái chết, và để cứu con người khỏi hư mất vì tội lỗi, Chúa Giêsu đã xuống thế làm người, Ngài sống trọn kiếp người như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua mọi vui buồn, đau khổ như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua cái chết nhưng Ngài đã sống lại.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ, để dạy dỗ, an ủi, và chuẩn bị cho các ông tiếp tục công việc của Ngài là làm cho mọi người nhận biết rằng: ngoài cuộc sống ở trần gian này họ còn có một quê hương vĩnh cữu trên trời. Biến cố Chúa Giêsu lên trời, giúp cho chúng ta phần nào hiểu được chết không phải là hết nhưng là sẽ bước vào cuộc sống bất diệt với Chúa, vì Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời. Ngài đi để chuẩn bị chỗ cho chúng ta, và chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Ngài sau khi cuộc đời trần thế chấm dứt.

Trong bài đọc 1, Sách Tông Đồ Công Vụ cho thấy, khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ cứ mãi mê ngắm nhìn vinh quang của Thầy, cho nên thiên thần đã nhắc nhở các ông "Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?". Hãy xuống núi và trở về với cuộc sống hiện tại. Hãy ra đi làm chứng cho những gì các ông vừa nhìn thấy. Chúa về trời không có nghĩa là Ngài bỏ con người mồ côi nhưng Ngài sẽ hiện diện với con người bằng cách khác. Ngài hiện diện qua các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, Ngài hiện diện qua lời dạy bảo của Hội Thánh và Ngài hiện diện qua cuộc sống của mỗi người chúng ta. Giờ đây Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian cho nên Ngài có thể hiện diện với chúng ta mọi nơi mọi lúc.

Việc Chúa Giêsu lên trời chứng tỏ công trình cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất. Từ nay Giáo Hội hay nói cách khác là mỗi người chúng ta phải tiếp tục công việc của Chúa đó là "hãy nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân". Có nhiều cách thế để chúng ta làm chứng cho Chúa, nhưng cách làm chứng hữu hiệu nhất là cách sống tốt đẹp của chúng ta. Làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống biết yêu thương, giúp đỡ, phục vụ người khác ngay trong chính gia đình, xóm làng của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta cũng phải lo làm ăn, sinh sống. Chúng ta cũng gặp đau khổ, thử thách như bao người. Tuy nhiên, điều đó không làm chúng ta mất đi niềm vui và hy vọng. Vì chúng ta biết được cùng đích của đời mình là hạnh phúc quê trời.

Người công giáo tuy sống dưới đất nhưng có bổn phận làm chứng cho những sự trên trời. Chúng ta cũng sống, cũng làm ăn, cũng vui chơi như bao người nhưng trong khi người khác họ sống, làm tất cả như chỉ có đời nay thôi thì chúng ta lại tận dụng đời này để hướng về đời sau. Cuộc sống đời này là quãng đường để đi vào đời sau. Chúng ta không thể về trời với Chúa khi vẫn mang trong mình những hận thù, đố kỵ, ghen ghét, chia rẽ. Hành trang bước vào đời sau không phải là tiền của, tài sản, mà đó là sự phục vụ, yêu thương, tha thứ mà chúng ta đã làm cho anh chị em mình.

Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta có một quê hương vĩnh cửu trên trời. Nơi đó sẽ không còn đau khổ và sự chết. Nơi đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa. Nhưng để đạt được điều đó ngay từ hôm nay, chúng ta phải ra sức làm cho cuộc sống hiện tại thấm đượm yêu thương. Cuộc sống cho dù có gặp khó khăn thử thách cũng không làm chúng ta thất vọng. Vì chúng ta tin rằng Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-358: Rao giảng với Chúa Thánh Thần

 

Có lẽ trong thời đại hôm nay, khi nói đến Nước Trời, đến kẻ chết sống lại thì người ta đã cho LênTrời ABC-358


Có lẽ trong thời đại hôm nay, khi nói đến Nước Trời, đến kẻ chết sống lại thì người ta đã cho là chuyện phù phiếm hay hoang đường. Vậy làm sao người ta có thể chấp nhận khi nói đến hai chữ Thăng Thiên, Chúa về trời họ lại càng cho đó là chuyện phù phiếm giả tạo, khó tin. Nguyên do chính là con người thời nay có khuynh hướng tục hóa, quan niệm về thế giới tự nó có thể giải thích được, mà không cần tới Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã trở nên thừa thải và choán chỗ vô ích. Quan niệm đó đưa con người tới chỗ bỏ qua Thiên Chúa, không đếm xỉa gì đến Thiên Chúa thậm chí còn chối bỏ Thiên Chúa, để nhìn nhận khả năng của con người. Đối với nhiều người thời này không phải là sự lựa chọn giữa Thiên Chúa và Satan, mà là giữa Thiên Chúa và cái không, rồi người ta đã chọn lấy cái không đó. Điều đáng nói là cái không đối lại với Thiên Chúa không phải là cái không trống rỗng, mà nó chứa tất cả các nguồn lợi phong phú của Thế giới vật chất, tiến bộ, phát triển và hưởng thụ.

Vì thế, hơn hai ngàn năn trước, khi về trời Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ công việc "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội, chính anh em là chứng nhân về những điều này". Thật ra sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết, vá đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố rồi biến cố ấy thành lịch sử, rồi lịch sử ấy không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng tường thuật lại những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh của một vi Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy chính là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về biến cố ấy. Đó là làm chứng về lời nói, bằng đời sống, và có khi phải bằng máu nữa. Chính điều đó đã chỉ cho họ thấy chính Đức Giêsu Phục Sinh đã từ Thiên chúa mà đến bây giờ lại về với Thiên Chúa. Chúng ta không còn mặt gặp mặt nữa. Biến cố thăng thiên cũng nhằm ý nghĩa chỉ rõ đích điểm của đời người là sinh ra trong Thiên Chúa, và chúng ta cũng sẽ được trở về với Người.

Hơn nữa, để việc loan báo nên sống động và có kết quả tốt đẹp, con người phải biết đón nhận sức mạnh của Thánh Thần chúa "Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa", chính Chúa Thánh Linh là chứng ta đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Trước khi loan báo Tin Mừng cho người khác chúng ta phải để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn từ bên trong con người của mình, để mỗi ngày mình càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Vì chúng ta không thể rao giảng và làm chứng về Đức Kitô nếu bản thân mình không phản ánh trung thực hình ảnh của Đức Kitô, gương mặt của Đức Kitô chỉ có thể trở nên sống động trong ta nhờ ân sủng và hoạt động của Chúa Thánh Thần.

Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng: "sẽ không bao giờ có phúc âm hóa được, nếu không có tác động của Thánh Thần"(LBTM số 75). Thật vậy chính Thánh Thần đã khiến Phêrô Phaolô và các tông đồ của Đức Giêsu mạnh dan rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, cũng chính Ngài biến đổi và soi sáng cho các Kitô hữu hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và hiểu được mầu nhiệm con người Đức Giêsu. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta có chịu đón nhận và để cho Ngài hoạt động trong mình không? Cho dù ngày nay với những phương tiện hiện đại người ta cũng đã biết tận dụng và đưa vào việc truyền giáo những kỹ thuật rất hữu ích. Tuy nhiên những kỹ thuật dù hoàn hảo đến đâu, cũng không thể thay thế được tác động âm thầm nhưng vô cùng hữu hiệu của Thần Khí, vì không có Ngài chúng ta không thể làm gì được.

Lạy Chúa, xưa cũng như nay, công việc truyền giáo luôn gặp nhiều trở ngại, nhiều khó khăn, nhiều phức tạp. Xin cho con biết chấp nhận những khó khăn đó cùng với Chúa Thánh Thần để công việc loan báo ngày càng tốt đẹp hơn. Amen.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-359: Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc.


(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

 

Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau: LênTrời ABC-359


Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

***

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.

Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-360: Chúa Nhật Thăng Thiên

 

Hôm nay, Giáo hội mừng cách trọng thể lễ Thăng Thiên. Chúa Giêsu về trời vinh quang sau khi LênTrời ABC-360


Hôm nay, Giáo hội mừng cách trọng thể lễ Thăng Thiên. Chúa Giêsu về trời vinh quang sau khi chịu khổ hình đau đớn theo ý Chúa Cha. Còn phần chúng ta, trước những khó khăn hiện tại trong bổn phận của mình, chúng ta phải làm gì để mai này về trời hưởng vinh quang với Chúa?

Trong đoạn Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Lc kể lại một lần hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Người từ cỏi chết sống lại. Lần này, Chúa Giêsu ăn uống trước mặt các môn đệ và giải thích Kinh Thánh cho các ông hiểu. Đoạn Kinh Thánh Chúa Giêsu đang giải thích nhắc lại mệnh lệnh loan truyền Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Trong mệnh lệnh này, chúng ta thấy có một điểm rất đặc biệt, đó là những đòi hỏi về phương cách rao giảng: không những chỉ bằng lời mà chính các tông đồ phải là chứng nhân về những điều rao giảng. Nghĩa là đời sống của các tông đồ phải giống như Chúa Giêsu: biết chấp nhận những khó khăn trong hành trình tông đồ trong sự gắn bó với Thiên Chúa. Những mong muốn của Chúa Giêsu đối với các tông đồ xưa cũng là lời dạy dành cho chúng ta hôm nay: muốn được về trời hưởng phúc thiên đàng với Chúa thì trong đời sống đạo của mình, chúng ta phải chấp nhận những khó khăn trong bổn phận hằng ngày với niềm tin tưởng gắn bó vào Thiên Chúa.

Có những khó khăn, đau khổ xảy đến người ta không chấp nhận nổi: Năm 2004, lúc đó, con còn đang ở thành phố học, ở trọ nhà chị bà con xa. Chị sinh được hai con. Con gái lớn tên là Trang. Cả gia đình chị lên thành phố gần được chục năm, lúc đó, Trang mới học lớp 5. Bây giờ, Trang đã hai mươi tuổi. Nó đẹp gái lắm, quen và lấy một anh tài xế đã có vợ rồi nhưng ly dị. Anh này tướng tá cũng lịch sự. Không hiểu vì lý do gì, vợ chồng lục đục, rồi chia tay. Hiện tại, Trang bắt đầu kiếm công việc làm, đi làm, quen nhiều bạn, anh kia ghen. Một đêm nọ, trên đường đi làm về, anh chồng cũ chờ sẵn, tạt một ca axít loãng lên người Trang. Người ta đưa em đi chợ rẫy. Kết quả thẩm định của bác sĩ, mù hai mắt, mặt mày trở nên dị dạng khác thường. Cha mẹ Trang ngày đêm túc trực trong bệnh viện, thay phiên nhau về nhà nghĩ ngơi. Lúc chị về với vẻ mặt buồn bẻ, bơ phờ, Con hỏi thăm, chị mới tâm sự: bây giờ, chị khổ quá em ơi, chị không còn biết cầu nguyện thế nào nữa, chị muốn buông xuôi tất cả.

Đau khổ như chị trong câu chuyện chắc ít người gặp qua nhưng khó khăn trong đời sống gia đình, thì chúng ta đã từng cảm nếm. Đối với mấy ông, khó khăn hệ tại ở việc tìm chén cơm cho gia đình, thời buổi này làm ăn đâu phải dễ, phải buôn ba vất vả, phải tính toán chi li, phải đổ mồ hôi, chịu nắng noi cả ngày. Lại thêm khó khăn đến từ phía gia đình, có ông than sau cái số mình hẩm hiu, đi làm quần quật cả ngày mệt thở không ra hơi, vậy mà về nhà cơm nước đâu hỏng thấy, nhà cửa thì dơ bẩn, con cái thì hôi hám, hỏng biết ở nhà bả làm cái gì? Mới quen, bả cũng ít nói, trông vẻ thuỳ mị lắm vậy mà bây giờ lúc đọc báo, bả cũng cằn nhằn, lúc coi ty vy, xem đá bóng, bả cũng nói, nói toàn những chuyện nhậu nhẹt, lương bổng của mình, nghe nhức đầu quá. Thêm vào đó, con cái không hiểu nổi khổ tâm lao nhọc của cha, chỉ có cái chuyện học mà cũng chẳng nên thân, tháng nào kết quả học tập cũng kém. Trong khi đó, các bà thì lại than các ông, lúc mới quen, ổng hiền lành, còn bây giờ, mới nói có mấy câu là nổi nóng, lớn tiếng. Vợ chồng mà la mắng như con ở làm sao chịu nổi. Hồi xưa mới yêu nhau, ho một tiếng là ảnh lấy dầu cho xức, mua thuốc cho uống còn bây giờ ho muốn bể phổi luôn mà ảnh cứ tỉnh bơ đọc báo. Nhà cửa, con cái, ăn uống, bao nhiêu việc phải chi tiêu, vậy mà đưa lương tuần nào cũng thiếu, làm sao xoay sở, như vậy mà sao không cằn nhằn được. Có chị khác thì bảo: ảnh cũng đi làm, tôi cũng đi làm, vậy thì việc cơm nước, con cái phải cưa đôi, để một mình tôi gánh, sức nào chịu nổi, vô tâm vô tình với tôi rồi có ngày sẽ phải hối hận đó nhe. Chưa kể những gánh nặng chất lên vai chị lúc con bệnh, con đau, khi gặp phải anh chồng không biết lo, tối ngày cứ rượu chè, cờ bạc, gặp phải bà mẹ chồng không biết cảm thông, suốt ngày cứ tìm những chuyện nhỏ để bắt lỗi, chì chiết làm khổ con dâu của mình.

Trong những khổ đau của cuộc khổ nạn, CG chấp nhận theo ý Chúa Cha, luôn gắn kết với Chúa Cha qua cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta trong những khó khăn của cuộc sống cơm áo gạo tiền, khó khăn trong bổn phận làm chồng, làm vợ, hãy biết chấp nhận và giữ vững đức tin, đừng bỏ Chúa giữa đường. Càng đau khổ, anh chị hãy càng đến với Chúa nhiều hơn. Chồng là chỗ dựa đức tin của gia đình, khi bản thân anh gặp khó gia đình gặp chuyện buồn phiền, thì chính anh phải là người đầu tiên chạy đến với Chúa. Chạy đến với Chúa để nâng đỡ đức tin của vợ và làm gương sáng dạy con sống đạo. Còn các bà, Chúa cho sở trường nói gì thì chồng nghe nấy: khi khó khăn, đêm về, ở bên chồng, chị hãy thủ thỉ vào tai chồng, dù gia đình mình gặp khó khăn thế nào cũng đừng bỏ Chúa nhe anh! Trực giác người phụ nữ rất nhạy, khi thấy chồng buồn phiền do công việc, hoặc đang buồn chị, chị hãy chạy đến với Chúa để cầu nguyện cho chồng. Người phụ nữ được ví là trái tim, là hơi ấm của gia đình. Chị chỉ có thể là trái tim, là hơi ấm cho gia đình nếu đời chị biết gắn kết mật thiết với trái tim tình yêu của Thiên Chúa trong cầu nguyện, với trái tim dịu dàng của người nữ nơi chuỗi mân côi. Khi lấy nhau, anh chị nên nhớ mình không chỉ có trách nhiệm dắt dìu nhau trong cuộc sống trần thế mà quan trọng hơn, vợ chồng phải có trách nhiệm dắt dìu nhau tiến về quê trời vĩnh cửu.

Thay cho lời kết, cầu chúc cho mỗi người chúng ta trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, biết giúp nhau vững tin vào Chúa, để dìu nhau về đến quê trời bình an. Amen.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-361: Chúa Thăng Thiên

 

Ngày 12.8.1985, tai nạn máy bay Boeing 747 của hãng hàng không Nhật làm cho 520 người thiệt LênTrời ABC-361


Ngày 12.8.1985, tai nạn máy bay Boeing 747 của hãng hàng không Nhật làm cho 520 người thiệt mạng. Thật là một tai nạn khủng khiếp!... Lúc máy bay sắp rớt, mọi người trên đó đều biết chắc mình phải chết, nên vội vàng ghi lại lời trối cuối cùng của mình, để từ biệt mọi người thân yêu.

Ông Kawaguchi viết cho vợ:

- Vĩnh biệt em! Nhớ chăm sóc các con!

Với ba đứa con, ông trối:

- Các con hãy sống thương yêu hoà thuận nhau. Cố gắng làm việc và giúp đỡ mẹ. (Theo "Chuyện hay ý đẹp").

Người sắp chết bao giờ cũng trối trăn lại với những người thân yêu, căn dặn họ mọi điều, nhất là uỷ thác cho họ những việc làm còn dang dở... để họ ở lại thực hiện cho hoàn tất.

Khi Đức Giêsu chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình nơi trần gian, chương trình cứu độ chưa hoàn thành, thế giới còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa biết ơn cứu độ. Chúa Giêsu biết rõ là loài người rất cần ơn cứu độ, cần được hạnh phúc nên Ngài đã uỷ thác sứ mạng cứu thế này cho các môn đệ của mình: "anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em..." (x. Mt 28, 18; Lc 24,46)

Tuy nhiên, bản chất con người là yếu đuối, không thể tự mình đảm đương được công việc lớn lao như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh để Ngài dẫn dắt, an ủi và đồng hành với các môn đệ trong việc rao giảng và làm chứng cho Sự Thật, cho Tin mừng Chúa Phục sinh.

Bổn phận của chúng ta, những người môn đệ Chúa là làm chứng cho Chúa bằng cả cuộc sống của mình. Như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và sẵn sàng thí mạng để cứu chúng ta, thì đến lượt chúng ta cũng sẵn sàng làm chứng cho Chúa. Tất cả mọi lời nói, công việc chúng ta làm thì hãy làm vì yêu mến Chúa, vì muốn đáp trả tình thương của Chúa, muốn làm đẹp lòng Chúa. Muốn vậy, chúng ta phải theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thể tách lìa việc sống đạo với cuộc sống hàng ngày. Có nhiều người chỉ giữ đạo trong nhà thờ, chỉ theo Chúa trong nhà thờ, còn những lúc khác thì họ không nhớ tới Chúa! Có người nói rằng: những lúc khác họ chạy theo tiền bạc, danh, tước.

Vì vậy, Chúa Giêsu có lần nhắc bảo các môn đệ: "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."(Lc 16, 13). Nếu chúng ta là môn đệ của Chúa thì chỉ tôn thờ Chúa mà thôi. Còn tiền, chức, danh chỉ là phương tiện. Nếu chúng ta sử dụng phương tiện đúng mục đích thì có công, còn sử dụng sai thì có lỗi với Chúa. Chúa ban cho các phương tiện để chúng ta làm chứng cho chân lý, cho sự thật về hạnh phúc đời sau. Chúng ta sử dụng các phương tiện đó để làm tròn bổn phận của mình được giao phó, nhưng chúng ta không quá lo tìm kiếm chúng mà xao lãng bổn phận với Chúa và tha nhân.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết hướng lòng về Chúa trong khi chu toàn các bổn phận nơi trần gian để mai sau được triều thiên vinh quang bất diệt trên quê Trời.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-362: Hãy là chứng nhân của Thầy


(Suy niệm của Lm. Giuse Vinc. Ngọc Biển)

 

Toàn Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, tức là lên trời. Việc Chúa lên trời, Ngài đã LênTrời ABC-362


Toàn Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, tức là lên trời. Việc Chúa lên trời, Ngài đã chấm dứt cuộc đời trần thế theo ý muốn của Chúa Cha.

Vậy, đâu là ý nghĩa của việc Chúa lên trời? Ngài lên trời có chấm dứt sự hiện diện trong Giáo Hội hay không? Trước khi lên trời, Chúa đã để lại cho Giáo Hội sứ mạng gì? Và, mỗi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng Thiên Quốc ra sao?

1. Ý nghĩa của việc Chúa lên trời

Sự kiện Chúa Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12,26).

Việc Chúa Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần gian. Nhưng qua đó, Chúa Giêsu hiện diện cách phổ quát: "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội, trong con người của các chứng nhân. Vì thế, Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh.

2. Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời

Chúa Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Chúa Giêsu:"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15), để "muôn dân trở thành môn đệ"(Mt 28,19) phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết.

Trước khi Chúa Giêsu về trời, về với Đấng là Cha đã sai mình đến trần gian, Ngài đã truyền lệnh cho các tông đồ: "Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian" (Ga 17,18; x. 20,21). Anh em hãy ra đi và loan báo về: "Đức Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem" (Lc 24,46-47).

Khi Chúa đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh. Vào Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Vào Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời.

Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em. Một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất. Một Giáo Hội công bằng văn minh.

Khi Ngài lên trời, Ngài đã giơ tay chúc lành cho các Tông đồ. Hành vi giơ tay được hiểu như là cử chỉ của sự trao ban bình an và đồng thời cũng là biểu hiện sự tin tưởng và trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các Tông đồ.

Sứ mạng mà các ông lãnh nhận và tiếp nối nơi Thầy của mình không phải là một công việc dễ dàng. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: "Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói" (Lc 10,3). Vì thế, "anh em hãy ở khôn như rắn và đơn sơ như chim bồ câu" (Mc 10,16b).

Khó khăn! Đúng vậy. Chẳng bao lâu, các ông đã bị vua Chúa, quan quyền truy nã vì loan báo về danh Chúa Giêsu... Vì thế, các Tông đồ phải chạy trốn hết thành này sang thành nọ. Hơn bao giờ hết, các ông thấm thía chân lý của hạt lúa gieo vào lòng đất. Chân lý ấy đã được Thầy của mình sống cách triệt để và mời gọi mình bước theo: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga 12,24). Hiểu được điều đó, các ông đã không sợ bất cứ ai hay một thế lực nào làm cản trở công cuộc loan báo Tin Mừng. Quả thế, Thánh Phaolô đã nói: "Về bất cứ điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh em: đó là dấu chỉ cho thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều ấy là ân huệ Thiên Chúa ban. Quả thế, nhờ Đức Kitô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục" (Pl 1,28-30). Cuối cùng, các ông đã không thể ngồi yên khi biết bao con người chưa nhận biết Chúa, nên lại một lần nữa, Phaolô diễn tả tâm trạng đó như sau: "Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng" (1 Cr 9,16).

3. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta

Tiếp nối các Tông đồ, có biết bao nhiêu người đã lên đường, đến những nơi heo hút treo leo. Đã biết bao vị thừa sai bỏ lại mạng sống nơi rừng thiêng nước độc. Miễn sao Tin mừng được loan báo. Quả thật: việc truyền giáo hay loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô (x. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16). Sứ mạng ấy bắt nguồn từ việc Chúa Cha đã trao cho Con của Ngài là Chúa Giêsu, và chính Ngài cũng trao phó cho các Tông đồ và cho mỗi chúng ta: "Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian" (Ga 17,18; x. 20,21).

Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Ngài. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy ra khỏi sự ổn định, an toàn của bản thân và hãy lên đường loan báo Tin Mừng, dẫu biết rằng, công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: "Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét" (Lc 21,17). Và "hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng "... trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).

Lời loan báo của chúng ta vào Đức Giêsu phục sinh quả là một hành trình, đòi hỏi chúng ta phải là những người đã cảm nghiệm được về Đấng mà chúng ta loan báo: "Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24,48). Không ai lại đi loan báo về một người mà chúng ta không biết và không tin; hay loan báo vào những thời điểm hay một nhóm người nhất định trong một không gian cụ thể, mà là: "Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất" (x. Cv 1,8). Trong hành trình loan báo đó, dù gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng vào sự bảo trở của Đấng mà Chúa Giêsu đã ban xuống trên các Tông đồ khi xưa: "Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem và khắp cùng thế giới" (x. Cv 1,8).

Chúng ta mừng lễ Chúa lên trời, cũng là lúc một lần nữa chúng ta xác định về vai trò ngôn sứ và chứng nhân của mỗi chúng ta. Mong thay lời bài hát "Đẹp Thay" của Linh mục Nhạc sĩ Mi Trầm lại một lần nữa được vang lên trên môi miệng những ngôn sứ của Lời trong xã hội hôm nay: Đẹp thay những bước chân gieo mầm cứu rỗi. Đẹp thay những bước chân rảo khắp nẻo đường. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng. Ai gieo trong nước mắt, sẽ về trong tiếng cười. Ôi đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới, loan tình thương Chúa Trời, loan niềm vuii cứu đời, cho mọi người và mọi nơi.

Để kết thúc, xin cũng mượn lời của Đức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng của ngài, khi nói về những khó khăn mà người môn đệ của Chúa Giêsu sẽ phải chịu trên con đường loan báo Tin Mừng; đồng thời cũng xác tín mạnh mẽ những ân ban cho những ai trung thành đến cùng trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ngài nói: "Con run sợ: vấp ngã, khó khăn, hiểu lầm, công kích, sỉ nhục, tử hình... Con quên Phúc Âm sao? Chúa Giêsu đã chịu tất cả. Cứ theo Ngài con sẽ Phục Sinh" (ĐHV số 44).

Lạy Chúa, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã chúc lành cho các Tông đồ và cũng cho tất cả mỗi người chúng con là những người tin Chúa; đồng thời Chúa cũng trao phó cho các ngài và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Chúa trong lòng xã hội hôm nay dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-363: Chuyện ông Giuse

 

Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn LênTrời ABC-363


Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn có một tình thương dịu dàng với đứa con áp út tên Giuse. Những người con khác ganh tỵ với Giuse và quyết định giết anh. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng, họ đổi ý. Thay vì giết em, họ bán em cho những thương gia đi ngang qua đó, họ nói với cha họ rằng người em đã bị thú giết chết.

Giuse bị xích lại và đưa sang Ai Cập, ở đó ông được bán như một người nô lệ. Ông có một đời sống cùng cực, hèn kém. Dsư5 việc còn tệ hơn, khi ông bị vu khống và bị giam vào ngục tối. Dù xung quanh là những tội phạm cứng lòng, ông vẫn tiếp tục tín nhiệm vào Thiên Chúa và sống một đời sống tốt. Ông cũng làm bạn với các tội phạm. Cuối cùng ông làm rạng danh ông và được tha.

Lúc đó, như thấy trước nạn đói khủng khiếp sẽ đến, ông đã cảnh báo nhà vua phải truyền lệnh cho dân tiết kiệm ngũ cốc. Nhà vua không chỉ theo lời khuyên của ông mà còn đặt ông làm quản lý công việc. Giuse đã hoàn thành công việc một cách xuất sắc.

Nạn đói đã xảy ra như dự kiến và dân chúng có thể lấy lúa gạo tích trữ ra dùng. Nhưng trong các nước láng giềng, tình trạng trở nên tồi tệ. Dân chúng các nước kéo nhau về Ai Cập để tìm mua ngũ cốc. Và nhà vua nói với họ: “Hãy đến gặp Giuse”.

Một ngày kia, anh em của Giuse đã đến Ai Cập để mua ngũ cốc. Khi họ nhận ra ông họ run sợ. Nhưng thay vì trả thù, Giuse đã tiếp đãi tử tế, và cho họ đầy đủ ngũ cốc mà họ cần. Ông nói với họ hãy trở về nhà và đưa cha họ đi theo họ trở lại Ai Cập cho ông gặp.

Người cha già rất đỗi vui mừng khi nghe nói rằng đứa con trai thân yêu của ông vẫn còn sống. Các anh của Giuse đã phạm phải một hành động ác độc chống lại ông. Nhưng qua đó, điều tốt lành đã đến với ông. Ông có thể cứu các anh mình khỏi nạn đói và làm cho cho cả nhà được đoàn tụ.

Câu chuyện của Giuse là một trong những câu chuyện cao cả nhất của Kinh Thánh. Ông Giuse là hình ảnh của Đức Giêsu, Chúa Con yêu dấu của Chúa Cha, đã bị anh em Người bán đi, bị giết chết, nhưng giờ đây đã được Chúa Cha cho sống lại và đặt Người ở bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Từ vị trí cao trọng ấy, Người cứu chuộc chúng ta, anh chị em của Người khỏi tội lỗi và cái chết đời đời. Và Người tìm kiếm để quy tụ mọi thành phần còn tản lạc của gia đình Thiên Chúa.

Ngày hôm nay chúng ta cử hành sự thăng thiên của Đức Giêsu. Người lên trờ ngự bên hữu Chúa Cha. Đây là một ngày vui vẻ. Nhưng Người đã cho chúng ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Không phải là phân phát ngũ cốc, nhưng là rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-364: Đức Giêsu Phục Sinh lên trời


(Suy niệm của Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)

 

Bốn mươi ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Sách công vụ LênTrời ABC-364


Bốn mươi ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Sách công vụ tông đồ (Cv.1, 9), tin mừng theo thánh Luca (Lc.24, 51), tin mừng theo thánh Máccô (Mc.16, 19) nói đức Giêsu lên trời. Sách công vụ tông đồ cho thấy Đức Giêsu dẫn các môn đệ ra núi cây dầu, rồi Ngài lên trời trước mắt các ông, và có đám mây che Ngài khiến các ông không còn thấy được Ngài nữa.

Tin mừng theo thánh Matthêu (Mt.28, 20) không nói Đức Giêsu lên trời, nhưng nói Ngài ở cùng con người cho đến tận thế. Liệu có mâu thuẫn không, khi một tin mừng nói Ngài lên trời, còn tin mừng khác nói Ngài ở lại? Lên trời, là một từ ngữ khá hàm hồ và rất là chủ quan. Trời chỉ khoảng không phía trên đầu tôi, nhưng nếu một người ở bên kia trái cầu, nghĩa là người đó ở cách tôi 12 tiếng đồng hồ, thì trời của họ lại là phía dưới chân tôi. Như vậy, lên trời là lên phía trên đầu một người hay xuống phía chân của người đó? Khi nhìn vấn đề như vậy, dường như người ta thấy không được hiểu “lên trời” theo nghĩa đen của từ ngữ.

Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là một cụm từ dùng để chỉ việc Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có tay phải tay trái như con người. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là cách diễn tả nhân hình về thực tại siêu hình. Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ngài và Cha là một. Chỉ khi người ta nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, người ta mới thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như thế nào! Khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, các Kitô hữu mới kinh ngạc và thán phục trước tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với con người khi biết Đức Giêsu đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu ở Bêlem và đã phải chết ô nhục trên thập giá.

Giữa hai cụm từ “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” và “Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa,” người ta thấy cụm từ “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” được hiểu theo nghĩa thông thường hơn. Nếu Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với con người, vậy trong khoảng thời gian ông Thomas không tin Ngài phục sinh, thì Đức Giêsu Phục Sinh ở đâu? Đức Giêsu Phục Sinh vẫn ở đó với các tông đồ, vẫn ở đó với ông Thomas nhưng Ngài không cho ông Thomas thấy Ngài thôi. Cũng tương tự vậy, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta dù chúng ta không thấy Ngài.

Khi chúng ta mừng lễ Chúa Phục Sinh lên trời, thì đúng ra chúng ta phải ý thức và mừng Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện với chúng ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời thầy, Cha thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga.14, 23). Thiên Chúa ở với con người, đây là tin vui tin mừng, vì đó cũng là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Vì những người yêu thương nhau thì muốn ở gần nhau, Thiên Chúa muốn ở với con người, nghĩa là, Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người.

“Thầy đi thì ích lợi hơn cho anh em, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng an ủi sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Ngài đến với anh em” (Ga.16, 7). Thánh Thần sẽ được Thiên Chúa Cha sai đến (Ga.14, 16) và cũng được Đức Giêsu sai đến (Ga.15, 26; 16, 7) với con người. Thánh Thần sẽ trợ giúp con người trong mọi chuyện, mọi nơi và mọi lúc. Thánh Thần sẽ dạy chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Cũng chính Thánh Thần sẽ ban ơn trợ sức cho con người, để họ vượt thắng được ma quỷ, thế gian và xác thịt. Thánh Thần là lửa mến thiêu đốt mọi dơ bẩn, đốt nóng tâm hồn nguội lạnh; Thánh Thần là nước mát làm dịu các đam mê, tẩy sạch tâm hồn dơ bẩn. Thánh Thần đưa dẫn người ta tới gặp gỡ Thiên Chúa, làm người ta cảm nghiệm hạnh phúc khi sống với Ngài.

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn hướng về Cha cho dù Ngài sống giữa trần gian. Đức Giêsu luôn tùy thuộc Thiên Chúa, đến độ “của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga.4, 34). Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha luôn là một với nhau trong mọi sự (Ga.10, 30; 16, 15; 17, 10.22). Con người là một trong Thiên Chúa, nhưng khác với Đức Giêsu và Cha là một; cũng tương tự mỗi người chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng khác với Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28).

Chúa Cha cao trọng hơn Đức Giêsu, vì Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài đang trong tình trạng tự hủy, Ngài nên giống con người mọi đàng trừ tội, chính vì vậy “Cha cao trọng hơn Thầy.” Còn tự nguyên thủy, Cha và Con đều là một. Cha chỉ là Cha nếu có Con, và không có Con thì cũng chẳng có Cha. Có Cha có Con thì có Thánh Thần. Cả ba đều là một trong Thiên Chúa, cả ba đều là một Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất từ ngàn xưa cho đến bây giờ.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Lên trời, nghĩa là sao?

2. Theo bạn, có gì mâu thuẫn không khi trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv.1, 9), tin mừng theo thánh Luca (Lc.24, 51), và Maccô (Mc.16, 19) nói Chúa lên trời, còn tin mừng theo thánh Matthêu (Mt.28, 20) nói Đức Giêsu ở lại với con người cho đến tận thế?

3. Bạn hiểu “Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc.16, 19) như thế nào?

--------------------------------

 

LênTrời ABC-365: Bàn tay giơ ra để chúc lành.


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn)

 

Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Kytô vinh hiển về trời. Có thể nói biến cố LênTrời ABC-365


Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Kytô vinh hiển về trời. Có thể nói biến cố Thăng Thiên là một biến cố đặc biệt, vì đó không chỉ là một mạc khải biểu lộ vinh quang khải hoàn của Chúa Kytô nhằm đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời cũng như sự kiện Phục sinh của Người; Đó cũng không chỉ là biến cố cuối cùng của lịch sử cứu độ mà đây chính là thời kỳ khai mở cho một biến cố mới: Chúa Thánh Thần sẽ đến hướng dẫn và dạy dỗ các môn đệ như Chúa Giêsu đã hứa.

Khi đối chiếu hai bản văn Tin mừng thứ ba và sách Công vụ Tông đồ của cùng một tác giả là thánh sử Luca, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì cùng một biến cố Thăng Thiên nhưng lại có sự mâu thuẫn rõ ràng về mặt thời gian: một đàng là biến cố Thăng Thiên xảy ra ngay sau khi Chúa Phục sinh, chỉ trong một ngày và một đàng là 40 ngày sau (x. Lc 24; Cv 1, 3). Lý giải sao về điều này?

Chúng ta có thể thấy dụng ý thần học của Luca trong đoạn Tin mừng trên, vì sự thực thì Phục sinh và Thăng Thiên là một thực thể thống nhất không thể tách rời nhằm biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền thống trị của Người. Như thế, ngay sau khi Phục sinh, Chúa Kytô đã đi vào vinh quang thiên quốc chứ không phải chờ đợi gì nữa. Tuy thế, thỉnh thoảng Chúa Kytô xuất hiện cách hữu hình với các môn đệ nhằm củng cố đức tin và dạy dỗ các ông. Có thể thấy 40 ngày là quãng thời gian tượng trưng đầy đủ và sung mãn để các ông tiếp nhận những giáo huấn và hiểu rõ hơn sứ mệnh của Người. Thật vậy, đây chính là quãng thời gian mà Chúa Kytô tỏ mình cho các môn đệ nhận biết Người (Lc 24, 39). Người mở tâm hồn cho các ông hiểu rõ ý nghĩa của biến cố Phục sinh (24, 44). Để rồi những gì các ông vừa trải nghiệm với Người, tất cả sẽ trở thành những chủ đề cho lời rao giảng cốt yếu sau này- những gì đã được Kinh thánh loan báo đều được thực hiện trọn vẹn trong mầu nhiệm Vượt qua. Chính các ông sẽ là những chứng nhân cho những gì các ông từng trải nghiệm mà Công vụ Tông đồ đã ghi. Sau quãng thời gian này, Chúa Kytô không còn hiện diện cách hữu hình, cách thể lý bằng xương bằng thịt nữa và tác giả Công vụ Tông đồ nói rằng Chúa Kytô lên trời.

