Suy suy niệm Chúa Nhật PS 6-A Bài 101-150: Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác

Thứ ba - 19/05/2020 10:29
Suy suy niệm Chúa Nhật PS 6-A Bài 101-150: Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác
Suy suy niệm Chúa Nhật PS 6-A Bài 101-150: Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác
Suy suy niệm Chúa Nhật PS 6-A Bài 101-150: Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác
------------------------------
Phúc Âm: Ga 14, 15-21: "Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó". - Ðó là lời Chúa
----------------------------------
PS 6-A101: Hội Thánh Có Thánh Thần Ở Luôn. 2
PS 6-A102: Vị Thiên Chúa bị lãng quên. 7
PS 6-A103: Hiện diện của kẻ vắng mặt 9
PS 6-A104: Ở lại trong tình yêu - Lm Giuse Hoàng Kim Toan. 10
PS 6-A105: THẦN KHÍ YÊU THƯƠNG.. 13
PS 6-A106: HIỆP NHẤT TRONG TÌNH YÊU.. 18
PS 6-A107:YÊU VÀ GIỮ LUẬT.. 20
PS 6-A108: AI MỚI THỰC SỰ YÊU MẾN CHÚA ?. 22
PS 6-A109: CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH.. 31
PS 6-A110:  TIN MỪNG KHÔNG BIÊN GIỚI 32
PS 6-A111: Yêu và giữ lời - Huệ Minh. 35
PS 6-A112: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 37
PS 6-A113: Suy niệm của Lm Trầm Phúc. 40
PS 6-A114: Khát khao gặp Chúa - Ioseph, Svd. 42
PS 6-A115: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 6 PS A.. 44
PS 6-A116: Ở với, ở bên, ở trong. 48
PS 6-A117: THẦY Ở TRONG CÁC CON.. 50
PS 6-A118: Hãy ở lại trong Thày. 53
PS 6-A119: Đấng khơi nguồn hy vọng. 54
PS 6-A120: Nếu yêu mến Thầy. 56
PS 6-A121: Thể hiện lòng yêu mến. 59
PS 6-A122: Tình yêu đong đầy. 61
PS 6-A123: Đạo nào cũng tốt?. 64
PS 6-A124: Thần Khí Sự Sống. 66
PS 6-A125: Chúa Nhật 6 Phục Sinh. 68
PS 6-A126: Có Chúa, chúng ta không bao giờ mồ côi 70
PS 6-A127: Con mắt của trái tim.. 73
PS 6-A128: Lề luật và tình yêu. 75
PS 6-A129: Chúa Nhật 6 Phục Sinh. 76
PS 6-A130: Hứa ban Thần Khí 82
PS 6-A131: CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH NĂM A.. 89
PS 6-A132: CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BẢO TRỢ.. 93
PS 6-A133: ƠN TA ĐỦ CHO CON.. 95
PS 6-A134: THẦY Ở CÙNG ANH EM... 97
PS 6-A135: ĐƯỢC THẦY YÊU MẾN.. 99
PS 6-A136: YÊU MẾN TRONG THẦN KHÍ 100
PS 6-A137: CHIA SẺ NIỀM VUI 102
PS 6-A138: HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN.. 104
PS 6-A139: YÊU MẾN VÀ TUÂN GIỮ.. 106
PS 6-A140: THÁNH THẦN ĐẤNG BẢO TRỢ ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA.. 109
PS 6-A141: THẦN KHÍ CHÚA.. 112
PS 6-A142: NHÂN DANH CHÚA GIÊSU PHỤC SINH.. 117
PS 6-A143: NGƯỜI YÊU MẾN.. 119
PS 6-A144: CẬY TRÔNG.. 121
PS 6-A145: GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG.. 123
PS 6-A146: GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN.. 124
PS 6-A147: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_A.. 127
PS 6-A148: THÁNH THẦN – ĐẤNG BẢO TRỢ.. 131
PS 6-A149: HỨA BAN THÁNH THẦN.. 135
PS 6-A150: NẾU CON.. 137

---------------------------------
 

PS 6-A101: Hội Thánh Có Thánh Thần Ở Luôn


Chúa Nhật 6 Mùa Phục Sinh Năm A

 (Cv 8,5-8.14-17; 1P 3,15-18; Yn 14,15-21)

 Phúc Âm: Yn 14, 15-21

"Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác".

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó".
 
Suy Niệm:

Chúa Nhật VI Phục Sinh

Cv 8,5-8.14-17; 1P 3,15-18; Yn 14,15-21

 

Xét về nhiều mặt, Chúa nhật hôm nay muốn tiếp nối tư tưởng của Chúa nhật trước. Bài sách Công vụ các PS 6-A101


Xét về nhiều mặt, Chúa nhật hôm nay muốn tiếp nối tư tưởng của Chúa nhật trước. Bài sách Công vụ các Tông đồ Chúa nhật trước nói đến việc thiết lập các Phó tế, trong số đó có Philip. Hôm nay cũng sách ấy cho ta thấy hoạt động của ông. Chúa nhật trước, thư thánh Phêrô phân biệt kẻ tin và những người không tin. Vừa giờ chúng ta lại nghe thánh nhân khuyên nhủ những kẻ tin phải sống thế nào với những người không tin. Sau cùng bài Tin Mừng hôm nay rõ rệt tiếp theo bài Tin Mừng Chúa nhật trước và nói đến những việc Chúa Yêsu làm cho chúng ta nơi Cha Người. Vậy nếu quan niệm duy nhất đã có thể nối kết các tư tưởng của Chúa nhật trước, thì hôm nay đào sâu thêm quan niệm ấy, chúng ta sẽ thấy cả ba bài Kinh Thánh đều quy về Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, Chúa nhật trước đã để chúng ta thấy Chúa Yêsu chịu chết và sống lại là Ðá sống xây nên Hội Thánh, thì hôm nay chúng ta sẽ được chứng kiến Hội Thánh mạnh mẽ như thế nào.
 
A. Hội Thánh Ðầy Sức Mạnh Thánh Thần

Những chương đầu trong sách Công vụ các Tông đồ đã cho chúng ta thấy sức mạnh của Hội Thánh ở Yêrusalem. Số các tín hữu gia tăng, uy tín các Tông đồ sâu rộng, cộng đoàn được toàn dân mến phục. Sức sống mạnh mẽ ấy tất nhiên muốn làm nổ tung những giới hạn chật hẹp. Nhưng xác thịt con người nhiều khi nặng nề, chậm chạp. Mối căng thẳng rõ rệt đầu tiên đã hiện ra nơi tương quan giữa Dothái và Hylạp. Các Tông đồ đã sáng suốt đặt tay trên bảy người Hylạp nổi tiếng, đầy Thánh Thần và khôn ngoan. Họ tỏ ra thật xứng đáng. Stêphanô khiến cả thành chấn động vì lời lẽ và thái độ tuyên xưng đức tin của ông. Philip lợi dụng ngay hoàn cảnh phải phân tán vì bắt bớ để đi truyền giáo ở Samari.

Chúng ta để ý: cả hai người đều đã bắt đầu hoạt động nơi lương dân, rao giảng Tin Mừng cứu độ cho những người không phải là Dothái. Công việc của họ không phải chỉ là phục vụ bàn ăn, như thoạt đầu chúng ta tưởng. Nói đúng hơn thấy họ hoạt động như vậy, chúng ta phải tự hỏi công thức "phục vụ bàn ăn" nghĩa là gì? Cả Stêphanô và Philip đều rao giảng Tin Mừng. Philip còn làm phép Rửa nữa. Thành ra khi Phêrô nói: "Còn (các Tông đồ) chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa", chúng ta phải hiểu như thế nào? Thiết tưởng thật là sai lầm khi phân biệt phận vụ các Tông đồ là cầu nguyện và giảng Lời Chúa, còn trách nhiệm các "Phó tế" là phục vụ bàn ăn. Chúng ta đã có lần thấy không được hạn chế sinh hoạt Giáo hội trong phụng vụ. Thế thì cũng không nên giới hạn quá mức phận vụ của các Thừa tác viên. Rõ ràng các Phó tế mới cũng đã giảng Tin Mừng, làm phép Rửa và làm nhiều phép lạ nữa. Hoạt động của họ có khác với công việc của các Tông đồ bao nhiêu? Hay là chúng ta chỉ nên hiểu kiểu nói "chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa" áp dụng cho các Tông đồ chỉ có nghĩa là quyền chủ trì các cộng đồng phụng vụ và tổ chức việc rao giảng Tin Mừng, thuộc về các ngài. Công việc của những người khác cần đến các ngài một cách nào đó mới được hoàn toàn. Dường như chính bài sách Công vụ hôm nay khiến ta hiểu như vậy. Vì cho dù Philip đã truyền giáo ở Samari y như một Tông đồ, tín hữu ở đó phải đợi Phêrô và Yoan đến mới được lãnh nhận Thánh Thần.

Suy nghĩ trên đây không vô ích cho đời sống hiện nay của chúng ta. Nhiều khi chúng ta quá tách rời các phận vụ giáo dân dửng dưng với công việc của Linh mục và Linh mục cũng hầu như không muốn biết tới công việc của giáo dân Chúng ta quên mọi người trong Giáo hội đều đã lãnh nhận Thánh Thần; và ơn Thánh Thần phong phú mạnh mẽ hơn chúng ta tưởng. Chuyện Stêphanô và Philip cho thấy rõ: Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ nơi những con người gốc Hylạp ấy. Họ đã làm việc hầu như các Tông đồ. Chỉ có điều họ đã lựa chọn môi trường dân ngoại, hợp hơn với họ và họ vẫn công nhận quyền các Tông đồ. Nói đúng hơn, Thánh Thần đã dùng họ để đi vào những lãnh vực mới, khiến việc truyền giáo cho lương dân đã khởi sự với chính những người gốc lương dân. Và giáo đoàn Yêrusalem, giáo đoàn mẹ đã mau mắn đến tiếp sức cho các cộng đoàn mới. Các Tông đồ đã gửi ngay Phêrô và Yoan tới, Hai người đã ban Thánh Thần, hoàn tất công việc của Philip, khiến một lần nữa, chúng ta lại thấy chính Thánh Thần là dây bác ái xây dựng và bảo toàn sự duy nhất trong Giáo hội. Chính điều đó đem lại hân hoan vui mừng không những cho Samari mà cả Yêrusalem, tức là cho toàn thể Hội Thánh.

Nhưng đời sống không luôn luôn như vậy. Hội Thánh đã bị bắt bớ ở Yêrusalem trong câu chuyện Stêphanô. Hội Thánh còn có thể gặp khó khăn ở mọi thời. Khi ấy Thánh Thần sẽ làm việc thế nào trong Hội Thánh? Chúng ta hãy đọc đoạn thư Phêrô.
 
B. Hội Thánh Ðược Tái Sinh Về Thần Khí

Nhìn thấy Giáo hội đang bị bắt bớ ở nhiều nơi, vị Tông đồ trưởng đã không ngần ngại căn dặn tín hữu những thái độ cụ thể. Ngài nói: "Anh em hãy hiểu biết Ðức Kitô là Chúa nơi lòng anh em". Ðó là thái độ căn bản. Hơn bao giờ hết, trong những hoàn cảnh khó khăn, tín hữu phải tôn vinh Ðức Kitô ở trong lòng. Phải hiểu biết Người là Chúa, tức là phải nhận thức Người đã sống lại. Không nắm vững niềm tin đó, đức tin của chúng ta sẽ trở nên vô ích. Ngược lại khi tin vững vàng Người sống lại, thì như trước đây thư Phêrô đã nói, người ta tất không bị hổ thẹn (2,6).

Và một khi đã tin vững vàng, bức thư nói tiếp: "Anh em hãy luôn sẵn sàng đáp lời với mọi người hỏi lẽ anh em... với một lòng hiền từ, kính nể". Phêrô biết, và Chúa Yêsu cũng đã báo trước, "có ngày người ta lôi chúng con đến pháp đình". Tín hữu sẽ bị hỏi. Phải trả lời, vì đó là chuyện có hệ đến "mối hy vọng có nơi anh em", tức là Tin Mừng cứu độ chúng ta mang ở trong mình. Nhưng phải ăn nói hiền từ, kính nể. Lời rao giảng Tin Mừng không được tựa vào sự khôn ngoan thế gian và sức mạnh tu từ của loài người. "Lúc đó, không phải chúng con nói, nhưng là Thần trí nói cho chúng con". Lời ấy mang đầy sức mạnh của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa hành động mạnh mẽ mà lại dịu dàng (fortiter et suaviter). Chính việc nắm bắt chân lý khiến lời nói khoan thai. Vậy nếu "chúng ta đã hiểu biết Ðức Kitô là Chúa ở trong lòng chúng ta rồi", thì không có lý nào lời nói của chúng ta lại không hiền từ kính nể.

Ðàng khác, như vậy không phải chỉ là suy diễn mà còn là bắt chước. Tín hữu luôn phải dõi theo vết chân Chúa Cứu Thế. Thế mà Người đã đi qua đau khổ làm sao? Phêrô không cần dài dòng nhắc lại nữa. Ngài chỉ tóm tắt trong một câu rất súc tích: "Ngài, Ðức Yêsu Kitô Chúa chúng ta, đã bị giết chết về xác thịt, nhưng đã được tái sinh về Thần khí. Ước gì khi Giáo hội bị bắt bớ, lúc chúng ta phải đau khổ, bề ngoài xác thịt có như chết thì tinh thần cũng hãy sống động. Ðúng hơn nữa, ước gì Thần khí của Chúa tỏ ra mạnh mẽ nơi thân xác yếu hèn của chúng ta!

Như vậy, dù trong hoàn cảnh nào, thuận cũng như nghịch, sức mạnh của Hội Thánh và của chúng ta vẫn là Thánh Thần. Ðiều cần duy nhất là phải có Thánh Thần. Thế mà đó lại là ơn Chúa Yêsu hằng ban cho chúng ta, theo bài Tin Mừng hôm nay.
 
C. Hội Thánh Có Thánh Thần Ở Luôn

Nói với môn đệ trong bữa Tiệc ly, Chúa Yêsu tuyên bố: Người sẽ ra đi, nhưng không để họ mồ côi. Người sẽ trở lại với họ, không phải trong thân xác như hiện nay, nhưng "sẽ tỏ mình ra cho họ". Thế gian sẽ không còn thấy Người, nhưng họ thấy vì Người vẫn sống.

Chắc chắn Lời Chúa chỉ sáng sủa, dễ hiểu sau khi có ánh sáng Phục sinh. Lúc đó môn đệ mới rõ: Ðức Yêsu đã đi thật; thế gian không còn thấy Người nữa vì Người đã chết theo xác thịt; nhưng Người đã trở lại với môn đệ, trong những lần tỏ mình ra. Và nhất là nhận được Thần Khí Người thổi cho, họ cảm thấy gần Người hơn bao giờ hết. Rõ ràng Người vẫn sống và họ cũng sống. Họ sống ở trong Người và Người sống ở trong họ. Ý thức ấy minh chứng được vì "do tay các Tông đồ, lắm dấu lạ điềm thiêng đã xảy ra trong dân", từ sau ngày Thánh Thần hiện xuống. Thế nên câu Chúa nói: "Không để họ mồ côi" đã được hiểu như là Thần trí của Người đã được ban cho họ để lưu lại nơi họ và ở trong họ (c.15-16).

Như vậy, họ cũng ý thức hơn về mệnh lệnh Chúa truyền như là điều kiện để không bị bỏ mồ côi. Ðó là giữ Lời Người.

Chắc chắn Hội Thánh lúc ban đầu đã chuyên cần với việc này. Các tín hữu kiên trì với giáo huấn của các Tông đồ. Các vị này chuyên lo phục vụ Lời Chúa. Chính nhờ nhiệt tình như vậy mà đức tin tăng trưởng, Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ, cả thành đều vui mừng và có ai bị bắt bớ thì cũng hân hoan vì đã thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì Danh Người.

Ðời sống của Hội Thánh luôn luôn như vậy. Lúc thuận cũng như lúc nghịch, Hội Thánh chỉ mạnh mẽ nhờ Thánh Thần. Chính Người là sức mạnh của Hội Thánh vì là Thần trí của Ðức Kitô đã được ban cho Hội Thánh sau khi Chúa Cứu Thế đã về cùng Cha qua mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh. Thánh Thần hoạt động nơi mọi thành phần trong Dân Chúa, không phân biệt Dothái hay Hylạp, Tông đồ hay Phó tế. Người phân phối phận vụ nhưng đồng thời hằng xây dựng, thắt chặt tình liên đới để xứ mẹ xứ con cũng chỉ là một Hội Thánh. Chúng ta cầu xin Người đến trong chúng ta và trong các giáo đoàn của chúng ta. Thật ra, Người vẫn đến vì có bao giờ Ðức Kitô bỏ chúng ta mồ côi. Mỗi lần Giáo Hội cử hành Thánh lễ, mầu nhiệm Vượt qua của Chúa lại được tái hiện. Mầu nhiệm Chúa về cùng Cha ban Thánh Thần xuống lại được cử hành. Tất cả tùy ở chúng ta và cộng đoàn chúng ta có đón nhận và để Thánh Thần hoạt động nơi mình và qua mình hay không?

Ước gì Thánh lễ này ban cho chúng ta được đầy Thánh Thần. Và cũng ước gì lãnh nhận ơn Thánh Thần rồi, mỗi người sẽ như Stêphanô và Philip, tỏ ra hăng say trong môi trường của mình, thi hành sứ mệnh Tông đồ, làm cho nhiều người tin Ðức Yêsu là Chúa để xã hội thêm hân hoan trong tình liên đới nhiệt thành xây dựng hạnh phúc chung mỗi ngày mỗi lan rộng. Có như vậy mới có Mùa Phục sinh trong đời sống chúng ta và mới đáng ngưỡng vọng mầu nhiệm Chúa lên trời và ban Thánh Thần xuống, những mầu nhiệm mà chúng ta sẽ kính nhớ cách đặc biệt trong các Chúa nhật tới.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

------------------------------------

 

PS 6-A102: Vị Thiên Chúa bị lãng quên

 

Như chúng ta đã biết: người Do thái không có liên hệ gì với người Samaria. Giữa hai dân tộc này PS 6-A102


Như chúng ta đã biết: người Do thái không có liên hệ gì với người Samaria. Giữa hai dân tộc này đã có một hố sâu ngăn cách. Từ những khác biết về tôn giáo, về phong tục… Họ đã nhìn nhau bằng ánh mắt hận thù.

Thế nhưng, bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà xứ Samaria:

- Giờ đã đến và đã đến thật rồi, con người phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý.

Việc thờ phượng này không phải chỉ giới hạn nơi một dân tộc hay nơi một dòng giống, trái lại phải được trải rộng tới mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Kết luận về câu chuyện người đàn bà, tác giả sách Tin mừng đã ghi nhận: sau khi nghe Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều người xứ Samaria đã tin Ngài là Đấng Messia, Đấng cứu độ trần gian.

Sách Công vụ Tông đồ cũng cho thấy: số các tín hữu ngày một gia tăng. Philipphê được sai đến một thành xứ Samaria để rao giảng Đức Kitô cho họ. Dân chúng lắng nghe những lời giảng dạy vì họ cũng đã được biết và được chứng kiến những phép lạ Philipphê đã làm. Họ cảm thấy hân hoan vui sướng.

Các tông đồ ở Giêrusalem, khi hay tin dân Samaria đón nhận lời Chúa, liền cử Phêrô và Gioan đến với họ. Cuộc thăm viếng này đã trở nên như một dấu chỉ cho sự hiệp nhất vào thời buổi lúc bấy giờ.