Thánh sử Luca ghi lại sự kiện Chúa lên trời thật giản dị: “Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (24, 50). Hình ảnh cuối cùng của Chúa Kytô ở trần gian chính là bàn tay giơ ra để chúc lành. Đây chính là hình ảnh tuyệt vời bởi nó không chỉ là dấu chỉ từ biệt và chúc lành mà chúng ta thường thấy nơi các thánh tổ phụ chúc lành cho các con, cho những người thừa kế vào lúc lìa cõi thế, mà còn là dấu chỉ nhằm cho thấy Chúa Giêsu mãi mãi sẽ ở cùng và ban ơn cho các môn đệ của Người ở trần gian này. Cuộc chia ly này không giống cuộc chia ly trong vườn Ôliu, các môn đệ lòng đây hoan hỷ và không ngớt tụng ca Thiên Chúa: cuộc chia ly trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Kytô bên cạnh các môn đệ.

Biến cố Thăng Thiên không chỉ cho thấy công trình cứu chuộc như lời Kinh thánh loan báo đã hoàn thành mà còn là thời điểm làm cho tất cả mọi người nhận ra những lầm lỗi của mình, ăn năn sám hối để hưởng nhờ ơn tha thứ của Thiên Chúa; biến cố Thăng Thiên không chỉ là lúc Chúa Kytô Phục sinh trao trách nhiệm rao giảng cho các môn đệ mà còn là thời điểm đ¨¢nh dấu những hoạt động truyền giáo cho muôn dân của các ông sau này; biến cố Thăng Thiên không chỉ là một lời hứa, một lời chúc phúc nhưng còn là một sự hiện diện, một sức mạnh của Chúa Kytô làm cho các môn đệ hoan hỷ, không ngớt lời tụng ca Thiên Chúa và giúp các ông trở nên can đảm và nhiệt huyết hơn trong sứ vụ chứng nhân Tin mừng.

Ước gì tâm tình của ngày lễ Thăng Thiên giúp mỗi người chúng ta thêm lòng tin tưởng vào sự hiện diện cách vô hình của Đấng Phục sinh để rồi như các môn đệ xưa, cuộc sống của chúng ta là những chuỗi ngày đầy ắp niềm vui trong Chúa, lời cầu nguyện và tạ ơn của chúng ta sẽ hoà nhập với lời cầu nguyện và tạ ơn của các môn đệ để rồi theo chân các ngài, chúng ta ra đi dấn thân cho công cuộc truyền giáo như lòng Chúa hằng ước mong.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-366: Chúa lên trời – Fr Thomas Tuý

 

Một tín hữu đi ngang qua một quán rượu, anh nghe trong quán có tiếng cười nói ầm ĩ. Anh dừng lại LênTrời ABC-366


Một tín hữu đi ngang qua một quán rượu, anh nghe trong quán có tiếng cười nói ầm ĩ. Anh dừng lại lắng nghe, thì ra nhóm đàn ông vừa uống rượu vừa chế giễu tôn giáo và những kẻ có đạo. Anh nói với họ rằng: “Đúng đó, tôi chẳng hiểu các màu nhiệm trong đạo, nhất là kẻ chết có thể sống lại. Nhưng tôi biết rõ một điều ở trong thành phố này, Thiên Chúa đã cúi xuống một nắm đất sét hôi hám, bẩn thỉu vô cùng, Ngài thổi hơi vào nó. Nó liền biến đổi từ gã đâm thuê, chém mướn, sike, trộm cướp, cờ bạc, rượu chè, thành một thanh niên kiến tạo hòa bình, thương yêu giúp đỡ láng giềng. Người đó chính là tôi, đang đứng trước qúi vị đây”. Cả đám đông ồ lên một tiếng. Thì ra họ đã nghe đồn về “anh trưởng” của một mái ấm thành phố mà báo chí thường nhắc đến.

Nếu suy nghĩ một chút, quí vị ngộ ra lời người thanh niên còn đi xa hơn sự thật về anh rất nhiều. Thiên Chúa đã thổi Thần Khí vào nắm đất trong vườn Eđen và nhân lọai thành hình. Ngài lại rợp bóng trên nhân lọai và nhân lọai ấy trở thành Con của Ngài trong lòng trinh nữ Maria. Nhân lọai mới này chịu khổ nạn trên thập giá để đền bù tội lỗi, nhưng ngày thứ ba sống lại. Hôm nay được đón về trời ngồi tòa vinh hiển, có các thiên thần hầu cận.

Lên trời có ý nghĩa thế nào đối với đức Kitô, thì cũng vậy đối với mỗi tín hữu, thí dụ người thanh niên hư hỏng vừa nói ở trên. Vậy lên trời đối với Chúa Giêsu ra sao? Và chúng ta thế nào? Có được quyền lên trời không? Phải sống ra sao để theo Chúa? Trước hết, lên trời đối với Chúa Giêsu là sự nghiệp và đau khổ của một con người đã chấm dứt. Ngài lên cùng Thiên Chúa Cha với thân xác và linh hồn mà Ngài đảm nhận ở dương gian. Ngài và Thiên Chúa Cha kết hợp mật thiết trong tình yêu chân thật là Chúa Thánh Thần. Đấng sẽ đổ ơn lành xuống cho nhân lọai, khởi sự từ biến cố lễ 50. như vậy sự hiện diện của Thiên Chúa trên Giáo Hội không khi nào chấm dứt, đúng như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Thày sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Điều Thiên Chúa bắt đầu ở vườn Eden, nay hòan tất nơi đức Kitô, bất chấp tội lỗi.

Chương trình của Thiên Chúa không bao giờ thất bại. Chúa Giêsu là con của lòai người, nay là con của Thiên Chúa xét theo nhân tính. Ngài là tạo vật mới vượt qua không gian, thời gian, đau khổ và cái chết. Như vậy nhân tính đã được dự phần vào thiên tính thực thụ và có chứng cớ rõ ràng. Đúng là hy vọng lớn lao cho lòai người? Chúng ta không được phép thất vọng vì bất cứ lý do nào. Đức Giêsu đã tòan thắng sự dữ và tội lỗi, chúng ta cũng có hy vọng tương tự.

Con đường lên thiên đàng đã được họach định cho nhân lọai. Nhân tính Đức Giêsu vui hưởng hạnh phúc, mà tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được xem, trí tuệ chưa hề tưởng tượng. Ngài uống tận nguồn nước vĩnh cửu của đời sống Ba Ngôi Ngài cử hành muôn thuở chiến thắng thế gian, satan, xác thịt cùng với Đức Mẹ, các thánh và các thiên thần trong vinh quanh. Nhưng xin nhớ trên dương gian Ngài không hề ích kỷ, trên thiên đàng càng xả kỷ hơn nữa. Trên dương gian Ngài chữa lành bệnh tật, cho kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, câm nói được, chết sống lại thì bây giờ chẳng lẽ Ngài không làm được nữa sao? Ngài đã thí mạng sống vì chúng ta, chẳng lẽ Ngài thôi thực hiện? Vì thế thơ Do Thái viết: “Ngài hằng đứng trước tòa Thiên Chúa để cầu bầu cho nhân lọai”. Nếu bà thánh Thérésa Hài Đồng Giêsu trước khi qua đời hứa mưa hoa hồng ân phúc xuống chị em trong dòng, chẳng lẽ Đức Giêsu không làm được cho chúng ta?

Cho nên chúng ta phải tin rằng Ngài đang hiện diện trong Hội thánh, tưới gội ơn cứu rỗi cho nhân lọai. Các bí tích là một bảo đảm. Ngài ở với lòai người trong bí tích Thánh Thể y như ở trên trời vinh hiển, yêu thương, quyền năng. Xin đừng đùa cợt với các bí tích đó là công việc Thiên Chúa tiếp tục nơi dương gian. Ngài hòan tòan là con người mới với thân thể thiêng liêng, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngài hiện diện cho những ai có đôi mắt đức tin, như các tông đồ xưa, nhất là nơi nhà tạm với ngọn đèn leo lét.

Chúng ta phải làm chi lúc này? Đừng đứng đó mà ngó lên trời, như hai thiên thần cảnh cáo các môn đệ? Sự thật một số tín hữu tiên khởi đã lầm tưởng Chúa sắp xuất hiện, nên cứ ngồi đó mà chờ đợi, đến nỗi Thánh Phaolô phải nói thẳng thừng: “Ai không chịu làm thì đừng ăn.” Tín hữu không phải là kẻ mộng du, nhưng là người thức tỉnh, chia sẻ cuộc sống của Ngài, chúng ta phải lao động và làm việc như Chúa. Các người làng Nazareth ngày xưa đã ngạc nhiên: “Anh ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Câu nói này chẳng là trò đùa, mà là sự thật. Suy ra, Chúa lao động với đôi tay và khối óc suốt 30 năm. Còn ngài đi đây đó rao giảng sứ mệnh thì quá hiển nhiên. Bốn phúc âm đều thuật lại, không cần biện minh. Vậy mà, hỡi ôi, các tu sĩ linh mục ngày nay cư sử ra sao trong cuộc sống? Họ dùng thời gian, tài sức ra sao cũng hiển nhiên không kém! Chia sẻ cuộc sống với Chúa là điều kiện cần thiết để nên giống Ngài và đọat giải cứu rỗi. Các môn đệ tiên khởi đã nêu gương cho chúng ta hôm nay! Bao lâu nữa Ngài sẽ trở lại? Chẳng ai được biết. Nhưng mọi người đều biết rằng, trừ thân xác, còn linh hồn mỗi người trở về cùng Thiên Chúa thì không phải đợi. Cho nên lao động để nâng đỡ gia đình, con cái, xã hội là cần thiết và như vậy chúng ta tích cực chuẩn bị cho ngày Ngài trở lại.

Hiện thời trên dương gian Tin mừng của Chúa Kitô là Tin mừng thánh giá. Qua tin mừng ấy, nhất là qua những thương tích, Ngài tưới gội sức sống và ơn thánh xuống cho thế giới. Màu nhiệm cứu độ của Ngài còn tiếp tục qua con đường đó, chứ không phải an nhàn, thư thái. Ngài mời gọi chúng ta cộng tác: “Ai muốn theo Tôi, hãy để kẻ ấy vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” Vậy mà một tu sĩ trẻ vừa nói với tôi: “Đi tu chỉ mong được có thế!” Ý ông là được ăn sung, mặc sướng, tận hưởng các tiện nghi thế gian. Chẳng hiểu thần khí nào thúc đẩy ông như vậy. Chắc chắn không phải Thần Khí Đức Kitô. Vì hôm nay Ngài về trời để lại cho chúng ta con đường thập giá để noi theo mà tiến bước về trời. Chẳng còn con đường nào khác. Amen. Alleluia.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-367: Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng hành động


(G. Bessiere: ‘Dieu si proche’ Năm C, DDB, trg 68-69).

 

Tận cùng lại là một khởi đầu. Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem. Các môn đệ đã cảm nghiệm được LênTrời ABC-367


Tận cùng lại là một khởi đầu.

Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem.

Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người.

Đức Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Đức Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất.

Cử chỉ cuối cùng của Đức Giêsu thâu tóm cả cuộc đời của Đức Giêsu trên trần gian: “Đang khi giơ tay chúc lành cho các ông, thì Người lìa các ông…”. Đức Giêsu lên trời đang khi chúc lành, hình ảnh cuối cùng đó sẽ còn mãi: bàn tay đang chúc phúc.

Còn các ông “lòng đầy hoan hỉ” và “các ông không ngớt chúc tụng Thiên Chúa trong đền thờ”. Giữa trời và đất, giữa đất với trời, lời chúc phúc được giao lưu.
Giờ đây các môn đệ Đức Giêsu – những môn đệ thời xưa và những môn đệ thời nay – cần phải loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới và tận cùng lịch sử, bằng lời nói và bằng hành động. Phải không ngớt chúc tụng.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-368: Được sai đi truyền giáo thế chân các tông đồ.

 

Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa LênTrời ABC-368

Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa khỏi các môn đệ và được đưa lên trời”.

Có điều lạ là các môn đệ không biến cuộc chia ly thành một tấn bi kịch. Tác giả thuật lại rằng các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Dường như các ông đã được soi sáng cho hiểu rằng: Đức Giêsu đã hoàn thành trọn vẹn sứ mạng cứu thế của Người. Từ nay đến lượt các ông có nhiệm vụ làm chứng.

Biến cố Lên Trời cho thấy công trình cứu độ này đã hoàn thành; mọi điều Thánh Kinh loan báo đều là lời của Thiên Chúa. Tất cả đều đã được thực hiện, cả đến việc phục sinh. Từ nay, làm cho thế giới sám hối trở lại.

Biến cố Lên Trời chứng tỏ rằng Đức Giêsu chuyển giao nhiệm vụ cho các chứng nhân. Giờ đây đến lượt các môn các đệ hoạt động. Họ có nhiệm vụ làm cho kế hoạch đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu được tỏ hiện cho mọi dân mọi nước.

Đồng thời biến cố lên Trời cũng còn la một lời hứa. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho các chứng nhân của Đức Giêsu. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho họ từ trời cao. Sức mạnh ấy củng cố trí tuệ và tâm hồn các ông, sẽ biến các ông nên can đảm.

Biến cố Lên trời là lơi chúc phúc từ trời. Một phúc lành làm cho con người cảm nghiệm năng lực của Thiên Chúa thấm nhập vào mình, cảm thấy mình được tôn trọng trong tự do và có khả năng sáng tạo để đạt kết quả.

Biến cố Lên Trời còn được tiếp nối bằng lời cầu nguyện vui tươi và tinh thần hoan hỉ. Các môn đệ không bị mồ côi chút nào. Các ông có Chúa Thánh Thần ở cùng. Các ông ở nhà của Người là Đền thờ. Các ông ca tụng những thiện hảo của Thiên Chúa. Các ông chúc tụng Người.

***

Niềm vui của ta, hỏi rằng có ngang tầm với niềm vui của các môn đệ đầu tiên không? Lời cầu nguyện của ta, có hòa nhập với lời tạ ơn của các ông không? Cuộc sống thường ngày của ta có phải là cuộc dấn thân truyền giáo theo chân các tông đồ không?

Bởi vì biến cố Lên Trời của Chúa phải được sống và được cử hành như thế đó.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-369: Tìm ý để dọn bài giảng về đề tài: Thiên Đàng


(Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang)

1. Hôm nay, Chúa Giêsu về trời, về thiên đàng.

 

Trời, thiên đàng, chính là quê hương thật của chúng ta. / Chúa Cha rất yêu thương chúng ta. Ngài LênTrời ABC-369


Trời, thiên đàng, chính là quê hương thật của chúng ta. / Chúa Cha rất yêu thương chúng ta. Ngài lo lắng đủ cách để cho mỗi người chúng ta được phước thiên đàng. Ngài cho Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta, để đưa chúng ta về thiên đàng với Ngài.

2. Chúa Giêsu nói rất rõ về thiên đàng.

Ngài nói Ngài bởi trời, bởi thiên đàng mà đến: “Tôi là bánh từ trời xuống.” (Ga 6,41), “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). / Ngài nói Ngài là Con của Cha ở trên trời: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). / Ngài nói rõ chuyện Ngài về trời, về thiên đàng, để dọn chỗ cho chúng ta. Thật là sung sướng khi mỗi người chúng ta được Chúa Giêsu giữ sẵn chỗ trên thiên đàng: “Các con đừng lo, hãy tin vào Thầy. Có nhiều chỗ ở trong nhà Cha Thầy…Thầy đi về trời để dọn chỗ cho các con, rồi Thầy lại đến đón các con về cùng Thầy để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó với Thầy.” (Ga 14,1-3) / Ngài khuyến khích chúng ta hãy tìm cho được của cải trên trời, trên thiên đàng: “Các con đừng tích trữ của cải ở dưới đất, nơi bị mối mọt đục khoét và kẻ trộm đục vách lấy mất. Các con hãy tích trữ của cải ở trên trời, nơi mối mọt không đục khoét được, nơi kẻ trộm không đào vách lấy được.” (Mt 6,19-20) / Ngài lại còn khuyến khích chúng ta vui mừng vì được phần thưởng trên nước thiên đàng: “Các con đừng vui mừng vì trừ được ma quỷ, các con chỉ nên vui mừng vì tên các con được ghi khắc trên nước thiên đàng” (Lc 10,20). / Ngài dạy chúng ta hằng ngày phải cầu nguyện với Chúa Cha của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.” (Mt 6,9) / Ngài dùng nhiều hình ảnh tốt đẹp để nói về thiên đàng: thiên đàng là một tiệc cưới rất vui vẻ (Mt 22, 1-2), một kho vàng đầy giá trị (Mt 13,44), một viên ngọc vô cùng quý báu (Mt 13,45).

3.  So sánh đời sống trên thiên đàng và đời sống dưới trần gian này.

Khi biết về thiên đàng như lời Chúa Giêsu dạy, người Công Giáo chúng ta thấy trần gian này không có được hạnh phúc nếu Con Thiên Chúa không xuống thế cứu chuộc loài người. / Trần gian này là nơi đầy đau khổ: sinh ra đã khóc, lớn lên phải cực, lại thêm bệnh tật, rồi phải già yếu, phải hấp hối và phải chết! / Trần gian này là nơi đầy phỉnh gạt: tiền bạc, danh vọng, sung sướng mà thế gian ban tặng cho những ai theo nó, nói là rất hạnh phúc, rất tuyệt vời, nhưng trong thực tế, chúng là những điều rất chóng tàn phai. / Nếu chúng ta không tin có thiên đàng ở đời sau, nếu chúng ta chỉ biết có thiên đàng trên mặt đất này, thế nào chúng ta cũng gặt hái buồn phiền, thất vọng và chán nản. / Cuộc sống của chúng ta trên trần gian này chỉ là tạm thời và thật là vắn vỏi. Đời sống mai sau, hoặc là sống bên Chúa, hoặc là ở với ma quỷ, mới thật là đời đời, vĩnh viễn. Ai sống như ý Chúa muốn và tuân giữ các luật Chúa truyền, mới được phần thưởng sống hạnh phúc đời đời sau này với Chúa trên thiên đàng.

 4.  Thiên đàng là nơi đầy hạnh phúc thật.

Trên thiên đàng, hạnh phúc không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận! / Thiên đàng là nơi ta có một cuộc sống đời đời hạnh phúc mà Chúa dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài. / Trên thiên đàng, không còn tội lỗi, không còn sự chết, không phải buồn sầu, đau đớn và bệnh tật. / Trên thiên đàng, ta sẽ sống hạnh phúc đời đời bên cạnh Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ. Trên thiên đàng, chúng ta sẽ được hân hạnh làm bạn với các thánh thiên thần và tất cả các thánh nam nữ. / Trên thiên đàng, chúng ta sẽ gặp lại mọi người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, bạn hữu, thân nhân, ân nhân. / Trên thiên đàng, những sự ngày nay chúng ta không biết, lúc đó, chúng ta sẽ biết được hết. / Trên thiên đàng, thân xác chúng ta được biến hoá một cách tuyệt diệu để thưởng thức mọi vẻ đẹp thiên nhiên trong vũ trụ này. / Thiên đàng cũng là nơi đầy bất ngờ cho chúng ta. Bất ngờ về những người được lên thiên đàng: những người khiêm nhượng, không ai biết, như những người thu thuế trong Phúc Âm; những người bị xã hội khinh chê, ruồng bỏ, như người ăn mày Ladarô trong Phúc Âm; những người tội lỗi nặng nề nhưng biết ăn năn chừa cải, như người trộm lành trong Phúc Âm; những người hèn mọn bé nhỏ và những người có tinh thần trẻ nhỏ như lời Chúa đã phán rõ trong Phúc Âm. Bất ngờ về những việc được thưởng trên thiên đàng: những việc nhỏ hèn, những việc không ai thấy, những việc không ai biết.

5.    Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi cầu nguyện.

Thánh Tôma tiến sĩ đã trả lời câu này cho ta: “Phải thật lòng muốn lên thiên đàng”. / Có nhiều loại muốn: có loại muốn hời hợt, muốn qua loa, muốn rồi bỏ; có loại muốn tích cực, muốn triệt để, muốn thật. / Thứ nhất, phải muốn thật trong khi cầu nguyện. / Được lên thiên đàng là một ơn vô cùng cao quý, vô cùng trọng đại. Chúng ta phải luôn luôn cầu xin cho được ơn ấy. Thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ” (Ph 212) / Bền đổ cầu xin, chúng ta sẽ được ơn tuyệt vời này. Chúa Giêsu đã từng phán: “Ai xin thì sẽ được,…”

    Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi khinh chê những sự thế gian chóng qua này.

Có kẻ sống duy vật, duy lạc. Họ xem trái đất này là thiên đàng vật chất. / Đối với họ, tiền bạc, danh vọng, khoái lạc vật chất là trên hết. / Họ là đồ đệ của vua Sardanapalô, hoàng đế xứ Assyria ngày xưa. Vua này chỉ biết ăn chơi sung sướng, phạm đủ mọi tội lỗi trên đời. Vua bắt đúc tượng mình bằng đồng, và truyền khi chết, dựng tượng đó nơi công trường. Dưới bức tượng, vua cho khắc câu để truyền lại cho hậu thế: “Ớ khách qua đường, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi, ngoài ra, mọi sự khác đều vô ích.”/ Ai muốn lên thiên đàng, không được sống như ông vua này, nhưng phải biết khinh chê những sự giả dối chóng qua của thế gian. Họ than lên như thánh Inhaxiô: “Ôi, trái đất xem ra thật không đáng gì khi tôi nghĩ đến thiên đàng.” / Khi điệu thánh Cêcilia đi xử tử, quan và đao phủ khuyên cô rằng: “Hỡi cô, cô hãy nhìn tuổi thanh xuân của cô. Tuổi cô tươi xinh như mộng. Cô hãy biết rằng cô là người vợ của một bậc sang trọng giàu có. Cô hãy nghĩ lại đi.” / Thánh nữ liền trả lời: “Tôi không nghĩ lại gì hết. Tôi mất bùn đất nhưng được lại vàng bạc châu báu. Tôi mất đời sống khốn khổ trên mặt đất, nhưng được đời sống sung sướng muôn đời trên thiên đàng. Thân xác này héo khô tan nát trên mặt đất, nhưng tôi lại được một thân xác đầy đẹp đẽ và đầy ánh sáng trên thiên đàng.”

    Để được lên thiên đàng, chúng ta phải muốn thật trong khi chống lại những nguy hiểm trên đời này.

Con đường đưa chúng ta về trời là con đường hẹp, đầy chông gai, đau khổ, thánh giá. Chính Chúa Giêsu đã dẫn Đức Mẹ đi trên con đường này, và giờ đây, Ngài cũng dẫn chúng ta đi như vậy. Chúng ta phải mạnh mẽ tiến lên trên con đường đầy khó khăn này để về cho được nước thiên đàng. / Ngày xưa, vua Alaric dẫn đạo binh đi chiếm nước Ý. Khi gặp một ngọn núi cao, binh sĩ uể oải nhụt chí, vua liền hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Khi gặp một con sông dài chắn ngang, binh sĩ chán nản, vua Alaric hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Khi gặp sức chống cự của binh lính Ý, binh sĩ vua Alaric sắp ngã lòng, vua liền hét to: “Tiến lên, chúng ta sẽ chiếm được thành Rôma.” Và nhờ thế, vua Alaric và binh sĩ của vua đã chiếm được thành Rôma và nước Ý. / Phần chúng ta, không phải chiến đấu để chiếm một nước chóng qua, hư nát, nhưng là một nước vĩnh viễn, đầy tràn hạnh phúc, đó là nước thiên đàng. / Mỗi lần tội lỗi, ma quỷ, xác thịt, thế gian, khó khăn, đau khổ hồn xác chặn đứng con đường về thiên đàng của chúng ta, chúng ta hãy mạnh mẽ hô to: “Tiến lên, ta sẽ chiếm được nước thiên đàng.”

    “Con chỉ mong được lên thiên đàng mà thôi!”

Nhà bác học Le Verrier có nhiều phát minh lớn lao về thiên văn. Đức Cha địa phận khen ông: “Danh tiếng ông lên tận các ngôi sa ”. Ông khiêm nhượng trả lời: “Xin Đức Cha cầu nguyện cho con, con chỉ mong được lên thiên đàng mà thôi. ”

    Hãy lo cho đời sống vĩnh cửu ngay bây giờ!

Thánh Caminlê đệ Lenly, khi thấy mồ mả, thường suy nghĩ: “Nếu những người chết đang nằm đây, được trở lại cõi thế, thì có sự khó nhọc nào mà họ tránh né chẳng nhận để được sống đời đời? Còn tôi, tôi còn đang có thời giờ, mà tôi có làm gì để lo cho đời sống đời đời không?”

    “Vua là kẻ ngu dại nhất trên đời!”

Ông vua kia nói với tên hề trong cung điện: “Ngươi là kẻ ngu dại nhất trên đời. Ngươi hãy cầm chiếc gậy này. Khi thấy ai ngu dại hơn ngươi, ngươi hãy trao chiếc gậy này cho người đó.” / Khi vua sắp chết, tên hề hỏi vua: “Vua sắp đi đâu?” / “Sắp đi qua thế giới khác.” / “Khi nào về? Một tháng sao?” / “Không.” / “Một năm sao?” / “Không! Không bao giờ trở về!” / “Thế vua có chuẩn bị hành lý gì không?” / “Không!” / “Thế thì vua hãy cầm lấy chiếc gậy này. Vua là kẻ ngu dại nhất trên đời!”

    Tả cảnh thiên đàng không nổi.

Một người bạn thân yêu của thánh Augustinô yêu cầu ngài viết một cuốn sách về thiên đàng. / Thánh Augustinô vào phòng, đóng cửa lại, cố suy nghĩ để viết. Ngài viết thư xin thánh Hiêrônimô giải đáp một vài thắc mắc. Bỗng Thánh Augustinô nghe một giọng nói vang lên: “Hỡi Augustinô, anh muốn gì đó? Anh muốn dùng ngòi bút để hiểu sự bao la của trời đất sao? Anh tự hào muốn thấy điều con mắt phàm trần không bao giờ thấy được sao? Anh muốn hiểu điều anh không thể hiểu được sao?” / Đó là giọng của Hiêrônimô. Hôm đó chính là ngày Thánh Hiêrônimô qua đời. / Từ đó, Thánh Augustinô bỏ ý định viết cuốn sách về Thiên Đàng.

    “Ôi Thiên Đàng! Ôi Thiên Đàng!” Hai tiếng này làm cho linh hồn tôi được bằng an vui vẻ.”

Một vị tu rừng tìm cách sống trong một cái hang nhỏ và tối tăm, đêm ngày ăn chay, đánh tội, hãm mình. / Ngày kia, một đoàn người, gồm những kẻ mộ mến tài đức của ngài, lên rừng đến thăm. / Thấy cách sống của vị tu rừng này, họ bỡ ngỡ hỏi: “Làm sao ngài có thể ở trong này một ngày mà thôi?” / “Quý vị hãy vào, nhìn qua cái lỗ này, quý vị sẽ rõ.” / Họ vào và thấy: nơi tường hang rêu phủ, có một lỗ hổng, để lộ ra một góc trời. / Họ không hiểu. Vị tu rừng liền cắt nghĩa: “Góc trời đó là nguồn an ủi của tôi. Những khi tôi buồn chán, tôi nhìn ra góc trời đó và kêu lên: “Ôi Thiên Đàng! Ôi Thiên Đàng!” Hai tiếng này làm cho linh hồn tôi được bằng an vui vẻ.”

--------------------------------

 

LênTrời ABC-370: CUỘC TỪ BIỆT MANG CHIỀU KÍCH PHUNG5 VỤ(*)


-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố đồng một lúc: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Ki-tô LênTrời ABC-370


Lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố đồng một lúc: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Ki-tô có các Tông Đồ là những chứng nhân và cuộc Thăng Thiên vô hình của Chúa Giê-su không có bất kỳ một nhân chứng nào.

Cv 1: 1-11

Sách Công Vụ tường thuật biến cố Thăng Thiên hữu hình, sau khi nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ Ngài.

Dt 9: 24-28; 10: 19-23

Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái gợi ra biến cố Thăng Thiên vô hình: cuộc trở về mầu nhiệm của Chúa Giê-su bên cạnh Chúa Cha, từ đó xuất phát những thành quả thiêng liêng: Chúa Giê-su khai đường mở lối vào cung thánh trên trời cho tất cả mọi người, nhờ hy tế thập toàn của Ngài, trổi vượt vô cùng tận so với hiệu quả tạm thời của hy tế mà vị thượng tế Cựu Ước dâng tiến trong đền thờ Giê-ru-sa-lem tại thế.

Lc 24: 46-53
Phần cuối Tin Mừng Lu-ca tường thuật việc Chúa Phục Sinh từ biệt các môn đệ và được rước lên trời.

BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)

Bài Đọc I trích phần đầu sách Công Vụ Tông Đồ, được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, nhất là nhắc lại “quyển thứ nhất”, tức là sách Tin Mừng Thứ Ba.

Quả thật, sách Tin Mừng Lu-ca hoàn tất với biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được rước lên trời…” (Lc 24: 52) trong khi sách Công Vụ Tông Đồ bắt đầu với việc nêu lên hai lần cùng một biến cố: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (Cv 1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (Cv 1: 9). Như vậy, bằng kỷ thuật văn chương, thánh Lu-ca trình bày biến cố Thăng Thiên vừa hoàn tất sách Tin Mừng Thứ Ba và vừa khởi đầu sách Công Vụ Tông Đồ: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Ki-tô và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài ở giữa loài người; hoàn tất sứ mạng tại thế của Đức Giê-su và khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.

*1.Hai biến cố Thăng Thiên:

Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên:

-Biến cố Thăng Thiên hữu hình là cuộc lên trời của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này chủ yếu liên quan đến chúng ta: bản tính nhân loại, cùng với Đức Kitô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên hữu hình nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của chúng ta.

-Biến cố Thăng Thiên vô hình và mầu nhiệm không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay khi Ngài sống lại; đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức. Đó là cuộc tôn vinh của Chúa Con, cuộc tôn vinh mà Đức Giê-su xin trong lời nguyện hiến tế của Ngài trước giờ tử nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5).

*2.Ý nghĩa của biến cố Thăng Thiên hữu hình:

Tại sao Đức Giê-su từ biệt các môn đệ mà lên trời cách ngoạn mục như thế, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, đáng ra Đức Giê-su chỉ cần loan báo cho họ biết rằng Ngài sẽ không hiện ra với họ theo cách thế này nữa, rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày từ khi Ngài sống lại?

Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách thức Đức Giê-su giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài khi thi hành sứ mạng công khai của Ngài. Ngài đã tự nhận mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật huyền nhiệm mà ngôn sứ Đa-ni-en thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời” (Đn 7: 13). Đức Giê-su đã quả quyết với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13). Trong bài diễn từ về bánh hằng sống, Đức Giê-su đã nêu lên sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống” và cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo rõ ràng hơn biến cố lên trời trong tương lai của Ngài.

*3.Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:

“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”: Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở nơi con số này: nó hình thành nên một đối chiếu với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa giữa phép rửa của Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc sống công khai của Ngài để chuẩn bị cho sứ mạng cứu độ của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho sứ mạng của các môn đệ Ngài.

Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy. .. Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa… (Tb 12: 16-22).

*4.Phép rửa trong Thánh Thần:

Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò những lời sau hết và loan báo cho họ biết trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (1: 5)

Vào lúc đó, các ông hỏi Ngài một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Câu hỏi này cho thấy giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn nung nấu trong lòng của các ông. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới (1: 7-8). Nhưng vào lúc nầy, vì chưa nhận được ân ban Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.

*5.Một đám mây quyện lấy Chúa Giê-su:

Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng đã phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; ở đây cũng đám mây quyện lấy Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”, ở đây cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.

*6.Thời gian thi hành sứ vụ:

Sức mạnh từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (1: 8). Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên vì sách Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ.

Đây là lúc phải hành động chứ không là lưu luyến cách vô bổ như thiên sứ nhắc nhở các ông: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?… Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao và Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng khi vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình luôn luôn hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hành động và chiêm niệm.

BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28; 10: 19-23)

Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái này bàn đến cuộc Thăng Thiên của Chúa Giê-su theo quan điểm đặc thù. Tác giả đề xuất chiều kích thần học và tính hiệu quả thần thiêng của cuộc Thăng Thiên bằng cách so sánh với sự kiện vị thượng tế Cựu Ước tiến vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem một năm một lần. Chúng ta biết rằng tác giả Thư gởi tín hữu Do thái coi sứ vụ của Chúa Giê-su là chức vụ tư tế và trình bày Chúa Giê-su là vị thượng tế thập toàn.

Chúng ta không biết rõ tác giả Thư gởi tín hữu Do thái là ai; nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra ông ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc Do thái qua những ám chỉ trong Thư này, ví dụ như phụng vụ Đền Thờ được gợi ra. Thư gởi tín hữu Do thái chắc chắn được viết trước năm 70, vì vào năm này Đền Thờ bị thiêu hủy, hàng tư tế phục vụ Đền Thờ và các hy tế tiến dâng trong Đền Thờ không còn nữa. Vì thế, những lời tác giả khuyên bao gồm những điểm nhấn mang tính thời sự vượt quá sự hiểu biết của chúng ta.

*1.Chức tư tế cao trọng của Chúa Ki-tô:

“Quả thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật” (Dt 9: 24). Sự so sánh này được khai triển sâu xa suốt bức thư này dựa trên nghi thức lễ Xá Tội một năm một lần, vào ngày đại lễ đó vị thượng tế tiến vào nơi cực thánh, biểu tượng nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài trên cõi thế. Với cử chỉ này, vị thượng tế toan tính tiến gần Thiên Chúa chừng nào có thể để cầu xin Ngài tha thứ tội lỗi cho chính mình và cho dân của mình qua việc dâng tiến máu tế vật. Còn Chúa Ki-tô đã tiến vào cung thánh trên trời để “giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta”.

*2.Hy tế cao trọng của Chúa Ki-tô:

Máu mà vị thượng tế dâng tiến là máu súc vật, tế vật thụ động và vô ý thức. Chúa Ki-tô dâng tiến chính máu mình, trong một hiến lễ tự nguyện; vì thế Ngài chỉ dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần: hy tế của Ngài có một giá trị vĩnh viễn. Những hy tế được vị thượng tế tiến dâng  nhằm xóa những tội lỗi trong năm qua. Còn Chúa Ki-tô, Ngài “đã tự hiến một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người” (9: 28).

*3.Chúa Ki-tô khai lối mở đường cho mọi người tiến gần Thiên Chúa:

Chắc chắn những Ki-tô hữu gốc Do thái đã luyến nhớ nhiều nỗi hoài niệm về những giây phút long trọng vào lúc mọi người chờ đợi trước tiền sảnh, lối ra của vị thượng tế với ơn tha thứ tội lỗi. Làm thế nào họ không thể không so sánh được chứ! Trong phụng vụ Mô-sê, một nhân vật duy nhất là vị thượng tế mới có đủ tư cách tiến gần Thiên Chúa. Trái lại, trong phụng vụ Ki-tô giáo, nhờ Chúa Ki-tô, Đấng Trung Gian tối cao và thập toàn, mọi người mạnh dạn tiến gần Thiên Chúa qua cuộc sống bí tích. Mỗi người tín hữu “hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền”, nghĩa là nhờ bí tích Thánh Tẩy, bí tích Hòa Giải và bí tích Thánh Thể… Chúa Ki-tô đã khai lối mở đường cho chúng ta tiến bước vào cung thánh trên trời.

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã hiểu rất rõ ý nghĩa thần học của biến cố Thăng Thiên, nhưng ông diễn tả biến cố này bằng những ngôn từ cổ kính. Những lời khuyên sau cùng trở nên khẩn thiết; nhiều đoạn văn của thư này hé lộ những người nhận thư bị những mối nghi nan ngờ vực xâu xé. Họ phải kiên vững trong niềm xác tín và nhất là trong niềm hy vọng bất khả chuyển lay.

TIN MỪNG (Lc 24: 46-53)

Thánh Lu-ca đã để lại cho chúng ta hai bài trình thuật về cuộc Thăng Thiên: một trong sách Tin Mừng Lu-ca và một khác trong sách Công Vụ. Trong chu trình Phụng Vụ năm C này, chúng ta gặp hai bài trình thuật: bài trình thuật của sách Công Vụ (Bài Đọc I) có nhiều tình tiết hơn; còn bài trình thuật của Tin Mừng thì đạm bạc hơn. Tuy nhiên, sự dị biệt đáng chú ý nhất liên quan đến giây phút biến cố xảy ra. Trong sách Tin Mừng, thánh Lu-ca định vị biến cố vào chính buổi chiều Phục Sinh; trong sách Công Vụ, bốn mươi ngày sau đó. Đây là cách thức mà thánh Lu-ca đã nỗ lực thuật lại hai cuộc Thăng Thiên: biến cố Chúa Giê-su trở về bên cạnh Cha Ngài ngay liền sau khi Ngài sống lại và biến cố Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ sau khi Ngài đã liên tục hiện ra cho các ông.

*1.Ôn cố tri tân:

Chúa Giê-su nhắc cho họ nhớ lại rằng Đức Ki-tô phải chịu đau khổ và sống lại từ cõi chết (x. Cv 2: 1-4). Bài học “ôn cố tri tân” (nhắc lại Cựu Ước để hiểu Tân Ước) được Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ hai lần trong cùng một ngày (trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau; sau đó, các môn đệ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem) chắc chắn không thể thiếu được. Dường như thánh Lu-ca đã muốn cô động giáo huấn mà Chúa Giê-su ban trong suốt bốn mươi ngày được sách Công Vụ thuật lại. Đây là bản tóm lược bài giáo lý tiên khởi, giải thích sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô và chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.

*2.Lời hứa ban Thánh Thần:

Biến cố Thăng Thiên là điều kiện tất yếu của biến cố Ngũ Tuần, vì Thăng Thiên đồng nghĩa với việc Chúa Giê-su được tôn vinh. Chính khi Đức Ki-tô “được tôn vinh”, Người sẽ sai phái Thánh Thần hay Chúa Cha sai phái Thánh Thần nhân danh Người (Ga 14: 26). Tin Mừng Gioan nhấn mạnh nhiều lần: “Bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39) hay “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vây, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16: 7). Mặt khác, việc Đức Giê-su không còn hiện diện hữu hình nữa là một giai đoạn cần thiết để chuẩn bị cho các môn đệ một cách thế hiện diện khác của Người, sự hiện diện vô hình và nội tại trong Thánh Thần.

*3.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ thi hành sứ vụ:

Trong cuộc gặp gỡ sau cùng, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ là chứng nhân của Ngài. Biến cố Thăng Thiên không là điểm kết thúc của một cuộc mạo hiểm thần linh, nhưng là điểm bắt đầu của một công trình bao la mà giờ đây được trao gởi cho các môn đệ thực hiện bằng cách công bố cho muôn dân nước lòng sám hối và ơn tha thứ tội lỗi. Như trong sách Công Vụ (1: 8), sứ vụ này phải được thực hiện “Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem” (24: 47). Chính từ Giê-ru-sa-lem mà ánh sáng Phục Sinh bừng lên; chính tại Giê-ru-sa-lem mà các môn đệ chờ đợi Chúa Thánh Thần; chính tại Giê-ru-sa-lem mà các môn đệ ở lại, “lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 52-53).

*4.Cuộc từ biệt mang chiều kích phụng vụ:

“Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông”: Thánh Lu-ca đề cập đến chính biến cố Thăng Thiên; thánh ký ban cho biến cố này một cung điệu phụng vụ: Đức Giê-su dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, nơi đối diện với Thành Thánh và Đền Thờ, Người giơ tay chúc lành cho các ông, rồi Người từ biệt các ông và được rước lên trời, trong khi các ông sụp lạy Người. Sách Công Vụ thuật lại một phụng vụ từ biệt tương tự khác. Khi thánh Phao-lô từ giã các kỳ mục Hội Thánh Ê-phê-xô với niềm xác tín rằng thánh nhân sẽ không còn gặp lại các ông nữa, thánh nhân quy tụ họ trên bờ biển, căn dặn họ những lời sau cùng, phó thác họ cho Thiên Chúa, rồi thánh Phao-lô cùng tất cả anh em quỳ gối xuống cầu nguyện (Cv 20: 17-36).

*5.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ chan chứa hy vọng:

Thánh Lu-ca tường thuật cuộc Thăng Thiên của Chúa Giê-su với nhiều tình tiết sống động trong sách Công Vụ Tông Đồ; vì thế, trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đưa ra một bài trình thuật tóm lược về mầu nhiệm này, mầu nhiệm đánh dấu việc kết thúc sự hiện diện hữu hình của Chúa Giê-su trên trần thế. Biến cố Thăng Thiên mở ra một niềm hy vọng mới: Đức Giê-su được rước lên trời cùng với thân thể của Người. Người không rũ bỏ nhân tính để trở về bên cạnh Chúa Cha. Nhân tính, cùng với Đức Giê-su, được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Đầu ở đâu, thì các chi thể cũng sẽ ở đó”. Việc Chúa Giê-su lên trời cùng với thân thể của Người loan báo cuộc lên trời của chúng ta; và vinh quang của Người loan báo cuộc tôn vinh thân thể của chính chúng ta. Thăng Thiên và Phục Sinh là hai khía cạnh của cùng một mầu nhiệm; phụng vụ Giáo Hội tiên khởi cử hành hai biến cố này cùng nhau.

*6.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ đầy tràn niềm tin:

“Họ trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ”. Thật mâu thuẫn biết bao, thay vì đắm mình trong nỗi phiền muộn, các Tông Đồ tràn đầy niềm vui sau khi đã chứng kiến cuộc biến mất của Chúa Giê-su. Đây là niềm vui thời thiên sai, niềm vui cứu độ mà thánh Lu-ca đã thắp sáng hơn các thánh ký khác; niềm vui về lời hứa ban Thánh Thần, nhưng nhất là niềm vui sâu xa của một niềm tin có nền tảng chắc chắn.

*7.Trong Đền Thờ:

“Họ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Sách Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với việc tư tế Da-ca-ri-a thi hành sứ vụ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và hoàn tất với việc các Tông Đồ chúc tụng Thiên Chúa cũng ở trong Đền Thờ này. Đối với tư tế Da-ca-ri-a, sứ thần loan báo cho ông cuộc sinh hạ con trai của ông, đó sẽ là Gioan Tẩy Giả trong tương lai; còn đối với các môn đệ Ngài, Chúa Giê-su hứa với các ông Chúa Thánh Thần hiện xuống. Sách Tin Mừng Lu-ca mở ra và đóng lại với dưới dấu chỉ của lời hứa và dấu chỉ của lời cầu nguyện.  

--------------------------------

 

LênTrời ABC-371: CÁC CON LÀ CHỨNG NHÂN


- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

    DẪN NHẬP

 

Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã LênTrời ABC-371


Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời kỳ của Đức Kitô” đã lại nhường chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.

Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh. Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).

Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.

Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.        

    TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+  Bài đọc 1 : Cv 1,1-11

Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết : sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40 ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban các ông  những lời dạy cuối cùng

– Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.

– Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban.

– Ngài còn trao cho các ông  sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.

+ Bài đọc 2 : Ep 1,17-23

Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

Ngài còn cho biết : Chính Chúa Cha đã cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn niềm tin cậy ở Ngài.

+ Bài Tin mừng : Lc 24,46-53

Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại :

– Những lời căn dặn cuối cùng : theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.

– Đức Giêsu về trời : Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa, nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.

    THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Chứng nhân của Đức Kitô

*I. ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI TRỜI.

*1.Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ.

Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh.  Thực ra, sách Tin mừng có ý viết về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới.  Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.

*2.Ý nghĩa việc lên trời.
Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội.
*a)   Một giai đoạn đã qua.
Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc  mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.

Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại  để cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không gian.

*b)   Khởi đầu một kỷ nguyên mới.

Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định”cho muôn dân”, được rao giảng bắt đầu từ Giêrusalem.

Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.

Thật là nghịch lý ! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền. Các môn đệ ra về  trong sự vui mừng  chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng  từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu :”Ai có thể phân cách chúng ta  với tình yêu thương của Chúa Cứu thế” ? Và Ngài khẳng định :”Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta  ra khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-38).

    TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG.

*1.Sứ vụ rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải rao giang Tin mừng :”Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đức Messia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem”(Lc 24,46-47).

Khi  Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới dất mới  mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta  được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.

Truyện : Hoàn thành tác phẩm

Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo Puccini,  để lại cho đời một số  những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người  đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.

Ông làm việc ngày đêm. Nhiều người khuyên can ông  phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất  vở ca kịch này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng,  Puccini đã viết cho học trò của mình :”Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được,  thầy muốn các con tiếp tục công việc ấy cho thầy”.

Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ đã hoàn tất vở ca kịch này.         

Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới, vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan.  Vở này đã được điều khiển  bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở.  Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ôâng ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuốâng, quay ra khán giả và nói lớn :”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích ! Không một tiếng động ! Hoàn toàn thinh lặng !

Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn :”Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời.  Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).

Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các Tông đồ :”Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán :”Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.

*2. Rao giảng bằng cuộc sống.
Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng. Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi, Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau :

 “Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân,
Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia,
Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc
Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.
Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp,
Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa,
Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị,
Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.

Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới.  Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn sóng thủy triều, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.

III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA.

Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy.

Vậy làm chứng là gì ? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.

Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng.  Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.

Triết học dạy rằng : “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.

Tất cả những điều kể trên đã có quá hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng thời với Chúa, sau đó là chúng ta  qua các môn đệ Ngài.

Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.

Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng  cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói :”Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”.  Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết : cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.       

Truyện : Những gì tôi biết về Chúa Kitô.

Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần :

– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao ?

– Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.

– Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào ?

– Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.

– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi ?

 – Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.

– Vậy anh có biết ông ta  đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông  ta ?

– Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự  đi theo ông Kitô.

– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này : ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác  hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).

Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau :”Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),       

    HÃY THEO CHÚA VỀ TRỜI.

    Quê hương chúng ta ở trên trời.

Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu dã khích le äcác Tông đồ :”Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).

Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói rằng :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 320).

Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta  phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê hương trên trời.

Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng : chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi.  Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vang thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.

    Điều kiện để về trời.

Đức Giêsu phán :”Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).

Nước Trời hay thiên đàng  là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra  khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì  ngoài việc chiêm ngắm cõi đời mà thôi !

Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như  đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi sống đời đời.

Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là  phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn  phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ quên hết đời sau.

Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời  làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái ngộ với Thầy mình trên quê trời.

--------------------------------

 

LênTrời ABC-372: CHÚA VỀ QUÊ


– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Mỗi người chúng ta đềucó những kỷ niệm vềsự bình yên của riêng mình. Với tôi, đó là một LênTrời ABC-372


Mỗi người chúng ta đềucó những kỷ niệm vềsự bình yên của riêng mình. Với tôi, đó là một góc quán nhỏ thân quen vớinhómbạn, có thể là mộtbữa cơm thanh đạm trongmái nhà cùng những người thân thương, hoặc có khi, chỉ cần nhớvề những kỷ niệm đầy yêu thương với cha me, người thâncũng đủ khiến lòng ta bình yên rồi.

Đó là lý do mà ai trong đời cũng cần một chốn bình yên như thế để trở về  sau những vất vả truân chuyên, hay sau những mất mát ê chê. Có đôi lúc chúng ta chỉ muốn buông bỏ mọi sự để mong sớm được về nơi chốn bình yên của lòng ta.

“Ai rồi cũng cần một nơi chốn bình yên
Để trút bỏ những muộn phiền lo lắng
Ngôi nhà nhỏ – nơi yêu thương đầy ắp
Chẳng lợi danh, được mất, hơn thua”

Nơi bình yên ấy chính là mái nhà đầy ắp yêu thương. Nơi ấy không chỉ cho ta tình yêu mà quan yếu là cho ta cảm giác bình yên lạ thường!

“Chỉ là đôi lúc ta chỉ muốn về nhà
Cuộc sống bon chen ta thấy mình mỏi mệt
Một giấc ngủ thôi mọi muộn phiền sẽ hết
Hai chữ bình yên mang tên gọi là nhà”

Bản thân tôi khi mới xa nhà cũng hay tìm cách về quê, chỉ để cùng bạn bè nhâm nhi ly càfe hay ngồi ở một góc khuất nào đó hàn huyên tâm sự cũng đủ thấy bình an.

“Chỉ là đôi lúc muốn một mình lê la
Nơi quán cũ nghe bản nhạc xưa đã cũ
Phố phường đông cho đôi chân lưỡng lự
Dòng đời xô bồ đến rồi kéo ta đi”

Chúa Giê-su sau hành trình 33 năm chốn dương gian đầy truân chuyên, khắc nghiệt, Ngài đã về  Quê Trời. Nơi đó có Chúa Cha hằng yêu thương Ngài. Nơi đó không có tham sân si. Nơi đó không có những ganh ghét lọc lừa mưu mô. Nơi đó là chốn bình yên , hạnh phúc trọn vẹn. Nơi đó cũng là nơi mà Chúa Giê-su bảo rằng: Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, để Ngài ở đâu thì những kẻ tin vào Ngài cũng ở đó.

Hôm nay, lễ Chúa Giê-su về Trời là dịp để chúng ta nhìn lại chuyến đi cuộc đời của Ngài. Ngài đã đi qua kiếp ngườ iđầy thăng trầm hạnh phúc và khổ đau.Ngài đã đi qua những bể dâu của cuộc đời để tiến vào quê trời, là nơi không còn khóc lóc, than van và đau khổ. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời không ngừng chọn theo thánh ý Chúa Chađể từ khước những lời mời mọc của ma quỷ thật ngọt ngào, thật quyến rũ về danh lợi thú trần gian. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời dâng hiến để phục vụ tha nhân và phục vụ tin mừng Nước Trời. Ngài đã sống một cuộc đời như hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu mục nát để trổ sinh bông lúa vàng. Ngài đã đi đến cùng của việc xin vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu lời xin vâng cần phải thể hiện bằng chén đắng cuộc đời. Thế nên, Ngài đã được Chúa Cha ân thưởng và siêu thăng lên cõi trời. Ngài đã hoàn thành sứ mạng của mình tốt đẹp và nay về trời chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa Cha.

Đó cũng là con đường mà Chúa luôn mời gọi chúng ta bước theo. Đường thập giá tới vinh quang. Đường hẹp đưa ta vào cõi sống trường sinh. Đường từ bỏ danh lợi thú để sống cao thượng và thanh thoát hơn. Đừng đam mê tật xấu. Đừng nuông chiều xác thịt. Hãy sống tiết độ. Hãy vác thập giá của bổn phận, của hy sinh phục vụ anh em để nhờ đó mà ta được đổi mới nên tốt hơn, nhất là được lột bỏ con người cũ để sống sự sống con người mới, con người của con cái sự sáng, ngõ hầu mai sau cũng được phục sinh với Chúa.
Cuộc đời là một hành trình. Hành trình tiến về thiên quốc. Hành trình này không thể đạt được bằng sự dễ dãi, nuông chiều xác thịt. Hành trình này đòi phải hy sinh, phải phấn đấu mới mong đạt được. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhìn lên trời cao là đích điểm của mình để can đảm từ bỏ những đam mê tội lỗi trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta biết lột bỏ con người cũ cùng những tính hư nết xấu của mình để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa hơn, ngõ hầu mai sau cũng được về quê trời hưởng phúc vinh quang với Chúa. Amen

--------------------------

 

LênTrời ABC-373: MỪNG CHÚA LÊN TRỜI


- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC

Thưa anh chị em,

 

Chúng ta đã trải qua 40 ngày mừng Chúa Phục Sinh, hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta hân LênTrời ABC-373


Chúng ta đã trải qua 40 ngày mừng Chúa Phục Sinh, hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta hân hoan mừng kỷ niệm Chúa về trời. Mừng Chúa lên trời, là chúng ta tuyên xưng một tín điều trong Kinh Tin Kính đó là: “Người sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha”. Chúa lên trời dạy chúng ta điều gì?

-Ngài dạy chúng ta một chân lý: “Sự sống này thay đổi chứ không mất đi, chết không phải là hết, không phải là tận cùng, nhưng là bước vào một cuộc sống mới “. Như vậy chúng ta xác tín rằng: đây là cuộc sống lữ hành “Sống gửi thác về”. Bởi thế gian không phải là nhà, Thiên đàng hoan lạc mới là quê hương. Chúa đi trước dọn chỗ cho chúng ta, nơi đó là cõi nguồn hạnh phúc, là phần thưởng dành cho những ai suốt đời khao khát tìm kiếm những sự trên trời.

 Chúng ta hy vọng ngày mai đây sau khi nhắm mắt lìa đời, sẽ được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước trời, nếu ở đời này chúng ta ăn ngay ở lành và gắng bước theo Chúa. Chúng ta tin rằng mọi việc lành đều sinh công phúc; mọi đau khổ nếu vui lòng chịu vì lòng yêu mến, Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau. Vì Chúa trải một kiếp người đầy đau khổ mới bước vào vinh quang ngàn đời.

– …. Ngài dạy chúng ta đi rao truyền chân lý

Chúa về trời, là Ngài hoàn tất sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài trối sứ vụ đó cho các môn đệ cũng như cho chúng ta như một bài sai: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con…” (Mt. 28,19).

Chúa muốn chúng ta tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng cứu độ. Bởi vì trong ba năm đi rao giảng, bước chân của Ngài chỉ đi trong nước Palestine nhỏ bé, còn lại cả một thế giới mênh mông ngút ngàn Ngài chưa đi tới. Còn biết bao dân tộc xa xăm chưa biết Chúa là ai, chưa một lần nghe nói về danh thánh Ngài; chưa biết được hạnh phúc Nước trời là gì. Chính vì lẽ ấy Chúa mời gọi: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng…” (Mc. 16,15).

Nhưng trước khi sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng, thì Chúa Giêsu đã ra đi trước rồi. Ngài vâng lệnh Chúa Cha ra đi từ trời cao xuống đất thấp. Ngài ra đi từ địa vị Thiên Chúa xuống làm con người, để ở cùng ở với chúng ta.

Ngài ra đi khỏi gia đình êm ấm lang thang trên khắp nẻo đường. “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20).

Chúa không ngừng ra đi đến với mọi miền đất nước. Chẳng hạn như: Chúa đến miền Thập Tỉnh phần đông là người ngoại đạo.  Miền bị ma quỉ thống trị. Miền mồ mả chìm trong bóng tối sự chết. Chúa đến và gặp người khổ cực nhất. Chúa đã giải thoát họ khỏi thần chết, đem lại ơn sức sống cho họ.

Noi gương Chúa, chúng ta không những ra đi khỏi ngôi nhà êm ấm, nhưng còn là ra đi khỏi con người sống chủ nghĩa cá nhân, an phận, lo vun đắp cho mình, mà không hề biết dấn thân, quảng đại chia sẻ với những người kém may mắn.

Qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gieo rắc tình thương, loan tin bình an, cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương, để con người xích lại gần nhau hơn, sống công bình bác ái, như lòng Chúa mong muốn.

-. … Ngài dạy chúng ta lo tìm kiếm nước Chúa

Tìm kiếm Nước Chúa là mỗi sáng khi thức dậy, người đầu tiên chúng ta phải nhớ là Chúa. Việc suy nghĩ tìm kiếm đầu tiên phải là Nước trời, bởi vì Chúa nói “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Trời trước, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau ” (Mt 6,33).

Anh chị em thân mến,

Mừng kỷ niệm Chúa Giêsu lên trời và lời Ngài hứa “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “(Mt. 28,20). Chúng ta hiểu rằng: Chúa lên trời không theo nghĩa thể lý hay không gian. Mặc dù Chúa không hiện diện cách hữu hình nữa, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách thiêng liêng và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường dương thế.

Mừng lễ Chúa lên trời, xin Chúa giúp chúng ta đừng tìm kiếm những sự mau qua ở đời này, nhưng hãy lo tìm kiếm những sự trên trời, bằng cách sống chân lý Chúa dạy; biết thi hành mệnh lệnh Chúa trao, và lo tìm kiếm Nước Chúa. Có như thế, chúng ta mới hy vọng sau khi nhắm lìa đời, chúng ta được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước Trời.  Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-374: Nối kết giữa trời và đất


Trời hay đất?

 

Sự sống, hạnh phúc bất tận, tình huynh đệ phổ quát và niềm vui sẽ không qua đi. Đó là tất LênTrời ABC-374


Sự sống, hạnh phúc bất tận, tình huynh đệ phổ quát và niềm vui sẽ không qua đi. Đó là tất cả những gì mà Tin Mừng hứa hẹn. Đó là tất cả những gì dường như không thể đối với chúng ta ở thế giới này, nhưng  sẽ có thể ở thế giới bên kia. Thế giới khác: chỉ có điều đó, là thực sự quan trọng.

Hãy chấp nhận làm việc trên trái đất này, hãy chịu đựng ngay bây giờ, sau này mọi thứ sẽ tốt hơn. Bây giờ chúng ta hãy chịu đựng nỗi đau, sự đau khổ và cái chết, chúng ta sẽ có phần thưởng trên thiên đàng. Những gì là không thể trong thế giới này sẽ được ban cho cho chúng ta dư dật ở trên cao. Hãy kiên nhẫn: những gì quan trọng là thế giới khác, những gì quan trọng là trên trời.

Đó lầ lối suy nghĩ cổ xưa: Vừa đúng lại vừa sai. Tốt hơn hết là chúng ta không suy nghĩ như thế nữa. Thời đại hôm nay người ta chỉ trích rất nhiều lối suy nghĩ như vậy. Thế giới hưởng thụ hôm nay coi các Kitô hữu là những người bạn đồng hành xấu, những kẻ đào ngũ và hèn nhát. Ngày nay chúng ta đã mất ngôn ngữ của trời. Vì thế, chúng ta đã học lại để yêu trái đất và làm việc trên trái đất này.

Trời và đất

Tất nhiên, sống trên trái đất này, ham muốn của chúng ta vẫn bị hạn chế. Chúng ta sẽ không bao giờ nhận ra hạnh phúc hoàn hảo trên thế giới này. Tốt hơn hết! Hãy giới hạn mình vào những gì chúng ta có thể bây giờ thay vì chạy trốn cuộc sống này để mơ về một hạnh phúc vô hạn chỉ có thể ở đời sau:

- Ngày xưa, người ta đã nói với chúng ta: "Điều quan trọng là trên trời".
- Ngày nay, chúng ta tuyên bố: "Điều quan trọng là trái đất! "
- Ngày xưa, chúng ta mơ ước một hạnh phúc hoàn hảo trong thế giới bên kia.
- Ngày nay chúng ta muốn đạt được một hạnh phúc khập khiễng trong thế giới này.

Dù sao, giữa trời và đất, bằng mọi cách, chúng ta phải lựa chọn:

- Chúng ta sẽ bỏ qua đời sống chúng ta để khao khát những điều không thể, hay là làm điều nhỏ bé có thể trên trái đất này?

- Giữa trời và đất, hôm qua chúng ta chọn bầu trời, hôm nay nhiều người thích đất.

- Giữa trời và đất, Chúa Giêsu không chọn. Ngài đề xuất cả hai cùng một lúc đối với các môn đệ của Ngài. Ngài nói: “Hỡi người Galile, sao anh em còn đứng nhìn lên trời? Anh em hãy đi tới muôn dân...Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày”. Sau khi lên trời, Chúa Giêsu đã nói với môn đệ rằng: Ngài càng không bỏ trái đất này, Ngài càng hiện diện trên trái đất này khi Ngài lên trời cao nhất.

Sự nối kết không thể?

Chúa Giêsu đã thiết lập giao ước trời và đất, giữa thực tại hữu hình và vô hình. Nhờ Ngài, điều không thể trở thành có thể: trời đã có thể truy cập được trên trái đất này và trái đất được gieo trồng ở trên trời. Chúa Giêsu mời các tông đồ theo Ngài làm điều đó: “Hỡi người Galile, sao anh em còn đứng nhìn lên trời?  Chính trong thế giới này mà họ thuộc về, họ tuân giữ các điều răn của Chúa và loan truyền điều răn đó cho thế giới. Chúa Giêsu đề nghị các tông đồ: một mặt, họ phải sống cụ thể và phải hoạt động động cụ thể như chúng ta đã thấy trong sách “Công vụ tông đồ”; mặt khác, họ còn phải: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Hãy dạy họ tuân giữ các điều răn của Thầy”.

Chúa Giêsu mở rộng ước muốn của bạn bè Ngài về chiều kích Nước Trời. Ngài mời họ khao khát những điều không thể, nếm thử những điều không thể. Chúa Giêsu gắn cho họ một nhiệm vụ không thể theo cái nhìn của con người, đó là yêu cầu các tông đồ biến đổi tất cả các dân nước. Ngài mời gọi họ sống trên trái đất này như là trời hoặc như là chính là Thiên Chúa với trái tim rộng mở. Ngài mời gọi họ sống nối kết trời và đất.

Hãy nếm những điều không thể!

Noi gương các tông đồ, chúng ta không lựa chọn giữa trời và đất. Chúng ta không có lựa chọn nào giữa việc chờ đợi rằng điều không thể sẽ hiện thực ở thế giới khác, hoặc chỉ làm những điều nhỏ bé có thể trong thế giới này. Ước muốn trời không phải chỉ cam chịu nhiều bất công trên trái đất, mà còn phải khao khát trái đất này không còn những bất công tồi tệ nữa. Chúng ta đừng cam chịu chờ đợi trời, và cũng đừng cam chịu không thể làm được gì trên trái đất này với khả năng của chúng ta đứng trước những bất công..

Sứ mệnh môn đệ Chúa Giêsu Kitô
Sứ mệnh của người muốn sống sự sống của Thiên Chúa:

- Không phải chỉ cố gắng xây dựng Vương quốc công lý và hòa bình mà Chúa Giêsu nói.

- Mà còn phải nếm thử điều không thể để xây dựng vương quốc ngay từ trái đất này.

Người môn đệ của Chúa Kitô được mời gọi sống nối kết giữa trời và đất.

Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa

--------------------------

 

LênTrời ABC-375: Suy Niệm Tin Mừng: Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên Năm B


Lời Chúa: Mc 16, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh". Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

Suy niệm

 

Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Lời rao LênTrời ABC-375


Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Lời rao giảng của Ngài không phải như lời người phàm nhưng là Lời ban sự sống và mang lại ơn giải thoát. Ai tin vào Lời của Ngài và lãnh nhận Phép Rửa thì sẽ được ơn cứu độ.

 Chúa Giêsu về trời, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình với con người nữa, nhưng hiện diện cách phong phú và sống động khi cộng đoàn được qui tụ nhân danh Ngài, khi Lời Ngài được công bố, và khi Hội Thánh cử hành các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu tiếp tục hoạt động trong Giáo hội để Tin Mừng của Ngài được loan báo cho mọi loài thụ tạo. Lời Ngài còn được vang vọng trong thế giới qua đời sống chứng tá hàng ngày của các Kitô hữu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, trước khi về trời, Chúa trao cho Giáo Hội sứ vụ tiếp nối công cuộc loan báo Tin mừng của Chúa đến tận cùng trái đất. Lời Chúa hôm nay giúp chúng con khám phá ra rằng, dù còn giới hạn và bất toàn, nhưng chúng con không đơn độc, vì Chúa luôn ở cùng để biến đổi chúng con và biến đổi thế giới này. Ý thức có Chúa cùng đồng hành, xin cho chúng con luôn biết nhiệt thành cộng tác và can đảm làm chứng cho Tin mừng nước Chúa. Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-376: NIỀM HI VỌNG VÀO ĐẤNG VỀ TRỜI


“Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (Lc 24,49).

 

Đức Giêsu làm nhiều cách để minh chứng về sự Phục Sinh của mình cho những người được gọi LênTrời ABC-376


Đức Giêsu làm nhiều cách để minh chứng về sự Phục Sinh của mình cho những người được gọi để làm chứng nhân. Nhưng giờ đây, Ngài phải tỏ ra cho các môn đệ biết mục tiêu cuối cùng của việc sống lại. Bằng cách lên trời trong lần xuất hiện cuối cùng này, Đức Giêsu mặc khải ý nghĩa cuộc đời Ngài. Ngài xuất phát từ Chúa Cha. Giờ đây, Ngài trở về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài không trở về một mình. Ngài mang theo những ai đã tin tưởng gắn bó (Ep 4,8), mà Ngài đã kéo ra khỏi quyền lực của bóng tối để đưa vào vương quốc của ánh sáng (Cl 1,13). Từ đó mở ra cho chúng ta niềm hi vọng con đường về trời.

Niềm hi vọng được lên trời cùng Chúa giúp chúng ta xây dựng đời mình qua hành trình cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Niềm hi vọng này không có gì có thể cướp mất được cho dù là gian truân, sầu khổ, bách hại hay gươm giáo, bởi chúng ta biết chúng ta đặt niềm hi vọng vào ai (x. Rm 8,35).

Vinh quang của Đấng Về Trời còn giúp chúng ta hướng vọng về những thực tại trời cao vượt xa những đòi hỏi trần thế. Những thực tại trời cao không phải là những gì chúng ta không nắm bắt được hay những điều viễn vông mà là những gì chân thực, thánh thiện. Đó là một sự khao khát nên hoàn thiện, một tâm hồn đơn sơ, và một cuộc đời khó nghèo. Đó là giọt mồ hôi, nụ cười và nước mắt của người cha, người mẹ dành cho con cái. Đó là sự phục vụ âm thầm của biết bao con người đang hi sinh vì Giáo hội và cho phần rỗi các linh hồn.

Niềm hi vọng vào Chúa Giêsu lên trời còn giúp chúng ta kí thác vào Ngài những lời cầu xin, những đau khổ, bệnh tật và những ước vọng sâu kín nhất trong tâm hồn như một lễ phẩm dâng lên Chúa Cha. Uớc mong nhân loại cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha và nhận biết Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ước mong một thế giới không còn hận thù, hòa bình sẽ triển nở trên mặt đất. Uớc mong cho mọi tâm hồn được lấp đầy tình yêu và bình an.

Lạy Chúa, là Đấng lên trời vinh hiển, xin gieo niềm hi vọng và biến đổi bộ mặt trái đất, để dù đang sống giữa những thử thách và hiểm nguy, chúng con cũng luôn biết hướng vọng về quê trời và vững tin một ngày nào đó cũng sẽ được lên trời cùng Chúa. Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-377: CHÚA GIÊSU KYTÔ LÊN TRỜI MÀ VẪN Ở DƯỚI ĐẤT ?


Mc 16, 15-20

1- Quan niệm về "trời đất"

a- Theo vũ trụ quan của người Việt nam:

 

Trời là một quãng không (impersonnel) ở trên đầu ta đối với đất ta đang đứng đây: Trên trờì có LênTrời ABC-377


-Trời là một quãng không (impersonnel) ở trên đầu ta đối với đất ta đang đứng đây:

Trên trờì có đám mây xanh,
Ờ giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.

Trời quang, mây tạnh, trời u ám, trời nắng, trời mưa.
- Trời là Ông Trời (personnel):

Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân. (Kiều, câu 3241)
...

" Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa". (Kiều, câu 3249 )
b- Theo Thánh Kinh

Dưới mắt người Do thái, trời là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, là một kiến trúc vững chắc có các cột trụ chống giữ (Giop 26,11), có nền móng chắc chắn ( 2 Sm 22,8), có bể chứa nước, tuyết, băng giá, gió (Giop 38,22; Tv 33,7), có các cửa cống để tuôn các chất đó ra: tháo cống nước làm mưa, tháo cống gió làm gió (Stk 7,11; 2 V 7,2; Mal 3,10).

Trời ở trên, đất ở dưới. Trời là nhà của Thiên Chúa ( Is 66,1) và đất là phần Thiên Chúa ban cho loài người (Tv 115, 16). Không ai lên trời được (Gioan 3,13; Cn 30,4; Rm 10,6). Kẻ mơ ước lên trời là người điên (xem Stk 11,4 ) vì tự xem mình đồng hàng với Thiên Chúa (Is 14,13).

Chỉ có Chúa Giêsu Kytô đã lên trời vì Ngài từ trời xuống:

"Thầy từ trời mà xuống, không phải làm theo ý Thầy, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Thầy" (Gioan 6,38). Thầy phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến"(nt 8,42).

Và khi Chúa Kytô đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha trong mầu nhiệm Vượt qua (chết và sống lại ), Ngài trở về với Chúa Cha bằng "con đường thăng thiên":

" Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Marcô 16,19).

" Đang khi chúc lành cho họ, thì Người rời khỏi họ và được đem lên trời" (Luca 24,51)

"Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa "(Công vụ 1,9)

" Thiên Chúa đã biểu dương nơi Đức Kytô, khi làm cho Đức Kytô sống lại từ cõi chết, và đặt ngư bên hữu Người trên trời" (Ephêso 1,20)

"Thiên Chúa ban cho ta một lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kytô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời" ( I Phêrô 3,21-22).

Đức Tin dạy chúng ta biết Ngôi Hai Thiên Chúa xuống mặc lấy thân xác người phàm như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, gọi là Đức Chúa Giêsu Kytô. Vậy Chúa Giêsu Kytô là Thiên Chúa thật và là người thật. Là Thiên Chúa Ngôi Hai, Ngài ở khắp mọi nơi bằng bản tính và Ngôi Vị nên không thể nói Ngài "lên trời hoặc xuống trần gian ". Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm của chúng ta, như vậy khi sống như con người thì phải hoạt động trong Thân xác có giới hạn trong phạm vi của nó trên bình diện tự nhiên. Khi sống lại, vào trong vinh quang (siêu nhiên), thân xác Chúa biến đổi hợp với tính siêu nhiên, nhưng vẫn là thân xác loài người, có những hạn chế, giới hạn. Chúa Kytô lên trời tức là thân xác của Ngài lên trời nghĩa là được đưa lên trời, được vinh thăng trong Nươc Trời, Ngài làm chủ, làm vua trời đất muôn loài, muôn vật. Và khi Ngài hiện ra, không có nghĩa là Ngài từ trời xuống, nhưng là Ngài ban ơn đặc biệt để các Tông đồ thấy con người của Ngài, nghe tiếng Ngài nói như cũ.

Hiểu như trẻ thơ thế nầy: Chúa sống lại, hiện ra cho các Tông đồ thấy rồi biến đi, trốn vào một nơi bí mật, rồi lại hiện ra. Cứ thế trong vòng bốn mươi ngày, sau đó Chúa mới lên trời. Thật ra, khi sống lại, thân xác Chúa đã ở cõi siêu nhiên, cõi trời rồi và Ngài hiện ra tức là Ngài ban ơn cho người ta thấy,nghe Ngài nói. Đến ngày thứ bốn mươi, Chúa hiện ra lần chót bằng một "cử chỉ lên trời" đề cho các Tông đồ biết Ngài không còn hiện ra như thế nữa.