Đúng thế, lúc bấy giờ có nhiều khuynh hướng khác biệt giữa người Do Thái và người Samaria, giữa những người tin và không tin vào Đức Kitô. Việc sai phái hai vị tông đồ này đã làm cho bức tường ngăn cách bị sụp đổ, chấm dứt óc bè phái và những tranh cãi trong dĩ vãng. Phêrô và Gioan chỉ có một ý tưởng, đó là làm cho những tân tòng trở nên những Kitô hữu trưởng thành.

Tất cả những người Samaria này mới chỉ được rửa tội nhân danh Đức Kitô. Vì thế, hai vị tông đồ đã đặt tay trên họ và họ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Những kẻ thù ngày hôm qua thì ngày hôm nay đã thực sự là những người anh em trong Đức Kitô.

Được Chúa Thánh Thần soi sáng và thêm sức, họ cảm thấy như mọi thù ghét và oán hận đều tiêu tan. Giờ đây, tất cả chỉ còn là một: một Thiên Chúa, một Đức Kitô, một phép rửa, một Chúa Thánh Thần và một dân tộc. Các tông đồ không hề phân biệt các tân tòng và những người Do Thái đồng hương với mình.

Đây chính là sự hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần mà công đồng Vaticanô II đã mong muốn. Thực vậy, Giáo hội luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu, giữa những người công giáo với những anh em ly khai cũng giữa những người công giáo như với những anh ngoài Kitô giáo.

Chúng ta biết rằng: dưới tác động của Chúa Thánh Thần, những người Samaira đã trở nên những tín hữu trưởng thành. Chúa Thánh Thần chính là Đấng Đức Kitô đã hứa sai đến để đổi mới khuôn mặt địa cầu.

Chính Chúa Giêsu, trước khi về trời, đã phán hứa với các môn đệ:

- Nếu các con yêu mến Thày, thì hãy tuân giữ những điều Thày truyền dạy. Thày sẽ xin với Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù trợ mới. Ngài là thần chân lý và sẻ ở cùng các con luôn mãi.

Nếu chúng ta cố gắng bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, thì chắc chắn Ngài sẽ đưa chúng ta tới tình yêu thương và hiệp nhất.

Thế nhưng, có bao giờ chúng ta đã cầu nguyện với Ngài khigặp phải những gian thử thách trên đường đời?

Chúng ta thường băn khoăn lo lắng: làm thế nào để có thể sống đạo giữa biết bao nhiêu khó khăn và thử thách trong cuộc đời?

Vậy tại sao chúng ta lại không kêu xin Chúa Thánh Thần ban xuống cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng?

Phải chăng Chúa Thánh Thần mãi mãi vẫn là vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất trong cuộc sống của chúng ta?

------------------------------------

 

PS 6-A103: Hiện diện của kẻ vắng mặt


(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

 

Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp PS 6-A103


Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.

Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy giao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.

Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn là con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.

Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng triển về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.

Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Đức Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục Sinh, Đức Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.

Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).

Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 23, 24).

Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Đúc Giêsu và tuân giữ lời Người.

Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Đức Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giêsu và Chúa Cha.

Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26).

Với lời hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuốn đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội hiểu thấu triệt Lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Cộng đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.

Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người trong lòng chúng con, trong lòng Giáo Hội, và trong lòng thế giới:

Để chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Người.

Để chúng con được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần.
Và để chúng con được canh tân và tái tạo mỗi ngày trong Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.

------------------------------------

 

PS 6-A104: Ở lại trong tình yêu - Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Tình yêu, một đề tài rất xưa và cũng là một đề tài rất mới. Rất xưa bởi vì, từ khi có con người đã có PS 6-A104


Tình yêu, một đề tài rất xưa và cũng là một đề tài rất mới. Rất xưa bởi vì, từ khi có con người đã có tình yêu, rất mới cũng bởi vì tình yêu vẫn là sự sống động trong thế giới hôm nay. Rất mới và rất cũ nhưng chẳng thể nào có thể hiểu nổi được tình yêu, tình yêu có muôn mặt của thủy chung và những bội phản, sự thực và lừa dối, tinh khiết và hoen úa, ngọt lịm và cay đắng. Tình yêu là một chủ đề hao tốn giấy mực và cũng hao gầy nhiều thân phận.

“Ở lại trong Tình Yêu của Thầy” Ga 14 là một chủ đề quan trọng và cũng tìm thấy trong di chúc của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Chúng ta chỉ thực sự yêu thương khi ở lại trong Tình Yêu của Thiên Chúa.

Tình Yêu tiếng nói của Chúa Thánh Thần:

Tình yêu bao giờ cũng có những thể hiện bằng hành động: Hành động đầu tiên và trước tiên đó là sáng tạo. Tình yêu của Thiên Chúa là sự khai mở, đó là bản chất của Tình Yêu. Sáng tạo là sự khai mở của Thiên Chúa để đưa các loài được tạo thành được tham dự vào hạnh phúc của Thiên Chúa. Các loài thụ tạo của Thiên Chúa được chia sẻ vinh quang của Người. Tình yêu đúng nghĩa bao giờ cũng là tình yêu mang đến hạnh phúc cho người mình yêu. Hạnh phúc không chỉ là một lời hứa mà còn là một con đường. Thiên Chúa đã đề nghị một con đường, con đường ấy là “Thực thi ý muốn của Thiên Chúa”; qua con đường giới răn thực thi ý muốn của Thiên Chúa mở ra con đường đối thoại tình yêu. Tình yêu làm nên những cái mới, chính là tác động của Chúa Thánh Thần, “Thần Khí ban sự sống” là gió là hơi thở của sự sống. Là gió là hơi thở “Chúa hà hơi, súc vật được sáng tạo và Ngài đổi mới mặt địa cầu” (Tv 104, 30). Hơi hở thần linh làm cho mùa màng được dồi dào thuận lợi, thời tiết thuận hòa, con người được vui sống. Ở lại trong Tình yêu nghĩa là ở lại trong sự sống Thánh Thần ban tặng, sống dồi dào nhờ hít thở trong bầu khí Thần Linh.

Thần Khí mới – Trái Tim mới:

Trái tim gợi lên đời sống tình cảm, người Do Thái quan niệm trái tim như tất cả những gì thuộc về nội tâm của con người. Đông Phương gọi đó là cái Tâm, Tâm vừa đóng vai trò chính của con người vừa là nơi xuất phát mọi hành vi của con người cũng như là nơi thụ nhận tất cả những gì thế giới giác quan mang lại. Tâm còn là nơi xuất phát niềm vui và hy vọng, dự định và kết quả một hành trình. Ở lại trong Tình Yêu, một lời mời gọi mang lấy và sống trong trái tim của Thiên Chúa. Châm ngôn nhắc tới: “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh.” (Cn 4, 27). Trái tim còn là sự hiểu biết khôn ngoan: “Người ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ” (Hc 17, 6). Trong Thánh Thần chúng ta được sống và sự sống được hướng dẫn bằng Thần trí khôn ngoan, thông minh, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, dũng cảm và kính sợ. Ở lại trong Thầy mang một ý nghĩa đặc biệt trong vương quốc Thiên Chúa, những ân huệ của Chúa Thánh Thần làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hạnh phúc và thánh thiện.

Trái tim chai đá. Con người thích theo lối sống của mình, ưa thich tìm những lạc thú làm cho mỗi ngày trái tim trở nên chai cứng hơn. Trong đời sống của dân Thiên Chúa chọn cũng xảy ra tình trạng tráo trở này để ru ngủ mình trong tội lỗi bằng những phụng tự bên ngoài (Am 5, 21) với những lời lẽ sáo rỗng (Tv 78, 36) và bị lên án “dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn tâm hồn thì xa Ta” (Is 29, 13). Con người quyến luyến trong tội lỗi, bởi chẳng cần nỗ lực để sống thánh, chẳng cần thanh lọc để trở nên tinh trong, mặc dù vẫn biệt hậu quả của tội lỗi là đau khổ là sự chết, nhưng thà rằng như thế còn hơn là liên lạc với Thiên Chúa nghĩa là “liều bỏ tấm lòng mình” (Gier 30, 21). Trái tim xơ cứng chai đá của con người đã đến lúc cần phải đập vỡ nó ra, nhưng ý muốn ấy chỉ có thể đến từ phía con người, khi con người nhận ra mình không còn đủ sức chấp nhận đau khổ, bất hạnh và sự chết.

Cần có một quả tim mới: Khao khát này xuất phát từ nơi thẳm sâu đau khổ của tội lỗi gây nên, nếu không muốn trở thành con người cam chịu số phận. Con người đọc qua lịch sử của dân Israel và lịch sử đời mình hiểu rằng tôn giáo bề ngoài là một thứ tôn giáo bào mòn lòng yêu mến. Muốn thực sự thoát ra khỏi trái tim xơ cứng cần có một thay đổi quyết liệt, “tìm kiếm Thiên Chúa với tất cả tâm hồn” (Đnl 4, 29), muốn đầy đủ sức mạnh để chiến thắng sức ì của bản thân cần “Gắn chặt tấm lòng vào Giavê” (1Sm 7, 3) để thắp lên trong trái tim ngọn lửa “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức” (Đnl 6, 5).

Khao khát là vậy, lý tưởng là thế, nhưng vẫn chẳng thoát ra ngoài được con tim giả dối, tấm lòng bất trung từ nguyên thủy, chỉ còn có thể đến với Thiên Chúa “với tấm lòng tan nát rã rời” (Tv 51, 19) một tấm lòng tan nát khiêm cung để khấn xin Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần con nên chung thủy” (Tv 51, 12).
Tình yêu không bao giờ là hủy diệt, Tình yêu luôn luôn là một chữa lành, rất nhiều người không biết Thiên Chúa rất lạ lẫm khi thấy những con người Kitô giáo vượt qua được thảm trạng tội lỗi của mình, mặc dầu đã biết rằng, những người ấy trước kia là một người tội lỗi, xấu xa, đê tiện. Điều rất lạ ấy xảy ra không chỉ do trái tim tan nát rã rời của hối nhân mà còn nguyên do sức mạnh từ nơi Thiên Chúa đã thực hiện cho con người khiêm nhượng “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi và Ta sẽ ban cho các ngươi trái tim mới, đặt vào lòng trí các ngươi một thần trì mới; cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá và ban tặng trái tim bằng thịt” (Ez 36, 25). Không có sức mạnh Thiên Chúa, thắng được chính mình chỉ là ảo tưởng và đôi khi trở nên quá khích khi diệt mất chính mình.

Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần và mời gọi ở lại trong Tình Yêu của Thầy, đó là một lời gọi đích thật để trái tim được tự do khỏi tội, để tấm lòng an vui hạnh phúc thật sự khi không còn bóng dáng tội lỗi, Chúa Giêsu chính là trái tim mới được ban cho nhân loại, và Thánh Thần là Đấng ban thần trí mới cho chúng ta.

Xin cho những bước chân đi hoang của con người chúng con vào những lúc bế tắc không nơi trọ, không nơi đón nhận, thì xin cho chúng con cũng biết khiêm cung với tấm lòng tan nát ở lại, lưu trú trong Tình Yêu của Người vì Tình Yêu của Người đón nhận, chịu đựng, hy sinh tha thứ và yêu thương tất cả.

------------------------------------

 

PS 6-A105: THẦN KHÍ YÊU THƯƠNG

 

Làm người, ai cũng cần một danh nghĩa nào đó, nhưng phải là danh nghĩa chính đáng: “Đã mang  PS 6-A105 Ephata


Làm người, ai cũng cần một danh nghĩa nào đó, nhưng phải là danh nghĩa chính đáng: “Đã mang tiếng ở trong trời đất – Phải có danh gì với núi sông” ( chí sĩ Nguyễn Công Trứ – thi phẩm “Đi Thi Tự Vịnh” ). Có danh nghĩa để hành động, hành động vì chính nghĩa, vì công lý, chứ không để đàn áp hoặc chèn ép người yếu thế hơn mình.

Làm người và sống ở đời, đó là một Hồng Ân lớn lao. Đức và Tài đều cần để thực hiện điều tốt lành cho tha nhân. Với Đức và Tài, người ta có thể trở thành quân tử hoặc tiểu nhân, tùy vào “vị trí” của chúng: “Đức hơn Tài là quân tử, Tài hơn Đức là tiểu nhân” ( Khổng Tử ). Một lằn ranh rất mong manh giữa Đức và Tài. “Chữ Tài liền với chữ Tai một vần” ( Nguyễn Du ) !

Có nhiều loại đức cần phải trau giồi hằng ngày. Riêng người Công Giáo lại càng phải trau giồi nhiều hơn. Về đối nhân có rất nhiều nhân đức ( chân thành, hòa nhã, bình dị, hòa đồng, nghiêm túc, vui vẻ… ); về đối thần có ba nhân đức: Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Đức Mến là là lòng yêu thương hoặc lòng thương xót. Đức Mến luôn lớn lao và cần thiết, thậm chí quan trọng nhất, vì trên Nước Trời cũng vẫn còn Đức Mến – không còn Đức Tin và Đức Cậy nữa ( x. 1Cr 13, 13 ).

Quả thật là như thế, cuộc đời này không có tình yêu thương thì cũng như cuộc sống không có ánh mặt trời. Vô tri bất mộ. Không biết thì không yêu mến, thậm chí còn có thể ghét, nhưng khi đã biết thì người ta cảm thấy yêu mến. Âu đó cũng là lẽ thường ở đời vậy ! Tuy nhiên, trước khi BIẾT thì phải MUỐN BIẾT và TÌM HIỂU cho thấu đáo chứ đừng hời hợt hoặc “nửa vời”. Một khi đã biết rõ rồi thì sẽ nảy sinh lòng yêu mến, và có thể say đắm – si tình. Mà đã yêu mến tức là đã thực sự tin tưởng.

Đạo Chúa mệnh danh là “đạo yêu thương”. Không yêu thương thì đừng nói là theo Chúa. Thánh Phaolô dùng cách nói nặng: “Ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp !” ( 1Cr 16, 22 ). Nhưng mến Chúa thì phải yêu người, vì yêu người là thước đo lòng mến Chúa. Đó là hệ lụy tất yếu. Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” ( 1Ga 4, 20 ). Về vấn đề này, Thánh Sibyllina Pavia “mở rộng” thêm: “Ai không yêu mến anh em thì không thể trở thành người anh dũng tử đạo”.

Có tình yêu thì người ta có thể làm được mọi sự, bất kể nhỏ hay to, đúng như Thánh Augustinô nhận định: “Cứ yêu thật đi rồi muốn làm gì thì làm”. Chính Thánh Augustinô đã từng nuối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới !” ( Tự Thuật, số 10 & 27 ). Còn Mẹ Thánh Teresa Calcutta xác định: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể”. Ôi, chuỗi yêu thương quá đỗi kỳ diệu !

Vì yêu Chúa – và yêu Chúa qua tha nhân, người ta có thể làm được mọi thứ. Sách Công Vụ kể: “Ông Philíphê xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó. Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philíphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm” ( Cv 8, 5-6 ). Họ không chỉ “nghe đồn” mà còn “chứng kiến” các dấu lạ do Tông Đồ Philíphê đã làm. Vì họ đã biết nên họ không thể làm ngơ, không thể không chú ý. Thật vậy, “các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám, nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng” ( Cv 8, 7-8 ).

Thời đó, các Tông Đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa, các ông đã cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ để họ nhận được Thánh Thần. Sách Công Vụ cho biết: “Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần” ( Cv 8, 16-17 ). Đó là Bí Tích Thêm Sức, loại Bí Tích làm cho chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần viên mãn.

Xưa nay chúng ta vẫn quen với cách nói “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – gồm các ơn: khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông minh, đạo đức, và kính sợ Chúa. Tuy nhiên, nên biết rằng đó là cách nói của Kinh Thánh, vì số 7 là con số kỳ diệu của Kinh Thánh, chứ Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó, mà bao gồm các ơn khác. Chúng ta thật hạnh phúc vì được biết Thiên Chúa, được yêu mến Ngài, và được lãnh nhận Chúa Thánh Thần: “Bình an cho anh em” ( Lc 24, 36; Ga 20, 19; Ga 20, 20; Ga 20, 26 ).

Chắc chắn rằng không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó, dù chỉ một giây. Bởi vậy, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên mừng Danh Thánh rạng ngời, nào dâng lời ca tụng tôn vinh !” ( Tv 66, 1-2 ). Tất cả chúng ta hòa chung niềm vui đó, và cũng hãy đồng tâm thân thưa với Thiên Chúa: “Vĩ đại thay, sự nghiệp của Ngài ! Trước thần lực uy hùng, địch thù khúm núm. Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh. Đến mà xem công trình của Thiên Chúa: hành động của Người đối với phàm nhân thật đáng kinh đáng sợ !” ( Tv 66, 3-5 ). Thiên Chúa toàn năng, có Ngài thì người bình thường cũng trở nên phi thường, không có Ngài thì thiên tài cũng “bó tay”, như Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5 ).

Thiên Chúa hằng hữu và toàn năng, tạo thành mọi vật, cũng chính Ngài “làm cho biển khơi hoá đất liền và dân Người đi bộ qua sông, việc Người làm đó khiến ta hoan hỷ. Chúa uy dũng hiển trị muôn đời; đôi mắt Người theo dõi chư dân, quân làm phản chớ có hòng nổi dậy !” ( Tv 66, 6-7 ). Lịch sử đã và đang chứng tỏ như vậy, không một thần linh nào có thể làm được các vĩ công như Thiên Chúa của chúng ta.

Thực sự là một hồng ân lớn lao đối với chúng ta khi được biết Ngài, yêu mến Ngài và tôn thờ Ngài, tuyệt vời hơn nữa là Ngài đã yêu thương chúng ta trước ( 1Ga 4, 19 ) và yêu thương chúng ta đến cùng ( Ga 13, 1 ) – dù chúng ta chỉ là bọn bất lương, là lũ tội nhân khốn nạn. Chỉ là được hiện hữu trên đời này – dù chúng ta có thế nào – cũng đủ để chúng ta phải cảm tạ Ngài suốt cuộc đời mình. Không chỉ vậy, Chúa Cha còn vì thương xót kiếp khốn cùng của chúng ta mà Ngài đã bắt Con Một Yêu Dấu phải chết thay chúng ta, dù Người Con van xin nhưng Ngài vẫn “làm ngơ” chỉ vì Ngài muốn cứu độ chúng ta. Ơn cứu tử này quá lớn ! Thật vậy, chính Ngài chọn chúng ta từ trước khi vũ trụ được tạo thành chứ không phải chúng ta chọn Ngài ( Ep 1, 4 ).

Phàm ngôn không thể diễn tả nổi. Thật vậy, Thiên Chúa của chúng ta còn hơn cả mức tuyệt vời: “Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa” ( Đnl 32, 10 ). Chính tình yêu thương đó đã được đóng ấn tín bằng “lời thề độc” này: “Kẻ nào động đến các ngươi là động đến con ngươi mắt Ta” ( Dcr 2, 12 ). Ôi, lạy Chúa tôi ! Thực sự chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu được, vì Ngài yêu thương chúng ta tới cùng nên Ngài cũng bảo vệ chúng ta tới cùng ! Vì thế, chúng ta phải mau mắn và hãnh diện chia sẻ niềm vui đó với người khác: “Xin chúc tụng Thiên Chúa đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng, lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình” ( Tv 66, 20 ).