Nhưng sự kiện Chúa thăng thiên có một tầm rất quan trọng nên thánh Phaolô đã nói rất mạnh: " Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải Người đã xuống tận các vùng sâu thẩm dưới mặt đất. Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi từng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn"( Eph 4,9-10). Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người "( Col 2,14-15). Bản văn nhấn mạnh đến cuộc "đảo chính" (truất phế) vì một nhóm người xem Chúa Kytô ngang hàng với thiên thần nên phải "truất phế, bêu xấu, trói tay" điệu chúng đi trong đám rước chiến thắng của Chúa Kytô.

Về phần tín hữu của Chúa Kytô, vì Chúa lên trời mở đầu cho việc Chúa trở lại trong vinh quang giữa hàng thần thánh, ban ơn cứ độ viên mãn (xác sống lại trong vinh quang), đây là thời gian "trời đất giao hòa" vì Chúa lên trời mà còn ỡ trần gian. Ngay từ bây giờ, dầu chúng ta còn sống trên cõi trần, "Chúa Kytô đã cho chúng ta được cùng sống lại với Người và cùng ngự trị với Người trên cõi trời"( Eph 2, 6), "cũng như chúng ta dã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì nay chúng ta đang mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến ( 1 Cor 1,49). Tín hữu giống như người thiên quốc, " không thuộc thế gian nhưng không được cất khỏi thế gian "(Gioan 17,15-16) và phải hoàn thành sứ mệnh Chúa trao phó trước khi Chúa lên trời nên rất cần sự hiện diện của Chúa tức là Chúâ ở lại cùng Hội Thánh cho đến tận thế. Công đồng Vatcan II đã dạy như thế nầy: Chúa Kytô hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện thực sự trong Hy lễ, không những trong con người của thừa tác viên, vì " như xưa chính Người đã tự dâng mình trên thập giá thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục", nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình thái Thánh Thể.

Người hiện diện thiết thực trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người; vì thế, ai rửa tội thì chính là Chúa Kytô rửa. Người hiện diện thiết thực trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Sau hết, Người hiện diện khi Hội Thánh cầu nguyện và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa: " Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở giữa họ"( Mt 18,20) (Hiến chế Phụng vụ, số 7).

Lm. Fx Nguyễn hùng Oánh  (Nguồn vietcatholic.org)

--------------------------

 

LênTrời ABC-378: PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG


LỄ CHÚA THĂNG THIÊN NĂM B

CN VII PS / B - LỄ CHÚA THĂNG THIÊN

Bài đọc 1: (Cv 1: 1-11).
Bài đọc 2: (Êph. 1: 17-23).

Tin Mừng: (Mc 16:15-20)

 

Sau một lần thất vọng về cái chết của Thầy, nay được nhìn thấy Thầy đã sống lại, các môn đệ LênTrời ABC-378


Sau một lần thất vọng về cái chết của Thầy, nay được nhìn thấy Thầy đã sống lại, các môn đệ vui mừng và hy vọng Thầy sẽ tiếp tục công việc khôi phục vương quốc Israen: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israen không?” Không trả lời cho họ là phải hay không phải, Chúa Giêsu lại nói: “Anh em không cần biết thời giờ hay kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1 : 6-8). Niềm vui và hy vọng vừa được phục hồi thì đột ngột Thầy lại bỏ các ông mà lên trời, làm các ông ngơ ngác bàng hoàng cứ đứng đó nhìn Thầy khuất dạng trong đám mây: “ Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1: 9-11) Và nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã “ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16: 20)

Chúa Giêsu từ trời xuống thế làm người. Sau ba năm công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ, Ngài đã bị người ta giết chết trên cây thập giá. Ba ngày sau, Ngài đã phục sinh, rồi Ngài lại trở về trời để được tôn vinh và ngồi bên hữu Chúa Cha. Đó là chuyện tất yếu. Nếu Chúa Giêsu không về trời thì chương trình cứu chuộc con người rồi sẽ đi về dâu?

Chúa Giêsu về trời không phải để phủi tay hết trách nhiệm, nhưng việc Ngài trở về trời lại hé mở cho nhân loại một niềm hy vọng lớn lao cho cuộc sống mai sau: Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em, và Thầy sẽ trở lại để đón anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy. Việc Chúa Giêsu về trời cho chúng ta thấy cứu cánh của cuộc hành trình nơi trần gian rồi sẽ đi về đâu. Điều này cho chúng ta có một tầm nhìn mới về giới hạn của thế giới này và chiều kích vĩnh của cho cuộc sống mai sau.

Chúa Giêsu về trời để hoạt động ở một phạm vi rộng lớn không còn bị hạn chế về không gian và thời gian. Sự lên trời, trở về nhà Cha không có nghĩa là không có mặt hay không còn hoạt động trên mặt đất, nhưng lại là dấu hiệu chứng tỏ Ngài hiện diện liên lỉ ở bất cứ nơi đâu trên trái đất.

Lời huấn dụ cuối cùng trước khi về trời không phải là một lời kết thúc công việc rao giảng Tin Mừng của Ngài hay là một lời phó thác trách nhiệm cho các môn đệ, nhưng là một huấn thị cho một chương trình hành động mới được phát động rộng rãi để phối hợp hành động ở trên trời và đưới đất: các tông đồ “ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” Chúa Giêsu đang điều hành công việc trên trời. Chúa Thánh Thần, Đấng hỗ trợ con người hành động. Con người là cánh tay hành động của Thiên Chúa ở trần gian và Chúa Giêsu cùng hành động với con người qua trung gian của Chúa Thánh Thần.

Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Như thế việc Chúa về trời không phải là chấm dứt việc Ngài hiện diện với chúng ta; ngược lại, Ngài vẫn luôn đồng hành với chúng ta qua mọi thời đại.

Sống ở trần gian để hướng về nước trời là nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian theo tinh thần của Tin Mừng là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước Trời. Chu toàn cuộc sống ở trần gian theo tinh thần Tin Mừng là kết qủa của cuộc sống mai sau trên trời. Thực hành tốt đẹp cuộc sống ở đời này theo Tin Mừng là chúng ta góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian theo chương trình của Thiên Chúa là chúng ta dọn chỗ ở trên trời. Trần gian không phải là nơi để chúng ta gắn bó, nhưng là cơ hội để chúng ta chuẩn bị cho nước trời.

Việc Chúa về trời còn cho chúng ta thấy ngoài cõi sống tạm bợ ở đời này, chúng ta còn có một quê thật cần hướng tới. Cuộc sống ở đời này sẽ là kết quả của cuộc sống ngày mai nếu chúng ta để tâm lực cho cuộc sống ấy.

Ngoài nhiệm vụ sống tốt đẹp cuộc sống ở đời này cho mình, chúng ta còn có nhiệm vụ cùng cộng tác với Thiên Chúa để cùng đem ơn cứu rỗi đến cho hết mọi người ở khắp mọi nơi như lời Chúa đã truyền cho các môn đệ ngày xưa và cho chúng ta hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” ( Mc 16:15-16)

Chúa Giêsu xuống trần gian không phải chỉ để rao giảng Tin Mừng cứu độ một lần là xong, nhưng công việc ấy còn kéo dài bao lâu nhân loại chưa quy về một mối như mong ước của Thiên Chúa; bao lâu con người còn vì tự do của mình mà tách rời khỏi Thiên Chúa thì công việc rao giảng Tin Mừng cứu độ vẫn còn tiếp tục cho đến khi cả nhân loại quy về một mối là Cha trên trời. Nhiệm vụ của Chúa xuống thế làm người không phải để vinh danh Ngài, nhưng là để cứu chuộc nhân loại. Tình thương của Thiên Chúa không để mất một ai như chủ chiên để 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc.

Lời Chúa nói với các môn đệ ngày xưa cũng là lời truyền dạy chúng ta hôm nay. Với phương tiện và sinh hoạt của các môn đệ ngày xưa, cùng lắm cũng chỉ có thể thực hiện được ở Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê hay Samari, nhưng cho đến tận cùng trái đất thì đó lại là trách nhiệm của chúng ta hôm nay.

Một số thanh niên Kitô Giáo đang tham dự một trại hè quốc tế. Một trong những đề tài được đưa ra cho các trại sinh thảo luận và đào sâu là những ý tưởng về công tác truyền bá Phúc Âm giữa lòng thế giới.

Cuộc thảo luận rất bao quát và phong phú: nào là việc sử dụng các phương tiện truyền thông như truyền thanh, truyền hình, nào là quảng bá những bài viết trên báo chí... Sau cùng, khi không còn ý kiến nào phát biểu nữa, một thiếu nữ Phi Châu đã đứng lên và phát biểu ý kiến: “Ở đất nước chúng tôi, khi chúng tôi nhận ra một làng ngoại giáo nào đó đã sẵn sàng tiếp nhận Kitô Giáo, chúng tôi không gửi đến họ những quyển sách hay những vị thừa sai; nhưng chúng tôi gửi đến họ một gia đình Công Giáo tốt lành. Gương sáng của gia đình ấy  là một lời tuyên xưng Phúc Âm mạnh mẽ hơn tất cả những sách vở trên thế giới này.”

Đây cũng là một trong những cách rao giảng Tin Mừng cứu độ của ngày hôm nay. Bao lâu còn có ai, còn có nơi nào chưa đón nhận được Tin Mừng cứu độ thì Chúa vẫn cần chúng ta làm công việc ấy. Chúng ta loan truyền, rao giảng không phải chỉ bằng những lời nói suông mà phải bằng chính cuộc sống của mình.

--------------------------

 

LênTrời ABC-379: SỨ MẠNG PHỔ QUÁT


Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm:

 

Các môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn đệ” Người, chứ không LênTrời ABC-379


Các môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn đệ” Người, chứ không phải trở thành môn đệ của chính mình.

1- Ngữ cảnh

Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến ngữ cảnh trực tiếp, đó là mộ trống với hai sứ điệp, một tích cực, một tiêu cực:

a) Sứ điệp tích cực

Sứ điệp tích cực được gửi đến trong hai thì:

- bởi sứ thần khi ngài giao phó cho các phụ nữ hai sứ mạng là làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và loan báo cho các môn đệ lệnh triệu tập của Đức Giêsu (28,1-8). Đây là kinh nghiệm tiêu cực về sự Phục Sinh.

- bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh (28,9-10): Người cho các phụ nữ sống một kinh nghiệm thực hữu về sự Phục Sinh của Người và giao cho họ cùng một sứ mạng, là triệu tập các môn đệ về Galilê.

Đoạn văn Mt 28,16-20 cho hiểu rằng các phụ nữ đã chu toàn hai sứ mạng được giao: khi quy tụ về quả núi đã được chỉ định tại Galilê, các môn đệ chứng tỏ các ông đã tin vào chứng tá của các phụ nữ liên hệ đến cuộc Phục Sinh để cũng có thể tin vào lệnh triệu tập được các bà chuyển cho.

b) Sứ điệp tiêu cực
Sứ điệp tiêu cực là truyện sai lạc về Đức Giêsu, được toán lính tung ra theo trò bịp bợm của các thủ lãnh Do Thái.

Đoạn văn này nêu bật sự tương phản (c. 16: de) giữa các thủ lãnh Do Thái và toán lính một bên, và bên kia, là Đức Giêsu và các môn đệ Người, giữa sứ điệp do người Do Thái tung ra và thực tế; vậy đoạn văn này chính là một lời phi bác tin đồn thất thiệt đã được phổ biến. Đối với người Do Thái, Đức Giêsu là một xác chết, còn các môn đệ Người là những tên trộm cắp và dối trá; trong thực tế, Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, đã sống lại, được ban cho toàn quyền của Thiên Chúa và đảm bảo bằng sự hiện diện đầy uy lực của Người; các môn đệ Người không tìm cách đánh cắp thi hài, nhưng đã đi về Galilê, đi xa ngôi mộ, để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Mừng sẽ đi đến với “mọi dân tộc”, chứ không như tin đồn thất thiệt kia, chỉ được loan truyền “giữa người Do Thái” mà thôi. Giáo huấn phổ quát (didaskontes) mà các môn đệ của Đức Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt đối (didaskalos, 23,8), sẽ cống hiến cho mọi dân tộc sẽ hoàn toàn vượt xa những gì toán lính phổ biến, vì họ đã làm theo lời “các thượng tế dạy” (edidachthêsan, 28,15). Các môn đệ sẽ được che chở và nâng đỡ “cho đến tận thế”, không phải bởi một quyền bính nhân loại như quyền bính của các thượng tế, nhưng bởi uy quyền của Đấng Phục Sinh, Chúa tể vũ hoàn.

2- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (28,16-17);

2) Các lời nói của Đức Giêsu (28,18-20):
a) Mạc khải về quyền năng (18),
b) Lệnh truyền giáo (19-20a),
c) Hứa hiện diện hỗ trợ (20b).

3- Vài điểm chú giải

- Về phần mười một môn đệ (16): Ở đầu c. 16 này, có tiêu từ de (“và”, “rồi”; “nhưng”; “về phần”) hẳn là để nêu lên sự tương phản giữa báo cáo sai lạc của toán lính với sự thật về cuộc hiện ra của Đức Giêsu với mười một môn đệ.

- Mười một môn đệ (16): Trong Mt, Đức Giêsu có một nhóm các “môn đệ” (mathêtês: từ này được dùng trong Mt 73 lần, Mc 46 lần, Lc 37 lần, Ga 78 lần. Có 65 trong Mt ở số phức) luôn luôn được xác định bằng quán từ (article) hoi (x. 5,1; 8,21; 9,10; 12,1; 13,10; 14,15; 15,2; 16,5; 28,7). Điều này khẳng định rằng họ được biết rõ trong tư cách đó và họ không phải là nhóm “bảy mươi hai” của Lc (vả lại, Lc không gán cho nhóm “bảy mươi hai” cái tên “môn đệ”, mà là “bảy mươi hai người khác”, x. Lc 10,1). Các ông là những người sống hiệp thông với Thầy mình (“einai meta” [“ở với”]), tháp tùng Thầy trong sứ vụ của Người (9,19), cùng làm việc với Người để phục vụ các đám đông (9,36-37), được nêu ra làm gương cho các đám đông và được giới thiệu như là gia đình đích thực của Đức Giêsu (12,46-50). Mt xác định rằng các ông là “mười hai môn đệ” ( 10,1; 11,1; hay là “Nhóm Mười Hai”: 20,17; 26,20; ở c. 10,2, các ông cũng được gọi là “mười hai tông đồ” cùng với tên của các ông).

Con số “mười một” nhắc đến sự vắng mặt thê thảm của Giuđa, “một trong Nhóm Mười Hai” (26,14.47; x. 10,2.4): sự hư hỏng đã xảy ra ngay trong nhóm, tức là đây không phải là một nhóm toàn vẹn; với lại, tất cả các ông khác đều đã té ngã (x. hoi mathêtai: 26,56b; Phêrô: 26,69-75). Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải.

- ngọn núi (16): To oros (danh từ với quán từ xác định) cho hiểu rằng chính là trên một quả núi mà Đức Giêsu và các môn đệ đã biết, nhưng không cung cấp một xác định nào khác.

- Bái lạy (17): Mt chỉ dùng động từ proskyneô (Mt 13 lần; Mc 2 lần; Lc 2 lần) cho những ai đã nhìn nhận phẩm giá của Đức Giêsu và diễn tả sự nhìn nhận đó ra bằng hành vi này (x. các hiền sĩ: 2,2.8.11; người phong cùi: 8,2; ông trưởng hội đường: 9,18; các môn đệ trên thuyền: 14,33; bà Canaan: 15,25; mẹ các con ông Dêbêđê: 20,20; các phụ nữ tại mồ: 28,9).

- Nhưng có mấy ông lại hoài nghi (17): Trong Tân Ước, động từ distazein chỉ xuất hiện ở 14,31 (Phêrô đi trên mặt nước) và ở đây. Động từ này nhắc đến những gì Tin Mừng đã nói biết bao lần về phẩm chất của đức tin của các môn đệ: ở 6,30; 8,26-27; 14,31; 16,8; 17,20 (x. câu 17). Mt là tác giả duy nhất ghi nhận “đức tin lớn (megalê hê pistis)” của bà Canaan (15,28). Cùng với đề tài đức tin, Mt trình bày đề tài sự hiểu biết (synienai) và không hiểu biết: ở 15,16; x. 16,12; 17,13.

- Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18): Động từ edothê ở thì aorist thái bị động trần thuật (passive indicative): Thì aorist nhắm đến một sự kiện đã hoàn tất, chứ không phải là một lời hứa hay một niềm hy vọng; hẳn là ta có thể nghĩ đến một quan hệ mặc nhiên với sự phục sinh. Thái bị động đây là một thái bị động thay tên minh nhiên của Thiên Chúa. Hơn nữa, cách thức khẳng định cách tuyệt đối như thế gợi ý rằng Thiên Chúa là tác giả (so sánh c. 18b với 11,25).

Đề tài exousia cũng là một đề tài quan trọng của Mt (9 lần: 7,29; 8,9; 9,6; 9,8; 10,1; 21,23; 21,24; 21,27; 28,18). Từ ngữ có nghĩa là “quyền hành”, “uy quyền”, “quyền lợi”, “khả năng”, là những đặc tính của giáo huấn và cách hành động của Đức Giêsu: phân đoạn 5,1–7,29 (Bài Giảng trên núi) giới thiệu Đức Giêsu như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong lời nói” (x. 7,28), còn phân đoạn 8,1–9,38 giới thiệu Người như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong hành động” (x. 11,2) (Đức Giêsu khẳng định rằng Người có exousia này: 9,6; dân chúng: 7,29; viên sĩ quan: 8,9; khi thấy người bại liệt được chữa lành, dân chúng tôn vinh Thiên Chúa: 9,8; Đức Giêsu nói về quyền của Người và từ chối cho biết nguồn gốc của quyền ấy: 21,24.27). Câu 28,18 là như tổng hợp về đề tài này và là một câu trả lời cho nhà chức trách tôn giáo: Đức Giêsu không phải là một người mất trí hay một kẻ tiếm quyền; Người đã nhận được quyền bính này trọn vẹn, trên toàn vũ trụ, từ Thiên Chúa (chứ không phải từ tay ma quỷ, x. 9,34). Ở đây, điều được khẳng định là quyền(exousia) đã được Thiên Chúa ban.

- hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (19): Trong các Tin Mừng, động từmathêteuein chỉ được sử dụng ở Mt (13,52; 27,57; 28,19) với hai nghĩa: 1) nghĩa nội động (intransitive): trở thành môn đệ (13,52; 27,57); 2) nghĩa ngoại động (transitive): làm thành môn đệ; làm cho ai thành môn đệ (28,19; x. Cv 14,21). Đây không phải là chỉ trình bày, cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng, nhưng là kiến tạo một quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Kiểu mẫu của quan hệ này chính là quan hệ của Đức Giêsu lịch sử với các môn đệ đã được Người kêu gọi (môn đệ đi theo [akolouthein, x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28], Thầy đi trước [proagein, x. 26,32; 28,7]).

- nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (19): Công thức “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” một công thức phép rửa. Qua công thức này, ta găp thực tại chúng ta có trong các Tin Mừng Nhất Lãm: đó là quan hệ chặt chẽ giữa đời sống và công trình của Đức Giêsu với Cha Người trong Chúa Thánh Thần. Cựu Ước biết đến vị Thiên Chúa tạo thành trời đất, đây là vị Thiên Chúa mà họ đến trình diện trong tư cách là các thọ tạo hoàn toàn khác với Ngài và không có quyền đi vào đối thoại với Ngài. Đức Giêsu loan báo vị Thiên Chúa có một người đối thoại trong bình diện thần linh. Chúa Con ở trước mặt Chúa Cha, và hai Đấng được liên kết với nhau, biết nhau, hiểu nhau và yêu thương nhau trọn vẹn và hoàn hảo nhờ Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội nhận chìm chúng ta vào trong vùng quyền lực của vị Thiên Chúa này.

- Này đây Thầy (20): Mt chuộng thức mệnh lệnh idou này. Nên ghi nhận là công thức long trọngidou egô luôn luôn có quan hệ với ý tưởng sứ mạng: 10,16; 23,34 et 28,20.

- Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20): Khi nói minh nhiên pasas tas hêmeras(tất cả các ngày), Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ.Heôs tês synteleias tou aiônos (cho đến tận thế) có nghĩa mục tiêu, nơi đến: nhắm đến tận thế. Từ ngữ synteleia (hoàn tất; kết cục) luôn được sử dụng với aiôn có nghĩa là “thời gian hiện tại”, “tình trạng hiện nay của tạo thành” (x. 13,22; 12,31). Synteleia tou aiônos có nghĩa là “khi kết thúc thời gian của thế giới này”. Người ta chờ đợi một kết thúc thời gian này với việc Đức Giêsu ngự đến (x. 24,3).

4- Ý nghĩa của bản văn

* Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (16-17)

Phần thứ nhất kể lại các hành vi của các môn đệ trong quá khứ (aorist) (đi tới, c. 16; bái lạy, c. 17; hoài nghi, c. 17). Bản văn cũng ghi nhận một hành vi của Đức Giêsu, “đã truyền” (etaxato, c. 16), nhưng chắc chắn đây là một hành vi Đức Giêsu đã làm trước các hoạt động của các môn đệ được kể lại trong đoạn văn này; hành vi này lại chỉ là một mệnh lệnh, một hành vi nói. Ngược lại, trong các bản văn khác về hiện ra, Đức Giêsu hành động cùng nhịp với những người có mặt, chẳng hạn, ở Mt 28,9, Đức Giêsu đến gặp (hypêntêsen) các bà. Phải chờ đến c. 18 để gặp được một hành vi của Đức Giêsu, nhưng cả hành vi này cũng chỉ là một hành vi nói (elalêsen).

Các nhân vật chính của phần thứ nhất là hoi hendêka mathêtai, “mười một môn đệ”. Con số này nhắc đến sự phản bội của cả nhóm. Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải. Các môn đệ tiến về một nơi đã được Đức Giêsu xác định trước và theo thông tin của các phụ nữ (lệnh của sứ thần (28,7) và lệnh của Đức Giêsu ban cho các phụ nữ).

Trong Mt, ta không thấy có một lệnh minh nhiên của Đức Giêsu là đi đến một ngọn núi được xác định, nhưng có những chi tiết liên hệ đến Galilê. Tất cả các chi tiết này, khi được đặt vào trong bối cảnh là cuộc Thương Khó và Phục Sinh, thì giống như những tia chớp hy vọng được ban cho các môn đệ (tại núi Ô-liu, Đức Giêsu đã nói đến Galilê: 26,32; tại mộ, vị thiên thần đã nhắc đến Galilê: 28,7; Đức Giêsu xác nhận sứ điệp: 28,10). Chuyến đi đưa các ông về nơi Đức Giêsu đã chỉ định cho thấy rằng họ vừa thi hành lệnh Đức Giêsu truyền, họ vừa ý thức rằng họ đang được trở vào trong tình bằng hữu với Người, tình bằng hữu mà Người đã mời họ đến khi gọi họ là “anh em của Thầy” (28,10).

Như thế, câu truyện sẽ kết thúc ngay tại nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu đã bắt đầu: tại “Galilê, miền đất của dân ngoại”, đã xuất hiện ánh sáng có sức thắng vượt bóng tối của tử thần (4,15-16) và giúp cho có thể bắt đầu việc rao giảng cho muôn dân (28,19). Ở đây tầm quan trọng của Galilê đặc biệt có tính thần học: Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ Người tại nơi chính của hoạt động trần thế Người (nhất là theo Mc và Mt); điều này giả thiết có một sự tiếp nối giữa Đức Giêsu trần thế và Đức Kitô Phục Sinh, một sự tiếp nối mà c. 20a sẽ nêu bật minh nhiên (“[bằng cách] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”). Do chính sự kiện này, Người xác nhận việc loan báo đầu tiên của Người, hoặc đơn giản hơn, xác nhận trọn vẹn sứ mạng của Người và giới thiệu sứ mạng ấy như mẫu mực cho các môn đệ.

Lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ (28,10), “họ phải đi đến Galilê”, là một mệnh lệnh, còn “họ sẽ được thấy Thầy ở đó” là một lời hứa. Vậy bản văn của chúng ta là sự hoàn tất mệnh lệnh ấy và sự thực hiện lời hứa ấy.

“Ngọn núi” không phải là một nơi mà người ta hẳn là có thể xác định theo địa lý; đây là nơi tiêu biểu cho mạc khải (5,1: “Bài Giảng trên núi”; 15,29: mạc khải của Đấng cứu thế, Đấng nuôi dưỡng dân Người như Môsê xưa kia trong hoang địa; 28,16: “ngọn núi” xuất hiện lần thứ ba, để cũng nêu bật tầm quan trọng của mạc khải như thế).

Sự kiện các môn đệ “thấy” Đức Giêsu được kín đáo giới thiệu bằng một vị tính từ (participle), lệ thuộc động từ chính: “các ông bái lạy”. Việc “thấy Đức Giêsu” chỉ được nhắc đến ngắn ngủi ở đây, khác với các bài tường thuật khác về hiện ra, nhưng nó chẳng còn giá trị gì khi nói về niềm tin Phục Sinh. Sự kiện quan trọng đối với Mt là “các ông bái lạy” (prosekynêsan), đây là cách tôn kính mang tính tôn giáo và thậm chí phụng vụ. Thái độ này diễn tả trước những gì sẽ được lời tuyên bố ở c. 18b loan báo về quyền của Đức Giêsu. “Nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (c. 17). Ở đây, nỗi ngờ vực đã xảy đến idontes, “khi thấy Người” như là Đấng Phục Sinh. Chúng ta phải ngạc nhiên khi thấy phát sinh nỗi ngờ vực, nghĩa là một tình trạng ngần ngại, lưỡng lự, trong bối cảnh lại quá đậm đặc và tiêu biểu này. Phản ứng này xuất hiện nhiều lần trong các bài tường thuật khác về hiện ra. Nỗi hoài nghi được thắng vượt mỗi lần một cách: Đấng Phục Sinh xin các ông cho ăn (Lc24,41tt); Đức Giêsu hiện ra một lần nữa với các môn đệ lúc đầu không tin (Mc 16,14tt); Tôma có thể chạm tới các vết thương của Đức Giêsu (Ga 20,24-29). Ta không thấy có gì tương tự ở đây cả.

Có lẽ sự hoài nghi này liên hệ đến một thời đại muộn màng hơn: cộng đoàn hôm nay không còn thấy Đức Giêsu bằng mắt thịt nữa, họ có thể rơi vào hoài nghi; họ phải thắng vượt khó khăn này nhờ dựa vào lời của Đấng Phục Sinh. Các lời nói của Đức Kitô Phục Sinh và sự vâng phục của các môn đệ với lời Người là cách thế duy nhất giúp vượt qua nỗi hoài nghi.

* Các lời nói của Đức Giêsu (18-20)

Đứng trước đức tin xen lẫn hoài nghi của các môn đệ, lời Đức Giêsu nói cung cấp câu trả lời. Đấng Phục Sinh không trách các ông về sự bất trung hoặc về nỗi hoài nghi; thậm chí Người cũng không xua tan nỗi hoài nghi bằng một cử chỉ hoặc một chứng từ bổ sung. Người đến gần các ông và nói. Người từ xa đến với những người là các môn đệ Người, vâng phục Người và đang cung kính bái lạy Người. Chỉ mình Người có thể vượt qua khoảng cách bằng cách đi đến với các ông. Proserchomai là một động từ được Mt ưa chuộng (Mt 52x; Mc 5x; Lc 10x; Ga 1x), nhưng chỉ có hai lần ông diễn tả một hành vi chủ động của Đức Giêsu (ở đây và ở 17,6-7: hai đoạn riêng của Mt): trong trường hợp này, Đức Giêsu đến gần là để nâng đỡ những người đang hoài nghi hoặc đang sợ.

Vấn đề ở đây là một lời nói, vấn đề ở đây là nghe chứ không phải là thấy. Chính lời nói của Đức Giêsu tạo được sự trấn an diễn tả ra bằng hành vi đến gần: Người tự tỏ mình ra trong lời Người nói như là Đấng được đặt để trong quyền bính và nói với uy quyền. Trong tư cách đó, Người hiện diện trong thời gian của thế giới, trong Giáo Hội cho đến tận thế.

Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18b). Được đặt ở đầu bài diễn từ, mạc khải này đỡ nâng các khẳng định tiếp sau: lệnh truyền và lời hứa. Đức Giêsu khẳng định quan hệ của Người với Thiên Chúa và vị trí hiện nay của Người: chính Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu (so sánh với 9,6.8; 11,27 và Đn 7,14), đã ban cho Người tất cả các quyền hành trên trời dưới đất.

Theo lời rao giảng tiên khởi (kêrygma) của các tông đồ, do Phục Sinh, Người đã được đặt làm Đức Chúa (Kyrios) trên vũ trụ và làm Thẩm phán vào lúc tận thế. Trong thực tế, bản văn không nói cho biết là Người đã được Chúa Cha đặt để như thế khi nào, nhưng nhấn mạnh rằng quyền lực tối thượng này của Đấng Phục Sinh là vô biên (pasa) tự nó trong sự viên mãn và trong cường độ của nó: trong không gian, Đấng Phục Sinh hiển trị trên vũ hoàn (trời và đất), như trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhìn nhận là Chúa tể trời đất, nghĩa là Đấng Tạo hóa và Bảo toàn tất cả vũ trụ; và trong thời gian, Người hiển trị bây giờ và cho đến tận thế.

Bây giờ, trong tư cách là Đấng đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng mạc khải cánh chung cho biết ý muốn của Thiên Chúa và là Đấng thực hiện dự phóng cứu độ của Ngài. Các môn đệ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng họ được ban cho quyền này.

Từ oun, “vậy”, gợi ý là lệnh truyền này là hậu quả của tuyên bố về quyền vũ hoàn của Đức Giêsu, là sứ mạng của Nhóm Mười Một phát xuất từ quyền bính của Đức Kitô. Tuy nhiên, lệnh truyền được ban cho toàn nhóm, điều này cho thấy rằng bổn phận truyền giáo là một nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn chứ không của một vài cá nhân. Uy quyền (c. 18) và sự hiện diện của Đức Giêsu (c. 20) sẽ cho các ông đủ tư cách và uy tín mà chu toàn bổn phận này.

Khi đi rao giảng, các môn đệ không chỉ trình bày, chỉ cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng (keryssein), nhưng là kiến tạo mộtcộng đoàn có quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu là kiểu mẫu cho sự hiệp thông với Người mà mọi dân tộc đang được đưa dẫn tới. Kể từ nay, kiểu mẫu này là chuẩn mực cho mọi Kitô hữu: “môn đệ” có thể nói là định nghĩa ngắn nhất của Kitô hữu. Được giao sứ mạng “làm ra các môn đệ”, Nhóm Mười Một đang hiện diện ở đây sẽ có thể rút ra từ đó biết bao hệ luận: một đàng, kinh nghiệm sống với Đức Giêsu phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho họ trong hoạt động; đàng khác, tư cách môn đệ không phải là của riêng thuộc về những bạn đồng hành lịch sử của Đức Giêsu trần thế, trái lại đây là tư cách mà kể từ nay mỗi người được mời gọi đi vào. Tất cả đều được mời gọi trở thành”môn đệ Đức Giêsu”, vị Thầy duy nhất (x. 23,8.10).

Chiều hướng phổ quát đã được báo trước trong lời nhắc đến Abraham (1,1), trong truyện các đạo sĩ (2,1-12), vị sĩ quan Caphácnaum (8,5-13), bà Canaan (15,21-28), viên sĩ quan canh giữ Đức Giêsu trên đồi Sọ (27,54). Đi đến với các dân tộc đã là chọn lựa của Đức Giêsu, cho dù trong diễn từ truyền giáo (ch. 10), Người đã truyền các môn đệ là chỉ đi đến với các chiên lạc Israel thôi. Tính phổ quát truyền giáo này còn được báo trước ở 24,4 và 26,13, và bây giờ được khẳng định như là ý muốn chính xác của Đức Giêsu. Điều bị cấm trước đây ở 10,5 (anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại) bây giờ được khuyến cáo thi hành (hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ): như đại đa số các lần xuất hiện, từ ethnç trong Mt có nghĩa chữ là Dân ngoại, lệnh này chỉ liên hệ đến Dân ngoại. Nhưng nếu Israel không còn là đối tượng của một sứ mạng đặc biệt, điều này không có nghĩa là Israel bị loại ra khỏi chân trời Phục Sinh. Rất có thể vào thời của cộng đoànMt, đã có một sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Hội đường; nhưng người Do Thái tiếp tục là một thực tại của cộng đoàn Mt. Nếu Israel bị kết án, mỗi người Do Thái vẫn có thể đến với cộng đoàn các môn đệ. Sẽ xuất hiện mộtcộng đoàn phổ quát trong đó mỗi người có một quan hệ trực tiếp và thân tình vừa với Đức Giêsu vừa với những người khác. Hoạt động của các môn đệ là một sự tiếp nối hoạt động của Đức Giêsu (4,23; 9,35; 11,1).

Để làm cho muôn dân thành môn đệ, hai việc các môn đệ phải làm là “làm phép rửa” nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và “giảng dạy”. Căn tính mới của Thiên Chúa là căn tính Cha, Con và Thánh Thần, mà người môn đệ bắt đầu quan hệ với qua bí tích thánh tẩy. Lệnh truyền giảng dạy đã được đặt vào cuối Tin Mừng, có thể là vì Mt coi nhiệm vụ giảng dạy như là nhiệm vụ cao nhất trong Hội Thánh. Nhóm Mười Một không được phép mở trường, nhưng tiếp tục học ở “trường” Đức Giêsu: các ông phải giảng dạy, như chính Đức Giêsu đã giảng dạy. Cho dù các ông đã nhận lãnh bổn phận giảng dạy, các ông sẽ phải mãi mãi duy trì chân tính môn đệ, bằng cách nhìn nhận và chấp nhận uy quyền của Đức Giêsu, bằng cách bây giờ tin vào Đức Giêsu như tin vào chính Thiên Chúa.

Đề tài giảng dạy đã có sẵn: các lệnh truyền của Đức Giêsu. TM Mt chứa biết bao lời giảng dạy của Đức Giêsu (trong năm diễn từ), nhưng nhất là giáo huấn của Bài giảng trên núi đáng được xét đến. Trong lệnh truyền giáo, Đấng Phục Sinh đã nói với các môn đệ là “dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (c. 20). Câu này chắc chắn quy về tất cả mọi lời nhắn nhủ, tất cả giáo huấn của Đức Giêsu trong TM Mt, nhưng đặc biệt qui về các lời nhắn nhủ trong Bài Giảng trên núi bởi vì Bài Giảng này chứa phần lớn những gì Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và có một giọng thôi thúc người ta thực hiện các lời nhắn nhủ này (x. 7,13-27).

Tuy nhiên, Đấng nói đây không còn là vị Thầy trần thế nữa, nhưng là Đức Chúa Phục Sinh, “Đấng đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”. Bây giờ, với uy quyền của Đấng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” trong mức viên mãn của sự Phục Sinh, Đức-Giêsu-đang-sống lấy lại giáo huấn của Bài Giảng trên núi và nhắc lại cho các thế hệ tương lai.

Mục tiêu không còn phải là chu toàn Lề Luật hoặc các Ngôn sứ, nhưng tuân giữ “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”. Như thế, chính Đức Giêsu đặt mình vào vị trí của “Lề Luật hoặc các Ngôn sứ” (x. ngay ở 5,21-48 với các công thức “Anh em đã nghe [Luật] dạy người xưa / Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”), Người là Đấng lập pháp tối cao, diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa. Thái độ này khi đó và lệnh truyền hiện nay gửi trở lại với các công thức khác nhau của Cựu Ước trong đó chính Đức Chúa (Yhwh) truyền lệnh cho dân Ngài là tuân giữ điều răn của Ngài (x. 2 Sb 33,8; Xh 34,32; Đnl 4,2; 12,14). Bây giờ Đức Giêsu thay thế Yhwh khi khẳng định ý muốn của Người. Và chắc chắn ý muốn thần linh này được tập trung nơi điều răn yêu thương, đỉnh cao và sự hoàn tất của Kinh Thánh (“Lề Luật hoặc các Ngôn sứ”: x. 22,40).

Tuy nhiên, hẳn là ta có thể nới rộng ý nghĩa của “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em” cho cả bốn bài diễn từ khác, bởi vì tác giả đã xác định rằng chúng cũng là những “chỉ thị/dụ ngôn/những điều” của Đức Giêsu (x. công thức kết luận mỗi bài diễn từ: 11,1; 13,53; 19,1; 26,1; x. 7,28-29). Vấn đề ở đây là các giáo huấn của Thầy về các điều kiện và bản chất của đời sống đích thực của người môn đệ và về nẻo đường thánh ý chân thực của Thiên Chúa, “nẻo đường công chính” (21,32).

Khi nói “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”, Đức Giêsu xác định giáo huấn của Người là như một lệnh truyền, như một đòi hỏi cấp bách (trong một ngữ cảnh tương tự, Mc nói đến “tin mừng”: 13,10; 14,9; Lc thì nói đến “hoán cải và tha thứ tội lỗi”: 24,47). Đấng Phục Sinh biến lời của Đức Giêsu trần thế thành chuẩn mực cho Hội Thánh mọi thời và “cho đến tận thế”. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh được coi là đồng nhất với sứ điệp của Đức Giêsu trần thế.

Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20b). Egô meth’ hymôn eimi. Giới từ meta + thuộc cách có nghĩa là “với” nhằm diễn tả sự hiệp thông, sự hiệp nhất (cơ bản là riêng tư cá nhân), sự cộng tác, khi đó là tương quan của Đức Giêsu với những người khác: Đặc biệt 28,20 đáp lại khởi đầu Tin Mừng, khi mà Đức Giêsu được giới thiệu lúc chào đời như là Đấng mà “người ta sẽ gọi tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (1,23). Ở đây chúng ta có một thể đóng khung rất lớn bung mở ra chiều kích vũ hoàn của bản thân Đức Giêsu trên toàn thể lịch sử nhân loại, đồng thời vẫn nêu bật sự bám rễ của Người về phương diện xác thịt trong thời gian và không gian. Thực tại Emmanuel này được diễn tả xuyên qua toàn thể Tin Mừng: Vào lúc chào đời của Đức Giêsu (1,23); trong khi hoạt động, Người hiện diện giữa nhóm môn đệ (9,15; 26,18.20.36.38.40; x. “Đức Giêsu dẹp yên biển động”, 8,23-27; egô eimi, 14,27); những lần Người tiếp xúc với người tội lỗi (9,11) và qua cái chết ban ơn cứu chuộc (26,28; x. 1,21; 17,17 so với Mc 9,19). Mt 28,20 hẳn là câu trả lời chung cuộc cho câu hỏi ấy. Bây giờ Người hứa ở với họ mãi mãi.

Trong Cựu Ước, bằng những thuật ngữ tương tự Ta sẽ ở với các ngươi mãi mãi, Yhwh thường đảm bảo với một tín hữu, một ngôn sứ, một thủ lãnh, toàn dân, nhất là trong bối cảnh một cuộc sai phái, là Người sẽ hiện diện, nghĩa làgiúp đỡ tận tình, với lòng từ bi thương xót, để cứu độ. ĐấngKyrios ban cho các môn đệ cũng một đảm bảo như Yhwh đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước. Người không thế chỗ cho các môn đệ, nhưng sẽ hiện diện với họ để nâng đỡ họ bằng sức mạnh, không do các đức tính hay các thành tích của các môn đệ, nhưng do sự trung tín hữu hiệu của Đấng đã đưa các lời hứa trong Kinh Thánh đến chỗ hoàn tất. Khi nói “tất cả các ngày”, Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ, và nhắm đến tận thế, “lúc kết thúc thời gian của thế giới này”.

+ Kết luận

Trên núi Galilê (28,16; x. 5,1), Đức Giêsu Phục Sinh, đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, tỏ mình ra như là Đấng mạc khải tối hậu của Thiên Chúa và Đấng lập pháp vĩnh viễn, nay cử các môn đệ đi đến với mọi dân tộc. Trong Cựu Ước, núi Sinai xuất hiện ra như là quả núi của mạc khải và của Giao ước, trên đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thông ban các điều răn của Ngài (Xh19,1–24,11). Từ Sinai, dân Israel bắt đầu cuộc hành trình tiến về Đất hứa; trên núi Galilê, Đức Giêsu đích thân, trong tư cách Đấng Phục Sinh, tức đã đi vào trong đời sống Thiên Chúa, cho thấy đâu là mục tiêu của mỗi người trong “tất cả các dân tộc”.

Các lời kết thúc của Đức Giêsu đã đón nhận lấy các nội dung chính của TM Mt về sứ vụ không biên giới của các môn đệ. Điều này còn cho thấy một lần nữa chiều hướng tổng hợp hướng về sứ vụ phổ quát như là nét tiêu biểu của Tin Mừng này.

5- Gợi ý suy niệm

1. Nhóm môn đệ có mộtvết thương, gây ra do sự phản bội và sự biến mất của Giuđa. Họ không còn là mười hai, là là mười một. Vết thương này nhắc nhớ rằng tất cả đã bất trung với Đức Giêsu. Khi Người bắt đầu chuyến đi vào Thương Khó, các ông đã cắt đứt việc đi theo Người hoặc bằng cách chạy trốn (26,56) hoặc bằng cách giữ khoảng cách trong ba lần chối (26,69-75). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã chữa lành vết đứt này. Người không gọi những môn đệ mới, nhưng gọi chính những người đã thất bại trong thử thách Khổ Nạn. Khi các môn đệ đến nơi hẹn, Đức Giêsu không hề thốt ra mộtlời trách móc, mà lại còn giao sứ vụ, là sứ vụ của chính Người.

2. Nhận biết và hoài nghi là hai thái độ có thể đi với nhau, như lời xin của cha đứa bé trong Tin Mừng Máccô: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24). Do đó, cần phải nhìn lại tất cả hoạt động công khai của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Bây giờ Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ biết Người có toàn quyền, Người là Chúa tể không giới hạn, do quyền Chúa Cha ban cho Người. Người đã gọi các ông, các ông đã đi theo Người, đã nghe lời Người giảng dạy; Người đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đang sống trước mắt các ông và là Chúa tể tuyệt đối, các ông hãy tin trọn vẹn vào Người.

3. Các môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn đệ” Người, chứ không phải trở thành môn đệ của chính mình. Các môn đệ mới sẽ cùng các ông bước theo Đức Giêsu, nghĩa là liên kết với Đức Giêsu, hiệp thông cuộc sống với Người, chấp nhận Người chỉ cho mình lộ trình phải theo, xác định hình thái và chiều hướng sống, ký thác trọn vẹn nơi Người.

4. Những người được nhận lời hứa hiện diện thường trực cho đến tận thế, không chỉ là các môn đệ ở trên núi Galilê ấy mà thôi. Chân trời mở rất rộng: Đấng Kyrios không hiện diện giữa dân Người như trong mầu nhiệm nội tại và trong thực tại thần bí của Người, nhưng đúng ra, tại mọi thời và trong mọi tình huống, Người ở bên cạnh dân để trợ giúp và an ủi họ, để khích lệ và kêu gọi họ, và Người luôn luôn tháp tùng hoạt động của các sứ giả Người. Mt không nhắc đến Thăng thiên để không đưa Đức Giêsu đi xa cộng đoàn của Người: Người tháp tùng họ trong cuộc hành hương trần thế “cho đến tận thế”.

--------------------------

 

LênTrời ABC-380: Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông

 

Lễ Thăng Thiên tưởng niệm vừa một biến cố hữu hình, mà các Tông Đồ là những nhân chứng: cuộc LênTrời ABC-380


Lễ Thăng Thiên tưởng niệm vừa một biến cố hữu hình, mà các Tông Đồ là những nhân chứng: cuộc lên trời của Đức Giê-su, và một biến cố vô hình: việc tôn vinh Chúa Con trở về cùng Chúa Cha.

Cv 1: 1-11
Sách Tông Đồ Công Vụ tường thuật biến cố lên trời hữu hình: sau khi đã ban cho các môn đệ của Ngài những huấn lệnh sau cùng, Đức Giê-su biến mất vào trong đám mây trước mắt các ông.

Ep 1: 17-23
Trong thư gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô, thánh Phao-lô ca ngợi biến cố lên trời vô hình: việc tôn vinh Chúa Con bởi Chúa Cha, Đấng đặt Ngài trên muôn loài muôn vật và thiết lập Ngài làm đầu Giáo Hội. Biến cố này thiết lập niềm hy vọng lớn lao của Kitô hữu là được dự phần vào vinh quang nầy, bởi vì Giáo Hội là “thân thể” của Đức Kitô.

Mt 28: 16-20

Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu tường thuật một cuộc gặp gỡ duy nhất của Đức Kitô phục sinh với các Tông Đồ của Ngài trên núi Ga-li-lê ở đó Đức Giê-su mặc khải cho họ rằng Ngài đã đón nhận mọi quyền năng và sai họ ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân.

BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)

Sách Tông Đồ Công Vụ mà Chúa Nhật hôm nay trích phần đầu được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng thứ ba, Tin Mừng của thánh Lu-ca: cũng một tác giả và cũng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô nào đó mà chúng ta không biết.

Thánh Lu-ca hoàn tất sách Tin Mừng của mình ở nơi biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được đem lên trời…” Lời tựa ngôn của sách Công Vụ Tông Đồ nêu lên hai lần cùng một sự kiện: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (1: 9).

Như vậy, bằng cách trình bày văn chương, ở cuối sách Tin Mừng và đầu sách Công Vụ, biến cố Thăng Thiên xuất hiện chính xác như vừa hoàn tất vừa khởi đầu: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô ở giữa con người, và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài; hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su, và khởi đầu sứ mạng các Tông Đồ.

1. Hai biến cố Thăng Thiên:

Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên:

- Biến cố Thăng Thiên thứ nhất không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay sau biến cố Phục Sinh; đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức; và đó là sự tôn vinh của Chúa Con, sự tôn vinh mà Đức Giê-su xin trong lời nguyện của Ngài, trước lúc tử nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5).

- Biến cố Thăng Thiên thứ hai là cuộc lên trời hữu hình của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố liên quan chủ yếu đến chúng ta : đó là bản tính nhân loại, cùng với Đức Kitô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của chúng ta.

2. Lý do của biến cố Thăng Thiên hữu hình:

Tại sao Đức Giê-su chọn cách thức ra đi xem ra ngoạn mục nầy, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, phải chăng Đức Giê-su không thể loan báo cho họ rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, từ biệt họ rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày kể từ biến cố Phục Sinh?

Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách thức Đức Giê-su đã giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài trong suốt cuộc sống công khai của Ngài.

Ngài đã lên trời một cách hữu hình như vậy khi xưng mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật mà ngôn sứ Đa-ni-en thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời”. Với ông Ni-cô-đê-mô Đức Giê-su xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13).

Đức Giê-su sử dụng cùng một hình ảnh khi tuyên bố mình là“bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong bài diễn từ về bánh hằng sống, Ngài nêu lên sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống”. Cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo rõ ràng hơn biến cố lên trời tương lai của Ngài.

3. Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:

“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”:

Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở đây: nó hình thành nên một sự sóng đôi với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa, giữa phép rửa của Ngài bởi Gioan và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài, để chuẩn bị thi hành sứ mạng của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho các môn đệ Ngài thi hành sứ mạng.

Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy… Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi.” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa…

4. Cần thiết phải có Chúa Thánh Thần:

Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò những chỉ bảo sau hết cho các ông và loan báo cho họ trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.

Vào lúc đó một câu hỏi không thể nào tin được:

 “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Vì thế, giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn đó. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới…Nhưng vào lúc nầy, vì chưa có sức mạnh của Chúa Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.

5. Đức Giê-su biến mất trong mây trời:

Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; cũng đám mây bao phủ Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”. Cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.

6. Chiêm niệm và hành động:

Sức mạnh đến từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao “tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên vì Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ.

Chính là lúc phải hành động chứ không là những lưu luyến vô bổ như lời nhắc nhở của thiên sứ:“Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời? …Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”

Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao và Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng, vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hành động và chiêm niệm.

BÀI ĐỌC II (Ep 1: 17-23)

Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô này được chọn là có chủ ý để tưởng niệm biến cố Thăng Thiên của Đức Kitô. Mặc dầu không nêu đích danh biến cố Thăng Thiên, nhưng thánh nhân cho biến cố nầy chiều kích thần học: Đức Giêsu về cùng Cha đón nhận vinh quang và uy quyền, đồng thời kêu mời mọi tín hữu hãy dự phần vào cùng một cuộc sống vinh quang nầy.

Thánh nhân viết từ Rô-ma trong cảnh giam cầm vào những năm 61-63. Trong những thư viết trong tù này, thánh nhân cho chúng ta những suy niệm cao vời của mình về mầu nhiệm cứu độ và mầu nhiệm Giáo Hội, “thân thể của Đức Kitô”.

Trong đoạn trích thư này, chúng ta có thể phân biệt hai phần: phần thứ nhất: lời cầu nguyện, và phần thứ hai: những mối liên hệ giữa Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội.

1. Lời cầu nguyện:

Trong những thư sau cùng của thánh Phao-lô, lời cầu nguyện càng lúc càng trở nên quan trọng. Tất cả những thư mà thánh nhân viết trong cảnh bị giam cầm đều đón nhận thể văn cầu nguyện. Thánh nhân nhắc đi nhắc lại: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng. Anh em hãy cầu nguyện trong mọi lúc”. Chính ngài cũng cho họ mẫu gương. Lời cầu nguyện của ngài luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha. Trong bản văn nầy, Chúa Cha đón nhận tước hiệu “Chúa Cha vinh hiển”. Cách diễn tả nầy có thể là tước hiệu phụng vụ, do từ một viễn cảnh được nêu lên: viễn cảnh vinh quang mà Chúa Cha cho Chúa Con Phục Sinh được dự phần vào và, theo sau Chúa Con, mọi tín hữu.

Thánh Phao-lô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để họ càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa. “Hiểu biết Thiên Chúa” được hiểu theo Kinh Thánh là được sống với Ngài trong đức tin và đức mến, chứ không là một sự hiểu biết trừu tượng.

“Xin Ngài soi lòng mở trí cho anh em để anh em thấy rõ đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh”. Hai cách diễn tả: “niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi” và “gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng các thánh”, chỉ cùng một thực tại tinh thần: dự phần vào cuộc sống vinh quang của Chúa Con Phục Sinh. Quả thật, trong Cựu Ước, cách nói: “chia sẻ gia nghiêp” gợi lên một sự kiện lịch sử: chia sẻ Đất Hứa, nghĩa là đất Ca-na-an, giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en. Trong Tân Ước: “chia sẻ gia nghiệp” giữa những người được tuyển chọn, nghĩa là “đồng thừa tự” cuộc sống vinh quang với Đức Kitô.

2. Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội:

Lời nguyện xin cho được ơn soi sáng dâng trào thành lời ngợi ca tôn vinh Đức Kitô, Đấng được đặt làm Chủ Tể vũ trụ và Thủ Lãnh Giáo Hội.

“Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến những niềm tin rất phổ biến trong thế giới Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, theo đó những sinh linh thiên giới: những quyền lực thần thiêng hay tinh tú, chia sẻ việc điều hành vũ trụ với nhau, cả trong trật tự vật lý lẫn trong trật tự tinh thần.

Ở nơi số lượng đông đảo Quyền Thần nầy, chắc chắn phải kể đến những quyền lực của Ác Thần (Tử Thần là một trong số đó) mà Đức Kitô đã chiến thắng. Thánh nhân không nêu đích danh trong đoạn văn nầy, nhưng ở gần cuối thư: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là những quyền lực thần thiêng, với những bật thống trị tối tăm nầy, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 12).

“Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô”. Đây là câu trích dẫn trực tiếp từ Thánh Vịnh 8, nêu bật lên tư tưởng mà thánh Phao-lô muốn diễn tả. Qua những từ ngữ nầy, thánh vịnh gia gợi lên sự cao cả của con người được Thiên Chúa tạo dựng: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân.” (Tv 8: 6-7). Như vậy thánh nhân muốn nói rằng Đức Kitô là “Con Người” tuyệt hảo.

“Thiên Chúa đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô”.Hình ảnh nầy là chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô. Nó là đỉnh cao của việc suy gẫm dài lâu về mầu nhiệm Đức Kitô. Đầu ở đó thì toàn thân ở đó. Và đầu, không chỉ là yếu tố truyền lệnh, điều khiển, nhưng còn là một bộ phận sinh động, hiệp nhất, đảm bảo sự tăng trưởng của toàn thân. Khi nào sứ mạng của mình được hoàn thành, Giáo Hội sẽ hoàn tất ở nơi chính Đức Kitô.

TIN MỪNG (Mt 28: 16-20)
Đoạn kết Tin Mừng Mát-thêu này không nêu lên biến cố Thăng Thiên hữu hình, nhưng một hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ: Đức Kitô Phục Sinh hiện ra cho mười một môn đệ, loan báo cho họ quyền tối thượng hoàn vũ của Ngài, ủy thác cho họ sứ mạng loan truyền giáo huấn của Ngài đến muôn dân muôn nước, và đảm bảo với họ Ngài sẽ ở với họ luôn mãi.

Thánh Mát-thêu không tường thuật bất kỳ cuộc xuất hiện nào khác của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài sau khi Ngài sống lại, ngoại trừ cuộc hiện ra nầy. Thánh ký tập trung lời chứng về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và những dặn dò tối hậu của Ngài vào cuộc hội ngộ duy nhất này. Như vậy biến cố này mặc lấy một chiều kích đặc biệt. Nét tiêu biểu đáng chú ý của đoạn kết này là quy tụ toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu.

1. Ở Ga-li-lê:

Hoạt cảnh diễn ra ở Ga-li-lê. Đó là nơi Đức Giê-su đã hẹn gặp các môn đệ Ngài. Ba lần Ngài đã yêu cầu họ quy tụ với nhau ở nơi nầy. Lần thứ nhất sau khi Ngài báo trước Phê-rô chối Ngài và tất cả môn đệ sẽ vấp ngã vì Ngài: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. (Mt 26: 32). Vào buổi sáng Phục Sinh, thiên sứ đã nói với các người phụ nữ đến viếng mồ: “Hãy mau về nói với các môn đệ Người như thế nầy: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28: 7). Đức Giê-su đích thân hiện ra với các người phụ nữ và lập lại sứ điệp nầy: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28: 10). Mát thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp ở Ga-li-lê. Thánh Lu-ca định vị cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem, trong khi thánh Mát-thêu, vốn không thích thành thánh Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, dành riêng sứ điệp tối hậu của Đức Ki-tô cho Ga-li-lê.

Cuộc gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, núi nào chẳng quan trọng, vì núi chỉ là một biểu tượng. Không phải tại Tin Mừng Mát-thêu, trên một ngọn núi vang lên lời dạy các “Mối Phúc”sao?

2. Họ bái lạy Ngài:

“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”. Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh song song với những hoạt cảnh mà Mác-cô và Lu-ca mô tả, ở đó những nghi ngờ như vậy cũng được gợi lên: “Ngài tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một…khiển trách các ông không tin và cứng lòng…” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn tay chân Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24: 36-38).

Đức Giê-su tiến gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi cũng cố niềm tin của họ, Đức Giê-su ủy thác cho họ sứ điệp tối hậu của Ngài: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.”Quyền tối thượng hoàn vũ nầy không phải đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo trong thị kiến về“Con Người” sao?: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cữu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).

3. Sai đi thi hành sứ mạng:

Đoạn, Đức Giê-su ủy thác cho các Tông Đồ sứ mạng vĩ đại: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Rất nhạy bén trước chiều kích hoàn vũ của ơn Cứu độ, thánh ký hoàn tất tác phẩm của mình trên viễn cảnh bao la: muôn dân muôn nước trở thành muôn đệ của Đức Ki-tô.

Đồng thời “quyền giáo huấn Giáo Hội” được xác định: “Hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ngỏ hầu Giáo Huấn nầy được trung thành gìn giữ, Đức Giê-su hứa Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. “Thầy ở cùng anh em…” Đức Giê-su không dùng thì tương lai, vì thế đây không đơn giản là lời hứa nhưng một sự khẳng định. Cuộc ra đi của Ngài có nghĩa một sự hiện diện theo một hình thức mới. “Ta ở với các ngươi” là lời khẳng định của Đức Chúa, lời khẳng định này đã nâng đỡ dân Ít-ra-en suốt dòng lịch sử thăng trầm của mình. Như vậy, thánh Mát-thêu bắt đầu Tin Mừng của mình với nguồn gốc của Đức Giê-su: Em-ma-nu-en: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” và cũng kết thúc toàn bộ Tin Mừng của mình với việc Đức Giê-su hoàn thành Kinh Thánh: Ngài là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”‎.

--------------------------

 

LênTrời ABC-381: THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ!


Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Có ai đó đã nói/viết một câu chí lý rằng thì là: “Đức Giê-su đã không để lại một cuốn sách nào LênTrời ABC-381


Có ai đó đã nói/viết một câu chí lý rằng thì là: “Đức Giê-su đã không để lại một cuốn sách nào cho các môn đệ trước khi về trời; Người chỉ để lại một lời hứa và cũng là lời cam kết: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!” Và đối với các Ki-tô hữu và Hội Thánh Công giáo, chỉ bấy nhiêu là đủ.

Chúng ta hãy dành thời gian để chiêm niệm ý nghĩa của Lễ Chúa Giê-su Ki-tô Thăng Thiên và của lời mà Người đã hứa với các môn đệ ngày xưa và với chúng ta ngày nay.

II. LẰNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 1,1-11): Đức Giê-su được cất lên ngay trước mắt các ông
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,17-23): Thiên Chúa đã đặt Đức Ki-tô ngự bên hữu Người trên trời.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

* Là Thiên Chúa Cha, Đấng “đã biểu dương sức mạnh toàn năng nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh.

Hành động trên của Thiên Chúa Cha chính là ý nghĩa của Sự Kiện Thăng Thiên (lên trời) của Chúa Giê-su Na-da-rét.

* Là Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, Đấng

- “đã dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.”

- đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”

- đã giao sứ vụ giảng dậy và làm phép rửa cho các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”

- đã long trọng hứa với các Tông đồ: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”

- và đã lên trời trước mắt các Tông đồ: “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.”

* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở bên cạnh và hành động cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Đấng được Chúa Giê-su hứa ban cho các môn đệ để giúp các ngài thực thi sứ vụ mà Chúa Giê-su giao phó trước khi Người về trời.

3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm ba khía cạnh liên kết chặt chẽ với nhau:

Thứ nhất là tin Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu khổ hình (chết) và phục sinh, đã thăng thiên về trời.

Thứ hai là tin vào lời hứa của Người: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Thứ ba là thực thi lệnh truyền của Người cũng là sứ vụ Người giao cho chúng ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”

Mỗi người được Thiên Chúa và Hội Thánh mời nhìn lại mình xem trong cuộc sống hàng ngày mình đã thể hiện lòng tin và đã chu toàn sứ vụ như thế nào?

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như người bạn sống với bạn mình, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục!

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa qua 2 bước:

* Bước 1: Tăng cường lòng tin đối với Chúa Giê-su Ki-tô và với lời Người hứa, nhờ:

- đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày;
- chia sẻ Lời Chúa trong nhóm nhỏ;
- học hỏi và cầu nguyện Thánh Kinh;
- đào luyện tâm linh;
- các việc bác ái, từ bỏ và dấn thân.

* Bước 2: Hiến dâng tài năng, tâm trí, của cải và thời gian cho công cuộc loan báo Tin Mừng và hướng dẫn đời sống tâm linh cho những người cần được giúp đỡ.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]

5.1 “Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa là Cha của Người, để họ được Thần Khí khôn ngoan mặc khải về Mầu Nhiệm của Thiên Chúa.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Ki-tô hữu trở thành chứng nhân của Tin Mừng Cứu Độ!

5.3 “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người vững tin vào lời hứa và sự hiện diện của Chúa Giê-su Ki-tô trong cuộc đời mỗi người!

5.4 “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người thành tâm thiện chí và cho những ai khao khát chân lý đều nhận được sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.

--------------------------

 

LênTrời ABC-382: HÃY NGẨNG ĐẦU NHÌN LÊN


JM. Lam Thy ĐVD.

 

Bài đoc 1 hôm nay (Cv 1, 1-11) tường thuật mầu nhiệm thăng thiên: Đức Giê-su Ki-tô dặn bảo LênTrời ABC-382


Bài đoc 1 hôm nay (Cv 1, 1-11) tường thuật mầu nhiệm thăng thiên: Đức Giê-su Ki-tô dặn bảo các Tông đồ xong, thì Người được cất lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Tâm trạng các môn đệ hẳn nhiên là hoang mang lo sợ, bởi Người Thầy – mà cho đến giờ phút này các ông vẫn còn bán tín bán nghi (“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” – Mt 28, 17) – lại một lần nữa nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, thì ngay lập tức “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”. Cái mâu thuẫn của hiện tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”.

Tâm lý thông thường của con người là vậy, sống bằng và sống với giác quan: phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi hương (khứu giác). Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình luôn mãi, thì ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu không muốn nói là lo sợ, đau đớn, buồn rầu. Chính vì thế nên các Tông đồ chỉ lo nhìn lên theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị thử thách, khiến các môn đệ quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy. Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ đến cảnh tỉnh: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 11).

Sự mâu thuẫn giữa Lời dạy của Đức Giê-su và hiện tượng thăng thiên không chỉ làm các môn đệ thêm bán tín bán nghi, mà cho đến ngày nay cũng không ít người hoài nghi. Và nếu có tin vào biến cố thăng thiên, thì cũng chỉ coi Lời dạy “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là lời an ủi suông. Ấy cũng chỉ vì họ đã quên mất một điều là khi suy niệm Lời Chúa trong Thánh Kinh, cần chú ý đến cả hai phương diện: “nghĩa chiểu tự” (nghĩa đen) và “nghĩa thiêng liêng” (nghĩa bóng). Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã giải thích rõ : “Nghĩa chiểu tự” còn gọi là “nghĩa văn tự”, đó là nghĩa mà lời Thánh Kinh nêu lên. Tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh đều dựa vào nghĩa văn tự (Điều 116); Nhờ sự thống nhất trong ý định của Thiên Chúa, không những bản văn Thánh Kinh, mà cả các thực tại và biến cố được bản văn đề cập đến đều có thể là những tiên trưng, tức “nghĩa thiêng liêng” (Điều 117).

Trong “nghĩa thiêng liêng” lại cần chú ý đến “nghĩa ẩn dụ”, “nghĩa luân lý” và “nghĩa thần bí”: “Cần phải nhớ rằng thời các giáo phụ và thời trung cổ, mọi hình thức chú giải, kể cả hình thức chiểu tự, cũng đều được tiến hành trên căn bản đức tin, mà không nhất thiết phải phân biệt giữa nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng. Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria,/ Moralis quid agas, quo tendas anagogia.” (Chữ đen tức “nghĩa văn tự” nói tới biến cố; “nghĩa ẩn dụ” nói về điều phải tin; “nghĩa luân lý” dạy điều phải làm; “nghĩa thần bí” hay “nghĩa thiêng liêng” dạy điều phải vươn tới” – T/H Lời Chúa, số 27 ; Giáo lý HTCG, điều 118).

Đừng nhìn lên dõi theo bóng Thầy rồi hoang mang lo sợ, mà hãy nhìn lên và cố gắng hiểu cho được việc làm của Người (nghĩa chiểu tự: biến cố “thăng thiên”), để từ đó tin vào mầu nhiệm cứu chuộc (“nghĩa ẩn dụ”) qua Lời Chúa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4). Đồng thời, hãy nhìn xuống bản thân mình cùng với anh em mình để mà thực thi sứ vụ do chính Người Thầy Chí Thánh truyền dạy trước khi về trời (“nghĩa luân lý”). Chỉ có như thế mới mong vươn tới cứu cánh Nước Trời (“nghĩa thần bí”) là mục đích cuối cùng của hành trình thực thi sứ vụ một Ki-tô hữu.

Tuy nhiên, cũng rất cần phải ghi nhớ lời dạy “Cần phải vượt quá “chữ viết” của ĐGH Biển Đức XVI trong T/H Lời Chúa (số 28): “Như thế, muốn tái khám phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá (transcended) chữ viết: “Lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ viết trong bản văn. Muốn nắm được Lời của Người, phải có một sự vượt quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn trình sống”. Nói cách cụ thể, “được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong” thì cũng có nghĩa phải cậy nhờ vào Thần Khí Chúa soi sáng, như Người đã từng linh hứng cho các tác giả Kinh Thánh. Như vậy, có thể nói mầu nhiệm thăng thiên nhắc nhở mọi Ki-tô hữu 2 điều:

1- Chúa Giê-su về trời: Chúa về trời vì Ngườii đã từ trời xuống, đó là một cuộc “trở về”. Hơn thế nữa, Người chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, là Đấng Tạo Dựng, là Chủ Tể mọi loài thụ tạo, nên việc “trở về trời” của Người là trở về với địa vị Thiên Chúa của Người. Việc về trời của Chúa là một mầu nhiệm, nếu không được mạc khải thì khó lòng làm cho con người bất toàn có thể tin. Vì thế mới có hiện tượng thăng thiên để các môn đệ được thực mục sở thi (trông thấy nhãn tiền). Thực chất thì trời không có địa chỉ rõ ràng, nên Chúa về trời mà vẫn “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nói cách khác, khi Đức Giê-su Thiên Chúa về trời thì cũng có nghĩa là Người lại trở về với bản tính Thiên Chúa, không còn bị giới hạn bởi thân xác, không gian, thời gian nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng ở khắp mọi nơi, trong mọi thời đại, nhất là ở ngay trong tâm hồn các tín hữu của Hội Thánh Chúa.

2- Phải làm sao để được về trời với Chúa: “Chúa về trời”, đó cũng chính là ước mơ, là hoài bão của con người muốn được tồn tại trên nơi vĩnh hằng, xa khỏi thế giới vật chất đầy cạm bẫy chông gai. Con đường về trời của mỗi người cũng chính là con đường “làm chứng nhân” mà chính Chúa đã thực hiện và mời gọi mỗi người ”Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng trái đất. Và chính anh em là chứng nhân về những điều nầy” (Lc 24, 47-48). Chỉ đến khi người Ki-tô hữu thi hành sứ vụ chứng nhân đến độ thực sự “trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô” (Pl 3, 10), thì “phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5, 12).

Tóm lại, khi nhìn theo bóng Người Thầy được cất lên trời, các môn đệ tiên khởi mang một tâm trạng hoang mang lo lắng, nhưng được thiên sứ nhắc nhở, thì các ngài đã hiểu ra mọi sự. Nhờ thế, các ngài đã mau mắn thực hành Lời Chúa dạy: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 18-20). Và kết quả thật mỹ mãn: Giáo Hội với 12 vị Tông Đồ tiên khởi (đã chọn Mat-thi-a thay cho Giu-đa It-ca-ri-ốt) đã thành lập được nhiều Giáo đoàn (với “khoảng ba ngàn người theo đạo” – Cv 2, 41) trong một thời gian ngắn và cho đến ngày nay thì đã hiện diện trên khắp thế giới.

Người Ki-tô hữu hôm nay hãy hân hoan “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21, 28) để nhớ lại việc Đức Giê-su Ki-tô thăng thiên và chiêm ngưỡng Người trong vinh quang Thiên Chúa. Đồng thời làm theo lời Thánh Phao-lô Tông đồ trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mạc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.” (Ep 1, 17-20).

Vâng, hãy nhìn lên và cầu nguyện để hiểu được mầu nhiệm thăng thiên, và hãy nhìn xuống để sống Lời Chúa cách cụ thể với mục đích tối hậu là chiếm hữu và giúp anh em cùng chiếm hữu Nước Trời. Ôi ! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thăng Thiên).

--------------------------

 

LênTrời ABC-383: Cùng loan Tin Mừng với Chúa Giê-su


Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

 

Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Tin LênTrời ABC-383


Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người.

Tin Mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên trời thì Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Làm sao vừa lên trời xa cách các môn đệ lại vừa ở lại mãi với các ông được?

Xin mượn một thí dụ để giải thích điều nầy: Nếu tôi chỉ có một quả cam và tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.

Nhưng nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì!” rồi tôi đem “phân phát” điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người ngồi nơi đây, thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều khôn ngoan y như nhau.

Thế đó, nếu chỉ có một đơn vị vật chất hữu hình (như một quả cam) thì ta không thể đem ban phát cho nhiều người, mỗi người một đơn vị được; nhưng trái lại, điều gì thiêng liêng không lệ thuộc vật chất thì ta có thể đem “phân phát” cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món quà đó như nhau.

Tương tự như thế, khi Chúa Giê-su lên trời, chính là lúc Ngài chấm dứt sự hiện diện trong thân xác hữu hình để trở nên Đấng vô hình, thì Ngài không còn bị lệ thuộc vật chất, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nên Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và mỗi người đều có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình.

Chúa Giê-su ở với chúng ta để làm gì?

Là để đồng hành với chúng ta trên hành trình rao giảng Tin Mừng như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ… hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19-20) Như thế, hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngài qua chúng ta.

Lúc mới lên năm, tôi được cắp sách đến trường để học những con chữ đầu tiên. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Vì tôi không thể tự mình viết được bất cứ chữ gì, nên Dì nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì và như thế, Dì kèm cho tôi viết nên những con chữ đầu đời.

Hôm nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin Mừng và cứu độ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)

Còn rất nhiều người chưa nhận biết Tin Mừng của Chúa Giê-su. Tâm hồn họ là những trang giấy trắng. Chúa Giê-su rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin Mừng về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng ta hay không.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa khao khát cho nhân loại được cứu độ và Tin Mừng được thấm nhập vào tâm hồn mọi người, nhưng Chúa chỉ có thể thực hiện khát vọng đó qua những người phàm yếu đuối như chúng con.

Xin giúp chúng con biết hiến dâng đời mình cho Chúa toàn quyền sử dụng, biết đặt bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa, để Chúa viết nên những trang Tin Mừng trong tâm hồn nhân loại.

 

LênTrời ABC-384: Suy niệm của Đgm. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên

 

Hôm nay cả Giáo hội trọng thể mừng Mầu Nhiệm Chúa lên trời. Nói đến Chúa lên trời nhiều người LênTrời ABC-384


Hôm nay cả Giáo hội trọng thể mừng Mầu Nhiệm Chúa lên trời. Nói đến Chúa lên trời nhiều người lầm nghĩ: Chúa chịu chết trên thập giá để cứu rỗi nhân loại. Và giờ chết đến là xong là hết. Họ tin vào Lời Chúa đã phán trước khi tắt thở: “đã đoạn ấy là hết việc chuộc tội cho thiên hạ”.

Xét một mặt thì cũng đúng. Nhưng xét toàn bộ thì không đủ. Bởi việc Chúa cứu chuộc không phải chỉ hết chỉ xong trên thập giá. Chúa Ngôi Hai xuống thế cứu rỗi chúng ta, lập lại nước Thiên Chúa. Ngài đã tính cứu chúng ta bằng đời sống giảng đạo, làm các phép lạ. Nhưng vì có kẻ ác tâm quấy phá, có môn đệ phản bội, cho nên Chúa phải chết. Bằng lời giảng không xong, Chúa đã vâng lời Đức chúa Cha mà cố giảng dạy, chết cũng giảng không lùi. Chúa đã chết và như vậy Chúa đã trọn bổn phận.