Được sống với và cùng chia sẻ vui buồn với Chúa Giêsu, ông Phêrô có kinh nghiệm đầy mình, thế nên ông chân thành nhắn nhủ chúng ta: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống” ( 1Pr 3, 15-16 ). Tại sao phải giữ “thẳng” mà không thể du di “cong” đi một chút ? Theo cách lý giải của ông Phêrô thì thế này: “Bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác. Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh” ( 1Pr 3, 17-18 ). Rất rõ ràng. Thật thẳng thắn. Và chính tình yêu mến đó đã được Chúa Thánh Thần tác động.

Phải nói rằng danh từ “chuỗi” hay thật đấy. Danh từ này nói lên sự liên kết nối tiếp không ngừng. Chính “chuỗi” tình yêu thương là “chuỗi” yêu mến, là “chuỗi” lòng thương xót, như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” ( Ga 14, 15 ). Từ hệ lụy đó lại có mối liên kết khác: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” ( Ga 14, 16-17 ).

Biết mình sắp phải rời thế gian và xa những người thân thiết, Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” ( Ga 14, 18 ). Và Ngài nói thẳng luôn: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” ( Ga 14, 18-20 ). Ôi chao, “răng mà khó hiểu rứa hỉ”. Ngài nói thẳng thắn và “toạc móng heo” mà vẫn khó hiểu ghê đi ! Thế nhưng không phải vậy, đó là Ngài muốn đưa chúng ta tới đức ái trọn vẹn, nhờ biết yêu mến mà chúng ta khả dĩ lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách viên mãn để đủ can đảm làm chứng về Thiên Chúa, Đấng Sự Thật.

Thiên Chúa là tình yêu, trước sau gì cũng là yêu thương. Chúa Giêsu dẫn chứng về “chuỗi” yêu mến: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” ( Ga 14, 21 ). Ngài tỏ mình cho mỗi người mỗi cách, mỗi người được nhận biết theo cách riêng, không ai giống ai, nhưng vẫn là MỘT Thiên-Chúa-Ba-Ngôi duy nhất mà thôi: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” ( Ep 4, 5 ).

Người-môn-đệ-được-Chúa-yêu định nghĩa ngắn gọn: “Thiên Chúa là tình yêu” ( 1Ga 4, 8 và 16 ). Vì thế, ai yêu mến Ngài thì tuân giữ Luật Ngài, luật đó là Luật Yêu, và chắc chắn là yêu Chúa thì phải yêu người. Yêu Chúa không khó bằng yêu người, chỉ cần thực hành “chuỗi yêu” trong 1Cr 13 thì cũng cảm thấy “toát mồ hôi hột” rồi, vì yêu không thể nói suông mà phải thể hiện bằng hành động, thể hiện qua từng động thái nhỏ. Vả lại, tha nhân là huynh đệ của chúng ta và là những người có Thiên Chúa trong lòng – ngay cả những người tự xưng là vô thần. Ai sống yêu mến thì mới được lãnh nhận Thần Khí Sự Thật của Thiên Chúa – đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Đấng Kiến Tạo Hòa Bình.

Kinh Thánh Cựu Ước cho biết rằng, khi Thiên Chúa tuyển chọn Bơxanên, con của Uri, con của Khua, thuộc chi tộc Giuđa, Ngài đã hứa với ông Môsê: “Ta sẽ ban cho nó dồi dào Thần Khí của Thiên Chúa để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật làm bằng vàng, bạc hay đồng, mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc” ( Xh 31, 3-5 ). Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn không bao giờ sai. Ước gì mỗi chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Khí Chúa để làm vinh danh Chúa bằng chính khả năng riêng mà chúng ta đã được lãnh nhận từ Ngài. Nhưng có một điều quan trọng: Đừng quên rằng chúng ta luôn phải “hết dạ tri ân” ( Cl 3, 15 ).

Con người sai lầm nên dễ ảo tưởng, thế nên rất cần ơn phân định thần khí để không tin lầm. Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” ( 1Ga 4, 1 ). Chúa Thánh Thần là Thần Khí Yêu Thương, là Đấng Ngôi Ba nhiệm xuất từ tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Hãy cầu xin Ngài, hãy cầu nguyện liên lỉ và không ngừng !

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin không ngừng đốt lửa yêu mến trong con để con có thể yêu mến Ngài và chỉ yêu mến Ngài như Ngài hằng mong muốn. Xin ban cho con Thần Khí Yêu Thương để con sống trọn đức ái theo Lòng Thương Xót của Ngài, và xin ban Thần Khí Sự Thật để con thực hiện mọi lệnh truyền theo công lý của Ngài. Xin giúp con biết đại lượng với tha nhân, nhất là những người hèn mọn, vì họ là những người được tạo dựng theo hình ảnh Ngài, bình đẳng với con và cũng được hưởng Giá Máu cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

------------------------------------

 

PS 6-A106: HIỆP NHẤT TRONG TÌNH YÊU

 

Là cháu nội của Picasso, bà Marina được thừa hưởng 1/5 tài sản của nhà danh họa vào năm 20 tuổi, PS 6-A106


Là cháu nội của Picasso, bà Marina được thừa hưởng 1/5 tài sản của nhà danh họa vào năm 20 tuổi, bao gồm 10.000 trong số 500.000 tác phẩm nghệ thuật đắt giá cùng căn biệt thự nổi tiếng La Californie ở Pháp.

Nhưng cho tới nay, khi đã ở vào tuổi 64, người phụ nữ này vẫn chưa hết ấm ức về những ngày thơ ấu nghèo túng, bị ông nội hắt hủi. Sự oán giận và nỗi khắc khoải đó được khắc họa ít nhiều trong cuốn hồi ký Picasso: Ông nội của tôi xuất bản năm 2001. Trong sách, bà Marina viết ông mình luôn lạnh lùng và xa cách, “khiến những người ở gần phải rơi vào tình cảnh khốn khổ, tuyệt vọng.”

Marina kể rằng bà thậm chí chẳng có tấm hình nào chụp chung với ông nội và chưa bao giờ được chạm vào tác phẩm nào của ông cho tới khi nhận thừa kế. Cha của bà, ông Paulo, là người con đầu tiên mà danh họa Picasso có trong cuộc hôn nhân ngắn ngủi với vũ công balê người Nga Olga Khokholova. Gia đình đổ vỡ, Marina và người anh trai Pablito lớn lên trong túng quẫn cùng người mẹ nghiện rượu. “Tôi ít khi thấy cha và tôi không có ông nội” – bà cay đắng.

Sự oán giận đối với ông nội càng gay gắt hơn khi bà Jacqueline Roque, người vợ thứ hai của Picasso, nhất quyết không cho Pablito tới dự lễ tang của đại danh họa vào năm 1973. Chỉ vài ngày sau, Pablito uống thuốc tẩy tự sát. Khi qua đời ở tuổi 91, Picasso không để lại di chúc, dẫn tới một cuộc tranh chấp tài sản căng thẳng trong gia đình. Marina Picasso bất ngờ có tên trong danh sách thừa kế hợp pháp.

“Mọi người nói rằng tôi nên cảm kích. Và tôi thực sự cảm kích nhưng đó là sự thừa kế lạnh lùng chẳng có chút yêu thương.” Bà Marina day dứt. Trong rất nhiều năm sau đó, Marina vẫn úp tranh của ông nội vào tường vì đối với bà, chúng là “những ký ức vô cùng đau buồn.”

Mang nỗi u uất lớn nhưng người phụ nữ gai góc này đã dành cả cuộc đời để thắp lên hy vọng cho những trẻ em thiệt thòi, cũng như những số phận bất hạnh trên thế giới. Bà có 5 người con, trong đó 3 người được nhận nuôi từ Việt Nam. Trên mảnh đất hình chữ S này, bà còn hỗ trợ kinh phí xây dựng một số phòng khám tại Sàigòn, nâng cấp một trại trẻ mồ côi ở quận Gò Vấp, đồng thời xây dựng một trại dưỡng lão... ( Ảnh chụp bà Marina và 3 bé con nuôi người Việt Nam ).

Ước tính, số tiền thu được từ lần bán tranh sắp tới của bà Marina lên tới 290 triệu USD ( hơn 6.000 tỉ đồng ) và sẽ tiếp tục đổ vào các hoạt động từ thiện do bà khởi xướng từ hơn 40 năm trước, trong đó có dự án hỗ trợ bệnh viện nhi ở Việt Nam, chăm sóc người già và trẻ em thiệt thòi ở Pháp, Thụy Điển… ( Việt Lâm, Thể thao & Văn hóa, Cháu gái Picasso và những ký ức buồn về ông nội )

Hoạ sĩ lừng danh Pablo Picasso hoàn toàn không để lại tình yêu cho những người thừa kế, mà chỉ để lại những tác phẩm giá trị và những chua cay, đau khổ. Nay người cháu Marina Picasso muốn sửa chữa lại, biến lòng oán giận thành tình yêu, chia sẻ, bác ái những người bất hạnh. Còn hơn 2.000 năm trước, Đức Giêsu để lại cho nhân loại niềm hạnh phúc viên mãn với Tình Yêu, những lời bảo chứng Tình Yêu bền bỉ, cụ thể và viên mãn, qua sự hiệp nhất với Ba Ngôi dành cho những ai tin yêu và tuân giữ Tin Mừng.

Hiệp nhất với Đức Chúa Thánh Thần

"Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi.” Ai tin yêu Đức Giêsu, thì đón nhận, nghe theo và thực hành Tin Mừng, sẽ được Người ban Đức Chúa Thánh Thần đến hộ phù. Bởi vì: “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an… Ai không có Thần Khí của Ðức Kitô, thì không thuộc về Ðức Kitô.” ( Rm 8, 6 & 9 ).

Hơn nữa: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” ( Rm 8, 11 ).

Hiệp nhất với Đức Chúa Cha

Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con.”  Khi môn đệ Philipphê xin được thấy Đức Chúa Cha, Đức Giêsu trả lời: “Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Ðấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.” ( Ga 10, 10 ).

Trả lời cho người Do Thái cho rằng Người lộng ngôn, Đức Giêsu công khai xác nhận:  "Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha." ( Ga 10, 37-38 ).

Hiệp nhất với Đức Giêsu

“Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy.” Yêu Chúa là hiệp nhất với Đức Giêsu, vì đón nhận và thực hành Lời Chúa một cách trung thành và bền vững, mặc bao khó khăn, bao thách đố, bao chống đối của thế gian.

Vì theo Chúa, dĩ nhiên bị thế gian tẩy chay, ganh ghét và trừ khử: Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” ( Ga 15, 19 ).

Như vậy, những ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, Tin Mừng là được hồng phúc kết hiệp chặt chẽ với Ba Ngôi Thiên Chúa. Luôn có Chúa trong mình là hạnh phúc tuyệt đỉnh, viên mãn, vô biên.

“Chúa Ba Ngôi ở trong con, con trở nên đền thờ Chúa, con cũng là của lễ toàn thiêu, con là lời ngợi khen không ngừng, con là đóa hoa muôn sắc dâng lên Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 244 ).

Lạy Chúa Giêsu, khi chúng con nghe và thực hành Tin Mừng là chúng con vinh dự trở nên đền thờ Ba Ngôi Thiên Chúa. Kính xin Chúa cho chúng con xứng đáng cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa luôn.

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, giúp đỡ, biến đổi cung lòng chúng con trở nên khiêm hạ, vâng phục trong sạch và tin yêu, để có thể kính trọng đón rước Chúa Ba Ngôi đến ngự trị luôn mãi. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

------------------------------------

 

PS 6-A107:YÊU VÀ GIỮ LUẬT


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH, năm A

Ga 14, 15-21

 

 Ba năm đi rao giảng cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn rất nhiều điều, Ngài đã củng PS 6-A107 Dalat


Ba năm đi rao giảng cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn rất nhiều điều, Ngài đã củng cố niềm tin của các Ngài bằng nhiều phép lạ, đặc biệt bằng gương sáng của chính Ngài…Hôm nay, tromg bữa ăn sau cùng, bữa tiệc ly với các môn đệ.Chúa Giêsu đã bộc bạch hết tâm sự của Ngài, và Ngài đã nói cho các môn đệ những lời tâm huyết, thâm sâu nhất. Ngài căn dặn các môn đệ :” Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy “.

Chúa căn dặn các môn đệ :” Mến Chúa yêu người “. Lời nhắn nhủ, căn dặn của Chúa Giêsu xưa với các môn đệ cũng là lời Chúa muốn mọi Kitô hữu ngày nay tuân giữ. Đạo Công giáo do Chúa thiết lập là đạo tình thương. Bởi vì, thánh Gioan định nghĩa “ Thiên Chúa là tình yêu “. Yêu thương là chu toàn lề luật. Yêu thương là họa lại chính con người của Chúa. Mục đích cuối cùng của mọi lề luật nhằm giúp con người sống bác ái, quảng đại, xả kỷ đối với nhau. Chính vì thế, càng yêu thương, chúng ta càng chu toàn lề luật. Vì lề luật là để phục vụ con người, chứ không phải con người nô lệ lề luật. Nhưng, cuộc sống không phải ai cũng hiểu được như vậy, có những người đã dùng lề luật để đàn áp con người, có những người luôn dùng lề luật làm thước đo cho người khác, họ quên rằng lề luật trên hết mọi lề luật là yêu thương…Chúng ta nhiều khi cũng rơi vào tình trạng nệ luật: có khi chúng ta giữ luật để được người khác khen, để cho người lớn khen thưởng. Không giữ luật chúng ta sợ bị phạt, sợ bị khiển trách vv…Thái độ ấy và cung cách giữ luật ấy nhiều người mắc phải. Chúa Giêsu không muốn chúng ta giữ luật như thế mà Ngài muốn chúng ta trưởng thành, vững chắc và giữ luật vì tình yêu, chứ không giữ luật không ý thức, máy móc, không trưởng thành vì sợ hãi, vì sợ khiển trách, không được khen thưởng vv…

Lời Chúa hôm nay, giúp chúng ta hiểu rất rõ bởi vì khi xưa trong bữa tiệc ly với các môn đệ, Chúa Giêsu đã trút hết bầu tâm sự của mình, Ngài muốn các môn đệ yêu mến ngài thì phải giữ đạo, thực hành đạo với đức tin trong sáng.Chúa căn dặn các môn đệ cũng đồng thời truyền cho chúng ta tuân giữ” Mến Chúa yêu người “. Chúa ban cho chúng ta đức tin qua bí tích rửa tội.Được đức tin hướng dẫn chúng ta bám chặt lấy Chúa, hoàn toàn phó thác

nơi Ngài :” Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa “ .Cuộc sống, sinh mạng của chúng ta hoàn toàn ở trong tay Chúa. Chúng ta tin Ngài, chúng ta sống đức tin. Có đức tin, chúng ta biết đạo, nên chúng ta giữ đạo, sống đạo vì yêu mến Chúa :” Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em phải giữ giới răn của Thầy”. Thực tế, trong đời làm con Chúa hằng ngày, chúng ta bắt gặp rất nhiều mẫu gương giữ đạo, sống đạo anh hùng. Một thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sống hết mình vì tình yêu :” Trong Giáo Hội, con  sẽ là Tình Yêu “. Một nữ thánh Têrêsa thành Calcutta đã sống phục vụ như Đức Giêsu, một thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã sống hết mình để củng cố “ đức tin cho Giáo Hội “ vv…Và còn biết bao nhiêu gương lành của các thánh và những Kitô hữu tốt lành.

Đoạn Tin Mừng này là những lời tạ từ của Chúa Giêsu trước khi Ngài rời bỏ các môn đệ để đi chịu nạn chịu chết. Các môn đệ tin vào Chúa Giêsu, Đấng là Thầy, là Chúa của các Ngài và tin vào Đấng phù trợ, là Thánh Thần mà Chúa Giêsu sẽ gửi đến :” Thầy không để các con mồ côi, Thầy sẽ trở lại với các con “.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa và để chúng con luôn biết sống quảng đại phục vụ anh em.Xin Chúa cho chúng con biết tuân giữ lề luật một cách trưởng thành vì lòng yêu mến Chúa chứ không phải vì sợ phạt, sợ bị khiển trách, sợ bị trù dập. Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

 1.Chúa Giêsu đã nói những lời tạ từ với các môn đệ ở đâu ?

2.Mến Chúa yêu người là gì ?

3.Giữ đạo và sống đạo khác nhau ra sao ?

4.Chúng ta nên giữ luật thế nào ?

5.Giả hình là sao ?
 
------------------------------------

 

PS 6-A108: AI MỚI THỰC SỰ YÊU MẾN CHÚA ?


CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH A

Cv 8,5-8.14-17; 1 Pr 3,15-18; Ga 14,15-21

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 14,15-21

(15) Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. (16) Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi. (17) Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận. Vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. (18) Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. (19) Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. (20) Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. (21) Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Chúa Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến Người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”.

2. Ý CHÍNH:

 

Bài Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giê-su trước khi chịu khổ nạn, phục PS 6-A108


Bài Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giê-su trước khi chịu khổ nạn, phục sinh và lên trời với Chúa Cha. Trong thời gian vắng mặt, Đức Giê-su hứa sẽ ban cho các Môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần để ở với các ông luôn mãi. Người cũng hứa sẽ không bỏ mặc các ông mồ côi, nhưng sẽ hiện diện bên các ông một cách thiêng liêng. Những ai thực sự yêu mến Người thì phải tuân giữ các giới răn của Người. Ai làm như vậy thì sẽ được Chúa Cha yêu mến và còn được Người bày tỏ sự thật của mình ra cho họ biết.

3. CHÚ THÍCH:

- C 15-17: + Nếu anh em yêu mến Thầy…: Đối với Đức Giê-su, tình yêu không chỉ dừng lại ở tình cảm tâm hồn hay cảm xúc thể xác, mà phải được biểu lộ trong hành động vâng phục là tuân giữ các giới răn của Người, cũng như Người đã yêu mến Chúa Cha và luôn tuân giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (x. Ga 15,10). + Đấng Bảo Trợ khác: Bảo Trợ tiếng Hy Lạp là Pa-ra-cle-tos, ám chỉ một người được mời đến để làm trạng sư bênh vực và bầu chữa cho bị cáo khi tòa án xét xử. Ở đây Thánh Thần sẽ bầu chữa cho các môn đệ, trong vụ kiện đối với thế gian trước tòa án của Thiên Chúa. Qua đó cho thấy chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Giê-su (x. 1 Tm 2,5), nhưng lại có hai Đấng Bảo Trợ: Một là “Đức Giê-su Ki-tô là Đấng công chính” (x. 1 Ga 2,1), cũng là “Đấng hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (x. Dt 7,25); Hai là Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác (x. Ga 14,16) là “chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả” (x. Rm 8,26). + Đến ở với anh em luôn mãi: Sứ mệnh cứu thế của Đức Giê-su sẽ hoàn tất khi Ngài được tôn vinh (x. Ga 7,39), nghĩa là khi Người tắt thở trên cây thập giá (x. Ga 19,30). Từ đây Người trao ban Thần Khí là Chúa Thánh Thần cho nhân loại để thực hiện một cuộc tạo thành mới. Thời kỳ của Chúa Thánh Thần sẽ kéo dài mãi đến ngày tận thế. + Thần Chân Lý: là Thánh Thần, phát xuất từ Đức Giê-su là chân lý (x. Ga 14,6), Đấng luôn nói sự thật của Chúa Cha (x. Ga 12,49) và sau khi phục sinh đã thổi hơi ban Thần Khí cho các Tông đồ (x. Ga 20,22). Thần Chân Lý đối lập với ma quỷ là cha của sự dối trá (x. Ga 8,44). + Đấng mà thế gian không thể đón nhận: Vì Thánh Thần là Thần Khí thiêng liêng, nên thế gian không thể thấy và không thể đón nhận Người. Thế gian ở đây là các đầu mục của người Do thái, những kẻ kiêu căng, ích kỷ, thù hận, không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Họ không biết và không muốn đón nhận Thánh Thần của Người nên họ sẽ bị chết trong tội của mình (x. Ga 8,22-24). + Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em: Các Tông đồ nhờ đức tin sẽ đón nhận Thánh Thần, nên sẽ được Ngài ở cùng và dạy dỗ toàn vẹn sự thật.