Xét về công việc phải làm dưới trần gian thì thật là xong, nhưng xét về mầu nhiệm Chúa Giê su thì chưa xong. Chúng ta biết rằng thập giá không phải là tiếng nói cuối cùng, Chúa còn sống lại.Và sống lại mới là đích cùng. Phải nói thêm nữa, sống lại và lên trời. Chúa từ trời xuống, giảng dạy, chết, sống lại rồi về trời. Bấy giờ mới hết mới tròn cái vòng đời của Ngài. Nên lên trời mới là giai đoạn cuối cùng của mầu nhiệm. Việc cứu rỗi thế giới, với bản thân Chúa GS, đã xong khi tắt thở trên thập giá. Sau đó Ngài không còn phải làm gì thêm nữa. Nhưng vòng đời của Ngài thì chưa xong. Chỉ khi nào Ngài lên trời mới xong, mới trọn. Chính vì cậy, nhất là nơi Thánh Phaolô và trong Giáo hội ta hãy xem kinh tạ ơn bao giờ cũng gom lại một việc : Chúa xuống thế chịu chết, sống lại và lên trời. Đây là 4 giai đoạn của một mầu nhiệm, 4 bước của một đời người. Cả 4 bước mới là tròn một đời người, một Mầu Nhiệm. Dừng lại ở một điểm nào là sai, mà phải xét cả toàn bộ Mầu Nhiệm như quá trình một vòng kín cả 4 bước thành một. Thực sự thì mầu nhiệm bản thân ta cũng vậy. Cũng gồm 4 giai đoạn, cả 4 bước mới thành vòng đời của ta, không được dừng nửa chừng, không tách bước này khỏi bước kia, mà phải đan liền cả 4 bước với nhau thành một mầu nhiệm.

Một điểm thứ 2 nữa: Ta đã nói mầu nhiệm Chúa Giêsu, lên trời là xong. Chúa lên ngự bên hữu Đức Chúa Cha là được vinh quang sau khi làm nhiệm vụ bản thân xong. Tuy nhiên, mầu nhiệm cứu rỗi thì chưa xong. Việc chúng ta phải làm, phần chúng ta phải cộng tác, phải đóng góp thì chưa xong. Việc ấy chỉ khi nào đến ngày sau hết Chúa Giêsu trở lại mới xong. Sau cuộc biến đởi cuối cùng, cuộc phán xét sau cùng, Chúa đưa toàn thể con cái được tuyển dụng về bên Đức Chúa Cha cùng toàn thể tạo vật được giải phóng khỏi tội và sự chết thì lúc ấy mầu nhiệm cứu rồi mới hoàn tất. Việc bản thân Chúa Giêsu thì đã xong, việc của thân mình mầu nhiệm là giáo hội thì chưa xong. Con cái Chúa cần đem nghị lực phát sinh mà áp dụng vào bản thân, vào xã hội, vào tạo vật.

Vì thế, mà lên trời rồi Chúa chưa an tâm hưởng vinh quang. Ngài không thể không nghĩ đến chúng ta mà giúp đỡ. Ngài đã phái Thánh Thần xuống để bảo đảm, để trợ lực chúng ta, sao cho ăn chắc thắng lợi cuối cùng. Đã đành thế, nhưng ngự bên hữu Chúa Cha, Ngài luôn cầu bầu cho chúng ta vì Ngài chưa thể an tâm khi thấy con cái, còn đang phải chiến đấu. Thánh Phaolô đã nói: Chúa Giêsu đã không vào đền thánh do tay người phàm làm nên, song đã vào thiên đàng để ngày nay hiện ra trước mặt Thiên Chúa mà cầu bầu cho chúng ta. Chúa Giêsu là linh mục vĩnh viễn, bởi vậy, Ngài thừa khả năng để cứu những ai nhờ Ngài mà đến cùng Chúa Cha. Như thế, Chúa Giêsu đã lên trời mang Mình và Máu làm của lễ mà tế lễ Chúa Cha trên bàn thờ thiên đàng. Đến đây mới thực sự kết thúc của lễ hy sinh mới. Đến đây mới là nơi Ngài thực hành chức vụ linh mục của Ngài. Linh mục mới này tế lễ trên thiên đàng trước mặt Chúa Cha với chính Máu Mình đã đổ ra, với thân xác mình làm của lễ. Chúa lên trời là có ý như thế với Chúa Cha. Còn với chúng ta thì để cầu bầu cho chúng ta. Và rồi khi mọi sự hoàn tất, chúng ta cùng mọi tạo vật được cứu rỗi sẽ được Ngài dẫn đưa về trời bên cạnh Ngài và bấy giờ Mầu nhiệm cứu rỗi toàn thể đầu và thân mình mới thật sự xong. Mầu nhiệm bản thân ta cũng mới xong.

Đến đây chúng ta thấy mỗi chúng ta đều rất quan trọng trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Dịp cuối năm 1992, đâu đó ai cũng khác lác nhau về bộ phim “người giàu cũng khóc”. Theo đánh giá chung thì đây là một bộ phim rất thành công và sự thành công đây lại là công lao của diễn viên Veronicastro, thủ vai Mariana. Từ khắp nơi trên thế giới, mỗi ngày Veronicastro nhận được biết bao nhiêu là thư khen ngợi. Nhưng một điều đáng suy nghĩ là càng đề cao Veronicaste, người ta càng quên lãng mất những diễn viên đã đóng góp lớn vào sự thành công của chị Mariana như ông bà Andato, chàng Louis vị linh mục nhân hậu và nhất là Esther. Công bằng mà nói, sự thành công của Veronicastro cũng là sự thành công của các vai khác, nghĩa là mỗi vai trong cuốn phim đều góp phần xứng đáng vào sự thành công chung. Vũ trụ cũng là một sân khấu, trong đó, mọi loài mọi vật đều là một diễn viên, nghĩa là đều có một vai diễn. Tất cả đều phải cố gắng làm xuất sắc vai diễn của mình để cuốn phim vĩ đại thiên nhiên được thành công. Nói thế, tức cũng là nói mọi loài mọi vật, nhất là con người phải giữ một vai nhất định. Chúa đã phân công. Ta phải hoàn thành xuất sắc theo ý định của Ngài. Mừng lễ lên trời hôm nay chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước nhìn trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng phải ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa cho anh em chung quanh. Chúa Kitô đặt hết tin tưởng vào ta để mỗi khi hoàn thành tốt bổn phận nơi trần gian, chúng ta sẽ được trở về với Chúa mình trên trời. Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-385: Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Khi đến giờ Ðức Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha, Người phán cùng các LênTrời ABC-385


Khi đến giờ Ðức Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha, Người phán cùng các môn đệ nhiều điều. Người nói với họ về niềm tin, tình yên và lòng mến (Ga 12, 44-50; 14, 1-6). Người trấn an các ông bằng cách để lại bình an cho họ, truyền dạy họ mến thương nhau, đồng thời kết hợp với Người như cành nho với thân nho, ở lại trong tình yêu của Chúa Cha (Ga 14; 15). Và nhất là Người hứa xin Chúa Cha ban cho các môn đệ “Đấng Phù Trợ khác“(Ga 14, 16) để ở với các ông luôn mãi.

Chúa Giêsu đã lên Trời, chúng ta vừa cử hành biến cố ấy với niềm vui và hy vọng, nay hướng lòng về Lễ Ngũ Tuần, chờ đợi lời hứa của Chúa Giêsu với các môn đệ là xin Chúa Cha gửi Chúa Thánh Thần xuống được thực hiện. Đặt mình vào vị thế của các Tông đồ “sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi gọi là Núi Ôliu mà trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện ” (Cv 1, 12-14). Giờ đây chúng ta qui tụ bên nhau, giống như các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly để cầu nguyện. Lời Chúa Giêsu phán : “Ta sẽ không bỏ các ngươi mồ côi, Ta sẽ đến với các ngươi” (Ga 14, 18). Chắc chắn “chúng ta sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các chúng ta” (Cv 1, 8).

Trước khi ra đi về Trời, Chúa Giêsu đã tiên báo về cái chết và sống lại của mình, cũng như sự vấp ngã của các môn đệ (x. Ga 16). Sau những di ngôn từ biệt ấy, Người kết thúc bằng kinh nguyện tha thiết và cảm động (x. Ga 17).

Trước hết, Người dâng lên Thiên Chúa Cha lời cầu xin, ca tụng và tôn vinh Cha : “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin hãy tôn vinh Con Cha, ngõ hầu Con Cha tôn vinh Cha!” (Ga 17, 1). Chúa Cha đã tôn vinh Chúa Con trên Thánh Giá và đưa về Trời, nay Chúa Giêsu xin Cha: “Con đã tôn vinh Cha. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha, trong vinh quang Con đã có nơi Cha trước khi có thế gian” (Ga 17, 4-5). Sự tôn vinh đánh dấu giờ của Chúa Giêsu đã đến, giờ đi đến cùng của sứ mạng đã được Cha trao phó là tôn vinh Cha. Sự lên Trời biểu lộ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu : “Người đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá! Bởi vậy Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài!” (Phil 2, 8) Qua biến cố này, Cha cũng mạc khải chính mình khi suy tôn Chúa Giêsu, người con hoàn toàn vâng phục.

Nếu Chúa Giêsu xin Chúa Cha tôn vinh mình, thì đến lượt mình lại tôn vinh Chúa Cha. Bản chất sứ mạng của Chúa Con là mạc khải và thánh hóa Danh Chúa Cha nhờ ân ban của Chúa Thánh Thần. Điều cần lưu ý ở đây là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã minh nhiên qui hướng về Chúa Thánh Thần khi nói về tương quan giữa Người với Chúa Cha và món quà của Chúa Cha ban cho loài người là Chúa Thánh Thần.

Tiếp theo là những lời nguyện xin của Chúa Giêsu cho những người mà Chúa Cha ban cho, Người phó thác họ cho Chúa Cha, xin Chúa Cha gìn giữ họ luôn mãi, vì họ “còn ở trong thế gian“, nơi có nhiều khó khăn, thử thách và gian truân, họ có thể bị bách hại vì lẽ công chính, chết vì đức tin vào Chúa Giêsu, dễ dàng bị lôi cuốn vào những trào lưu chối bỏ Thiên Chúa, chối bỏ ánh sáng chân lý và sự sống. Chính vì thế, Chúa Giêsu xin Cha gìn giữ họ, để khi gặp bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn kiên trung, hiệp nhất nên một trong tình yêu như Chúa Giêsu nên một với Cha của Người để làm nhân chứng cho Thiên Chúa ở trần gian này.

Noi gương Chúa Giêsu, Giáo hội mời gọi chúng ta tha thiết cầu xin, để Chúa Con tôn vinh Chúa Cha trong đời sống mỗi người chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Sao cho tất cả đều qui hướng về Cha, tôn vinh Chúa Con trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần. Chúa Con đến lượt mình, tôn vinh Giáo hội bằng việc tuôn đổ trên Giáo hội cũng một Thánh Thần của Cha và Con.

Như các Tông đồ đồng tâm nhất trí trong nhà Tiệc Ly, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện (x. Cv 1, 12-14), chúng ta tha thiết cầu xin Chúa Thánh Thần xuống trên chúng ta. Ước mong sao danh Cha được thánh hóa nơi mỗi người chúng ta, “để ta được nên thánh và vô tì tích trước mặt Người, trong tình yêu” (x. Ep 1, 4). Cầu nguyện là điều cần thiết để đón nhận Chúa Thánh Thần vì khi cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình sẵn sàng đón nhận ơn của Thiên Chúa.

Chúng ta biết rằng, chính ở trên cây Thánh Giá mà Chúa Cha tôn vinh Chúa Con. Nên khi chúng ta chịu đau khổ và bị ngược đãi vì thuộc về Chúa Kitô mà Chúa Cha suy tôn chúng ta. Chúa Cha tôn vinh chúng ta vì trong lúc bị thử thách chúng ta trở nên trở nên những người con trong Thiên Chúa, đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Ngài sẽ tôn vinh chúng ta vì Ngài đặt trên chúng ta Thần Khí vinh quang, Thần Khí của Ngài, sẽ ngự trên chúng ta, cho chúng ta nếm trước sự sống đời đời mà Ngài muốn ban cho chúng ta cách viên mãn ở đời sau (x. 1 Pr 4, 13-16).

Đổi lại, chúng ta sẽ là những chứng nhân tôn vinh Chúa Cha vì Ngài sẽ thể hiện cho thế giới dung nhan của Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta. Đấng mà từ Ngài chúng ta phát xuất ra, hướng về Ngài chúng ta sẽ chia sẻ sự sống thần linh. Chúng ta sẽ là chứng nhân cho sự sống đời đời nơi những người sẽ chứng kiến ​​và một lần nữa tôn vinh danh Chúa Cha: «Sự sống đời đời tức là: chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Ðấng Cha đã sai, Giêsu Kitô” (Ga 17, 3).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tôn vinh Chúa Cha và cầu cùng Chúa Cha cho chúng con. Xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con không hổ thẹn vì chỉ vì là Kitô, nhưng luôn ca tụng Chúa. Chúa sẽ không bỏ chúng con mồ côi. Cùng với Mẹ Maria, các thánh nam nữ ở trên Trời xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho chúng con. Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-386: THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ


P. Trần Đình Phan Tiến

 

Hôm nay là tuần cuối của mùa Phục Sinh, thứ 7 Phục Sinh, Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, ai cũng LênTrời ABC-386


Hôm nay là tuần cuối của mùa Phục Sinh, thứ 7 Phục Sinh, Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, ai cũng biết “thăng” có nghĩa là “lên”. Nhưng dùng chữ Thăng Thiên, thì hay hơn dùng chữ “ về” Trời. Nói rằng Chúa Giêsu “về Trời”, thì không hay bằng Lễ “Chúa Giêsu Thăng Thiên”. Bởi vì, có “Giáng” thì phải có “Thăng”. Có “Giáng Sinh”, thì phải có “Thăng Thiên”. Một chút giải thích từ ngữ cho thấy sự logic của vấn đề. Đây là từ ngữ duy nhất dành cho ĐẤNG CỨU THẾ, Đức Giêsu-Kitô. “Về Trời” cũng có nghĩa từ Trời mà đến, nay trở về. Vậy, không một ai từ Trời mà đến, ngoài Đức Giêsu-Kitô. Con Một Thiên Chúa. Như vậy Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một sự kiện đặc biệt, nhưng thật nhẹ nhàng, vui mừng tột độ. Vì nếu, Chúa Giêsu không “Thăng Thiên”, thì sự Phục Sinh không hoàn toàn có ý nghĩa. Bởi vì, trần gian không phải là nơi “trường sinh”. Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, Người không “ở cùng” kẻ chết. Vâng, đó là lý do Chúa Giêsu “về Trời”. Trời là quê hương vĩnh cửu của những ai bước theo Chúa Giêsu-Kitô.

Vâng, kính thưa quý vị, thưa các bạn, chủ đề Lời Chúa hôm nay thật ngắn gọn, thật nhẹ nhàng. Chúng ta thấy, đây là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn nhất, đầy đủ nhất Thiên Tính của Người. Có thể nói, lễ Thăng Thiên là một sự kiện biểu lộ Thần Tính của Ngôi Hai Thiên Chúa, một Ngôi Vị Thiên Chúa chịu khổ hình, chịu mai táng, phục sinh để cứu độ con người. Hành trình cứu Chuộc của Chúa Giêsu-Kitô là một hành trình đầy gian khó, nhưng mầu nhiệm Thăng Thiên là một sự kiện đầy trọn vẹn của niềm vui, niềm vui trọn hảo và tuyệt đỉnh, niềm vui nầy nói lên thiên tính rõ ràng của Chúa Giêsu.

Sự kiện Thăng Thiên là một mầu nhiệm kiện toàn ơn cứu độ, cuộc tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa. Đấng đã đến thế gian để trao ban sự sống cho chúng ta.

Chúng ta nhớ lại sự kiện Biến Hình trên núi Tabor của Chúa Giêsu, và hôm nay, Người cũng hẹn các môn đệ lên núi và Thăng Thiên trước mặt các ông. Nhưng lệnh truyền, cũng là Di Huấn mà Chúa Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ là: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (c 18 – 19).

Như vậy, sứ mạng truyền giáo là sứ mạng cấp thiết và mãi mãi không ngừng, sứ mạng loan truyền Đức Kitô, không của riêng ai, mà là của mỗi Kitô hữu, được quy tụ bởi Giáo Hội. Đặc tính truyền giáo vừa mang tính sứ vụ, vừa mang tính ân sũng. Nói lên sự lãnh nhận và trao ban , tức đặc tính bác ái, đặc tính tình yêu của Thiên Chúa.

Bài đọc I (Cv 1, 1-11), trích sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại rõ biến cố lên trời của Chúa Giêsu và việc Chúa hứa ban Thánh Thần cho các tông đồ. Sác công vụ tông đồ là sự hoạt động đầu tiên của Giáo hội, là sách đầu tiên của các tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên Trời. Như vậy, sơ lược có thể hiểu sách công vụ tông đồ là cuốn sách làm chứng về thời đại của Chúa Thánh Thần. Một cuốn sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần, cũng có thể nói là cuốn Tin Mừng thứ 5. Hôm nay, là trang đầu tiên của sách công vụ tông đồ, minh chứng sự kiện về trời của Chúa Giêsu và ý nghĩa Chúa Thánh Thần đến. Như vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng chuyển tiếp và nối kết sứ vụ cứu chuộc của Chúa Giêsu, đồng thời kiện toàn mọi kỳ công cứu chuộc cho đến tận thế. Thời đại kiện toàn của Chúa Thánh Thần không phải là thời gian ẩn nhẫn , mà là thời gian hiển nhiên những uy lực của Thiên Chúa trong những tác nhân được thánh hóa. Sự siêu việt của Thiên Chúa không nhường bước satan. Sự hun đúc Thần Khí là điều mới mẻ và mạnh mẻ trong những tâm hồn bước theo Chúa Kitô. Sự kết nối nầy thật sự là kỳ công hiển hách muốn đời của công trình cứu chuộc, vì nó không còn là thời gian chịu đựng, mà là thời giờ thống trị, đó là đức tin, là ánh sáng chân lý cho chúng ta. Có ánh sáng đó, đức tin mới bền vững, vì mọi sự sẽ bước qua, dù là thế lực của trần gian. Điều nầy, minh chứng trong nhiều gian đoạn lịch sử, và như vậy, suốt hơn hai mươi thế kỷ và hơn nữa, đây là ánh sáng đức tin bề vững nhất. Vì nếu, Thiên Chúa không tỏ lộ uy dũng của Ngài qua Thánh Thần, thì Đạo Công giáo không còn tồn tại đến muôn đời. Vì người đời dù dũng mạnh đến đâu, thế lực đến đâu cũng phải đầu hàng thời gian và tử thần. Sự ác không thể thắng sự thiện, và bản tính lương thiện thần linh Thiên Chúa ban cho con người một cách tự do theo nghĩa tự nhiên, nếu không đón nhận được mặc khải của Thánh Thần, thì họ cũng không nhận ra Thiên Chúa, đó là những ai theo những tôn giáo khác. Vì mọi tôn giáo đều do một thứ ánh sáng từ Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa chỉ mặc khải duy nhất qua Đấng cứu Chuộc Giêsu–Kitô mà thôi.

Như vậy, bài đọc II (Ep 1, 17- 23), thánh Phaolô cho biết rõ ơn mặc khải nhận biết Đức Kitô là một mầu nhiệm diệu kỳ. Đấng đến từ Thiên Chúa, nơi siêu nhiên, nhưng trở nên hữu hình vì con người chúng ta, để Thần Khí nơi Thiên Chúa là nguyên lý của sự sống sẽ hướng dẫn, là làm đầu mọi tạo vật sống, chính là loài người.

Vì vậy, Đức Kitô nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là vậy (c 20). Sự siêu nhiên là Thần Linh nơi Đức Kitô, không phải chỉ sự hữu hình của Người như trước lúc phục sinh, mà là Thánh Thần hiện hữu trong siêu nhiên sẽ tiếp nối công trình Tử Nạn và phục sinh của Đức Kitô. Cụ thể các Bí Tích, Đức Kitô trao cho hội thánh là kỳ công tiếp nối của Chúa Thánh Thần. Như vậy, đức tin là công cụ duy nhất để nhận ra Thánh Thần đồng hành trong Đức Giêsu-Kitô. Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-387: LỄ THĂNG THIÊN C

 

Vinh quang của Đức Ki tô là vinh quang của chúng ta. Mầu nhiệm Thăng thiên cũng liên quan LênTrời ABC-387


Vinh quang của Đức Ki tô là vinh quang của chúng ta. Mầu nhiệm Thăng thiên cũng liên quan đến chúng ta: nó mở ra cho chúng ta một con đường mới và sống động trong Nhân tính vinh hiển của Đức Ki tô. Vì thế, Đức tin của chúng ta vẫn được in đậm nét sự Hiện diện của Chúa Giê su ở gần bên Cha, Chúa Giê su vị Thượng tế và Vua Vũ trụ. Nhờ hướng về Trời nên tâm hồn giúp chúng ta càng hiện diện ở thế gian hơn.

Sách Công vụ 1,1-11

Chúa Giê su vĩnh viễn biến mất trước mặc các Môn đệ của Ngài, khiến các ông bàng hoàng sợ hãi. Ngài ra đi và Nước Thiên Chúa được chờ đợi thiết lập một lần nữa dường như bị dời lại. Thực ra Nước đã hiện diện trong thế gian như một hạt giống chỉ còn chờ cơ hội nẩy mầm. Không bao lâu nữa, sức mạnh của Đức Ki tô tỏ hiện ngang qua các Tông đồ, cho thấy sự Hiện diện hoạt động của Ngài. Rồi sẽ đến một ngày, Nước sẽ hiển trị trong Chúa Giê su vinh thắng cho tất cả mọi người.

Thánh Vịnh 46

Đây là bài ca chúc tụng Thiên Chúa, Vua toàn cõi đất. Trong các dân, Người đã chọn một Dân ưu tuyển để hiện diện nơi họ. Rồi sẽ đến một ngày, tất cả các dân sẽ tập họp lại chung quanh Đền Thánh của Người.

Thư Hr 9,24-28;10,19-33

Đức Ki tô là Vị Thượng Tế duy nhất của Giao Ước mới. Vị Thượng tế Do Thái khi xưa đi vào trong Đền Thánh với máu tế vật dùng để thanh tẩy Dân. Nhưng giờ đây chính Đức Ki tô, vị Thượng tế duy nhất của chúng ta, khi đi vào Đền Thánh trên trời, đã đưa những ai tin vào Ngài đến gần Thiên Chúa Cha.


Tin mừng Lc 24,46-53

NGỮ CẢNH

Chương 24 tin mừng Luca là một tổng hợp các đề tài mà ngài đã đề cập tới trong tác phẩm của mình để diễn tả đức tin của Hội thánh vào sự phục sinh của Chúa Giê su.

Lc đã gom lại đây ba khung cảnh vào trong một ngày duy nhất: lời loan báo cho các phụ nữ ở mồ Chúa Giê su (24,1-12); trên đường Em maus Chúa Giê su hiện ra cho hai môn đệ (24,13-35); và sau cùng, hiện ra cho các môn đệ (24,36-49). Và kết thúc bằng việc rời xa các môn đệ và chuẩn bị cho sách Cv (24,50-53).
Có thể đọc đoạn Tin mừng theo bố cục sau đây:

1. Lời trao phó sứ mạng rao giảng tin mừng cứu độ (24,46-48)
2. Lời hứa ban Thánh Thần và quyền năng (49)
3. Chúa Giê su rời xa các môn đệ sau khi chúc lành cho họ (50-51)
4. Các môn đệ trở về Giê ru sa lem, chúc tụng Thiên Chúa (52-53).

TÌM HIỂU

Sám hối - Tha tội:  các môn đệ có vị trí của mình trong chương trình của Thiên Chúa được mô tả trong Thánh Kinh, có điểm qui chiếu là chính Chúa Giê su. Các môn đệ kéo dài công trình của Chúa Giê su cho tất cả mọi người. Công trình ấy chủ yếu là loan truyền Tin mừng Phục sinh.

Giê ru sa lem: là điểm đến cũng là điểm khởi hành (x. Cv 1,8), là bản lề của hai thế giới. Đối với Lc, trọn cuộc sống của Chúa Giê su qui về Kinh thành ấy. Rồi cũng chính tại đó, các môn đệ phải chờ đợi Chúa Thánh Thần ngư đến (Cv 2). Và cũng từ nơi đó mà sự bành trướng của Hội Thánh được khởi đầu.

Hứa:  Mối liên kết giữa Chúa Giê su và các môn đệ của Ngài sẽ được ơn ban Thánh Thần đóng dấu. Lời hứa của Thiên Chúa Cha (trong Thánh Kinh) sẽ được thực hiện cho họ nhờ Chúa Giê su. Thánh Thần đối với Chúa Giê su như thế nào thì đối với họ cũng như thế: Người là ánh sáng soi Lời Chúa, là sức mạnh thúc đẩy hành động nhằm giải phóng (x. 1,35.41.67; 3,22; 4,1.14.18). Thánh Thần hướng dẫn để hiểu biết Thánh kinh và giúp thực hiện sứ mạng tiên tri (x. Cv 1,8).

Nhận được: “Anh em hãy mặc lấy Đức Ki tô” (Gl 3,27). 
Bêthania: x. 19,28-38. Đây là chiều ngược lại với hướng vào thành Giê ru sa lem. Khi từ Bê tha nia đi vào đền thờ (19,45), Chúa Giê su đã được các môn đệ tung hô và chúc tụng là vua. Giờ đây, Ngài dẫn họ đến với Ngài và chúc lành cho họ, nhưng Ngài sắp lìa xa họ để về trời, đền thánh vinh quang Thiên Chúa.

Chúc lành: từ trước cho đến giờ, Chúa Giê su chỉ chúc lành trên bánh (9,16; 24,30). Chúc lành là cử chỉ của vị Thượng tế đi ra khỏi đền thánh và truyền lại cho dân lời chúc phúc của Thiên Chúa. Ông Dacaria không thể làm điều đó (1,22). Còn Đức Ki tô thì thực hiện một cách tối thượng và quyết định. Lời chúc lành nầy bảo đảm cho các môn đệ sự phù trợ của Thiên Chúa, cho sứ mạng mà họ phải thi hành. Trong giờ phút lìa xa họ, Chúa Giê su Ki tô khẳng định rằng lời chúc lành của Thiên Chúa sẽ ở lại với họ.

Được đem lên:  sự biến mất của Chúa Giê su được đức tin của Hội thánh trình bày như là một cuộc đi vào vinh quang. Đó là mặt thứ hai của sự Phục sinh: đó không chỉ có nghĩa là thoát khỏi sự chết, mà còn là một sự tôn vinh trong Thiên Chúa. Chúng ta đang vượt qua thế giới cảm giác mà đi vào mầu nhiệm (x. Cv 1,9-11). Nên chú ý động từ ở thể bị động: chính Thiên Chúa tôn vinh Chúa Giê su. Cũng động từ nầy được dùng ở 2V2,3 để mô tả sự thăng thiên của Ê lia trên chiếc xe bằng lửa. Chúa Giê su tạm thời biến đi sau dấu chỉ bánh (24,31). Bây giờ Ngài biến đi vĩnh viễn sau dấu chỉ của nhóm được tái lập một lần dứt khoát. Hội Thánh là Thân thể của Ngài cũng như Thánh Thể là Thân Thể của Ngài. Hội Thánh và Thánh Thể là sự hiện diện và mặt hữu hình của Đức Ki tô phục sinh.

Bái lạy Ngài: từ long trọng nầy chỉ dùng ở đây. Nó diễn tả thái độ đức tin cuối cùng của các môn đệ. Người bạn và là Thầy của họ không chỉ là Đấng Messia (9,20), mà còn là Chúa nên họ phải thờ lạy Ngài.

Đền thờ:  Lc kết thúc sách Tin mừng của mình ở nơi ngài đã bắt đầu. Ơn cứu độ được loan báo giờ đã thực hiện: Chúa Giê su đi vào đền thờ vinh quang của Thiên Chúa, trong nhà của Cha (2,49). Bức màng ngăn cách đã bị xé ra (23,45). Chúa Giê su đi vào nơi Cực thánh với đầy đủ quyền hành. Ngài đã lắp đầy bằng sự hiện diện của Ngài khung trời Ngài đã đi vào, đền thánh Giê ru sa lem, cả thế giới. Bất cứ nơi nào có người tin vào Đức Ki tô cầu nguyện, thì từ nay, ở đó là Đền thờ đích thực, Thân thể Đức Ki tô, là Hội Thánh, dấu chỉ của Đền thờ thiên quốc.

Chúc tụng: Đức Ki tô đã chúc lành cho các môn đệ của Ngài để cho thấy rằng họ là đối tượng các phúc lành của Thiên Chúa. Khi các môn đệ ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa là để nhìn nhận rằng những lời chúc phúc và phúc lành chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Động cơ khiến họ tạ ơn là Đức Ki tô phục sinh. Ngài mở ra cho họ hiểu biết Thánh Kinh và sai họ đi công bố sự sám hối. Ngang qua họ, Hội thánh hiệp nhất với Chúa Giê su để cùng với Ngài ca tụng Thiên Chúa Cha.

SỨ ĐIỆP

Bốn mươi ngày sau lễ Phục sinh, chúng ta mừng lễ Chúa Giê su Thăng thiên. Đó là ngày mà Đức Ki tô phục sinh biến mất trước mắt các tông đồ. Có lẽ hơi khó mà coi sự ra đi nầy là một cuộc lễ.

Thật vậy, khi một người thân yêu rời xa chúng ta, thì đó luôn là một biến cố buồn đau. Những ai thường đến các nhà ga chiều chủ nhật có thể khẳng định rằng không phải cuộc chia li nào cũng mang lại niềm vui.

Thế mà Giáo hội trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giê su Thăng thiên như một ngày lễ. Và thậm chí đó là một trong những lễ lớn trong năm. Thật vậy, Chúa Giê su ra đi đã hứa với chúng ta Ngài sẽ trở lại. Ngày giờ nào, chúng ta không được biết, duy chỉ có một điều là đó sẽ là một ngày trong đại đối với chúng ta. Chúng ta khắc khoải chờ đợi Ngài. Sau một thời gian dài vắng bóng, niềm vui sẽ vỡ lở khi gặp lại. Ngay từ bây giờ, chúng ta chuẩn bị biến cố ấy bằng cách mở rộng tâm hồn và tiếp nhận Lời Ngài trong cuộc sống của chúng ta.

Chúng ta vui mừng bởi vì Đức Ki tô phục sinh mở ra cho chúng ta con đường dẫn đến Chúa Cha. Chính Người đã nói với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Cùng với Ngài, nhân tính nghèo hèn của chúng ta được nâng lên địa vị gần với Thiên Chúa. Đó là một vinh dự tuyệt với và là một bằng chứng cao cả của tình yêu Chúa chúng ta. Tất cả những điều đó được ban cho một cách nhưng không, và không do một chút công nghiệp nào của chúng ta. Trước hồng ân đó, chúng ta sẽ chẳng bao giờ ngừng dâng lời cảm tạ Ngài, với lời kinh của Thánh vịnh: “Tất cả muôn dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa với tiếng reo vui!”.

Thăng thiên là một ngày lễ tràn ngập niềm vui bởi vì nó đánh dấu việc Chúa Giê su khải hoàn về trời sau khi chết và phục sinh. Đức Ki tô phục sinh vĩnh viễn đi vào trong vinh quang cúa Cha. Đó là cuộc tái ngộ của Ba ngôi, một biến cố thần linh tuyệt vời. Sau mỗi trận đánh, vị tướng chiến thắng sẽ khải hòan trở về, hãnh diện vì chiến tích của mình. Thăng thiên, một phần giống như thế, Đấng đã chiến thắng sự dữ, tội lỗi và sự chết trở về trời trong vinh quang. Và chúng ta, những nười ki tô hữu, chúng ta hân hoan tung hô chúc tụng Ngài cùng với tất cả các thiên thần và các thánh trên trời.

Thánh lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên và hi vọng. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy khổ đau. Hằng ngày, những hình ảnh bạo lực, bất công và lọai trừ nhau tràn ngập trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng các bài đọc thánh kinh hôm nay giúp chúng ta xác tín rằng sự dữ không phải là tiếng nói cuối cùng. Đức Ki tô sống lại vẫn đang sống trong vinh quang của Cha và không gì có thể ngăn cản Nước của Ngài hiện đến. Ngài đã đến gieo hạt giống của Nước Trời và không gì có thể cản trở nó nẩy mầm.

Các bài đọc ấy còn loan báo cho chúng ta một tin vui khác: Đức Ki tô sống lại muốn nối kết tất cả chúng ta vào chiến thắng trên sự dữ, sự chết và tội lỗi của Ngài. Chắc hẳn điều đó sẽ không dễ dàng; sẽ có chiến đấu và cả những đau khổ. Thiên Chúa không lọai trừ sự đau khổ cũng như các thử thách ra khỏi cuộc đời nầy. Ngài giúp chúng ta sống một cách khác. Và Ngài sẵn sàng trợ giúp sự yếu hèn của chúng ta.

Với biến cố Thăng thiên nầy, một lịch sử đã chấm dứt và một lịch sử khác đang bắt đầu. Đức Ki tô đã hoàn tất sứ mạng của Ngài. Chúng ta đã dõi theo từng giai đọan, các lời rao giảng, các phép lạ, các cuộc gặp gỡ, cái chết và phục sinh của Ngài. Các tông đồ đã nhìn thấy đấng phục sinh. Các sách tin mừng nói với chúng ta rằng: “trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra với họ và nói với họ về Nứơc Thiên Chúa. Điều quan trong không phải là tự hỏi con số 40 có chính xác không, nhưng hiểu được ý nghĩa của nó. Trong thế giới Kinh Thánh, đó là thời gian cần thiết để chuẩn bị cho một đời sống mới. Bắt đầu sứ vụ, Chúa Giê su đã phải trải qua 40 ngày trong sa mạc để chuẩn bị sứ mạng. Cũng thế, khoảng thời gian 40 ngày giữa lễ Phục sinh và lễ Thăng thiên, Chúa Giê su chuẩn bị cho các tông đồ của Ngài tiếp nhận sứ mạng.

Cuộc thăng thiên về trời của Chúa Giê su đánh dấu sự khởi đầu của một lịch sử mới. Đó là thời gian Giáo Hội, thời gian sứ mạng bắt đầu. Các tông đồ được sai đi để làm chứng và mang tin mừng khắp thế gian. Nhiều lần Ngài đã báo trước rằng họ phải chịu bách hại và bạo lực. Nhiều người khác sẽ bị nhạo báng. Điều ấy chúng ta đang thấy diễn ra hằng ngày. Nhưng chúng ta đừng để mình ngã lòng. Thật vậy, chính Đức Ki tô sẽ có tiếng nói cuối cùng. Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế và không có ai cũng như không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ngài.

Tuần lễ tới, chúng ta sẽ mừng lễ Hiện Xuống. Đức Maria đã hiện diện giữa các tông đồ đang chuẩn bị tâm hồn. Và giờ đây, Mẹ cũng sẽ vui mừng giúp đỡ chúng ta đón nhận biến cố ấy. Cùng với Mẹ và hiệp thông với nhau, chúng ta cầu nguyện và khẩn xin: “Ôi lạy Chúa, xin sai Thánh Thần của Chúa đến canh tân bộ mặt thế giới”.

ĐÀO SÂU

1. HỎI: Sách Công vụ là sách gì. Bài đọc một nói về điều gì?

THƯA: Sách Công vụ là tác phẩm thứ hai của Thánh Lu ca, tiếp nối quyển tìn mừng thứ nhất kết thúc với biến cố Chúa Giê su lên trời. Sách Công vụ cho thấy sự bành trướng mau lẹ của Hội thánh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần theo lệnh truyền của Chúa Giê su trước khi về trời: “Anh em sẽ nhận lấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên anh em, anh em sẽ là chứng nhân cho Thầy ở Giê ru sa lem và trên toàn cõi Giu đê và Samaria và cho đến tận cùng trái đất”. Bài đọc một kể lại biến cố Chúa Giê su về cùng với Thiên Chúa Cha sau khi ban những lời cuối cùng cho các môn đệ.

2. HỎI: Tại sao sách Công vụ (bài đọc 1, của Luca) cho biết khoảng 40 ngày sau khi sống lại Chúa Giê su đã lên trời trước mắt các Tông đồ. Nhưng trong tin mừng thứ ba (cũng của Luca) thì lại kể việc Chúa lên trời liền với việc Chúa sống lại.

THƯA: Đó là hai cách nói về một mầu nhiệm duy nhất. Câu truyện được kể trong sách Công vụ là việc Chúa Giê su phục sinh hiện ra lần cuối cùng cho các môn đệ trước khi không còn xuất hiện công khai trên thế gian nầy nữa cho đến khi Ngài trở lại. Còn việc Chúa Giê su lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa nằm trong mầu nhiệm Phục sinh. Chúa Giê su khi sống lại đã ở ngay trong vinh quang Thiên Chúa Cha, nói theo ngôn ngữ Kinh Thánh: “đã ngự bên hữu Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng Ngài hiện ra với các môn đệ để củng cố Đức tin của họ.

3. HỎI: “Ngự bên hữu Thiên Chúa” có nghĩa gì?

THƯA: Đó là cách nói Kinh Thánh có nghĩa là “ngang hàng với Thiên Chúa”, chỉ Chúa Giê su đã được trao quyền bá chủ trên trời dưới đất, dẫn dắt toàn thể tạo vất đến chốn vinh quang, và đồng thời trở thành đấng cầu bầu cho loài người.

4. HỎI: Con số 40 có ý nghĩa như thế nào?

THƯA: Trong truyền thống Kinh Thánh con số 40 có ý nghĩa biểu tượng, chỉ một sự chuyển tiếp, một sự thay đổi. Như Đại lụt diễn ra trong 40 ngày và 40 đêm; ông Mô sê ở trên núi 40 ngày; người Do thái lang thang trong sa mạc 40 năm; Chúa Giê su bị cám dỗ trong 40 ngày.

5. HỎI: Hai người mặc áo trắng có ý nghĩa gì?

THƯA: Thánh Lu ca thích số hai. Như trong trình thuật ngôi mộ trống, ông mô tả hai người mặc áo trắng trong ngôi mộ (Lc 24,4), trong biến cố biến hình có hai ông Mô sê và Ê li a từ trời xuống (Lc 9,30).

6. HỎI: Sứ điệp của các thiên sứ gửi cho các môn đệ là gì?

THƯA: Các thiên sứ bảo các môn đệ đừng cứ đứng nhìn trời, nơi Chúa Giê su đã lìa xa các ông (Cv 1,11). Để ở lại trong tình yêu của Ngài thì hãy thi hành lệnh truyền Ngài để lại, là làm chứng nhân cho Ngài trên khắp cùng trái đất cho đến khi Ngài trở lại.

7. HỎI:  Với những lời “như đã được viết”  Chúa Giêsu muốn trích dẫn đoạn nào trong Cựu Ước?

THƯA: Ở đây, Ngài không ám chỉ đến một trích dẫn cụ thể nào từ Cựu Ước, nhưng có ý qui chiếu đến toàn bộ nhiệm cục cứu độ như báo trước trong Kinh Thánh. Ngoài ra, với những lời ấy, Chúa Giêsu có ý bắt đầu diễn từ của mình bằng một công thức trang trọng.

8. HỎI: Tại sao Chúa Giêsu truyền phải bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem?

THƯA: Bởi vì Giê-ru-sa-lem là trung tâm mà từ đó tỏa ra sứ điệp mới về ơn cứu độ do các tông đồ rao giảng, như đã được báo trước bởi các lời tiên tri xưa.

9. HỎI: Với những lời ấy, tác giả tin mừng muốn kể lại một sự kiện lịch sử?

THƯA: Đúng. Nhưng đồng thời ngài cũng muốn nhấn mạnh đến sự hài hòa với những lời tiên tri của Cựu Ước.

10. HỎI: Trong câu 48, Chúa Giêsu nói rằng các tông đồ là những chứng nhân tất cả những gì Ngài đã nói và làm. Những lời ấy chỉ là một sự gợi nhớ lịch sử của tác giả tin mừng?

THƯA: Chắc chắn là không, câu 48 là một công thức trang trọng, mà lúc đầu đã có cung cách phụng vụ. Các tông đồ đã là và phải là những chứng nhân, không phải của một kinh nghiệm cá nhân, hay kết quả của một sự suy đoán triết học hay thần học, nhưng là các nhân chứng của các sự kiện có liên quan đến công cuộc cứu độ được Chúa Kitô thực hiện.

11. HỎI: Chúa Giêsu dựa sức mạnh nào để sai phái tông đồ?

THƯA: Chúa Giêsu sai Chúa Thánh Thần đến để hỗ trợ cũng như giúp đỡ các tông đồ trong việc tìm hiểu và giải thích thông điệp đích thực của Đấng Mê-si-a.

12. HỎI: Nhưng lời khẳng định của thánh Lu ca: “Anh em hãy ở lại trong Thành Thánh” không trái ngược với những gì các bản văn Tin Mừng khác khẳng định về các lần hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh?

THƯA: Các bản văn Tin Mừng khác cho chúng ta biết rằng Đấng Phục Sinh hiện ra ở Ga-li-lê, nhưng ghi nhận của Thánh Lu ca không đi ngược với những gì được nói đến ở các đoạn khác trong Tân Ước bởi vì tác giả tin mừng không quan tâm theo thứ tự chính xác của thời gian và địa lý các sự kiện về sự sống lại, nhưng chủ ý trình bày sứ điệp nền tảng của toàn bộ Tin mừng của ngài: Giê-ru-sa-lem là trung tâm tôn giáo của Do Thái giáo. Chúa Giêsu hướng đến Thành Thánh này từ đầu cho đến khi kết thúc sứ mệnh của mình. Kế đến, chính từ thành Giê-ru-sa-lem mà sứ mạng phải được tiếp tục qua các tông đồ.

13. HỎI: Thánh Luca muốn trình bày cho chúng ta điều gì khi nói rằng Chúa Kitô đã được đưa lên trời?

THƯA: Ngài muốn dạy rằng Chúa trở về với vinh quang mà Ngài đã sở hữu từ thuở đời đời.

14. HỎI: Tại sao các tông đồ sụp lạy trước mặt Chúa Giêsu?

THƯA: Bởi vì, cuối cùng sự nhận biết Chúa Giêsu bắt đầu được rõ ràng trong tâm trí của họ. Chúa Giêsu không còn được xem như là một Thầy dạy tuyệt vời của Israel nữa, mà như một vì Thiên Chúa, Thiên Chúa làm người.

15. HỎI: Tại sao các tông đồ trở lại Giê-ru-sa-lem và bắt đầu ca tụng Thiên Chúa trong đền thờ mặc dù giáo huấn của Chúa Giêsu dạy từ nay phải “thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý “?

THƯA: Với những lời này, Chúa Giêsu đã không có ý định loại bỏ việc cầu nguyện trong đền thờ hoặc trong các nhà hội. Thật vậy, chính Ngài cũng không từ chối đi đến những nơi thờ phượng của người Do Thái để cầu nguyện và rao giảng. Ngài chỉ muốn lưu ý một khía cạnh quan trọng: mỗi Kitô hữu qua phép rửa trở thành đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi, do đó con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong sâu thẳm của tâm hồn hoặc lương tâm của mình.

Còn các tông đồ trở lại đền thờ bởi vì ban đầu họ không phân biệt Do Thái giáo từ Kitô giáo, và chỉ sau khi biến cố Hiện Xuống và với suy tư thần học, họ mới hiểu rằng Kitô giáo không phải là một giáo phái từ Do Thái giáo, nhưng là tôn giáo riêng biệt, dù thực sự được hoàn thiện từ Do Thái giáo. Dần dần, các Kitô hữu đầu tiên tụ tập trong những gia đình rộng rãi hơn, và họ đã lui tới đó thay cho các nhà hội và Đền thờ, nơi họ cầu nguyện và cử hành Bí Tích Thánh Thể.

16. HỎI: Mầu nhiệm lên trời có nghĩa gì?

THƯA: Việc Chúa Giê su lên trời và và việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống không thể tách rời khỏi mầu nhiệm Phục sinh, vì cả ba đều nhằm khai triển mầu nhiệm Phục sinh của Đức Ki tô. Lên trời có nghĩa là kết thúc các lần hiện ra của Chúa Giê su Phục sinh với các Tông đồ, kết thúc sự hiện diện của Đấng Phục sinh dưới hình thức thấy được, sờ được, nhưng không có nghĩa là Ngài vắng mặt.  Trái lại, mầu nhiệm lên trời mở ra sự hiện diện mới của Đức Ki tô ngang qua hoạt động Chúa Thánh Thần. Từ nay, Chúa Giê su hiện diện trong Giáo Hội cùng với sứ mạng loan báo tin mừng.

--------------------------

 

LênTrời ABC-388: Chúa Thăng Thiên


Đức Giêsu nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em những điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”. Sau đó, Người dẫn các ông tới gần bêtania, đang khi chúc lành, thì Người ròi khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24,46-53)

Chúa Thăng Thiên (Ảnh Internet)

 

Trại trẻ mồ côi Maumayazoun của vợ chồng anh Asmar Halabi là nơi cưu mang những đứa trẻ LênTrời ABC-388


Trại trẻ mồ côi Maumayazoun của vợ chồng anh Asmar Halabi là nơi cưu mang những đứa trẻ mất cha mẹ, nhà cử do chiến tranh ở Syria. Nơi đây được gọi “Thiên đường dưới lòng đất” của các em. Những trẻ em tuổi từ 2 đến 14 ăn, ngủ, vui chơi và học tập ở một khu trại dưới lòng đất trong khi những vụ đánh bom vẫn tiếp diễn trên đầu. Ngôi nhà mới của các em đầy màu sắc, có xích đu, khu vực làm đồ thủ công, có máy tính và các trò chơi khác. Ở đây, các nhà tâm lý học và giáo viên không chỉ giúp các em hồi phục chấn thương thể xác, mà còn chuẩn bị cho các em tinh thần để đối mặt với những thử thách trước mắt.

Hôm nay, Đức Giêsu lên trời. Người mở ra viễn cảnh của Thiên Đường chân thật mà con người có thể hướng đến. Chúa về trời để Nước Trời trở thành quê hương của tất cả chúng ta. Tuy nhiên, thực tại thiêng liêng – niềm hy vọng vững chắc ấy – không phủ định hay che mờ cuộc sống trần gian. Người Kitô hữu không được miễn trừ nghĩa vụ xây dựng cuộc sống hiện tại hóa Nước Trời ngay tại trần gian, trong cuộc sống của họ, bằng cách tích cực sống những giá trị Tin Mừng.

Người Kitô hữu xây dựng trần gian trong viễn tượng trời cao. Niềm hy vọng mai sau giải thoát ta khỏi nô lệ những gì chóng qua tạm bợ, đồng thời, cũng xác định những gì ở hiện tại có thể là phương tiện hữu hiệu đưa chúng ta về trời. Niềm hy vọng mai sau không làm suy giảm ý nghĩa hiện hữu của con người, trái lại, trân trọng nâng cao phẩm giá con người ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng vào Thiên Đường làm cho cuộc sống chóng qua tràn đầy ý nghĩa hiện hữu. Sự cố gắng hoàn thiện bản thân, hoàn trọn cuộc sống trong ơn nghĩa Thiên chúa là cơ sở cho hạnh phúc vĩnh hằng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con trung thành chu toàn nhiệm vụ ở trần gian trong hy vọng được kết hợp với Chúa ở trên Quê Trời. Amen.

Suy niệm Tin Mừng hằng ngày,

Chấm nối chấm…

--------------------------

 

LênTrời ABC-389: CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN_C


Lời Chúa:  Cv 1,1-11 ; Ep 1,17-23 ; Lc 24, 46-53


DẪN NHẬP

Lời Chúa: “Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”(Lc,24,51).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đòan phụng phụng,

 

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật Chúa Thăng Thiên hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi hoàn thành LênTrời ABC-389


Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật Chúa Thăng Thiên hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Chúa Giêsu lại trao cho Giáo hội loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho hết thảy mọi người, và Người rời khỏi các môn đệ mà lên trời:

Về trời khi đã hoàn thành,
Cứu nhân, độ thế hành trang cao vời.
Quản cai làm chủ đất trời,
Rồi sau xuống thế vào thời cánh chung.
Hân hoan hạnh phúc vô cùng,
Giảng rao, tin tưởng, đợi trông Thánh Thần.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta làm chứng về tình yêu cứu độ của Chúa bằng đời sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu thương, để sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, chúng ta cũng được về trời với Chúa. Trong tâm tình đó, chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua con đường thập giá để bước vào vinh quang phục sinh. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa trao cho Giáo Hội loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.

Suy niệm:

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Bởi nguyên tổ phạm tội “bất tuân phục Thiên Chúa” làm cho con người phải đau khổ, bệnh tật và phải chết. Nhưng con người sinh ra ở đời này không phải để chết mà để sống cho Thiên Chúa. Cái chết là một cuộc biến đổi từ cỏi hư vô để đi vào chốn vĩnh hằng. Chính vì thế, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế làm người để cứu độ trần gian. Người làm chủ vũ trụ, làm chủ không gian và thời gian. Người làm chủ sự sống và sự chết. Người nắm trong tay dũng lực quyền năng, sống và chết đều thuộc về Người. Người đem tình yêu, niềm vui, ban bình an và sự sống đến cho nhân loại. Khi đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Người lại trao cho Giáo hội loan báo Tin Mừng cứu độ và Người rời khỏi các môn đệ lên trời mà về cùng Cha.

Thưa anh chị em, Chúa Giêsu phục sinh đã được Chúa Cha trao ban toàn quyền trên trời dưới đất. Thánh Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay đã quả quyết rằng, Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và đặt Người ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi phẩm trật. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Người, và tôn Người làm đầu toàn thể Hội thánh. Chúa Giêsu lên trời là về cùng Thiên Chúa. Nơi ấy, vượt ra ngoài không gian và thời gian của vũ trụ này. Nơi bình an, hạnh phúc tràn đầy và hoàn hảo trong tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu lên trời là một cuộc tôn vinh Người sau khi đã hoàn tất chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, bằng cuộc tử nạn đau khổ và phục sinh vinh hiển. Mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời mở ra một niềm hy vọng lớn lao cho các môn đệ. Từ đây, các ông được thúc đẩy bởi niềm tin và hy vọng. Các ông đã vượt qua nỗi kinh hoàng sợ hãi, chạy trốn và tản mát của những ngày khổ nạn. Nay các ông qui tụ ngợi khen Thiên Chúa, cầu nguyện và đón nhận sức mạnh Chúa Thánh Thần để trở thành những chứng nhân can đảm của Tin mừng phục sinh. Mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời gắn liền với lệnh truyền rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân tộc. Người nói: “Các con là nhân chứng những sự việc ấy”. Như thế, việc rao giảng Tin mừng không còn là một việc mơ hồ viễn vông, nhưng là một việc hết sức cụ thể, dẫn tới thái độ vâng giữ những giới luật của Chúa.

Có một câu chuyện kể rằng, ở một dòng tu, có một chị khó sống được với các chị em khác. Lần kia chị đi xưng tội và cha giải tội bảo, trong dòng con có một người chính là Chúa Giêsu. Chị về dòng tìm hiểu coi ai là Chúa Giêsu. Gặp ai chị cũng vui vẻ và tôn trọng các chị em khác. Dần dần chị đã hòa nhập vào cuộc sống của các chị em. Từ đó, chị làm chứng về Chúa Giêsu trong đời sống thánh hiến hàng ngày của mình.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Các môn đệ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy”. Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, nhưng được mời gọi đón nhận sứ mệnh rao giảng Tin mừng bằng đời sống chứng tá vào môi trường mình đang sống, để từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui, những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta. Chúa Giêsu đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, Chính Người soi lối mở đường cho chúng ta, để rồi sau khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian này, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình. Nơi chính Người đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người.

Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ mạng nơi trần thế trong niềm hân hoan, để sau khi trải qua cuộc đời chóng qua này chúng ta sẽ được vào chung hưởng hạnh phúc vinh quang với Người trên quê trời. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

--------------------------

 

LênTrời ABC-390: NIỀM VUI TRONG CHÚA


Lm. Jos.DĐH.

 

Có phải cứ mỗi độ xuân về tết đến, những em bé mới nao nức phấn khởi, vì chúng thường mơ ước LênTrời ABC-390


Có phải cứ mỗi độ xuân về tết đến, những em bé mới nao nức phấn khởi, vì chúng thường mơ ước có áo quần đẹp, giầy dép xinh, cùng với bao lì xì đỏ vui thật vui. Cũng không ai quy định phải có thành công, có đầy đủ vật chất tiện nghi, mới gọi là được hạnh phúc. Đâu phải chỉ những ngày cuối tháng năm đầu tháng sáu, các học sinh, sinh viên, mới sảng khoái, bởi sau tháng ngày miệt mài.., mùa hè đầy hứa hẹn đã tới. Chắc không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta nói: trúc xinh trúc mọc đầu đình, em xinh em đứng một mình cũng xinh. Thực ra, tình yêu, bình an, chính là điều làm người ta vui ; “cái tâm” trong sáng, giúp người ta nhìn vạn vật đều dễ thương: ai ai cũng “là tiên, là phật”. Khi gia đình an vui, người ta thường xem nơi họ đang sinh sống: là tổ quốc, là thiên đàng. Khi ý thức mình là dòng dõi được yêu thương, người ta dễ nhận ra những gì họ đang có đều là phần thưởng, là hồng ân được tặng ban.

Khi yêu, ai cũng là thi sĩ, vì ít nhiều tâm hồn họ cũng lâng lâng theo giai điệu dại khờ, nửa mơ nửa thật. Lúc say, liệu ai đủ sáng suốt, và biết tự chủ, dù là say rượu hoặc say tình ; lúc tỉnh, mấy ai đủ mạnh mẽ từ chối công danh sự nghiệp, hoặc liều mình liều mạng bước theo Thầy Giêsu ? Sự kiện Chúa thăng thiên hay Chúa về trời, vẫn được gọi là “mầu nhiệm”, cho dù chúng ta đang đứng ở hàng ngũ môn đệ, linh mục tu sĩ, là người kitô hữu đạo đức: tin Chúa, yêu Chúa. Phúc đức của tuổi thơ, nước mắt kẻ u sầu, niềm an vui của tuổi già, nhưng sẽ thật hạnh phúc khi trái tim đang ân cần trao yêu thương. Để có niềm vui và hy vọng, Đức Giêsu nhắc lại cho các học trò lời kinh thánh: “như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại…”. Phải chăng, niềm vui trọn vẹn không thể vắng bóng khổ đau thập giá, nét đẹp kitô giáo là phải sống chứng nhân tin mừng, làm phong phú hoá tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa, tình yêu tha nhân ?

Kinh nghiệm ở đời cho thấy: niềm vui thường ngắn ngủi, khổ đau lại có khuynh hướng dài lê thê, dù người ta luôn ý thức cuộc sống này vẫn có niềm vui giả, niềm vui thật. Bằng tấm lòng tin yêu, cùng với tình mến nơi mỗi người đã và đang được tôi luyện, Đấng phục sinh Ngài sẽ còn giơ tay chúc lành như hôm xưa: “Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các học trò, Người rời khỏi các ông mà lên trời”. Chúa thăng thiên, Chúa ở bên Chúa Cha, quả là đã để lại nhiều bỡ ngỡ cho các môn đệ, cho mọi người mọi thời, nếu ơn bình an, nếu phúc lành của Đấng phục sinh chưa đến thật nơi tâm hồn người tin theo Chúa. Khi nhắc đến đau khổ thập giá, chết và sống lại, Đấng phục sinh chắc chắn không có ý tự mãn về con đường Ngài đã đi, nhưng chính khổ đau ở trần gian lại thiết thực cho tình yêu mà người theo tin Chúa sẽ thực thi sứ mạng cách trọn vẹn nhất. Đau khổ và tình yêu luôn có liên hệ với nhau như hình với bóng, cũng như niềm vui và hạnh phúc mãi mãi là câu chuyện nhiều tập, tin yêu và cậy trông vào Đấng phục sinh, luôn luôn là sự tự do chọn lựa của người môn đệ theo Đức Kitô.

Ngày hôm nay, mọi người đều cho rằng niềm vui nơi cuộc sống thì rộng lớn bao la, còn hạnh phúc thì mông lung và đầy mâu thuẫn: có tiền mua tiên cũng được. Tuy nhiên, có tiền, có niềm vui, nhưng tiền nào mua được bình an hạnh phúc ? Bằng nhận thức và kinh nghiệm, người ta cho rằng: hạnh phúc không mua được bằng tiền, không phải vì đó là tiền “âm phủ”, nhưng vì ở trần gian, thật, không có cửa hàng nào rao bán hạnh phúc ! Cũng có thể nói, tiền không mua được hạnh phúc, chẳng phải vì tiền không có sức mạnh, nhưng vì người ta chỉ mua bán trao đổi niềm vui trong chốc lát, bình an tạm thời, hoặc hạnh phúc giả tạo mà thôi. Niềm vui trong Chúa, bình an và hạnh phúc trong Chúa, không phải là một khái niệm mới lạ, nhưng vẫn mãi là “mầu nhiệm”, người ta chỉ thấu hiểu, hoặc cảm nhận được niềm vui, bình an, hạnh phúc thật, khi ở trong Đức Kitô phục sinh. Khi “Đấng Kitô rời khỏi các môn đệ lên trời ; các ông thờ lạy Người, rồi những học trò ấy trở về Giêsusalem, lòng đầy vui mừng”. Vì sao không nhìn thấy Thầy, các môn đệ lại chứng thực là các ông vui mừng ?

Nhận định chung chung của xã hội: người trẻ thời nào cũng bén nhạy mọi mặt, có nhiều sáng kiến hay ; nơi người cao niên, bao giờ cũng nhiều ký ức đẹp, và dồi dào kinh nghiệm quý báu ! Các chuyên gia tư vấn thì cho rằng: người biết đủ, biết sử dụng năng lực đúng chỗ, đúng lúc, kẻ ấy sẽ càng ngày càng thu được nhiều niềm vui hạnh phúc. Niềm vui trong tương quan gia đình xã hội, khác xa với niềm vui trong Chúa, nếu chúng ta thực sự tin lời Chúa Giêsu phán: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Thầy đã hứa ; vậy các con hãy ở lại trong thành, cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Niềm vui trong Chúa nhất định phải là niềm vui của bình an thật, niềm vui của tin yêu thật, được thông hiệp với Đức Kitô, Đấng đang hiện diện sống động trong tình yêu Thánh Thần. Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-391: VỀ TRỜI


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Về trời, người ta thường nghĩ “ra khỏi cõi trần”, thoát vòng tục lụy, chốn khổ đau… Những ý niệm LênTrời ABC-391


Về trời, người ta thường nghĩ “ra khỏi cõi trần”, thoát vòng tục lụy, chốn khổ đau… Những ý niệm đó đánh mất một chiều kích thực tại, “Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi. Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu” (Mưa nguồn, 1962, Bùi Giáng).

Chúa Giê su về trời không phải để xa cõi trần, nhưng để đưa con người về trời gặp gỡ Chúa Cha, và Người vẫn ở lại trần gian này mãi cho đến ngày tận thế, đưa dẫn con người trên con đường về trời.

Con người đã đánh mất.

Con người theo bước chân ngắn ngủi của khoa học tự nhiên, đã không còn nhìn thấy công trình sáng tạo tuyệt diệu của tầng trời nữa. Họ không nhận ra bàn tay tác tạo kỳ công của Thiên Chúa, mà chỉ nhìn thấy những gì cần chinh phục, chiếm lấy không gian và mở kho vũ khí trên tầng trời ấy, sẵn sàng dội bom hạt nhân vào nhau. Một cuộc chiến tranh không gian đã bắt đầu nhen nhúm và khai tử trái đất khi con người bất hoà với nhau.

Nếu nhìn xem trái đất như một nhà tù, ai cũng muốn ra khỏi, con người sẽ tìm mọi con đường để ra khỏi sự tắc nghẽn của trái đất. Người ta tìm thấy những con đường của những lạc lối, đưa nhau vào cõi chết chứ không về trời như mong muốn.

Mất cảm thức về thiên nhiên, về bầu trời Thiên Chúa sáng tạo, con người sẽ quên mất lời tán tụng của thụ tạo: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia.” (Tv 18, 1- 2). Khi đánh mất lời tụng ca, con người cũng đánh mất niềm vui giữa môi trường thiên nhiên và không dừng lại như thế, con người còn tàn phá thiên nhiên thành nơi thảm hoạ.

Đánh mất thiên nhiên, con người cũng đánh mất tâm hồn khi chỉ quy hướng những gì thực dụng. Bế tắc trong tù giam tâm hồn, con người cũng xung khắc với nhau từ những gì vụn vặt. Tất cả nói lên trần thế không còn là nơi đáng sống, chỉ còn tìm cách hưởng thụ và quên đi cõi đời, cõi trời.

Lời gọi về trời

Lý giải việc “Chúa ở lại mọi ngày cho đến tận thế” trên cõi đời này, vì Chúa chẳng bao giờ mất niềm hy vọng nơi con người. Người vẫn ở đấy, trong hiện tại, mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng chỉ lối cho con người về cõi trời từ nơi cõi đời biết sống niềm vui, hạnh phúc: “ Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10). “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6).

Con đường về trời bắt nguồn từ cõi đời này, đánh mất cõi đời cũng sẽ làm mất cõi trời. Sống ý nghĩa

trên cõi đời này điều cần thiết là đi tìm gặp Chúa, ở lại với Chúa và sống với Chúa. Sở dĩ như vậy, bởi con người dù thế nào vẫn có những ước muốn vô hạn về sự thiện, về niềm vui, hạnh phúc vĩnh cửu. Chính những khát mong vô hạn đó, Chúa chờ đợi con người ở những chặng đường nếu họ biết dừng lại tìm kiếm và sẽ gặp.

Chúa có cách của Người cho từng người để đi vào tâm hồn mỗi người, Chúa không muốn để ai hư mất, như mục tử đi tìm con chiên lạc. Có hai con đường tìm về, Đức hồng y Fulon Sheen đề ra, sự thiện và sự chán chường những đam mê dục vọng. Cuối cùng để lấp đầy sự khát vọng, con người khám phá ra chỉ có ở nơi Thiên Chúa.

Về trời, đối với mỗi người chúng ta đều bắt đầu từ hôm nay, tại nơi đứng trên trái đất này, với những hoàn cảnh cụ thể. Con người được Thiên Chúa khởi xướng đang hướng về trời với những việc làm thiện hảo, thanh luyện lương tâm ngay thẳng, xây dựng công bằng, bác ái, một xã hội yêu thương. Bảo vệ môi sinh, thiên nhiên, thành nơi đáng sống, chờ đợi ngày Chúa Quang Lâm, hoàn tất lịch sử cứu độ.

--------------------------

 

LênTrời ABC-392: KÌ CÔNG HIỂN HÁCH


Lm Vũđình Tường

 

Lễ Thăng Thiên chúng ta tưởng nhớ những kì công Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Những kì LênTrời ABC-392


Lễ Thăng Thiên chúng ta tưởng nhớ những kì công Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Những kì công này Đức Kitô thực hiện không phải cho Thiên Chúa mà là cho nhân loại. Những ai thành tâm đón nhận Đức Kitô với tâm tình yêu mến nhận được thành quả đó, và còn nhận được niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Trinh Nữ Maria thưa ‘Vâng’ với sứ thần, tâm hồn bà vui mừng ca hát: ‘Linh hồn tôi ngợi ca Chúa và tâm trí tôi vui mừng vì Thiên Chúa đã nhìn đến phận nữ tì Chúa’ Lc 1,46. Sau khi đón nhận tin vui, bà Maria vội vã lên đường viếng thăm người bà con là Elizabeth. Vừa nghe tiếng bà Maria chào, hài nhi trong lòng bà nhảy mừng và bà lớn tiếng ca tụng: ‘Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm’ Lc 1,42. Hai tiên tri Simeon và Anna cũng vui mừng đón nhận Ấu Chúa. Simeon, bồng ẵm hài nhi trong tay vui mừng ca hát. ‘Lậy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bằng an, vì chính mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ’ Lc 2,29.

Không một ai trên trần thế được đón nhận nhiều hơn Đức Kitô và cũng không ai bị từ chối nhiều như Đức Kitô. Cả đón nhận lẫn từ chối đều bắt đầu ngay từ khi Đức Kitô xuống trần và điều này còn đang tiếp tục xảy ra trong hiện tại và sẽ còn kéo dài trong tương lai. Hàng năm vào dịp Phục Sinh luôn có nhiều người tin theo, nhận lãnh đức tin Kitô; trong khi đó hàng năm cũng có nhiều người âm thầm từ bỏ Giáo Hội Chúa. Người đầu tiên từ chối đón nhận hài nhi Giêsu chính là vua Hêrôđê, khi ông hay tin Đức Kitô sinh ra, ông bối rối, lo lắng, tìm cách giết chết hài nhi Giêsu Mt 2,14. Cuộc đời công khai rao giảng của Ngài gặp biết bao thử thách từ lãnh đạo tôn giáo,trưởng hội đường. Chính những người quyền thế này dùng ảnh hưởng của mình đòi giết chết Đức Kitô. Sức ép của nhóm này khiến Philatô lúc đó đang là toàn quyền khu vực phải tuyên bố ông không tìm thấy chứng cớ nào để kết án Đức Kitô và ông rửa tay tuyên bố là không dính đến máu Đức Kitô. Kết quả Đức Kitô vẫn bị đóng đanh do sức ép của nhóm lãnh đạo tôn giáo Mt 27,24.

Lời rao giảng của Đức Kitô gây kinh ngạc cho dân chúng và họ ca tụng Ngài hết lời. Chính những ca tụng này khiến máu ghen của lãnh đạo tôn giáo sôi lên và họ không thể nhịn được. Dân chúng thì nói Đức Kitô giảng dậy như đấng có uy quyền, lời giảng của Ngài mới mẻ, đi vào lòng người. Trái lại nhóm lãnh đạo tôn giáo bực bội đến hạch sách ai cho quyền ông giảng dậy những điều đó (Mt 7,29). Tranh cãi thua, họ phao tin Đức Kitô là tướng quỉ. Đức Kitô có quyền trên sóng gió. Ngài phán một lời sóng biển yên lặng (Mt 8,23tt.) Ngài có quyền trên thần chết khi cho Lazaro và con gái Jairus sống lại từ cõi chết (Mt 8,19-26). Ngài có quyền tha tội, quyền mà một mình Thiên Chúa có Mk 2,10.

Không như những lãnh tụ trần thế, Đức Kitô chọn người lãnh đạo trong tương lai, không phải những người giầu kinh nghiệm chiến tranh, từng thắng nhiều trận, Ngài cũng không chọn người tài ba lỗi lạc, Đức Kitô chọn họ trong nhóm người chài lưới. Ngài đòi nơi họ một điều kiện duy nhất. Tình yêu. Ba lần Đức Kitô hỏi Phêrô ông có yêu mến Ngài không? Cả ba lần Phêrô đều đáp là ‘Có’. Sau mỗi câu đáp Đức Kitô trao cho ông một trách nhiệm: chăm sóc chiên con của ta, chăm sóc chiên mẹ của ta và lần thứ ba Ngài tiên đoán cách thức Phêrô chịu đóng đanh chết chứng tỏ tình yêu của ông với Đức Kitô (Gn 21).

Lãnh tụ trên hoàn cầu thường để quân đội, công an bảo vệ, canh gác, và có cận thần hy sinh mạng sống cho lãnh tụ. Đức Kitô đối xử hoàn toàn ngược lại. Khi quân dữ đến bắt, lãnh tụ Kitô nói với quân lính. Hãy bắt một mình ta, và phải để cho môn đệ ta ra đi bằng an. Ngay cả trong trường hợp đó đám lĩnh cũng tuân lệnh Ngài. Chỉ trong vòng ba năm vắn vủi. Ba năm rao giảng Đức Kitô để lại cho trần thế một Giáo Hội vững mạnh trước bao sóng gió. Ngày đầu tiên Giáo Hội non trẻ đã bị vùi dập, bị bắt bớ, tra tấn, cấm đoán. Giáo Hội đó vẫn tồn tại và vững mạnh phát triển. Hiện nay với hơn một ngàn triệu thành viên trung thành với giáo huấn của Ngài. Hàng ngàn hội từ thiện lớn nhỏ đều bắt nguồn từ tình yêu Đức Kitô. Hiện nay những ai cấm đoán hay chủ trương bách hại Giáo Hội Kitô đều là những người không thông hiểu lịch sử phát triển Kitô giáo. Chính Đức Kitô đã tuyên bố rõ ràng là Giáo Hội của Ngài sẽ bị bách hại, nhưng không sức mạnh nào có thể phá huỷ được, ngay cả sức mạnh của thần dữ là ma quỉ cũng phải đầu hàng. Con là đá và trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta (Mt 16,18). Đức Kitô nói với Phêrô như thế. Vì lí do đó mọi cố gắng bách hại Giáo Hội chỉ là làm công việc mất công, vô dụng.

Không có cuốn sách nào được in nhiều và in thành nhiều ngôn ngữ khác nhau hơn cuốn giáo lí của Ngài. Ngài là Đấng duy nhất mọi sự xảy ra cho Ngài đều được tiên đoán nhiều ngàn năm truớc và những tiên đoán này đều được thực hiện như những gì đã tiên đoán Lc 24,44.

--------------------------

 

LênTrời ABC-393: LÀM CHỨNG CHO CHÚA


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

Đức Giêsu Phục Sinh cách đây hơn 2.000 năm trước khi về Trời đã trao cho các môn đệ và LênTrời ABC-393


Đức Giêsu Phục Sinh cách đây hơn 2.000 năm trước khi về Trời đã trao cho các môn đệ và cả nhân loại sứ mạng làm chứng cho Ngài giữa thế gian và loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc trên khắp cùng trái đất.

Việc rao giảng Tin Mừng không chỉ dành riêng cho các Linh mục, Tu sĩ nam nữ, mà là bổn phận của tất cả mọi người khi lãnh nhận Bí tich rửa tội, Thêm sức. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Mọi Kitô đều được mời gọi loan báo Chúa Kitô Phục Sinh cho nhiều người bằng chính đời sống đạo của mình. Thực tế, Đức Giêsu đã huấn luyện các môn đệ của Người, để các môn đệ của Người tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người. Sứ mạng cứu độ, Đức Giêsu Kitô không làm một mình Người, nhưng Người muốn nhiều người cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Khi về Trời mặc dù chỉ còn 11 môn đệ, một số Tông đồ, và một số người nữ đạo đức. Tuy nhiên, Chúa hoàn toàn tin tưởng nơi nhóm môn đệ ít ỏi này. Người hoàn toàn đặt niềm tin và hy vọng vào nhóm Môn đệ của Người đã tuyển chọn, Người không chọn một lớp người nào khác nữa. Các Môn đệ sau khi Thầy Giêsu sống lại lên Trời, họ đã tụ họp lại, cầu nguyện và đã chọn Matthias thay chỗ khuyết của Giuđa…Công việc truyền giáo tiếp tục được các Tông đồ chia nhau đi khắp mọi nơi sau khi họ lãnh nhận Chúa Thánh Thần . Các Tông đồ của Chúa đã nhiệt tình, hăng say, can đảm rao giảng Tin Mừng của Chúa ở khắp nơi, nhất nhất các Tông đồ đã can đảm, đổ cả máu để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh.Chúa về trời là để mở cửa Thiên Đàng, mở cửa Nước Trời cho nhân loại, cho chúng ta. Người khai mào Trời mới, Đất mới.