- C 18-19: + Thầy sẽ không để anh em mồ côi…: Mồ côi là tình trạng con cái bị mất cha mẹ nên không có người chăm sóc nuôi dưỡng, học trò bị mất thầy nên không được ai dạy dỗ hướng dẫn. Ở đây Đức Giê-su có ý nói rằng: sau khi từ cõi chết sống lại, dù Người không còn ở với các môn đệ như hiện tại, nhưng Người vẫn luôn ở cùng các ông nhờ đức tin và ơn thánh. + Chẳng bao lâu nữa: Người hứa sẽ mau trở lại (x. Ga 16,19.22). + Thế gian sẽ không còn thấy Thầy: Đức Giê-su sắp chịu chết và người đời sẽ không còn thấy Người sau khi Người sống lại, vì từ nay Người không còn hiện diện bằng thân xác nữa. + Anh em được thấy Thầy: Thấy ở đây là bằng đức tin: tin Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa. Nhờ tin, các ông sẽ được tham dự vào sự sống siêu nhiên và kết hiệp mật thiết với Người.

- C 20-21: + Ngày đó: là kiểu nói thường dùng trong Cựu Ước để chỉ ngày Chúa lại đến, tức là ngày cánh chung hay tận thế (x. Is 2,17; 4,1). + Thầy ở trong Cha Thầy và Thầy ở trong anh em: Nhờ vào sự thấy được bằng đức tin như vậy, các môn đệ sẽ khám phá ra đời sống kết hiệp thâm sâu giữa Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 14,11), đồng thời cũng cảm nghiệm được sự liên kết mật thiết giữa họ với Chúa Giê-su Phục Sinh bằng đức tin và ân sủng. + Ai có và giữ các điều răn của Thầy…: Lòng mến Chúa không phải chỉ dừng lại ở tình cảm và lời nói, nhưng phải được thể hiện qua hành động tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhất là sống giới răn yêu thương của Chúa Giê-su (x. Ga 13,34). + Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến…: Câu này không có nghĩa là Thiên Chúa chỉ yêu mến những ai yêu mến Chúa Giê-su, vì Thiên Chúa yêu hết mọi người và yêu họ trước (x. 1 Ga 4,10). Nhưng những ai yêu mến và vâng lời Đức Giê-su thì càng được Thiên Chúa yêu mến hơn, với danh nghĩa họ là nghĩa tử của Đức Giê-su và là chi thể của Đầu Nhiệm Thể là chính Người.

4. CÂU HỎI:

1) Đức Giê-su đòi người ta thể hiện tình yêu đối với Người thế nào ? 2) Bảo trợ nghĩa là gì ? Loài người chúng ta chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là ai ? Nhưng chúng ta lại có hai Đấng Bảo Trợ là những Vị nào ? 3) Sứ mệnh cứu thế của Đức Giê-su chấm dứt khi nào ? Sẽ được Đấng nào khác tiếp tục cho đến tận thế ? 4) Thần Chân Lý là ai ? Phát xuất từ Đấng nào ? Đối lập với ai ? 5) Tại sao thế gian không thể đón nhận được Thần Chân Lý ? Các Tông đồ phải làm gì để đón nhận được Ngài ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15).

2. CÂU CHUYỆN:

1) ĐẠO ĐỨC LÀ TIN CẬY PHÓ THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA:

Sau lễ đăng quang, Đức Piô XI trở về phòng riêng, ngồi vào chiếc ghế của vị tiền nhiệm là Đức Bê-nê-dic-tô XV thì tự nhiên ngài cảm thấy một nỗi lo âu xâm chiếm tâm hồn. Ngài nhìn thấy con đường tương lai thật tăm tối: Một Giáo hội đang bị tấn công mọi mặt. Cuộc thế chiến thứ nhất vừa chấm dứt, nhưng ngòi nổ vẫn còn đang âm ỉ chờ bùng phát lại. Trong lúc chán nản, ngài đã làm công việc duy nhất mà một người lo âu có thể làm, là quì xuống cầu nguyện. Trong lúc cầu nguyện, tay ngài vô tình chạm vào một bức ảnh trên bàn làm việc của đức Bê-nê-dic-tô. Ngài cầm bức ảnh ấy lên xem và ngài cảm thấy nỗi lo sợ trong lòng bỗng tan biến hết. Tâm hồn ngài tràn ngập an bình. Đó là bức ảnh Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng. Từ đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức ảnh ấy trên bàn và mỗi khi bi lo âu chuyện gì, ngài nhìn vào bức ảnh và cầu xin Chúa Giê-su phán một lời để được sóng yên biển lặng.

Ngày nay Chúa Giêsu luôn ở trong chúng ta và sẽ mang lại sự bình an cho tâm hồn chúng ta. Bởi đó, khi gặp sóng gió, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giê-su và nài xin Người: « Lạy Chúa, xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất ». Chắc chắn Chúa sẽ ra tay nâng đỡ để chúng ta vượt thắng mọi gian nan và trung thành phụng sự một mình Người.

2) AI LÀ NGƯỜI THỰC SỰ YÊU MẾN THIÊN CHÚA ?:

Một người kia trong khi ngủ đã nằm mơ thấy mình gặp một thiên thần có cánh đang đi bộ xuống phố. Một tay ngài cầm bó đuốc, tay kia cầm một xô nước. Anh ta liền hỏi thiên thần rằng: “Ngài đi xuống phố kia làm chi vậy ?”. Thiên thần đáp: “Ta được sai đến để tìm xem ai là người có đức tin và có lòng mến Chúa thực sự”. Anh ta hỏi tiếp: “Sao Ngài lại phải cầm theo bó đuốc và xô nước ?” Thiên thần đáp: “Ta muốn dùng bó đuốc để thiêu hủy các tòa nhà trên thiên đàng, và dùng xô nước để dập tắt ngọn lửa dưới hỏa ngục”. Anh ta hỏi tiếp: “Nhưng tại sao Ngài lại phải làm như thế ?” Bấy giờ thiên thần trả lời: “Để biết ai thực sự có đức tin và lòng mến Chúa. Một người có đức tin thực sự thì sẽ tuân giữ các giới răn cho dù ta có phá huỷ hy vọng sau này họ sẽ lên thiên đàng và phá hủy nỗi sợ sau này sẽ bị sa hỏa ngục đi nữa”.

3) CHÍNH KHI HIẾN THÂN LÀ KHI ĐƯỢC NHẬN LÃNH:

Bà MA-RI-NA PI-CÁT-SÔ (Marina Picasso) là cháu của họa sĩ nổi tiếng PÁP-LÔ PI-CÁT-SÔ (Pablo Picasso). Trong thời gian từ năm 1973 đến 1975, bà liên tiếp phải chịu nhiều cái tang lớn: Ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không thể bù đắp, dù bà đã được thừa kế một gia sản lớn lao. Từ lúc ấy, thay vì ngồi gậm nhấm nỗi đau của mình thì bà dành nhiều thì giờ để chăm sóc những trẻ em mồ côi không người thân thích, những trẻ lang thang bụi đời đang sống vất vưởng ở nơi đầu đường xó chợ. Cũng từ ngày đó bà cảm thấy có sự biến đổi to lớn trong tâm hồn như bà tâm sự: “Nhờ giúp đỡ con em của nước này, mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống mới đó cho các em”. Chính nhờ ra khỏi nỗi đau mất mát người thân của mình, để cúi xuống xoa dịu nỗi đau của tha nhân mà bà Ma-ri-na Pi-cát-sô đã như được sống lại về linh hồn. Khi không còn bận tâm lo cho mình để quan tâm chia sẻ nhu cầu của người khác, bà đã nghiệm thấy sự sống nơi bà được nhân lên nhiều lần, như lời kinh Hoa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân… Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời…”

4) TÌNH THƯƠNG KHÔNG CÓ TRONG NHỮNG CON NGƯỜI ÍCH KỶ:

Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt”. Anh bán thịt quát lên: “Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi”. Hai người cãi nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan tòa truyền cho người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói: “Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé”.

Việt Nam chúng ta cũng có câu chuyện về một người cha tham lam ích kỷ, thiếu tình thương con cái. Một hôm ông ta đi đánh dậm ngoài đồng và bắt được mấy con cá mang về nhà. Ông đang ngồi bên bếp than nướng số cá mới bắt được để nhắm rượu. Mùi cá nướng thơm phức khiến đứa con nhỏ thức giấc và khóc đòi được ăn cá nướng. Bà mẹ liền an ủi con: “Nín đi con, để mẹ xem có con cá nào nhỏ, mẹ sẽ xin bố cho con”. Nghe vậy, anh chồng vốn tham ăn và ích kỷ liền quát: “Cho cái gì ? Không có con nào nhỏ cả, con nào cũng đều lớn hết”.

5) LÒNG HIẾU THẢO PHẢI ĐƯỢC BIỂU LỘ QUA SỰ VÂNG LỜI:

Một bé trai theo mẹ vào siêu thị đi sắm đồ. Khi đến cửa hàng quần áo. Trong lúc mẹ đang nói chuyện với cô nhân viên bán hàng, thấy các món hàng quần áo treo trên giây, em liền leo lên lấy làm các món đồ rơi xuống tung tóe. Lúc đầu, người mẹ cầm chặt tay con lại, rồi nhẹ nhàng nói: “Đừng làm như thế nghe con!” Nó cúi đầu ngoan ngoãn đáp: “Dạ vâng, thưa mẹ!” Nhưng một lúc sau, khi mẹ đang bận chọn lựa mặt hàng thì đứa bé lại leo lên làm rơi hàng xuống. Người mẹ vẫn kiên nhẫn nhắc nhở con: “Đừng làm như thế nữa, nghe con!” Nó lại hứa: “Dạ vâng!” Rồi một lúc sau, nó lại chứng nào tật đó làm rớt món hàng xuống khiến cô nhân viên bán hàng nhíu mày tỏ vẻ khó chịu. Lần này, bà mẹ liền nắm chặt tay con, trừng mắt nhìn con, dùng ngón tay trỏ chỉ vào giữa trán nó, và nói bằng một giọng nghiêm khắc: “Đừng bao giờ làm như thế nữa nghe chưa?” Đứa bé hiểu rằng lần này thì nó phải nghe theo mệnh lệnh của mẹ là không được leo lên làm rớt đồ như vậy nữa. Nó nhìn mẹ, miệng mếu như muốn khóc với giọt nước mắt lưng tròng, nó nói: “Mẹ, con thương mẹ mà! Sao mẹ lại không thương con?”. Với nét mặt bình tĩnh, bà mẹ nói với con: “Nếu con thực sự thương mẹ, thì phải vâng lời mẹ, và không được làm trái ý mẹ nữa nghe con!”. Đứa bé liền ngừng khóc cúi đầu nhận lỗi và từ lúc đó đến khi ra khỏi siêu thị, nó không còn dám làm phiền những người chung quanh nữa.

Câu chuyện rất phù hợp với Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15).- “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21).

3. SUY NIỆM:

1) ĐẠO ĐỨC LÀ SỐNG TÌNH CON THẢO VỚI THIÊN CHÚA:

- Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta kiểm điểm lại động cơ khiến chúng ta giữ đạo: giữ đạo để được lên thiên đàng và khỏi bị sa hỏa ngục sau này, hay giữ đạo để trở nên con cái ngoan hiền hiếu thảo của Thiên Chúa và nên anh chị em thực sự của mọi người ? Một người giữ đạo chỉ để sau này được lên thiên đàng thường suy nghĩ tính toán như sau: Phạm tội trọng cỡ nào thì mới bị phạt sa hỏa ngục ? Ăn cắp bao nhiêu tiền thì mới là tội trọng ? Phải tha thứ cho người ta mấy lần ? Phải cho người nghèo bao nhiêu tiền để sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc Thiên đàng đời sau ?…

- Đang khi đó, một người giữ đạo vì lòng yêu mến Chúa sẽ tự nguyện giữ đạo và luôn tự hỏi mình: Ngay lúc này tôi có thể làm gì để giúp đỡ một người qua cơn họan nạn ? Hiện nay ai đang cần được tôi giúp đỡ ? Tôi phải làm gì để nên con thảo với Chúa Cha trên trời ?… Về vấn đề này HE-RI I-MƠ-SÂN (Harry Emerson) đã phát biểu như sau: “Sợ hãi thì đe dọa, còn tình yêu lại gọi mời. Sợ hãi thì cầm tù, còn tình yêu lại giải phóng. Sợ hãi thì chua chát, còn tình yêu lại ngọt ngào. Sợ hãi thì gây ra thương tích, còn tình yêu lại chữa lành. Sợ hãi thì luôn lẩn tránh còn tình yêu lại hiện diện”.

2) LUÔN KẾT HIỆP MẬT THIẾT VỚI CHÚA THÁNH THẦN:

Trong bữa Tiệc Ly, trước khi từ giã các môn đệ chịu khổ nạn, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ và truyền cho các ông phải yêu thương nhau. Ngài đã phác họa cho các ông thấy tương lai đen tối đang chờ đón Thầy trò: “Họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con”. Tuy nhiên, để các ông được yên tâm, không hoang mang, không thất vọng, Ngài đã hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần làm Đấng Bảo Trợ khác và hứa sẽ luôn ở với các môn đệ qua câu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14,18).

Cuộc sống của mỗi người chúng ta giống như mặt biển đầy những sóng gió bão táp là những tội lỗi, những thói hư, những sự lo lắng về tiền bạc vật chất… Tất cả những cơn sóng gió này như muốn nhận chìm chúng ta xuống. Thế nhưng, chúng ta không nên hoảng sợ, vì chúng ta không chiến đấu một mình, mà có Chúa luôn ở trong chúng ta và đồng hành với chúng ta như Người đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14,18).-“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

3) PHẢI BIỂU LỘ LÒNG MẾN BẰNG HÀNH ĐỘNG:

Thánh Gio-an đã khuyên các tín hữu như sau: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3,18). Lòng mến Chúa không chỉ dừng lại ở tình cảm yêu mến, hay là những việc đạo đức mang tính hình thức bề ngoài như đọc kinh, dự lễ mà thôi. Những việc đó tuy tốt, nhưng chưa đủ chứng tỏ lòng mến Chúa thực sự như lời Chúa Giê-su: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Thánh Gio-an cũng cho biết lòng mến Chúa đích thực phải thể hiện bằng tình thương đối với tha nhân như sau: "Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy được" (1 Ga 4,20). Ai yêu thương phục vụ những người đói khát bệnh tật và đau khổ ở đời này thì sẽ được Chúa kể là đã yêu thương và phục vụ chính Người trong ngày phán xét (x. Mt 25,40).

4) LÒNG MẾN CHÚA PHẢI ĐI ĐÔI VỚI YÊU NGƯỜI:

Sau đây là một số việc cụ thể mà người có lòng mến Chúa thực sự phải thi hành:

- Luôn biết nghĩ đến người khác, chứ không ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình và gia đình mình như lời Chúa dạy: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).

- Luôn xét đoán ý tốt, ước muốn và cầu nguyện điều tốt cho tha nhân như lời Chúa Giê-su dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán (x. Mt 7,1).

- Khiêm tốn sửa lỗi của mình trước khi sửa lỗi cho tha nhân như Chúa dạy: “Hỡi kẻ đạo đức giả ! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em” (x. Mt 7,4).

- Đối xử nhân hậu với những kẻ thù ghét bách hại mình, để hóa giải thù hận, biến thù thành bạn như lời Chúa phán: “”Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39). “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x. Mt 5,44-45).

- Tha thứ không phải bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,21), nghĩa là phải luôn tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình, để đáng được Chúa tha tội cho mình: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (x. Mt 6,12).

- Quảng đại cho đi hơn nhận lãnh: “Cho thì phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).

- Năng thăm viếng để an ủi những người đau khổ bệnh tật và giúp đỡ chia sẻ cơm áo vật chất cho những người nghèo đói và cô thế cô thân, săn sóc phục vụ những người yếu đuối bệnh tật… Vì đến ngày phán xét, Chúa sẽ xét xử chúng ta tùy cách chúng ta đã đối xử với những người nghèo khổ gặp phải trong cuộc sống (x. Mt 25,34-40)…

4. THẢO LUẬN:

Yêu thương bằng việc làm là biết nghĩ đến người khác, xét đoán ý tốt và ước muốn điều tốt cho người mình không ưa, là sẵn sàng chịu đựng và khoan dung tha thứ những sự xúc phạm của kẻ khác đối với mình, là quảng đại cho đi hơn là nhận lãnh, là năng thăm viếng an ủi những người đau khổ và giúp đỡ những người cô đơn, là săn sóc phục vụ những người yếu đuối bệnh tật… Trong những ngày sắp tới bạn sẽ làm gì để thể hiện tình thương cụ thể đối với tha nhân ?

5. LỜI CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời chúng con mãi mãi xanh tươi. Xin ban cho chúng con sự bình an của Chúa, bình an làm cho chúng con vững tâm khi gặp phải các cơn sóng gió giữa cuộc đời. Xin ban cho chúng con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt chúng con luôn rạng rỡ tươi vui. Xin ban cho chúng con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần sẽ biến đổi cuộc đời chúng con ngày một trở nên giống Chúa Cha trên trời hơn.

- LẠY CHÚA. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con hiểu rằng Chúa muốn chúng con tuân giữ các huấn lệnh vì lòng yêu mến Chúa, hơn là để được ban thưởng hạnh phúc thiên đàng hay không dám phạm tội trọng chỉ vì sợ bị phạt xuống hỏa ngục. Xin giúp chúng con biết mến Chúa bằng việc thực hành giới răn yêu thương tha nhân.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH -  HHTM

------------------------------------

 

PS 6-A109: CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH


Thánh Thần Giúp Ta Sống Đời Sống Yêu Thương

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Cv 8:5-8, 14-17;  1 Pr 3:15-18;  Ga 14:15-21)

 

Mặc dù còn hai tuần nữa mới đến lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, nhưng ngay từ tuần này Phụng PS 6-A109


Mặc dù còn hai tuần nữa mới đến lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, nhưng ngay từ tuần này Phụng vụ Lời Chúa đã bắt đầu trình bày với chúng ta về vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội cũng như trong đời sống Ki-tô hữu.  Lời hứa Chúa Giê-su nói với các tông đồ trước khi Người chịu cuộc Thương Khó đã được thực hiện:  “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”.  Đúng thế, lời hứa ấy đã được thể hiện ở bất cứ nơi nào có bước chân truyền giáo của các vị tông đồ.  Cụ thể hơn nữa, lời hứa ban Thánh Thần được thể hiện ngay trong tâm hồn Ki-tô hữu, khi Người giúp họ “ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô” và “thà chịu đau khổ vì làm việc lành còn hơn là vì làm điều ác”.  Vậy trước hết chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giê-su nói về vai trò của Chúa Thánh Thần.

          Trước khi lìa trần, người thân yêu của chúng ta thường trăn trối cho chúng ta một lời nói hay một kỷ vật quý báu nhất.  Đó cũng là điều Chúa Giê-su đã làm cho các tông đồ và hết thảy chúng ta khi Người hứa ban cho chúng ta Thánh Thần, “Đấng Bảo Trợ khác”, đến ở với chúng ta luôn mãi.  Khi còn ở với các môn đệ, Chúa Giê-su đích thực là Đấng Bảo Trợ bằng xương bằng thịt. Người sống giữa họ và trở nên như họ trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi.  Người thi hành vai trò bảo trợ bằng cách dạy dỗ họ những chân lý Chúa Cha muốn mặc khải cho họ.  Họ đã chứng kiến Đấng Bảo Trợ này hằng lo lắng chăm sóc mọi bề cho họ và dân chúng.  Người đã rao giảng Tin Mừng cứu độ và nuôi dưỡng hằng ngàn người đi theo Người để nghe Người giảng.  Người đã thực hiện những phép lạ chữa lành và xua trừ ma quỷ, để giúp người ta cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa.  Đặc biệt hơn hết, Đấng Bảo Trợ xuống thế làm người đã hy sinh mạng sống mình để chứng minh chân lý Thiên Chúa yêu thương trần gian như thế nào.  Nhờ cái chết nhục hình trên thập giá, Đấng Bảo Trợ là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” đã chuộc chúng ta về cho Thiên Chúa, để chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa.

          Giờ đây sắp đến lúc Đấng Bảo Trợ bằng xương bằng thịt lìa bỏ trần gian để về với Cha Người.  Tuy nhiên Người không bỏ chúng ta mồ côi (Gio-an 14:18), nhưng sẽ xin Chúa Cha ban cho chúng ta “Đấng Bảo Trợ khác”, để Người giúp chúng ta hiểu được chân lý vẹn toàn, tức chân lý về tình yêu Thiên Chúa.  Chúa Giê-su khẳng định “một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”.  Nói khác đi, cũng vẫn là Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, ở lại với chúng ta, nhưng không phải bằng sự hiện diện của thân xác, mà bằng sự hiện diện của Thần Khí Người.  Như thế, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục ở lại và sinh hoạt giữa chúng ta, dưới hình thức hành động của Chúa Thánh Thần.

          Chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giê-su qua Chúa Thánh Thần khi nhìn vào đời sống của Giáo Hội.  Sau khi Chúa về trời, hoạt động truyền giáo của các tông đồ phát triển mạnh mẽ chính là do sự can thiệp trực tiếp và rõ ràng của Chúa Thánh Thần.  Tại một thành miền Sa-ma-ri, các người đã được thánh Phi-líp-phê rửa tội đều lãnh nhận Thánh Thần do việc đặt tay của thánh Phê-rô và thánh Gio-an.  Ở những nơi khác, khi cuộc bách hại Ki-tô hữu bắt đầu, thánh Phê-rô đã khích lệ các tín hữu hãy để cho Đức Ki-tô, Đấng đã nhờ Thần Khí mà được sống lại, ngự trị trong lòng họ và giúp họ đối xử “cách hiền hòa và với sự kính trọng” với những kẻ bách hại và phỉ báng họ.  Đó là một số chứng cớ cho thấy vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội sơ khai cũng như sau này và nhất là trong tâm hồn các tín hữu.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Chúng ta đã nghe Chúa Giê-su diễn giải vai trò của Chúa Thánh Thần.  Tuy nhiên có một điều quan trọng nhất mà Người muốn chúng ta sống theo sự dẫn dắt của “Đấng Bảo Trợ” Chúa Cha ban cho chúng ta, đó là “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữa các điều răn của Thầy”.  Thánh Thần là tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con.  Thánh Thần cũng chính là tình yêu liên kết chúng ta với Ba Ngôi Thiên Chúa và với nhau.  Điều răn mới của Chúa là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.  Vậy chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần đem chúng ta lại gần Thiên Chúa và gần lại với nhau nhé!

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

------------------------------------

 

PS 6-A110:  TIN MỪNG KHÔNG BIÊN GIỚI


Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 6, Phục Sinh, Năm A

 

Bất chấp những khó khăn và bách hại ngày càng gia tăng, giáo đoàn Kitô hữu tiên khởi đã ra PS 6-A110


Bất chấp những khó khăn và bách hại ngày càng gia tăng, giáo đoàn Kitô hữu tiên khởi đã ra khỏi Giêrusalem để đến với muôn dân như bài sai của Đức Giêsu phục sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19). Và từ nay Tin Mừng Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập tự và đã sống lại từ cõi chết không còn là Tin Mừng cho dân tộc Do Thái hay một miền đất, một nền văn hoá nào, nhưng là Tin Mừng không biên giới cho tất cả mọi người ở mọi thời, mọi nơi.

Thực vậy, lúc bấy giờ giáo đoàn tín hữu ở Giêrusalem bị truy lùng, bắt bớ dữ dội, điển hình là cuộc tử đạo của một trong Nhóm Bẩy Người là ông Têphanô. Nhóm này, ngoài Têphanô, còn có “các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla” là những người “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan” được các Tông Đồ chọn và đặt tay (Cv 6,3.5).

Ông Têphanô bị tố cáo “lộng ngôn xúc phạm đến ông Môsê và Thiên Chúa” và “không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật” (Cv 6,11-12), và họ đã ném đá ông cho đến chết. “Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô” (Cv 7,58). “Phần ông Saolô, ông tán thành việc giết ông Têphanô” (Cv 8,1). Và sách Công Vụ các Tông Đồ đã tóm tắt tình hình bách hại các tín hữu ở Giêrusalem buổi đầu của Giáo Hội như sau:

“Hồi ấy, Hội Thánh tại Giêrusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giuđê và Samari… Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8,1.3).

Chính trong thời buổi bị bách hại này mà Philípphê, một trong Nhóm Bẩy Người đã “xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó” (Cv 8,5).

Samari là miền ngoại đạo và thù nghịch với người Do Thái, hai dân tộc ngăn cách bởi nhiều rào cản, và họ không chấp nhận nhau, đến nỗi chỉ đi ngang qua vùng Samari thôi, người Do Thái cũng không được phép. Nhưng bây giờ thì Tin Mừng vượt tuyến, vượt biên, vượt mọi chướng vật, rào cản, vượt mọi kỳ thị, thành kiến, vượt mọi phong tục, truyền thống, luật lệ để trở thành Tin Mừng không biên giới, hầu đến được với hết mọi người, không trừ ai. Sự việc hai tông đồ Phêrô và Gioan  đã đến tận Samari và đặt tay cầu nguyện cho dân cư ở đó, để họ nhận được Thánh Thần đã nói lên tinh thần hăng say với sứ vụ loan báo Tin Mừng không biên giới này, khi vượt qua mọi biên giới của chủng tộc, địa lý, lịch sử, xã hội, chính trị, văn hoá, lề luật mà Đức Giêsu đã ủy thác cho các vị, sau khi sống lại (x. Cv 8,14-17).
Thực vậy, giáo đoàn đầu tiên cũng như các tín hữu của dòng lịch sử Giáo Hội đã ý thức và xác tín: Đức Giêsu chịi đóng đinh và sống lại là Tin Mừng không biên giới của toàn thể nhân loại.

Để Tin Mừng trở thành Tin Mừng cho mọi người, Tin Mừng không biên giới, họ đã sống thuận hoà với nhau trước mặt Thiên Chúa và chia sẻ với người chung quanh niềm hy vọng trong Đức Giêsu phục sinh, như lời khuyên của thánh tông đồ trưởng Phêrô: “Tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc” (1 Pr 3,8-9). Chính nhờ đời sống bác ái, yêu thương, nhân hậu, như “dấu chỉ duy nhất họ là môn đệ của Đức Giêsu”, mà Tin Mừng đến được với mọi người, Đức Giêsu được tin thờ, yêu mến, khi  chứng từ của họ trở nên thuyết phục.

Và “Tin Mừng không biên giới” ấy đã được chính Đức Giêsu tuyên bố bảo đảm trong buổi tối thứ năm tuần thánh trước mặt các tông đồ, sau khi Giuđa đã bỏ bàn tiệc ra đi, khi Ngài nói về sự hiệp nhất giữa Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đồng thời giới thiệu với các ông Chúa Thánh Thần như Đấng Bảo Trợ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14,16-17).

Chính Thần Khí sự thật sẽ dẫn đưa người Kitô hữu đến với Chúa Ba Ngôi, nhờ tình yêu và lòng trung thành với Lời Thiên Chúa mà họ đã nhận được từ Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Cũng chính nhờ Thần Khí sự thật, mà các môn đệ của Đức Giêsu đã, đang và sẽ làm cho thế giới nhận ra ý muốn và hạnh phúc của Thiên Chúa là: tất cả mọi người được cứu độ và được sống.

Vâng, mục đích của Tin Mừng không biên giới, chính là không để bất cứ ai, ở bất kỳ nơi nào, thời nào mất đi cơ hội được nghe Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương họ”. Và mục đích ấy sẽ chỉ có thể đạt được, khi niềm vui phục sinh của người môn đệ Đức Giêsu được hiện thực hoá bằng  nhiệt huyết tông đồ, qua nỗ lực truyền giáo để Lời hằng sống, Máu và Nước từ thân xác Thiên Chúa làm người bị đóng đinh, cũng như ơn Cứu Độ và Bình An của Đức Giêsu sống lại  tuôn chảy đến  mọi người, không trừ ai, như thánh ý đời đời của Chúa Cha.

Jorathe Nắng Tím   

------------------------------------

 

PS 6-A111: Yêu và giữ lời - Huệ Minh

 

Mở lại những trang sách Cựu Ước, ta thấy Đức Chúa với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì PS 6-A111


Mở lại những trang sách Cựu Ước, ta thấy Đức Chúa với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo: Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).

Hẳn ta còn nhớ khi các môn đệ đánh cá ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.

Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.

Chúa Giêsu hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.

Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Đấng Bảo Trợ đến sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng đoàn môn đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy (14, 26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người làm chứng về Đức Giêsu trước các mô đệ (15, 26). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16, 14). Và rồi trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11).

Trang Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn phục sinh và lên trời với Chúa Cha. Trong thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần để ở với các ông luôn mãi. Người cũng hứa sẽ không bỏ mặc các ông mồ côi, nhưng sẽ hiện diện bên các ông cách thiêng liêng.

Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.

Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”.

Khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi…. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 33-35)

Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.

Chúa Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.

Lòng yêu mến Chúa thực đòi ta giữ giới răn của Người. Điều đó rất tự nhiên. Bởi khi yêu nhau, người ta sẵn sàng chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh vì nhau. Người ta cũng sẵn sàng làm theo ý của nhau nếu đó là những ý muốn chính đáng. Điều cần nói ở đây là việc ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa chẳng đem lại lợi lộc gì cho Người, nhưng đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Bởi lẽ, lề luật của Chúa là một hàng rào cần thiết để bảo vệ ta được an toàn và khỏi rơi xuống vực thẳm tội lỗi. Đồng thời chúng cũng là những bảng chỉ đường giúp ta đi đúng con đường dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc. Biết như vậy nhưng dường như ta vẫn cảm thấy khó khăn và ngại ngùng khi phải tuân giữ, phải thực thi các giới răn của Người.

Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người Kitô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.

------------------------------------

 

PS 6-A112: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi sống PS 6-A112


Vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi sống cuộc đời ẩn dật ở Nazareth, Ngài bắt đầu cuộc sống công khai. Sứ mạng chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Nhưng Ngài biết thời giờ của Ngài ở thế gian không còn được bao lâu, nên cùng lúc rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tuyển chọn một số người mà Kinh thánh gọi là Tông đồ để trao cho họ sứ mạng của Ngài.

Ngài quan tâm số người này một cách đặc biệt. Trước khi chọn họ, Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa (x. Lc 6,12-16). Sau những giờ rao giảng cho dân chúng, Ngài thường gặp riêng họ để dặn dò, hoặc giải thích thêm những điều mà họ chưa hiểu. Ngài còn dành thời gian để dạy cho họ về những bài học cao quý của người lãnh đạo, nhất là bài học về tinh thần phục vụ. Ngài nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,42-45).

Đặc biệt, trong bữa tiệc ly, Ngài không những “dạy” mà còn “làm gương” cho các ông bằng cử chỉ rửa chân. Sau khi thực hành điều đó, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,13-15).

Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết, tuy Ngài sẽ về lại với Chúa Cha, nhưng “Ngài không để cho các ông mồ côi” (Ga 14,18). Thứ nhất, Ngài sẽ ban Đấng Phù Trợ đến. Đấng Phù Trợ đây là Thần Chân Lý, tức là Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa Ngôi Ba sẽ ở với các Tông đồ và Giáo hội. Thứ hai, tuy Ngài sẽ về với Chúa Cha, không còn hiện diện thực sự như Ngài đã từng hiện diện với các ông trong suốt ba năm qua, nhưng Ngài sẽ ở với các ông, với Giáo hội mỗi ngày cho đến tận thế bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích và bằng sự hiện diện một cách thiêng liêng. Điều này đã được chứng minh bằng những lần hiện ra sau khi Ngài phục sinh.

Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi các Tông đồ là phải yêu mến Ngài. Cũng như trước khi trao sứ vụ Tông đồ trưởng cho Phêrô, Ngài đã muốn ông xác nhận về lòng yêu mến (x. Ga 21,15-19). Vì thế, lòng yêu mến hết sức quan trọng. Thánh Augustinô cũng đã từng nói: “cứ yêu rồi muốn làm gì thì làm”. Nhưng làm thế nào để chứng minh được lòng yêu mến? Đức Giêsu cho biết, lòng yêu mến được thể hiện qua việc thực hiện những lệnh truyền của Ngài, Ngài nói: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy”(Ga 14,15); “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ yêu mến Thầy”(Ga 14,21).

Như vậy là đã rõ: Yêu mến Đức Giêsu là tuân giữ các luật của Ngài. Hay nói cách khác, kẻ giữ luật Đức Giêsu mới là kẻ yêu mến Ngài. Luật của Ngài là những giáo huấn được ghi lại trong Thánh Kinh và được lưu truyền qua Thánh truyền. Luật của Ngài được tóm lại trong mười điều răn là mến Chúa yêu người.

Các Tông đồ đã yêu mến Đức Giêsu một cách tuyệt đối và vô vị lợi.  Bởi vì, các ông đã thực hiện trọn vẹn giới răn của Đức Giêsu. Vì lòng yêu mến Chúa vô vị lợi nên các Ngài đã phục vụ tha nhân hết mình và cuối cùng các Ngài đã lấy cái chết để làm chứng cho lòng yêu mến của các Ngài vào Đức Giêsu. Các bài đọc hôm nay chứng minh cho chúng ta  phần nào.

Bài đọc 1, cho chúng ta thấy cách thức các Tông đồ và các thừa tác viên trong hội thánh sơ khai đã thực hiện giới răn của Đức Giêsu, đó là rao giảng, làm phép lạ, trừ quỷ, chữa lành bệnh tật. Sách Công Vụ tường thuật: “Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả”(Cv 8,5-8).  Đồng thời, các Tông đồ còn ban Bí tích Thêm sức cho họ: “Khi các Tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”(Cv 8,14-17).

Bài đọc II cũng cho chúng ta biết, sau khi thấm nhuần giáo huấn của Thầy Chí Thánh, Thánh Phêrô gửi thư dặn dò các kitô hữu hãy sống niềm tin của mình như thế nào? Đối với Thiên Chúa, Ngài dạy: “Anh em hãy tôn thờ Thiên Chúa trong lòng anh em” (x. 1Pr 3,15). Trước mặt những người lương dân: “hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em”(1Pr 3, 15-16). Rồi, Ngài còn nhấn mạnh: “Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác”(1Pr 3, 17).

Đó là lòng yêu mến một cách vô vị lợi qua tinh thần giữ luật Chúa của các Tông đồ. Còn đối với mỗi người chúng ta thì sao?

Chúng ta có yêu mến Chúa và yêu tha nhân một cách vô vị lợi không? Hay nói cách khác, chúng ta có tuân giữ luật Chúa, một cách vô vị lợi không? Bởi vì, tình yêu vô vị lợi là tình yêu không so đo tính toán. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu quảng đại, vị tha, cho đi, luôn muốn cho người mình yêu được hạnh phúc. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu chỉ nghĩ đến Chúa đến tha nhân chứ không nghĩ đến mình. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu đòi hỏi phải có sự hy sinh. Pierre l’Ermite đã nói: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật.” Đó chính là tình yêu của Đức Giêsu dành cho nhân loại mà chóp đỉnh của tình yêu này là thí mạng sống cho nhân loại. Chính Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13). Đó là tình yêu của Cha Maximiliên Kôlbê, chấp nhận chết thay cho người bạn tù vì anh ta còn vợ trẻ con thơ.

Hay chúng ta đang yêu mến Chúa, yêu thương tha nhân bằng một tình yêu vị lợi? Tức là tình yêu ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, tìm hạnh phúc cho mình chứ không nghĩ đến Chúa, đến tha nhân. Thậm chí có khi coi Chúa, coi tha nhân như là phương tiện để phục vụ cho mình. Thực tế, có rất nhiều người đi đạo nhưng không giữ đạo. Họ chỉ chạy đến với Chúa với Giáo hội khi họ cần cho họ, như khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đưa xác người thân đến nhà thờ. Có nhiều người nói yêu tha nhân nhưng thực sự chỉ để lợi dụng tha nhân khi cần, vì chưa bao giờ họ muốn cho tha nhân được hạnh phúc.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì trước khi về trời Chúa đã không để chúng con mồ côi nhưng đã ở lại với chúng con bằng nhiều thể nhiều cách. Xin cho chúng con luôn biết yêu mến Chúa bằng việc tuân giữ giới răn và thực hành lời của Chúa. Amen.

------------------------------------

 

PS 6-A113: Suy niệm của Lm Trầm Phúc

 

Chúa Giêsu sống lại đã trở thành nguồn phấn khởi và hy vọng cho chúng ta. Và để cho niềm vui PS 6-A113


Chúa Giêsu sống lại đã trở thành nguồn phấn khởi và hy vọng cho chúng ta. Và để cho niềm vui đó tồn tại và sung mãn, Ngài chỉ cho chúng ta một con đường là giữ điều răn của Thầy. Và giữ điều răn của Thầy chính là yêu mến Thầy. Con đường tình yêu không chỉ là nói mà làm. Tình yêu đích thực là làm cho người yêu vừa lòng. Yêu mến Chúa cũng thế thôi. Chúa đã từng trách dân Do Thái chỉ yêu ngoài môi ngoài miệng mà lòng trí vẫn xa Ngài. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta trước và tình yêu đã khiến Ngài hi sinh tất cả, mang lấy thân phận chúng ta, và chết cho chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng dám chết cho bạn hữu”. Ngài đã chứng minh tình yêu của Ngài bằng những hành động cụ thể, không thể chối cãi. Ngài cũng yêu Chúa Cha bằng cách vâng phục ý Cha đến trọn vẹn, cho đến chết và chết trên thập giá. Con đường tình yêu chỉ có một. Chúng ta yêu Ngài cũng theo con đường duy nhất đó.

Khi yêu Ngài, giữ lời Ngài, chúng ta sẽ được gì? Ngài không hứa ban cho chúng ta những lợi lộc trần gian. Ngài cho chúng ta những gì mà thế gian không thể biết và không thể lãnh nhận là Thánh Thần của Ngài, Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí sự thật. Đấng bảo trợ là ai? Theo nguyên ngữ Hy Lạp, Đấng Bảo Trợ mang nhiều ý nghĩa: là Đấng an ủi, là người bảo vệ, là trạng sư, là người nâng đỡ… Ở đây, Chúa Thánh Thần bao gồm tất cả những nhiệm vụ đó. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Ngài hoạt động từ lúc sáng thế cho đến ngày chung thẩm, không có nơi nào mà chúng ta không thấy hoạt động của Ngài. Ngài hiện diện trong mọi biến cố của dân Chúa, trong những người Chúa chọn để dạy dỗ hay cứu vớt dân Chúa. Nhất là nơi các tiên tri, và đặc biệt nhất là nơi Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu xuống thế làm người là do quyền năng Thánh Thần. Có thể nói, Chúa Giêsu hoàn toàn là một với Thánh Thần, trong mọi hoạt động, trong mọi tình huống. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó Thánh Thần cho Giáo Hội và cho chúng ta khi Ngài tắt thở. Đến ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần Chúa đã long trọng ngự xuống trên các tông đồ và dưới sự thúc đẩy của Ngài, Giáo Hội bắt đầu chinh phục thế giới.

Nơi bàn tiệc ly, Chúa Giêsu đã hứa trước và Ngài đã thực hiện lời hứa đó. Chúng ta được thanh tẩy trong Thánh Thần và nhận lãnh Thánh Thần một cách sung mãn nơi Bí tích Thêm Sức. Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Ngài là Thần Khí sự thật, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự thật vẹn toàn. Ngài sẽ giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa là sự thật. Biết Thiên Chúa là điều cốt yếu, nếu không, chúng ta dễ biến Ngài thành thần tượng, như dân Do Thái đã biến Thiên Chúa thành con bò vàng. Thiên Chúa vượt xa tất cả những gì chúng ta tưởng về Ngài. Chỉ có Thánh Thần mới giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa như Chúa muốn. Chỉ có Thánh Thần mới dạy chúng ta cầu nguyện thế nào cho phải và cho chúng ta biết gọi tiếng cha ơi với tất cả tình con thảo. Chỉ có Thánh Thần mới soi sáng cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có Thánh Thần mới dạy chúng ta biết yêu mến Chúa hết lòng hết sức. Chúa Giêsu đã hứa là không để chúng ta mồ côi, Ngài sẽ cùng chúng ta nhờ Thánh Thần của Ngài:  Ngài ở giữa anh em và ở trong anh em. Hãy lặp đi lặp lại những lời đầy an ủi này, chúng ta sẽ thấy ấm lòng hơn. Chúng ta sẽ không đơn độc giữa thế giới đầy hận thù và gian ác này. Chúng ta sẽ không thất vọng khi mọi sự quanh ta trở thành chướng ngại, và cuộc sống trở nên gánh nặng. Chúng ta sẽ can đảm rao giảng Tin Mừng Chúa bằng cả cuộc sống cam go này.

Nhờ Thánh Thần Tình Yêu, chúng ta sẽ trở nên tình yêu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Phải can đảm phi thường mới có thể yêu thương như Thầy. Nhưng có thể được vì chúng ta có Chúa Thánh Thần trong ta. Chính Ngài thúc đẩy mọi việc lành, mọi cố gắng của chúng ta.

Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự ở trong: “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em. Thánh Thần ở giữa và ở trong anh em”. Đó mới là biểu hiện của tình yêu. Chúng ta được ẩn náu trong Chúa, và như thế chúng ta được sống trong Chúa và chính Chúa chọn tâm hồn chúng ta làm nơi cư ngụ của Ngài. Ngài không cần tỏ hiện, Ngài dùng chúng ta để tỏ hiện tình yêu của Ngài cho mọi người. Chúng ta phải sống thế nào? Phải yêu thương nhau. Đó là ước muốn cuối cùng của Chúa Giêsu. Chúng ta là con Chúa, chúng ta chỉ sống bằng tình yêu thôi. Chúng ta không thể làm gì khác. Chúng ta là hình ảnh của Chúa, vì Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng một phương tiện lạ lùng để sống trong chúng ta một cách cụ thể. Ngài tự hiến cho chúng ta bằng cách trở nên một tấm bánh và bảo chúng ta cầm lấy mà ăn. Như thế, Ngài thực hiện ý định tình yêu của Ngài bằng một hình thức cụ thể nhất và chúng ta sẽ không thể nào tránh né tình yêu Ngài. Phải là một với Ngài, hôm nay và mãi mãi.

------------------------------------

 

PS 6-A114: Khát khao gặp Chúa - Ioseph, Svd

 

Tự bản chất, con người luôn hướng lòng về Thiên Chúa và kiếm tìm Ngài. Vì Ngài là chính chân lý PS 6-A114


Tự bản chất, con người luôn hướng lòng về Thiên Chúa và kiếm tìm Ngài. Vì Ngài là chính chân lý và hạnh phúc viên mãn mà con người hằng khao khát. Vì chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những khoảng trống khao khát trong lòng con người. Lời Chúa hôm nay như gợi mở, giải đáp cho những khúc mắc thường gặp, cho những ưu tư và trăn trở khắc khoải trong hành chính tìm Chúa của chúng ta.

“Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Đã biết bao lần chúng ta khát mong gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, biết bao lần chúng ta kêu xin Chúa đến với chúng ta, cho chúng ta được gặp gỡ Ngài một cách thực sự và thâm sâu, nhưng chúng ta vẫn chưa gặp được Chúa, chưa nghe được tiếng Chúa, chưa nhận ra ý Chúa… Có thể nói hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra lời giải cho nỗi ưu tư của chúng ta. Đó cũng là chìa khóa để chúng ta mở ra cánh cửa cho Chúa đến, kiến tạo cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cách thực sự thâm sâu. Đó là “yêu mến”. “Nếu ai yêu mến Thầy,… Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Chúa sẽ tỏ mình, sẽ mạc khải về Ngài cho chúng ta, sẽ thực sự gặp gỡ chúng ta khi và chỉ khi chúng ta biết mến yêu Chúa chân thành, tha thiết, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Mến yêu Chúa cách thực sự và trọn vẹn. Đó là điều kiện để gặp được Chúa, để những mong mỏi của ta được thành tựu. Vậy tôi phải yêu mến Thầy Giêsu như thế nào cho được…?

“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.” Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách yêu mến Chúa rất thiết thực: giữ lời Thầy. Giữ lời Thầy hay nói khác đi là sống lời Thầy dạy, là thực hành Lời Chúa, để cho Lời Chúa triển nở sống động trong cuộc đời chúng ta, nên hơi thở của ta, nên máu thịt của ta… Đó là khi Lời Chúa đã thực sự được “cưu mang”, được nhập thể trong ta. Như thế, từng lời nói, cử chỉ, hành động, suy nghĩ của ta đều mang dáng dấp của Chúa và chính bản thân ta phản chiếu bóng hình Chúa. Vì tất cả được thấm nhuần giáo huấn của Chúa và đời ta thực sự có Chúa hiện diện. Khi người anh em của ta nhận ra Chúa nơi con người chúng ta, thì cũng khi ấy, chúng ta gặp gỡ được Chúa, thấy được Chúa hiện diện cách tỏ tường trong chính đời sống của mình, trong chính bản thân mình. Hơn thế nữa, khi giữ Lời Chúa dạy, Chúa ở lại trong ta và ta ở trong Chúa. Chúng ta được bước vào sự hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì Chúa sẽ ban Đấng Bảo Trợ đến trong ta. Vì Chúa Cha ở trong thầy và Thầy ở trong Chúa Cha. Đó là cuộc gặp gỡ đích thực, thiêng liêng và cao quý. Khi chúng ta sống được như thế, Thiên Chúa đã tỏ mình và hiện hữu cách sống động và cụ thể trong cuộc đời chúng ta. Quay trở lại những vấn đề chúng ta đặt ra ở trên, chúng ta đã có thể trả lời cho câu hỏi: tại sao chúng ta khát khao, mong ước gặp gỡ Chúa mà chưa gặp được?

Lời Chúa hôm nay vang lên vừa nhắc nhở, vừa tạo cho chúng ta cơ hội nhìn lại mối tương quan của mình đối với Chúa, nhìn lại đời sống thiêng liêng của mình. Chúng ta muốn gặp gỡ Chúa, chúng ta đã yêu Chúa hay chưa? Chúng ta yêu Chúa, chúng ta có giữ lời Chúa hay không? Chúng ta theo đạo, nhưng chúng ta có giữ đạo hay không, có thực sự sống đạo hay không?...

Xin Chúa soi sáng và ban Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ mà Ngài đã hứa cho chúng ta, để Ngài giúp chúng ta nhận ra mình đang ở đâu trong đời sống đức tin, ở đâu trong hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Chúa, ở đâu trong cuộc lữ hành tiến về Nhà Cha, nơi có Chúa ngự trị và nơi chúng ta được ngắm nhìn vinh quang Thiên Chúa chẳng khi ngưng.

“Hãy ở lại trong Thầy.” Chúa vẫn hằng mời gọi chúng ta đến với Ngài và gặp gỡ Ngài. Hãy kiên trì cầu nguyện và hết lòng kiếm tìm Chúa trong sự yêu mến chân thành là sống Lời Chúa dạy. Chúa sẽ đến và ở lại trong ta. Chúa sẽ gặp gỡ ta và ở với chúng ta luôn mãi. Ngài sẽ không để chúng ta phải thất vọng bao giờ.

------------------------------------

 

PS 6-A115: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 6 PS A


Thiếu nhi chúng con yêu quí,

 

Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng trong đó có những lời Chúa Giêsu nói thật khó hiểu. Chúa PS 6-A115


Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng trong đó có những lời Chúa Giêsu nói thật khó hiểu. Chúa nói làm sao?

- Chúa bảo với các môn đệ: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy.” (Ga14,19)

- Chúa có ý nói gì khi Chúa bảo như thế?

- Thưa Chúa muốn cho các môn đệ của Chúa biết ngày Chúa về với Chúa Cha sắp xảy ra rồi. Lúc đó thì chẳng ai có thế thấy Chúa nữa.

Nhưng Chúa lại nói tiếp:

- Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống.

Khó hiểu không chúng con? Người ta thì không được thấy, còn các môn đệ thì lại được thấy. Và Chúa giải thích lý do: Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.(Ga 14,20-21)

Chúng con có hiểu Lời Chúa vừa giải thích không?

Khó quá phải không chúng con? Đúng là khó thật. Bây giờ đến lượt cha, cha giải thích là để chúng con hiểu.

Chúng con biết, sau khi Chúa về trời rồi thì không còn ai được thấy Chúa như người ta vẫn thấy nữa. Nhưng như Chúa nói Chúa vẫn ở với loài người: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.(Mt 28,20)

 Chúa vẫn ở với loài người nhưng làm sao để thấy được Chúa đây?

Thì đây là cách thức chính Chúa chỉ: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”(Ga 14,20-21)

Vâng...bằng cách sống Lời của Chúa, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta. Chính Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta được thấy.

Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Câu chuyện do nhà văn hào Lev Tolstoy, tác giả của bộ sách nổi tiếng “Chiến tranh và hòa bình” kể, một câu chuyện rất cảm động về một ông già nhà quê mà ông quen biết. Tên ông ấy là Martin Avdiéitch. Bác Martin làm nghề đóng giày trong làng. Cả làng ai cũng quí mến Bác. Bác sống một cuộc đời rất hạnh phúc bên vợ con. Nhưng thật là không may cho Bác. Ngoại trừ đứa con trai nhỏ, còn tất cả vợ con bác đã bị chết trong một tai nạn bất ngờ. Chúng ta có thể thấy được nỗi đau khổ của bác to lớn như thế nào. Tuy đau xót nhưng cũng may là còn một đứa sống sót an ủi bác. Thế nhưng như người đời thường nói: “Họa vô đơn chí”. Đứa con trai duy nhất của bác sau đó lâm bệnh và cuối cùng đã vội bước vào thế giới bên kia.

Bác Martin thất vọng...tuyệt vọng về cuộc sống. Bác trách Thiên Chúa. Bác muốn kết thúc cuộc đời của mình cho rồi. Những nỗi bất hạnh đổ xuống trên đầu của bác sao mà kinh khủng quá. Bác không muốn sống nữa.

Nhưng rất may là vào ngày lễ Chúa Thánh Thần năm đó, một người bạn thân trên đường đi hành hương ghé qua thăm bác. Bác đem câu chuyện đau buồn của gia đình ra kể. Sau khi nghe xong người bạn đã nói với bác:

- Chúng ta không có quyền xét đoán Thiên Chúa về những gì Ngài làm. Việc đó vượt quá trí khôn của con người chúng ta. Ngài đã định cho vợ con anh chết. Còn anh thì anh phải sống và như thế thì tốt hơn. Sở dĩ anh thất vọng và muốn chết như thế là bởi vì anh chỉ muốn sống cho bản thân của anh, cho hạnh phúc riêng tư của anh thôi!

- Vậy thì tại sao người ta phải sống?

+ Chính cho Thiên Chúa mà người ta phải sống. Khi anh bắt đầu sống cho Ngài, anh sẽ không còn buồn phiền và anh sẽ có sức mạnh để vượt qua tất cả một cách dễ dàng.

Martin im lặng một lúc rồi hỏi:

- Làm thế nào để sống cho Thiên Chúa?

+ À thì chính Chúa đã chỉ - Anh biết đọc chứ? Anh hãy mua một cuốn Thánh Kinh và hãy đọc ở trong đó, anh sẽ biết cách phải sống cho Thiên Chúa như thế nào. Ở đó anh sẽ tìm thấy câu trả lời cho tất cả những gì anh hỏi tôi.

Không đợi lâu, Bác đi mua ngay một cuốn Kinh Thánh Tân Ước và mỗi ngày bác đọc. Càng đọc, bác càng cảm thấy thấm thía. Bác đọc đi đọc lại những lời Chúa nói ở trong Tin Mừng.

Một buổi tối kia sau khi đọc xong, bác miên man suy nghĩ về những gì mình mới đọc. Suy nghĩ được một lúc thì tự nhiên bác cảm thấy thiu thiu muốn chợp mắt đi. Vừa thiu thiu muốn chợp mắt đi như thế thì tự nhiên bác nghe thấy như có ai gọi mình:

- Martin!

Bác giật mình đứng dậy hỏi thật lớn:

- Ai đó?

Nhìn ra ngoài bác chẳng thấy ai. Rồi bác lại tiếp tục suy nghĩ trong tình trạng như vừa ngủ vừa thức. Đột nhiên bác lại nghe thấy có tiếng bảo:

- Martin ơi! Ngày mai hãy nhìn ra đường. Ta sẽ đến thăm ngươi.

Sáng hôm sau bác dậy sớm hơn mọi ngày. Bác chuẩn bị nhà cửa gọn gàng khang trang hơn rồi vừa làm việc vừa ngó ra đường qua tấm cửa kính đã được chùi sạch.

Mãi mà không thấy ai gõ cửa, mặc dầu có rất nhiều người qua đường.

Đến khoảng 9 giờ thì bác thấy một người bạn cũ. Đó là bác Nicolai. Bác khá già. Không vợ con. Bác phải làm nghề dọn tuyết để tự nuôi sống mình. Thấy Bác mệt nhọc mà trời lại quá lạnh. Martin mời bác vào trong nhà. Chính tay Martin pha trà mời bác Nicôlai dùng. Cả hai sống với nhau những giờ phút thật ấm cúng và đầy tình thương.

Sau đó Bác từ giã rồi ra đi, còn Martin thì lại tiếp tục công việc nhưng đôi mắt không quên nhìn ra cửa.

Một người đàn bà còn trẻ, ăn mặc rách rưới ẵm con đi qua. Bác Martin nghe thấy tiếng đứa trẻ khóc và mẹ nó tìm cách dỗ nó nhưng không thành công. Bác vội vàng đứng dậy mở cửa lớn tiếng gọi:

- Bà kia! Tại sao ẵm con ở ngoài trời lạnh thế? Vào đây..Hãy lại ngồi gần lò sưởi và cho con bú.

- Thưa bác cháu không còn sữa vì từ chiều hôm qua đến giờ cháu không có gì ăn.

Bác Martin đi vào bếp, đem tất cả những gì bác có, đưa đến cho người đàn bà.

Chị kể cho bác nghe tất cả những sự vất vả mà chị phải chịu.

Sau khi đã chuẩn bị đủ đồ lạnh cho hai mẹ con. Bác tiễn hai mẹ con ra đi và không quên dúi vào tay người đàn bà một tờ giấy bạc 20 đồng để khi cần chị có thể dùng.

Chiều đến một bà già bán táo đi ngang qua. Lưng bà còn đeo theo một bó củi có lẽ bà đã kiếm được ở đâu đó. Tình cờ một thằng bé xuất hiện, lấm la lấm lét chộp lấy một quả táo và định tháo chạy nhưng không may cho nó, bà già đã nhanh tay hơn và nắm được nó. Hai người ở trong một thế phải đấu tranh.

Martin phải ra can thiệp. Cuối cùng thì ông xin bà già cho ông được trả tiền quả táo và ông trao quả táo cho thằng bé trước sự ngỡ ngàng của nó.
Trời đã tối nhưng ông cũng vẫn còn chờ.


- Bác Martin này, bác có nhận ra tôi không?

- Nhưng người là ai vậy?. Bác hỏi.

Một bóng người vụt qua mắt bác. Đó là bác Nicôlai, người dọn tuyết.

Và một tiếng khác: “và cũng chính là Ta đây”. Rồi từ góc nhà hiện ra khuôn mặt của bà mẹ và đứa con. Bà mẹ mỉm cười và đứa bé cũng mỉm cười. Rồi hình họ cũng biến mất. “Và cũng chính là ta”. Lại một tiếng nói nữa. Đó là bà già bán táo và thằng bé. Cả hai đều cười và rồi cũng biến đi.

Martin cảm thấy sung sướng. Ông làm dấu Thánh Giá, đeo kính vào và đọc tiếp đoạn Kinh Thánh ông đang đọc dở dang: “Ta đói, các người đã cho Ta ăn. Ta khát....”

Ở cuối trang ông dừng lại thật lâu ở những dòng chữ này: “Những gì các ngươi làm cho một một người bé nhỏ trong các anh em của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40).

Ông tự nghĩ trong lòng: Giấc mơ đã không đánh lừa ông. Và ông đã không lầm khi nghĩ rằng chính Chúa đã đến nhà ông và ông đã được đón tiếp Ngài. Amen.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

------------------------------------

 

PS 6-A116: Ở với, ở bên, ở trong


Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Lời Chúa: Ga 14, 15-21

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Ðó là Thần Khí sự thật, Ðấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người; còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”
Suy niệm:
 

Khi yêu nhau người ta thường muốn ở gần nhau, ở bên nhau, ở cùng nhau, ở với nhau. Được ở PS 6-A116


Khi yêu nhau người ta thường muốn ở gần nhau,
ở bên nhau, ở cùng nhau, ở với nhau.
Được ở với người mình yêu là một hạnh phúc lớn.
Thiên Chúa đã muốn ở với nhân loại nơi Đức Giêsu,
Ngài là Đấng là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Khi chia tay các môn đệ sau phục sinh, Đức Giêsu nói:
“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Thật ra Ngài còn muốn ở với họ sau tận thế nữa:
“Con muốn rằng Con ở đâu
thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với Con” (Ga 17,24).
Thầy Giêsu có một ước mơ của những người yêu nhau:
“Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó” (Ga 14,4; 12,26).
Vì yêu, Thầy Giêsu không hề muốn xa các học trò của mình.
Ngài muốn ở với họ trong nhà Cha mãi mãi.
Bài Tin Mừng Gioan còn nói đến giới từ “ở trong”.
Giới từ này nói lên tương quan mật thiết giữa Thầy và trò:
“Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (Ga 14,20).
Nó cũng được dùng để nói lên tương quan giữa Cha và Thầy:
“Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11; 17,21).
Bao giờ cũng cần hai chiều để thành một tương quan trọn vẹn.
Khi các môn đệ yêu thương nhau,
họ sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy (Ga 15,10).
Khi các môn đệ lãnh nhận bí tích Thánh Thể, họ được ở lại trong Thầy:
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi,
Và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56).
Khi Đức Giêsu về nhà Cha qua con đường thập giá,
Ngài hứa xin Cha ban cho các môn đệ Chúa Thánh Thần,
Đấng Bảo Trợ này sẽ ở với họ mãi mãi,
ở lại bên họ và sẽ ở trong họ (Ga 14,16-17).
Ở với, ở bên, ở trong vẫn là những giới từ quen thuộc
cho thấy sự gần gũi, thân thiết giữa Đấng Bảo Trợ với các môn đệ.
Họ có thể thấy Ngài, biết Ngài,
và đón nhận Ngài vào cuộc đời họ để được Ngài dẫn đi.
Sự trống vắng do Đức Giêsu để lại khi Ngài về với Cha nay được lấp đầy.
Các môn đệ không phải là những đứa trẻ mồ côi,
nhưng họ thấy mình đầy tràn sự hiện diện của một Đấng Bảo Trợ khác,
Khi ở trong Đấng Bảo Trợ này, họ thấy mình ở trong Thầy Giêsu.

***
Bài Tin Mừng hôm nay được đọc vào gần cuối mùa Phục sinh.

Những lời Đức Giêsu nói trước khi về với Cha đã được ứng nghiệm.

“Thầy đến với anh em… Anh em sẽ được thấy Thầy,
vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (Ga 14,18-19).
Đức Giêsu phục sinh đã đến với các môn đệ và họ đã thấy Ngài.
Ngài đã trao cho họ Thánh Thần là hơi thở sự sống thần linh.
Chúng ta mong mình có thể nói được như thánh Phaolô:
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi,
mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Ga 2,20).
Ước gì chúng ta là những người yêu mến Thầy, giữ lời Thầy,
nhờ đó được Cha và Thầy yêu mến (Ga 14,21).

Lời nguyện:

Lạy Chúa Kitô, xin ở với con.
Chúa Kitô ở trước con, Chúa Kitô ở sau con.
Chúa Kitô ở trong con, Chúa Kitô ở dưới con, Chúa Kitô ở trên con.

Chúa Ki tô ở bên phải con, Chúa Kitô ở bên trái con.
Chúa Kitô nơi con nằm, Chúa Kitô nơi con ngồi, Chúa Kitô nơi con đứng.

Chúa Kitô ở trong tim mọi người nghĩ về con,
Chúa Kitô ở trong mắt mọi người thấy con,
Chúa Kitô ở trong tai mọi người nghe con.

Ơn cứu độ thuộc về Chúa.
Ơn cứu độ thuộc về Chúa Kitô.
Lạy Chúa, xin ơn cứu độ của Chúa
ở mãi bên chúng con. (Thánh Patrick, 389-461)

------------------------------------

 

PS 6-A117: THẦY Ở TRONG CÁC CON

 

Có hai bạn trẻ chơi thân với nhau, một da đen ở miền quê nghèo nàn, một da trắng ở chốn đô PS 6-A117


Có hai bạn trẻ chơi thân với nhau, một da đen ở miền quê nghèo nàn, một da trắng ở chốn đô hội xa hoa. Một hôm anh da đen lên thành phố thăm bạn. Cả hai vừa đi dạo vừa trò chuyện dưới ánh nắng chiều, bỗng anh da trắng ngạc nhiên thấy bạn mình đứng khựng lại, không nói gì nữa và trông như đang cố lắng nghe một tiếng gì ở đàng xa.

-        Cái gì thế?

-        Có tiếng chim sâu ở gần đây!

-        Làm sao thành phố mà có chim sâu được, chỉ toàn là tiếng xe cộ ồn ào.

Đi thêm một quãng, anh da đen chỉ cho bạn thấy con chim sâu đang hót trong vườn cây một khu nhà cũ. Anh da trắng khen bạn:

-     Tai anh tốt quá!

-    Không đâu, tai tôi chẳng hơn gì tai anh nhưng vì tôi ở miền quê, quen với tiếng chim và thích nghe chim hót mà thôi.

Nói đoạn anh lấy mấy đồng bạc cắc thảy xuống đường. Lập tức có mấy người đi trước quay lại, tưởng có ai đánh rơi tiền. Anh da đen nói:

-    Thính tai nhỉ! Thế mà tiếng chim hót lại chẳng mấy ai nghe thấy!

Người ta không chỉ đánh mất một nét đẹp của cuộc sống, mà mất cả cuộc sống khi không biết đến tình yêu. Với nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa là tình yêu đã đích thân đến sống giữa thế gian, để “ban cho họ một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng họ ... lấy khỏi mình họ trái tim chai đá và ban cho họ một trái tim bằng thịt” (Ed 11,19).

Thiên Chúa không yêu bằng một tình yêu trừu tượng, xa vời, mà là một tình yêu nhập thể trong một con người cụ thể, sống động và gần gũi với cuộc sống mỗi người.

Thế nhưng: "thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người” (Ga 14,17). Chính vì muốn chiều theo những dục vọng vị kỷ mà thế gian không nhận ra Thần Khí hướng dẫn và nâng đỡ Đức Kitô. Thế gian nhắm mắt lại trước tình yêu Thiên Chúa trong con người Giêsu, để chỉ còn thấy nơi Ngài một anh thợ mộc tầm thường, một kẻ phiến loạn không giữ ngày Sabát, lại còn thêm tội ăn uống với bọn thu thuế và tội lỗi, … đáng phải xử tử!

Vâng, điều cốt yếu của ơn cứu độ không phải ở phép rửa mà ở hoạt động của Thần Khí Đức Kitô. Khi gặp một nhóm các tín hữu đã chịu phép rửa ở Giêrusalem, Phêrô và Gioan thấy “Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần” (Cv 8,16-17).

Thánh Thần làm cho đức tin trở nên sống động, và biến mọi chi tiết đời sống thành câu trả lời cho niềm tin: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).

Tắt một lời, không có giấy chứng nhận nào cho niềm tin ngoài chính cuộc sống của người tin, và câu hỏi về ơn cứu độ được trả lời trong lời xác nhận về đức mến, về sự hiện diện của Thần Khí Đức Kitô: “còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa và ở trong anh em” (Ga 14,17).

Năm thánh 2000 ghi dấu một niềm vinh hạnh cho người Việt Nam khi ĐHY Nguyễn Văn Thuận được mời giảng phòng Mùa Chay cho giáo triều Rô-ma. Những bài giảng của ngài được in thành cuốn ‘Chứng nhân hy vọng’ được nhiều người yêu thích.

ĐHY đã có một bắt đầu gây ngạc nhiên: "Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, vì tôi yêu thích những khuyết điểm của Ngài".

Rồi ngài kể “các khuyết điểm của Chúa” mà ngài yêu thích, như Chúa không có trí nhớ tốt – quên hết tội người ta; làm toán kém - bỏ 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc; luận lý dở - tìm được một đồng bạc mà mở tiệc ăn mừng; có tính phiêu lưu - Chúa kêu gọi nhiều người theo Chúa đi loan báo Tin Mừng mà chẳng có gì bảo đảm cho cuộc sống của họ và của chính Chúa: "Con Người không có chỗ gối đầu" !!!

Sau khi kể ra các khuyết điểm của Chúa Giêsu, ĐHY đặt câu hỏi cho mọi người: “Nhưng chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giêsu có những khuyết điểm như thế?"

Để đi đến kết luận: "Vì Ngài là Tình Yêu (Cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý luận, không đo lường, không dựng lên những hàng rào, không tính toán, không nhớ đến những xúc phạm và không đặt điều kiện. Nói theo kiểu thời nay: tình yêu không cân, đo, đong, đếm”.

Kết luận của ĐHY thực là một tiếng chuông gióng lên nhắc tôi chớ để có sự tương phản giữa niềm tin và cuộc sống mình khi bỏ quên Thần Khí tình yêu của Đức Kitô, để Chúa ở trong tôi, món quà quí giá nhất Chúa để lại cho mọi người.

Chúa đã kết án thế gian là không thấy và cũng chẳng biết được Thần Khí tình yêu của Chúa; nhưng những người sống gần tôi, hay ở xa hơn thì có anh em lương dân, có thấy được Thần Khí tình yêu của Chúa ở nơi tôi và ở trong tôi không?

Lm. HK

-------------------------------

 

PS 6-A118: Hãy ở lại trong Thày


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Phụng vụ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: dù PS 6-A118


Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Phụng vụ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: dù Chúa Giêsu có về trời, thì Người vẫn ở với chúng ta như lời Người đã hứa với các môn đệ: “Này đây, Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến ngày tận thế”. Người tin vào Chúa sẽ được ở trong Người và Người ở trong lòng họ. Lời mời gọi: “hãy ở trong Thày”, vừa nêu bật vinh dự lớn lao của người tín hữu, vừa đem cho họ sự an ủi đỡ nâng, giữa biết bao bận rộn lo lắng của cuộc sống trần gian. Ở trong Chúa cũng là một điều kiện thiết yếu để trở nên môn đệ đích thực của Người.

“Nếu các con yêu mến Thày, thì hãy giữ lời Thày”. Tuân giữ lời Thày là bằng chứng của tình yêu đối với Chúa. Ai tuân giữ lời Thày sẽ được Thày hiện diện trong tâm hồn người đó. Và, cùng với sự hiện diện của Chúa Giêsu, người tín hữu còn được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần ngự trị. Như thế, ngay khi còn sống ở trần gian, họ đã được nếm hưởng hạnh phúc thiên đàng. Bởi lẽ hạnh phúc thiên đàng là gì nếu không phải là được sống trong tình yêu viên mãn của Ba Ngôi Thiên Chúa?

Những ai ở lại trong Chúa sẽ làm được những điều kỳ diệu, nhờ quyền năng và ân sủng Người thông ban. Chúa nhật thứ sáu của mùa Phục sinh nhấn mạnh tới sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Thông thường, khi nói đến cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, chúng ta hay dừng lại ở việc diễn tả một cộng đoàn liên đới, chuyên tâm cầu nguyện và siêng năng tham dự lễ bẻ Bánh. Điều này không sai. Tuy vậy, cũng phải nhấn mạnh tới khía cạnh “động” của cộng đoàn này, tức là khía cạnh truyền giáo. Tác giả sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là một cộng đoàn hăng say truyền giáo. Sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ vẫn tin rằng Người hiện diện với họ. Nhờ sự hăng say nhiệt huyết của các tông đồ, và số tín hữu tăng thêm nhanh chóng. Bài đọc thứ nhất trong Phụng vụ hôm nay kể lại nỗ lực truyền giáo của một trong số mười hai tông đồ, đó là Philippê. Ông rời Giêrusalem để đến miền Samaria là miền đất dân ngoại. Ông rao giảng Đức Kitô và làm được nhiều phép lạ. Sự hiện diện của Chúa thể hiện qua quyền năng Chúa ban cho các tông đồ, nhờ đó các ông có thể trừ quỷ và các chứng bệnh, y như Chúa Giêsu đã làm trước đó. Việc có nhiều người trở lại là niềm vui chung của các tông đồ, vì vậy ông Gioan và ông Phêrô được cử tới Samaria để chia sẻ niềm vui và đặt tay trên các tín hữu để ban Thánh Thần. Những kết quả truyền giáo đã đạt được chứng minh Chúa Thánh Thần cùng hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, như lời hứa của Chúa Giêsu: “Thày sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”. Chính sự hiện diện của Chúa Giêsu, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã làm nên những kết quả kỳ diệu của sứ vụ truyền giáo.

Ngày hôm nay, những thành quả mà Giáo Hội đạt được khi thi hành sứ vụ Chúa Giêsu trao phó, cũng là nhờ sự hiện diện của Người và nhờ tác động của Đấng Phù trợ, tức là Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội, làm cho những hoạt động ấy sinh hoa kết trái. Ngài là hơi thở và là linh hồn của Giáo Hội, nhờ Ngài mà Giáo Hội sinh động, tươi trẻ và vươn lên không ngừng.

Mùa Phục sinh cùng với bầu khí lễ hội tưng bừng đang dần khép lại. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta, sự hiện diện của Chúa Phục sinh và lòng nhiệt thành loan báo Lời Chúa không dừng lại khi mùa Phục sinh chấm dứt, nhưng mở ra một giai đoạn mới mà ta gọi là “kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần”. Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống cho trần gian. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn mang diện mạo tươi trẻ và phù hợp với mọi môi trường xã hội, góp phần thánh hóa trần gian.

Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, mỗi tín hữu hãy “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình”. Thánh Phêrô khích lệ chúng ta, đồng thời khuyên bảo chúng ta hãy tôn trọng và đối xử hiền hòa với những người đang đi tìm Chân Lý. Sống theo lương tâm trung thực ngay thẳng, hiền hòa nhân ái với mọi người, đó là chứng từ hùng hồn nhất về Đấng Phục sinh. Chứng từ này làm cho những ai đang thành kiến với Giáo Hội cũng cảm thấy được thuyết phục.

“Hãy ở lại trong Thày!” lời mời gọi ấy vang lên mỗi giây mỗi phút trong đời sống chúng ta. Ở trong Chúa, chắc chắc chúng ta sẽ được Ngài che chở đỡ nâng, nhất là khi gặp những gian nan trắc trở trong cuộc đời. Xin Chúa cho mỗi người cảm nhận được sự ngọt ngào khi ở trong Chúa và được Người hiện diện trong tâm hồn.

----------------------------------

 

PS 6-A119: Đấng khơi nguồn hy vọng


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)

 

Lời Chúa hôm nay làm chúng ta tràn trề hy vọng. Chính vì tin vào Thiên Chúa, mà niềm hy vọng PS 6-A119


Lời Chúa hôm nay làm chúng ta tràn trề hy vọng. Chính vì tin vào Thiên Chúa, mà niềm hy vọng bùng lên.

Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy (Ga.14, 15)

"Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối" (1Ga.4, 20). Tình yêu được cụ thể hoá bằng việc làm! "Tình yêu hệ tại việc làm hơn lời nói" (LT.230). Vi phạm giới răn, đó là dấu chỉ cho thấy không yêu Thiên Chúa!
Có người nói yêu thương, nhưng thực sự họ không yêu thương! Họ chỉ lợi dụng, họ tìm lợi cho họ. Thời gian giúp con người biết sự thật: mình có được yêu thương hay không!

Yêu thương ai, là muốn điều tốt lành cho người đó, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ an ủi họ, là trân trọng và tôn trọng tự do của họ, là muốn họ được triển nở và hạnh phúc hơn.

Có nhiều lúc trong đời, ta muốn người nào đó bị tai họa! Ta nguyền rủa họ, muốn khai trừ họ, không muốn nhìn thấy mặt họ! Cũng có những lúc, ta muốn làm hòa, muốn tha thứ, muốn đi bước trước để đến với người mình không ưa, nhưng ta lại không thể! Chúng ta không vượt qua được mình, chúng ta bị "cái tôi" chi phối! Thánh Phaolô cũng cảm nghiệm điều này: "Điều thiện tôi muốn tôi không làm, còn điều dữ tôi không muốn tôi lại làm" (Rm.7, 19), và ngài đã phải kêu lên: "Ai cứu tôi khỏi tình trạng khốn nạn này bây giờ?" (Rm.7, 24).

Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi

Đức Yêsu nài xin Chúa Cha ban Đấng Bầu Chữa khác cho chúng ta (Ga.14, 16). Đây phải là điều rất quan trọng nên Đức Yêsu mới nài xin!

Thánh Thần là ai? Ngài là Đấng thế gian không thấy nên không biết! Còn chúng ta biết Ngài, vì chúng ta tin vào Đức Yêsu.

Đức Yêsu đã mặc khải Thánh Thần cho chúng ta (Ga.14, 16.26; 15, 26-27; 16, 12-14; 20, 22). Chính vì tin vào Đức Yêsu, nên chúng ta biết Thánh Thần dù chúng ta không thấy Ngài.

Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Ngài ở với từng người, để giúp mỗi người cầu nguyện (Rm.8, 26), để chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha (Rm.8, 15-16), để làm chúng ta sống đời sống mới (Rm.8, 11).

Thánh Thần biến đổi các tông đồ, từ một người ít học nhát đảm thành người dám đứng ra rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho nhiều người. Thánh Thần là Đấng giúp chúng ta biết

Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng,

và Thiên Chúa quyền năng sẽ biến đổi con người, làm chúng ta thành người mới, thành người trung tín như Thiên Chúa nếu chúng ta vâng phục Thánh Thần.

Thánh Thần tha thứ tội cho chúng ta, giúp chúng ta đến với người khác, giúp chúng ta làm những điều đẹp ý Thiên Chúa, giúp chúng ta vượt qua chính mình, làm chúng ta nên thánh.

Giữ giới răn, đó là dấu chỉ được Thiên Chúa yêu mến

Ai giữ giới răn của Chúa, đó là người yêu mến Chúa. Những người này được Chúa Cha yêu thương, được Chúa Yêsu yêu mến và tỏ mình cho họ (Ga.14, 21).

Điều làm chúng ta an tâm, đó là:
Thiên Chúa đang ở với chúng ta,
Thiên Chúa đang ở trong chúng ta,
và chúng ta đang ở trong Thiên Chúa.

"Nơi nào có hai hay ba người họp nhau vì danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ" (Mt.18, 20).

"Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em" (Ga.14, 20).

-----------------------------------

 

PS 6-A120: Nếu yêu mến Thầy


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Chúng ta đang suy niệm một đoạn của diễn từ trong buổi Tiệc Ly. Tâm sự của Chúa Giêsu chảy PS 6-A120


Chúng ta đang suy niệm một đoạn của diễn từ trong buổi Tiệc Ly. Tâm sự của Chúa Giêsu chảy ngọt những lời yêu thương sâu đậm, những lời trối trăn ân tình: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Yêu mến Thầy không chỉ là nói mà làm. Tình yêu đích thực là làm những gì người mình yêu mong muốn. Những lời nói yêu thương ngọt ngào thế nào chăng nữa mà chẳng đi đôi với việc làm thì chỉ là sáo ngữ, không thuyết phục. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, Ngài đã chứng tỏ tình yêu của Ngài bằng cả cuộc sống. Ngài đã làm mọi sự vì chúng ta mà thôi. Ngài đã yêu Chúa Cha bằng cách vâng phục Chúa Cha một cách trọn hảo. Ngài muốn chúng ta yêu Ngài như Ngài đã yêu Chúa Cha. Ngài không cần những tiếng nói dù ngọt ngào đến đâu. Ngài chỉ muốn chúng ta chứng tỏ tình yêu bằng hành động, bằng thực tế. Chính Ngài đã nói: “Không phải những kẻ nói “lạy Chúa, lạy Chúa” mà vào được Nước Trời, mà những kẻ thi hành ý của Cha Ta trên trời mới vào được”.

Chúng ta đã yêu mến Ngài như thế nào? Hay chúng ta giống như dân Do Thái xưa bị Chúa luôn quở trách là dân cứng cổ, như con ngựa bất kham, như người đàn bà không trung tín, chỉ thờ Chúa bằng môi bằng miệng mà lòng vẫn cách xa? Nói thì nói đạo đức mà lòng thì nham hiểm ác độc, ganh tị, kiêu căng? Chúa đang mỏi mắt tìm kiếm những người tôn thờ Chúa trong Thánh Thần và sự thật, những người yêu mến Chúa hết lòng hết sức… Được mấy người?

Ai yêu mến Chúa thật tình thì Chúa hứa sẽ ban cho họ một Đấng Bảo Trợ khác, ở với anh em luôn mãi.

Đấng Bảo Trợ là Đấng an ủi, bênh vực nâng đỡ chúng ta. Ngài được Chúa Giêsu gọi là Thần Khí sự thật, Ngài ở giữa anh em và ở trong anh em. Đối với các tông đồ đây chỉ là lời hứa, nhưng ngày lễ Ngũ Tuần, lời hứa này đã được thực hiện một cách sung mãn. Đối với chúng ta, lời hứa đó cũng được thực hiện. Chúng ta đang ở trong Thánh Thần. Giáo hội đang sống trong Thánh Thần. Ngài âm thầm hoạt động mặc dù chúng ta không thể thấy rõ những hoạt động của Ngài. Hai mươi thế kỷ, Thánh Thần Chúa vẫn bảo vệ Giáo hội và ngay hôm nay, trong một thế giới đầy hỗn loạn và không tin, Giáo hội vẫn luôn là ngọn đèn cho mọi người, cho thế giới.

Chúng ta không quen lắm với Thánh thần, nhưng Ngài vẫn ở trong chúng ta, soi sáng tâm trí chúng ta và giúp chúng ta tiến sâu vào tình yêu.

Thánh Phaolô luôn nói đến Thánh Thần gần như trong tất cả các thư của ngài. “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự tronglòng anh em mà kêu lên: “Abba, Cha ơi!” “Anh em không biết rằng anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?” Thánh Thần đó dạy chúng ta cầu nguyện, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải”… Thế gian không biết Người, nhưng anh em biết Người vì Người ở giữa anh em  và ở trong anh em. Chúng ta không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn ở với chúng ta.

Nếu tìm lại trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Ngài gần như luôn có mặt và hoạt động. Ngài hoạt động ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Ngài bay là trên mặt nước trong cảnh hỗn man ban đầu. Ngài làm cho thế giới thành hình với muôn tạo vật trong trật tự. Ngài nói qua miệng của các ngôn sứ, những con người dốt nát hèn yếu như chúng ta, soi sáng cho họ biết nói gì để đánh thức dân cứng đầu cứng cổ là dân Do Thái, dạy họ tuân giữ Giao Ước mà Chúa đã thương ban cho họ. Những lời kinh trong Thánh vịnh phải chăng là những lời được Thánh Thần soi sáng để trở thành lời nguyện cầu của dân Chúa, hôm qua cũng như hôm nay.

Tuyệt tác của Thánh Thần là việc nhập thể của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong công việc này như là tác giả, Đấng sáng tạo. Ngài đã đến trên Maria, một cô gái quê tầm thường, đã làm cho nàng trở thành Mẹ Thiên Chúa. Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên Bà… Ngài đã đến soi sáng cho nàng hiểu công trình của Chúa để nàng cộng tác với tất cả lòng biết ơn. Xin Chúa cứ thực hiện nơi tôi những gì Ngài muốn. Nàng đã đáp lại tiếng gọi của Chúa để mang đến cho chúng ta Ngôi Lời. Nàng đã cưu mang, sinh ra Ngôi Lời của Thiên Chúa. Tất cả đều do Thánh Thần.

Nơi Chúa Giêsu, chúng ta càng thấy rõ hơn hoạt động của Chúa Thánh Thần. Gần như Chúa Giêsu luôn luôn hoạt động cùng với Thánh Thần trong mọi hoàn cảnh. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Ngay khi còn trong lòng mẹ, Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho bà Êlisabet nhìn nhận Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, và Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng mẹ.

Chúng ta thấy rõ nét nhất mối liên hệ của Chúa Thánh Thần với Chúa Giêsu lúc Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan: Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Khi Ngài vào Hội đường Nadaret và đọc lời tiên tri Isaia: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi… và sau đó Ngài tuyên bố một cách rõ rệt: “Hôm nay ứng nghiệm lời anh em vừa nghe đọc”. Chúng ta không thể kể hết những hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Chúa Giêsu, nhưng chúng ta có thể thấy được sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Thánh Thần và Chúa Giêsu.

Nếu chúng ta đọc lại sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta càng thấy rõ vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội sơ khai. Gần như Thánh Thần điều khiển tất cả, hướng dẫn tất cả mọi hoạt động của Giáo hội. Sách Tông Đồ Công vụ được xem như Tin Mừng của Chúa Thánh Thần. Và cho đến hôm nay, Giáo hội luôn được Thánh Thần Chúa yểm trợ trong hành trình về quê trời.

Nhìn sơ lược những hoạt động của Chúa Thánh Thần để thấy rằng, Ngài vẫn yểm trợ chúng ta. Ngài thay thế Chúa Giêsu và tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu cho đến tận thế. Chúa nói: “Thầy không để anh em mồ côi” là như thế. Chúa Thánh Thần sẽ ở với chúng ta thay cho Ngài để giúp chúng ta giữ các điều răn của Ngài. Thánh Phaolô đã nói: “Ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, người ấy không thuộc về Chúa Kitô”. Chúng ta thấy tại sao Chúa Giêsu, trong giờ phút từ biệt các môn đệ để đi vào cuộc khổ nạn, Ngài đã nói đến Chúa Thánh Thần như Đấng sẽ thay thế Ngài chăm sóc đoàn chiên nhỏ bé của Ngài.

Chúng ta cần đến Chúa Thánh Thần vì không có Ngài, chúng ta chỉ là những con người yếu đuối, không thể nào  giữ các điều răn của Chúa, không thể trở nên con Chúa Cha. Hãy sống trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần và như thánh Phaolô căn dặn: đừng dập tắt Thánh Thần, nhưng luôn sống trong Ngài, nghe theo những thúc đẩy của Ngài, chúng ta mới thực sự là đền thờ của Chúa Ba Ngôi như Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình cho Người ấy”.

Chúa Giêsu vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, nhưng hơn thế nữa Ngài còn ở với chúng ta nhờ Thánh Thể. Chúng ta luôn được nuôi dưỡng bằng của ăn hằng sống này. Của ăn này từ Thánh Thần mà đến vì chính Thánh Thần biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa chứ không do linh mục. Sống trong Chúa nhờ Thánh Thể như Chúa đã nói: “Thầy sống thì anh em cũng được sống”. Chỉ khi nào chúng ta kết hiệp mật thiết với Ngài, chúng ta mới đủ can đảm trung thành.

---------------------------------

 

PS 6-A121: Thể hiện lòng yêu mến


(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

 

Chàng trai bày tỏ tình yêu đối với cô bạn gái bằng cách tặng cho nàng một bó hoa hồng tươi thắm PS 6-A121


Chàng trai bày tỏ tình yêu đối với cô bạn gái bằng cách tặng cho nàng một bó hoa hồng tươi thắm; Cha mẹ thể hiện tình yêu đối với con cái bằng cách miệt mài chăm sóc nuôi dưỡng ngày đêm; Thầy cô thể hiện tình yêu đối với học trò bằng ân cần khuyên răn, dạy dỗ…
Còn Chúa Giê-su, Ngài thể hiện tình yêu đối với Chúa Cha bằng cách nào?
Thưa, bằng sự vâng phục tuyệt đối: Ngài vâng theo ý Chúa Cha cho dù phải hiến thân chết thay cho muôn người.

Trước khi nộp mình chịu khổ nạn, Chúa Giê-su cho các môn đệ biết sở dĩ Ngài để cho thủ lãnh thế gian này, là Sa-tan và bè lũ của nó, hành hình và tiêu diệt Ngài là vì Ngài yêu mến Chúa Cha nên đã làm như Chúa Cha truyền dạy.

Ngài nói: “Thủ lãnh thế gian này đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy” nhưng Thầy chấp nhận chịu khổ nạn dưới tay nó “để thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14, 30-31).

Thế là,

- Để thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha, Chúa Giê-su đã vâng lời Chúa Cha tuyệt đối, đến nỗi để cho người ta bắt bớ, vu cáo, phỉ nhổ, tát vào mặt... mà không hề chống đối;

- Để thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha, Chúa Giê-su vâng theo ý Chúa Cha, để cho người ta đánh đòn rách nát thịt da, để cho vòng gai nhọn cắm sâu vào đầu, rồi kê vai vác thập giá lên đồi Sọ, chịu đóng đinh vào thập giá và chấp nhận chết quằn quại đau thương tủi nhục để đền tội cho muôn người.

Chúa Giê-su đã vâng lời Chúa Cha đến mức phải chết thảm thương như thế cho thấy tình yêu của Ngài dành cho Chúa Cha là vô biên, vô hạn.

Chúa Giê-su yêu cầu chúng ta thể hiện lòng yêu mến bằng cách nào?

Chúa Giê-su thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha bằng cách vâng phục Chúa Cha cách tuyệt đối, thì nay, Ngài cũng yêu cầu những ai yêu mến Ngài cũng hãy vâng giữ huấn lệnh của Ngài như vậy.

Chúa Giê-su nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14,15) và một lát sau, Ngài nhấn mạnh: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14, 21).

Như vậy, nếu chúng ta không vâng giữ điều răn của Chúa Giê-su, là chúng ta không yêu mến Ngài.

Chúa Giê-su muốn chúng ta tuân giữ giới răn nào?

Giới răn số một, giới răn nền tảng và cũng là giới răn trọng nhất được Chúa Giê-su công bố như sau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gioan 13, 34).

Như thế, ai yêu mến Chúa thì phải thể hiện tình thương đó bằng việc yêu thương anh chị em chung quanh. Khi sống vô cảm với người chung quanh, khi thờ ơ trước những nỗi đau của người khác, khi không ra tay giúp đỡ kẻ khốn khổ bần cùng… là chúng ta quay lưng lại với Chúa, chẳng có chút tình thương nào dành cho Chúa.

Lạy Chúa Giê-su,

Thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng những lời ca khen chúc tụng, bằng những câu kinh lời nguyện thì dễ, nhưng thể hiện lòng mến Chúa bằng cách tuân giữ điều răn mới của Chúa là điều rất khó.

Tuy nhiên, nếu chúng con không thể hiện lòng mến Chúa bằng cách yêu thương tha nhân như Chúa đòi buộc thì chẳng được ích gì.

Xin mở rộng con tim vô cảm và đổ đầy tình thương Chúa vào lòng chúng con, để chúng con hết lòng yêu mến Chúa hiện diện nơi anh chị em chung quanh như Chúa đã truyền.

-----------------------------------------

 

PS 6-A122: Tình yêu đong đầy


 - Sống Lời hằng ngày

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

Kính thưa cộng đoàn!

 

Thông thường, chúng ta cất giữ những gì quý giá trong tâm tưởng sâu kín; nào là kỷ niệm khó quên PS 6-A122


Thông thường, chúng ta cất giữ những gì quý giá trong tâm tưởng sâu kín; nào là kỷ niệm khó quên, thời khắc thay đổi cuộc đời, con người bản thân, biết bao nhiêu lời dạy, câu nói, ….ảnh hưởng và khó phai mờ trong tâm trí của mỗi chúng ta.

Cũng như hai người nam nữ đang yêu nhau, hình bóng của nhau luôn hiện diện đâu đó trong cuộc sống, trong suy nghĩ, trong thời khắc hằng ngày của họ. Có lúc, họ chẳng cần gặp nhau, mà chỉ nói chuyện qua điện hoặc chỉ nhìn nhau qua cuộc gọi video không cần nói chi nhiều, mà họ vẫn thể hiện tình cảm cho người họ yêu, và chẳng thể nào quên nhau dù chỉ một giây!

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đọc lại một lần nữa diễn từ của Chúa Giê-su chia sẻ với các Tông đồ “nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy…” (x. Ga 14, 15). Vấn đề đặt ra là: chúng ta chắc hẳn yêu mến Chúa, nhưng sao không sống giới răn của Ngài? Phải chăng, giới răn của Chúa chưa phải điều quý giá mà khiến tôi phải ghi khắc trong tâm hồn, tâm tưởng? Hay tôi có thể không bao giờ quên những câu châm ngôn, những luận điểm hùng biện thú vị này nọ, nhưng Lời Chúa thì chúng ta chẳng thể nhớ? Và một khi không nhớ, một khi Lời Chúa chưa chạm tới con tim thì làm sao chúng ta thực thi trong cuộc sống thường nhật, nhất là trong những thời khắc cam go, khó khăn? Hoặc lòng yêu mến Chúa của chúng ta chưa lớn đủ để khiến chúng ta khắc ghi Lời của Ngài trong tâm tư và sống Lời ấy hằng ngày như việc chúng ta phải hấp thụ không khí, phải thâu nạp dinh dưỡng mỗi ngày?

Những gợi ý trên chỉ là một số điểm mà mỗi chúng ta nên hỏi lòng mình và đi tìm câu trả lời cho bản thân! Câu trả lời có thể chẳng đâu xa, mà có khi nó đang nằm trong vấn đề mà chúng ta đặt ra! Tuy nhiên, trong bài chia sẻ này, chúng ta nên làm sáng tỏ một số điểm: Chúng ta phải yêu mến Chúa thế nào thì mới khiến chúng ta tuân giữ giới răn của Ngài? Và động từ ‘giữ’ ở trong câu ‘…hãy giữ giới răn Thầy’ đối với chúng ta có nghĩa như thế nào?

Trước tiên, khi tình yêu thương của tôi dành cho ai đủ lớn thì chính tình yêu ấy khiến tôi làm mọi việc cho người ấy, và cũng chính tình yêu ấy tạo động lực cho tôi thay đổi tích cực vì người tôi yêu thương. Trong gia đình, lòng yêu thương bố mẹ dành cho con cái, tình thương của con cái dành cho bố mẹ lớn đủ thì bố mẹ sẵn sàng hy sinh cho con cái, và con cái cũng vậy làm hết mọi việc hầu chăm sóc, quan tâm bố mẹ. Trong tình bạn chân chính cũng sẽ diễn ra tương tự, và kể cả trong tình yêu đôi lứa giữa một người nam và một người nữ. Vậy, tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa thế nào? Dẫu tôi biết Ngài là Đấng hằng yêu thương tôi, ban cho tôi sự sống, đã hiến thân chết cho tôi, hằng chờ đợi tôi mọi lúc tôi lìa xa Ngài, thương xót tôi, tha thứ, cứu độ tôi…Nếu lòng mến của tôi đối với Chúa đủ mạnh, đủ lớn thì việc tôi dành thời gian cho Ngài, nhớ đến Ngài, dám làm tất cả vì Ngài, thay đổi bản thân, làm mọi việc đẹp lòng Ngài là điều dễ dàng xảy ra!

Tuy nhiên, nhìn vào thực tế thì chúng ta sẽ thấy mức độ yêu thương của mỗi chúng ta đối với Chúa thế nào. Điển hình trong thời đại 4.0 này, chúng ta dành quá nhiều thời giờ cho việc lướt web, và dành rất ít thời gian để nhìn lại ngày sống của bản thân, rất ít thời gian dành cho việc tâm sự, hàn thuyên với Chúa (mà chúng ta thường gọi là cầu nguyện)! Chúng ta dành quá nhiều giờ cho công việc, cho việc mưu sinh cơm áo gạo tiền (vật chất) mà lại quên đi bồi bổ cho đời sống thiêng liêng, cho linh hồn! Chúng ta dành nhiều thời giờ để tạo mối tương quan trong giao tế, trong kinh doanh, trong gia đình, mà quên đi dành thời gian tạo mối liên kết với Chúa trong thinh lặng, trong việc đọc - suy gẫm Kinh Thánh, trong việc cầu nguyện, trong việc tham dự Bàn tiệc Thánh trực tiếp hay trực tuyến (trong thời điểm đại dịch cô-vid)!

“Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy” (x. Ga 14, 15) và rõ ràng nếu chúng ta chỉ yêu mến Chúa bằng đôi mắt (= nhìn), bằng đôi môi (= nói) mà không bằng con tim (= ghi nhớ và hành động cụ thể) thì việc ‘giữ’ Lời Ngài khó có thể thành sự; mà nếu thành sự đi chăng nữa thì cũng ở mức độ là ‘cất giữ’ ‘cất giấu’ ‘giữ đạo’ thôi!

Và từ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thật sự ý nghĩa của động từ ‘giữ’ ở đây là gì? Nếu chúng ta nghĩ ‘giữ’ ở đây là cất giữ, giữ kín chuyện gì đó, hay vật gì đấy thì vô hình chung chúng ta cũng chỉ yêu mến Chúa bằng đôi mắt, bằng ngôn từ, và như thế chúng ta đang ‘giữ đạo’ chứ chưa ‘sống đạo’. Hơn thế nữa, nếu như vậy, chúng ta chỉ dừng lại việc thờ phượng Chúa trong nhà thờ, trong nhà nguyện; còn khi ra khỏi nhà thờ thì là một con người như bao nhiêu con người ngoài xã hội kia vẫn chưa tin nhận Chúa! “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy” (x. Ga 14, 15) nghĩa là nếu tình yêu của chúng ta đối với Chúa đủ lớn, đủ đong đầy thì chính lòng mến này khiến chúng ta thực thi tất cả những gì mà Chúa dạy qua Kinh Thánh, qua Thánh Truyền, và qua Giáo Hội. Một khi chúng ta dành nhiều sức lực, thời gian cho Chúa thì chính tình yêu Chúa biến đổi chúng ta trở nên những người yêu mến Ngài, yêu mến anh chị em xung quanh, và đây là động lực khiến chúng ta không ngừng ghi nhớ - khắc ghi - thực hành tất cả những gì Ngài đã dạy tóm lại trong giới răn yêu thương. Nói một cách đơn giản, một khi chúng ta yêu mến Chúa đủ nhiều, đủ lớn thì chúng ta sẽ làm hai việc song hành: cầu nguyện và làm việc bác ái.

Giờ đây, chúng ta cùng nhau dành ít phút thinh lặng chẳng phải để xin, mà để cảm tạ Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong mọi thời khắc cuộc đời:

Lạy Chúa, con đã từng nghe:
“Sau cơn mưa trời lại sáng
Bình minh ló rạng ngập tràn ánh dương”.
Giây phút này xin tựa nương
Kề bên lòng Chúa yêu thương chan hoà.
Đời con như một đoá hoa
Tình yêu đủ lớn mọi nhà ngát hương
Thanh tao trong cõi vô thường
Đơn sơ sống giữa nẻo đường trần gian
Thực thi bác ái toả lan
Truyền loan ơn Chúa bình an tâm hồn. Amen!

----------------------------------

 

PS 6-A123: Đạo nào cũng tốt?


(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)

 

Thỉnh thoảng chúng ta nghe người ta nói: “Đạo nào cũng tốt”. Thử hỏi: Có đúng là đạo nào cũng PS 6-A123


Thỉnh thoảng chúng ta nghe người ta nói: “Đạo nào cũng tốt”. Thử hỏi: Có đúng là đạo nào cũng tốt không?

Thực ra, chỉ trong một số trường hợp người nói câu này là để biện minh cho một hành vi, hay một quyết định của mình. Ví dụ, một anh chàng yêu cô gái Công giáo. Bên nhà nữ Công giáo đòi anh phải theo đạo mới cho kết hôn. Anh tuy không thích đạo Công Giáo nhưng vì muốn kết hôn nên đành phải theo đạo. Anh tự nhủ “Thôi thì, đạo nào cũng tốt, ta theo đạo có sao đâu”. Anh cũng thuyết phục cha mẹ anh: “Cho con theo