Vâng, Đức Giêsu về Trời trước mặt các Môn đệ, trước sự ngỡ ngàng của những người Ga-li-lê, đến nỗi sứ thần của Thiên Chúa phải nhắc nhở họ :” Hỡi các bạn miền Ga-li-lê, sao ngỡ ngàng đứng đó nhìn trời ? Các bạn thấy Đức Giêsu lên trời làm sao, Người cũng sẽ ngự giá quang lâm như vậy “( Cv 1,11)  . Chúa Phục Sinh muốn người Ga-li-lê sống thực tế, vì công việc họ và mọi Kitô hữu ở trần gian phải làm là rao giảng Tin Mừng. Đứng đứng nhìn trời xanh, mây, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, các giải ngân hà mà phải quay lại công việc thường ngày để làm chứng cho Đức Kitô sống lại. Đức Kitô Phục Sinh đã lên trời, nhưng Người ở cùng nhân loại, ở cùng chúng ta cho đến tận thế “ (Mt 28, 20 ). Như ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu : Phêrô, Giacôbê, Gioan xưa trên núi Tabôrê được chứng kiến  Thầy Giêsu biến hình trên núi. Chúa đã kéo họ về thực tại và đưa họ xuống núi, nghĩa là trở về với đời   sống thường ngày để tiếp tục học hỏi, chứng kiến những việc làm, những phép lạ của Chúa, hầu khi Chúa chịu chết và sống lại theo ý của Chúa Cha, các môn đệ sẽ là chứng nhân cho Chúa Phục Sinh và tiếp tục sứ mạng cứu thế của Người giữa thế giới này…

Lễ Thăng Thiên là một lễ quan trọng, và là một lễ lớn của người Công giáo. Chúa Giêsu Phục Sinh chuyền ngọn lửa cho mỗi người chúng ta như vận động viên chuyển ngọn đuốc cho nhiều vận động viên để đốt vào ngọn đuốc chính thắp sáng trong suốt thời gian các vận động viên tranh tài trong cuộc tranh tài Olympic, hay Sea games  vv…Các môn đệ và chúng ta tiếp tục chuyền ngọn lửa đức tin, ngọn lửa truyền giáo cho nhiều người từ thế hệ này đến thế hệ khác vv…Đây là bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi Kitô hữu là làm cho Danh Chúa được mọi người nhận biết.

Đức Giêsu đã dạy các môn đệ, các Tông đồ và nhân loại qua Tám Mối Phúc, trong bài giảng trên Núi, Người cho chúng ta thấy vai trò và sứ mạng làm muối, làm men cho đời, đồng thời Người nói chúng ta là ánh sáng :” Chính anh em là muối cho đời.Nhưng muối mà nhạt đi,thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian..Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được.Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời “ ( Mt 5,13-16 ).

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, khi Chúa về trời, Chúa luôn tin tưởng trao phó sứ mạng truyền giáo cho Nhóm 12, Chúa không cần chọn thêm ai khác nữa. Các Tông đồ đã can đảm, hiên ngang, lãnh nhận Chúa Thánh Thần và ra đi rao giảng Tin Mừng khắp tận cùng thế giới.Xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con cũng hiên ngang như các Tông đồ làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng chính đời sống đức tin và bác ái của chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao các người miền Ga-li-lê lại cứ đứng nhìn trời ?
2.Chúa lên trời để làm gì ?
3.Trước khi Chúa về trời, Người căn dặn các môn đệ điều gì ?
4.Lễ Thăng Thiên có ý nghĩa gì ?

--------------------------

 

LênTrời ABC-394: NIỀM VUI TỪ CHÚA KITÔ VINH HIỂN


Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

 

Thông thường, khi có ai ra đi, chúng ta thường cảm thấy buồn và thương nhớ. Bởi vì ra đi LênTrời ABC-394


Thông thường, khi có ai ra đi, chúng ta thường cảm thấy buồn và thương nhớ. Bởi vì ra đi là chết đi trong lòng một ít như người Pháp nói: “Partir c’est mourir un peu.” Tuy nhiên, việc Đức Giêsu chia tay các môn đệ để về cùng Chúa Cha lại là biến cố của niềm vui. Các Tông Đồ trở về cõi thế. Chia tay đôi ngã, tuy ngậm ngùi nhưng lòng vẫn chan chứa niềm vui.

1- Niềm hy vọng lớn lao

Bởi lẽ, Chúa Giêsu lên trời là phần thưởng và là vinh quang mà Thiên Chúa Cha ban cho Người, sau khi Đức Giêsu hoàn tất sứ vụ cứu độ được Chúa Cha giao phó. Người đã nhập thể làm người, chịu đau khổ, chết và phục sinh; hôm nay,

Người lên trời vinh hiển. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Cha đã siêu thăng Người và đặt Người ngự bên hữu Chúa Cha. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh (x. Ep 1,17-23). Khi ở bên hữu Thiên Chúa, Đức Giêsu hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25).

Biến cố Chúa lên trời mở ra cho chúng ta niềm hy vọng về phần thưởng Nước Trời mà Người đã hứa. Theo lời thánh Lêô Cả: Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Bài giảng lễ Thăng Thiên). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29).

Nước Trời là quê hương đích thực của mỗi người chúng ta. Đức Giêsu khai mở cho chúng ta về một tương lai mới, đó là hạnh phúc thiên đàng. Sống trên trần gian, chúng ta luôn phải hướng về quê thật, nơi đó có hạnh phúc đích thực.

2- Chúa Giêsu lên trời, Thánh Thần hiện xuống

Nếu Chúa Giêsu không về cùng Chúa Cha, thì Thánh Thần sẽ không được ban. Như Chúa đã nói: “Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con” (Ga 16,7).

Quả thế, sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần chính là Đấng Bảo Trợ mới của Giáo Hội. Người hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội. Người ban sức mạnh và biến đổi Giáo Hội. Nhờ Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ từ những người thất vọng, nhát đảm, sợ sệt, trở thành những người rất can đảm và hăng say rao giảng Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống và là nguồn của mọi ân sủng. Nhờ Thánh Thần, chúng ta mới có thể làm con cái Chúa.

Như thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của Đấng Phục Sinh, được ban cho chúng ta khi Người về trời. Đó là niềm vui lớn lao cho chúng ta.

3- Với sứ vụ truyền giáo

Đấng Phục Sinh ủy thác sứ vụ truyền giáo cho Giáo Hội khi nói: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân,” (Lc 13,47) hay “chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).

Vì thế, khi Đức Giêsu lên trời thì cũng là lúc các Tông Đồ phải xuống núi, phải lên đường để thi hành sứ vụ của mình. Các Tông Đồ đã ra đi và hăng say rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người, mọi dân tộc. Nhờ đó, Đạo Chúa được lan tỏa khắp thế giới.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi mỗi người chúng ta cộng tác vào sứ vụ cao cả này: Chính chúng ta là những chứng nhân của sự thật và giá trị Tin Mừng.

Kitô giáo dạy chúng ta rằng trong khi hướng về thiên quốc, người Kitô hữu có bổn phận phải xây dựng xã hội trần thế này nên nhân bản, đạo đức và đẹp đẽ hơn. Bởi thế, người Công Giáo tốt là người tuân giữ luật lệ giao thông, trật tự công cộng và thiện ích cộng đồng tốt hơn những người khác.

Người Công Giáo tốt phải là người đi đầu trong việc giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, làng xóm, xứ đạo và gia đình của mình.

Người Công Giáo tốt phải là người đi đầu trong việc bảo vệ môi trường sạch sẽ, an toàn, và không sản xuất những thực phẩm bẩn và có độc tố để kiếm tiền bằng mọi giá.

Đó là bổn phận của người Kitô hữu khi sống trong xã hội. Bằng những chứng tá về đời sống, chúng ta tham gia để xây dựng xã hội này công bình hơn, an toàn hơn và văn minh hơn. Amen!

--------------------------

 

LênTrời ABC-395: TỪ “LIKE” CHUYỂN THÀNH “AMEN”


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục LênTrời ABC-395


Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).

Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới – theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x.Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).

Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa…Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).

Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.

    Hiện diện mới

Chúa Giêsu đã tiên báo với các môn đệ : “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x.Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giêsu, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giêsu coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gioan không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt.Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.

Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23).  Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa.Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người.Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

    Trao Sứ Vụ

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

    Từ“Like” Chuyển Thành “Amen”

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội.

Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo.Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.

Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngay từ khi internet lần đầu tiên xuất hiện, Giáo hội luôn tìm cách thúc đẩy việc sử dụng nó để phục vụ cho sự gặp gỡ giữa mọi người và cho sự đoàn kết giữa tất cả mọi người” (Sứ điệp Truyền thông 2019).

Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông 53, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận tầm quan trọng và sự lan rộng của internet và các mạng xã hội trong đời sống con người ngày nay. Đó là nguồn kiến thức và những tương quan giữa con người với nhau. Tuy nhiên, cũng không thiếu những khía cạnh tiêu cực do các mạng xã hội. Đó là nơi dễ bị những tin tức giả mạo và xuyên tạc xâm nhập và lan tràn; các dữ kiện cá nhân nhiều khi bị lèo lái để mưu những lợi lộc về chính trị hoặc kinh tế, không tôn trọng nhân vị và các quyền của họ. Sứ điệp cũng cảnh giác chống lại sự tự cô lập qua các mạng xã hội, có hiện tượng những người trẻ trở thành “những ẩn sĩ xã hội”, trở nên hoàn toàn xa lạ với xã hội chung quanh.(x.vaticannews.va/vi).

Đức Thánh Cha dùng hình ảnh thân mình và các chi thể mà Thánh Phaolô đã dùng để nói về những quan hệ hỗ tương giữa con người: “Anh chị em hãy bài trừ dối trá và mỗi người hãy nói sự thật với tha nhân, vì chúng ta là chi thể của nhau” (Ep 4,25). Từ đó ngài kêu gọi dùng các mạng xã hội để kiến tạo tình hiệp thông, với ý thức chúng ta cùng họp thành một thân thể và là chi thể của nhau, và thay vì dùng các phương diện này để chia rẽ, gây oán ghét và thù hận, dựa trên sự dối trá.

“Chính Giáo hội là một mạng lưới được đan dệt bằng sự hiệp thông Thánh thể, trong đó sự hiệp nhất không được đặt trên những nút ‘like’ (thích), nhưng trên sự thật, trên lời ‘Amen’, qua đó mỗi người đều bám víu vào Thân thể của Đức Kitô, và chào đón người khác” (Sứ điệpTruyền thông 53).

Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.

Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.

Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệpTruyền thông 50).

Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương.

--------------------------

 

LênTrời ABC-396: Chúa Về Thiên Quốc Sáng Ngời Vinh Hiển


Con Ở Thế Trần Kiên Vững Chứng Nhân

 

Triết gia Henri Frédéric Amiel (1821-1881, Thụy Sĩ) nhận định: “Sự không chắc chắn là nơi LênTrời ABC-396


Triết gia Henri Frédéric Amiel (1821-1881, Thụy Sĩ) nhận định: “Sự không chắc chắn là nơi trú ẩn của niềm hy vọng”. Vì không chắc hoặc chưa chắc nên mới cần nuôi dưỡng niềm hy vọng. Nhưng đó là đối với cuộc sống đời thường. Còn đối với cuộc sống tâm linh có phần khác: Tùy vào cách sống của mình mà có thể chắc chắn được về trời hay không, còn Chúa Giêsu hứa sẽ trở lại đón chúng ta về trời thì đó là điều chắc chắn tuyệt đối.

Đối với các Kitô hữu, niềm hy vọng về trời với Chúa Giêsu là điều cao xa – với ý cao thượng, cao cả, chứ không viễn tưởng hoặc mơ hồ. Niềm hy vọng đó là niềm khao khát cháy bỏng và mạnh mẽ, vì thế mà Kitô hữu không ngại từ bỏ mình và chấp nhận mọi thua thiệt ở trần gian này – kể cả sinh mạng của mình, mặc dù cuộc sống rất quý giá.

Là văn sĩ, họa sĩ, kiêm khoa học gia, nhưng Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, người Đức) nhận định rất chí lý: “Chín điều cần thiết để sống thỏa nguyện: Đủ sức khỏe để biến công việc thành lạc thú; đủ tiền bạc để đáp ứng nhu cầu bản thân; đủ sức mạnh để chống lại và vượt qua nghịch cảnh; đủ trang nhã để thú nhận tội lỗi và bỏ chúng lại sau lưng; đủ kiên nhẫn để lao lực cho tới khi đạt được điều gì đó tốt đẹp; đủ khoan dung để thấy được điểm tốt ở hàng xóm; ĐỦ YÊU THƯƠNG để khiến mình có ích cho mọi người; ĐỦ ĐỨC TIN để biến lời răn của Chúa trời thành hiện thực; ĐỦ HY VỌNG để vứt bỏ nỗi sợ hãi bất an hướng về tương lai”. Chín “cái đủ” ấy thật tuyệt vời biết bao!

Chúa Giêsu về trời trước, nghĩa là Ngài xa chúng ta một thời gian – chỉ xa theo dạng hữu hình mà thôi, vì chính Ngài vẫn ở cùng chúng ta cho tới tận thế – cụ thể là Thánh Thể. Tất nhiên cuộc chia tay nào cũng đầy lưu luyến, bịn rịn, đôi khi còn buồn thảm, và người ta luôn hẹn gặp lại nhau. Nhưng cũng có những cuộc chia tay khiến người ta vui mừng và hy vọng, đặc biệt nhất là cuộc chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vào ngày Ngài về trời. Chúng ta vui mừng và hy vọng, vì chính Ngài đã hứa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:1-3). Lời hẹn “tái ngộ” của Chúa Giêsu là sự thật chắc chắn.

Khi hẹn gặp lại nhau, người ta luôn nôn nóng chờ đợi tới ngày đó – nhất là đối với đôi nam nữ yêu nhau mà ở xa nhau. Vương quốc của Chúa Giêsu không phải ở thế gian này, nhưng người ta lại tưởng Ngài là nhà cách mạng, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Do đó, người ta đã hỏi dò Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1:6). Thế nhưng không phải vậy và không là vấn đề, rồi Ngài xác định: “Anh em KHÔNG CẦN BIẾT thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là CHỨNG NHÂN của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7). Vấn đề quan trọng là sống đời chứng nhân chứ không là gì khác.

Và rồi vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt họ, có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, về phía Ngài đi mất hút, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Thật mà như mơ, mơ mà là thật. Nhớ Thầy và thương phận mình lắm, nhưng hy vọng rất nhiều.

Ôi thật lạ lùng quá chừng! Đối với phàm nhân, kể ra thì cũng thấy buồn khi Ngài đã đi xa, thế nhưng chúng ta không hề thất vọng, vẫn tràn trề hy vọng, và chúng ta cũng chẳng mồ côi. Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài còn gởi Chúa Thánh Thần đến nâng đỡ chúng ta từng ngày, Đấng ấy là Đấng Bảo Trợ – Ngôi Ba Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đi mà chúng ta không hề buồn chi. Hy vọng tràn đầy, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Ôi, thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như vậy.

Vui tiếp vui, mừng nối mừng, niềm hy vọng như được kéo dài và lan tỏa kỳ lạ: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Cuộc chia tay nào cũng mặc vẻ buồn, không nhiều thì ít, dù mặc nhiên hoặc minh nhiên, nhưng cuộc chia tay của Chúa Giêsu với chúng ta lại không u buồn, ngược lại rất hân hoan.

Đất thấp, trời cao. Khác mà không lạ. Xa mà vẫn gần. Thánh Phaolô cho chúng ta biết: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh” (Dt 9:24-25). Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9:26-28).

Chính vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” (Dt 10:19). Chúng ta chẳng là gì, hoàn toàn bất xứng, thế mà được diễm phúc vô cùng, bởi vì chính Chúa ban cho “quyền sống” đó. Và còn hơn như thế nữa, cũng chính Người đã “mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa” (Dt 10:20-21). Vì thế, Thánh Phaolô khuyên các tín nhân: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10:22-23). Đối với Thiên Chúa, tất cả đều tuyệt đối. Bất cứ ai có đức tin càng mạnh và đức mến càng sâu thì càng được Ngài độ trì.

Đức tin là điều không thể đụng chạm nhưng có thể cảm nghiệm, nhưng cần phải cụ thể hóa bằng việc làm, nếu không thì đó chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Sống đức tin là hành động cần thiết, luôn phải kiên trì và không ngừng canh tân. Vì sống đức tin là mối phúc đặc biệt mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).

Đức tin sống nhờ “hơi thở” yêu thương. Sống đức tin là thể hiện đức tin một cách sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ chút nào và phức tạp lắm, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát. David Coperfield có biệt tài ảo thuật thế nào cũng chẳng hơn chúng ta: Là con chiên hiền lành khi vào trong nhà thờ, nhưng hóa con cọp dữ dằn khi ra ngoài nhà thờ. Đúng là “siêu” thật!

Chúa Giêsu nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà vắng bóng đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu khoảng buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, thế thì chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo một cách chân thành đúng nghĩa, tích cực chứ không chỉ theo luật buộc những điều tối thiểu (đi lễ Chúa Nhật, xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh).

Giữ đạo không hẳn là giống như sống đạo – giống mà khác. Sống đạo là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã truyền lệnh: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Và chắc chắn mệnh lệnh này không miễn trừ bất kỳ ai.

Ngày ấy, khi Chúa Giêsu chia tay các môn đệ để về trời, cuộc chia tay không buồn thảm mà lại chứa chan niềm hy vọng: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời. Thầy đi rồi!

Thầy về trời thì trò phải vào đời, không thể khác được. Thánh Luca tường thuật rõ ràng: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:52-53). Đức Kitô chịu chết nhưng đã phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời để vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hy vọng đích thực và niềm hạnh phúc khôn tả đối với các tín nhân.

Chúa Giêsu đã hẹn “see you again” với chúng ta, thế thì lẽ nào chúng ta lại không muốn hẹn tái ngộ với Ngài? Chắc chắn chúng ta cũng hẹn gặp Ngài để đoàn tụ tại Quê Nhà – nhưng trong ngày sum vầy đó, hy vọng chúng ta không bị xếp đứng bên bầy dê lông đen ngòm hoặc xám xịt, mà được xếp đứng bên đàn chiên lông trắng toát.

Lạy Thiên Chúa tối thượng duy nhất và giàu lòng thương xót, xin ban thần khí can đảm để chúng con sống đạo và thể hiện đức tin trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống tạm này. Để nhờ đó, chúng con chắc chắn được về trời đoàn tụ với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Mẹ cùng chư thần chư thánh, sau khi chúng con hoàn tất nhiệm vụ sống nơi trần gian. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-397: LỜI TRAO BAN VÀ HỨA HẸN


Anna Cỏ May

 

Khi đi đâu xa, cha mẹ thường chuẩn bị cho con mọi đồ dùng cần thiết, nhắn nhủ những lời yêu LênTrời ABC-397


Khi đi đâu xa, cha mẹ thường chuẩn bị cho con mọi đồ dùng cần thiết, nhắn nhủ những lời yêu thương và hứa hẹn mau trở về.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu cũng hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin, để an ủi và trao ban sứ mạng. Ngài hứa sẽ trao ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Ngài mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh mời gọi các ông phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, nghĩa là nhân danh Đấng đã chịu khổ hình và sống lại. Chính các môn đệ là nhân chứng sống động về tất cả những lời rao giảng để kêu gọi mọi người sám hối (x. Lc 24, 45-48). Các ông trở nên những môn đệ đích thực được Chúa chúc lành, được sao đi rao giảng ơn cứu độ cho mọi người. Nhờ đó mọi người được ơn tha tội, được làm con cái Thiên Chúa và chung hưởng vinh quang cùng Ngài.

Còn chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đã mau mắn đón nhận Tin Mừng và đổi mới đời sống theo tinh thần Chúa Kitô chưa? Chúng ta có tin tưởng cậy trông và phó thức vào tình yêu và quyền năng của Ngài không? Chúng ta hãy để lời Chúa thách đố từng giây từng phút cuộc sống chúng ta, hầu chúng ta được Chúa nâng đỡ. Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Vậy chúng ta đã thực thi sứ mạng mà Chúa đã trao phó như thế nào? Chúa Giêsu không ngừng biểu lộ tình yêu và thực hiện lời hứa nơi mỗi người. Ngài trung tín sẵn sàng bảo vệ từng người chúng ta. Chỉ có Ngài liều lĩnh trao ban tình yêu và sứ mạng cao cả ấy cho chúng ta. Chúng ta hãy lãnh nhận, tạ ơn Ngài và để cho Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Chúa là Thiên Chúa Hằng Hữu, xin cho mỗi người chúng con biết hoan hỷ vui mừng dâng lời cảm tạ vì Chúa Giêsu về trời, trao ban tình yêu và sứ mạng là con đường dẫn chúng con đến với Chúa, xin cho chúng con vững tin thi hành lời Chúa trao ban, tin rằng Chúa về để trời dọn chỗ cho chúng con. Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-398: ĐƯỜNG LÊN TRỜI


Bông hồng nhỏ

 

Giêsu đã lên trời, trở về với chúa Cha. Người trở về sau khi đã hoàn tất sứ mạng Cha trao phó LênTrời ABC-398


Giêsu đã lên trời, trở về với chúa Cha. Người trở về sau khi đã hoàn tất sứ mạng Cha trao phó.Trước khi được rước lên trời, Người đã chỉ bảo cho các Tông đồ những lời sau hết và chúc lành cho các ông.

Chúa Giêsu được rước lên trời, đó là niềm hân hoan và cũng là niềm hy vọng cho mọi tín hữu. Suốt cuộc sống dương thế, Chúa Giêsu đã đi vào trong tận cùng của đau khổ, thiếu thốn. Người xuống nơi sâu thẳm nhất của cõi lòng tan nát và xoa dịu bằng tình yêu không bờ bến cho những con người bị gạt ra bên lề xã hội. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã là một người nghèo, một người bị đời bội bạc và phụ tình. Đời đã tung hô Người khi đón nhận tình yêu của Người và đời cũng “thẳng tay” phụ bạc khi Người không đi theo đường lối mà họ muốn. Tất cả những gì sách Thánh đã chép về Người đều được ứng nghiệm. Hôm nay khi thời gian ở với các tông đồ đã hết, Người trao ban cho các ông sứ mạng “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.

Các ông phải trở nên chứng nhân của Chúa Phục Sinh, Đấng đã chịu khổ hình vì tội lỗi nhân loại và đã sống lại để ban tặng niềm hy vọng về sự sống muôn đời. Các tông đồ đã dùng cả cuộc đời và mạng sống mình để hoàn thành sứ mạng Chúa trao. Đang khi chúc lành cho các Tông đồ, Người được rước lên trời Chúa Giêsu vân không ngừng chúc lành cho thế giới mà Ngài không ngường yêu thương. Tình thương của Chúa vẫn trải dài trên cuộc đời ta. Người âm thầm đi vào lịch sử đời ta và cứu chuộc ta ngay trong chính dòng lịch sử của đời ta. Tất cả những gì ta nhận lãnh từ thế hệ đi trước là hồng ân cao quý mà Chúa đã đặt để. Chúa muốn ta được hạnh phúc. Đời ta có ý nghĩa hơn và đáng sống hơn vì ta đặt hy vọng nơi  Chúa. Chúa đã làm cho đời ta nên như lúc này, dù đau khổ hay hạnh phúc tất cả đều mang một ý nghĩa cứu độ . Mỗi ngày ta hãy bước đi trong hân hoan hướng nhìn về trời cao, đón nhận thực tại với niềm tin và hy vọng nơi Đấng đã lamg người, đã chết và sống lại để cứu dộ ta. Đó là cách thức ta trở nên chứng nhân của Chúa cho mọi người.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã lên trời và không ngừng âu yếm cảm thương chúng con. Chúa đã về cùng Chúa Cha và dọn sẵn chỗ cho chúng con. Con đường lên trời đã được vạch rõ mà bất cứ ai cũng có thể bước lên, đó là con đường đón nhận thập giá bản thân, cùng bước đi với Chúa Giêsu vác thánh giá, cùng đóng đinh với người để tình yêu tỏa lan. Xin Chúa giúp chúng con mỗi ngày và ban Đấng Bảo Trợ đến với chúng con. Để nhờ đó, chúng con can đảm “ sống cho những gì cao quý hơn.” Amen.

--------------------------

 

LênTrời ABC-399: NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG TA


 Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Phận con người là phải chết một lần rồi sau đó là chịu phán xét” (x.Dt 9,27).

 

Đức Giê-su cũng là một con người nên Ngài cũng phải chết một lần. Nhưng Ngài đã sống lại LênTrời ABC-399


Đức Giê-su cũng là một con người nên Ngài cũng phải chết một lần. Nhưng Ngài đã sống lại và đã lên trời. Vì là Thiên Chúa nữa, nên Ngài không chịu phán xét mà Ngài sẽ phán xét mỗi người chúng ta: “Đức Giê-su, Chúa chúng ta, đã tự hiến tế chỉ một lần để xóa bỏ tội lỗi muôn người. Ngài xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xóa bỏ tội lỗi mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (x. Dt 9,28).

Chúng ta là những người tin vào Chúa và cũng chính là những người trông đợi Chúa đến cứu độ chúng ta. Vậy chúng ta phải gì trong thời gian trông đợi đó? Chẳng lẽ chúng ta cứ đứng nhìn lên trời như các môn đệ sao? Không. Chúng ta sẽ ra sức cố gắng làm việc để được lên trời với Đức Giê-su.

Cụ thể chúng ta sẽ làm gì đây? Việc cụ thể chúng ta làm là: “Chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (x. Dt 10,22-23).

Đấng đã hứa là Đấng trung tín, nên Chúa sẽ xét xử mỗi người chúng ta. Đó là việc sẽ được diễn ra sau khi ta chết, chứ không phải lời nói đùa, nói chơi. Nên chúng ta tin và cố gắng chuẩn bị cho chính mình. Chúa sẽ xét xử từng người, nên chúng ta cố gắng mà sống cho tốt và nếu có bị thiệt thòi hay bị người khác hãm hại thì ta đừng lo, đã có Chúa trả lại sự công bằng cho ta, không có ai chạy đâu cho thoát được. Vì đâu có ai thoát khỏi cái chết đâu, ai cũng phải chết một lần mà. Ai làm tốt và sống tốt thì được thưởng; ai làm xấu và sống gian ác sẽ bị trừng phạt.

Vậy chúng ta hãy đến với Chúa và tin vào Chúa với một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền. Bằng cách sống Lời Chúa mỗi ngày nhờ Thánh Thần và chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng.

Đức Giê-su nói: “Có lời Thánh Kinh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi thứ ba, từ cõi chết sống lại. Phải nhân Danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (x.Lc 24,46-48).

Chúng ta có hai việc làm để tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta. Một là Rao Giảng; hai là Làm Chứng.

Chúng ta rao giảng gì đây? Chúng ta rao giảng Đức Ki-tô Giê-su đã chịu khổ hình và ngày thứ ba Ngài đã sống lại.

Chúng ta làm chứng cách gì đây? Chúng ta làm chứng bằng chính cuộc sống của mình.

Nghĩa là chúng ta sẽ giống như Đức Ki-tô, chấp nhận những khó khăn, những vất vả, những gian truân; thậm chí cả những lừa lọc, hãm hại trong cuộc sống đời thường cũng như trong đời sống đức tin.

Để dù công việc của chúng ta có bề bộn, chúng ta vẫn cố gắng sắp xếp để ta có thời gian cầu nguyện, gần gũi và gắn bó với Chúa.

Dù ta có nghèo, ít tiền ít của, vừa đủ dùng cho cuộc sống, ta vẫn giữ một tâm hồn chân thật, với một đức tin trọn vẹn; không than trời trách đất; không đua đòi cho “bằng chị bằng em” hay bằng người này người kia mà sống bất công; sống gian ác.Ta có một tâm hồn siêu thoát khỏi đời này.

Dù cuộc sống bây giờ có nhiều cám dỗ: nào là tiền tài; nào là của cải; nào là danh vọng, ta vẫn giữ được một lương tâm trong sạch. Ta sống theo Lời Chúa chứ không sống theo người đời.

Dù thân xác ta có bệnh tật hay ung thư đi nữa, ta hãy chấp nhận và dâng lên cho Thiên Chúa như những hy sinh để đền tội cho mình và cầu nguyện cho gia đình, cho con cháu và cho người khác. Đồng thời, ta phải biết giữ gìn sức khỏe, biết siêng năng làm việc, học hỏi; biết ăn uống điều độ và ngủ nghỉ có giờ có giấc.

Ta đừng có ham làm việc quá mà bỏ qua đời sống thiêng liêng; bỏ đi đời sống cầu nguyện; ta cũng đừng lười lĩnh mà ăn chơi lêu lỏng. Ta phải có sự quân bình, đừng làm quá cũng đừng chơi quá. Ta phải có một thời khóa biểu riêng cho chính mình, giờ nào việc đó. Điều đó sẽ giúp ta tận dụng những thời giờ quí báu Chúa ban cho ta khi sống trên đời này mà không lãng phí.

Vì ta biết rằng ta sống ở đời này chỉ một lần; chết một lần; sau đó là chịu phán xét. Phán xét rồi, một là ta được lên thiên đàng, nếu ta sống tốt; hai là ta sẽ phải vào luyện ngục, nếu chưa đền xong. Ở luyện ngục lâu hay mau là do việc ta cố gắng ở đời này.Đó là nói về việc linh hồn của ta, sau khi ta chết.

Còn đến ngày sau hết, thân xác của ta sẽ sống lại mà hợp với linh hồn của ta. Lúc này thì chỉ có hai con đường. Một là lên thiên đàng sống đời đời với Chúa; hai là xuống hỏa ngục sống mãi mãi với ma quỉ.

Vậy mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta càng thêm tin tưởng vào Chúa để sống đức tin của mình. Ta không chỉ nhìn trời mà còn tích cực chuẩn bị ngay từ bây giờ để ta có thể lên trời, bằng cách rao giảng và sống chứng nhân. Chắc chắn với sự cố gắng liên lỉ và mỗi ngày, ta tiến lại gần Chúa với “một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền”, khi chúng ta chết, linh hồn ta sẽ về với Chúa và chịu phán xét, chúng ta được cứu độ, được vào Nước Trời và ngày sau hết thân xác chúng cũng sẽ được sống lại, mà cùng với linh hồn sống đời đời với Chúa trên thiên đàng.

Đó là niềm tin của chúng ta. Đó là niềm hy vọng của chúng ta và đó là niềm vui và hạnh phúc của chúng ta.

--------------------------

 

LênTrời ABC-400: CHÚA GIÊ-SU VỀ TRỜI DỌN CHỖ CHO CHÚNG TA


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 

Ai trong chúng ta cũng từng được nghe biết Cristoforo Colombo. Ông là nhà thám hiểm đầu tiên LênTrời ABC-400


Ai trong chúng ta cũng từng được nghe biết Cristoforo Colombo. Ông là nhà thám hiểm đầu tiên phát hiện ra Châu Mỹ vào năm 1492 (cách đây 527 năm). Bấy giờ, ông được vua Tây Ban Nha cung cấp 3 chiếc thuyền buồm và thủy thủ đoàn gồm 88 người tìm cách vượt qua Đại Tây Dương để đi Ấn Độ, không ngờ ông lại phát hiện ra Châu Mỹ nằm ngay trên hành trình của mình.

Colombo và thủy thủ đoàn khởi hành từ Tây Ban Nha ngày 3 tháng 8 năm 1492 và sau một cuộc hải hành gian lao vất vả trên Đại Tây Dương kéo dài suốt 2 tháng 9 ngày, vào ngày 12 tháng 10 năm 1492, Colombo đã phát hiện ra châu Mỹ, một miền đất chưa từng được biết đến nên người ta gọi đây là Tân thế giới.

Trong những thế kỷ tiếp theo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Vương Quốc Anh, Pháp cũng như các cường quốc châu Âu khác, đã đổ xô đến miền đất trù phú này lập nghiệp, xây dựng nên nhiều quốc gia lớn mạnh như ta thấy hiện nay, đặc biệt là Hoa Kỳ và Canada.

Sự kiện nhà thám hiểm Cristoforo Colombo phát hiện ra Châu Mỹ, khai lối mở đường cho các dân các nước Châu Âu và nhiều nơi khác trên thế giới tuôn đến định cư lập nghiệp ở đó gợi cho chúng ta nhớ đến một sự kiện khác lớn lao và quan trọng hơn nhiều, đó là sự kiện Chúa Giê-su lên trời để khai lối mở đường cho nhân loại bước vào Vương quốc thiên đàng.

Chúa Giê-su lên trời không phải để rời xa chúng ta, nhưng Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta như lời Ngài nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3).

Thế là từ ngày Chúa Giê-su lên trời vinh hiển, cửa trời đã được mở ra, Vương quốc vĩnh cửu vô biên đã được dọn sẵn để đón nhận muôn dân muôn nước vào hưởng phúc đời đời và Thiên Chúa không ngớt mời gọi muôn dân vào chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ban cho con người tự do và Thiên Chúa tôn trọng tự do của họ đến cùng. Vì thế, Thiên Chúa không lôi kéo, không ép buộc, không xô đẩy bất cứ ai vào thiên đàng, nhưng để cho mỗi người tự do chọn lựa, Ngài chỉ mời gọi thôi.

Chúa Giê-su tha thiết mời gọi chúng ta đến Vương quốc thiên đàng như sau: “Nào, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa…”(Mt 25,31-46).

Và liền theo sau lời mời gọi này, Chúa Giê-su cũng chỉ cho ta con đường dẫn vào thiên quốc. Con đường đó là sống yêu thương, phục vụ và cứu giúp những người bất hạnh chung quanh ta như Ngài nói: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”.

Vậy thì bao lâu chúng ta sống yêu thương, đùm bọc, cứu giúp… người khác như là cho người đói ăn, thăm viếng người đau yếu, cứu giúp người bất hạnh… là chúng ta đang đi trên đường mà Chúa Giê-su đã vạch để tiến vào Vương quốc thiên đàng. Bấy giờ, cửa thiên đàng rộng mở cho chúng ta.

Ngược lại, bao lâu chúng ta không quan tâm, không cứu giúp người bất hạnh chung quanh là chúng ta đang đi trên đường đưa xuống hỏa ngục đau khổ muôn đời. Bấy giờ, lời cảnh báo của Chúa Giê-su sẽ được áp dụng cho chúng ta: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy đi khuất mắt Ta mà vào trong hỏa ngục… Vì các ngươi chẳng màng quan tâm cứu giúp Ta…”

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa đã chấp nhận chịu khổ nạn, chịu chết ô nhục rồi sống lại và lên trời vinh hiển là để khai lối mở đường cho chúng con vào Vương quốc vô biên.

Xin giúp chúng con vững bước theo con đường Chúa đã vạch để tiến về quê trời là con đường bác ái yêu thương, để mai đây chúng con được chung hưởng vinh quang hạnh phúc muôn đời với Chúa.

----------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây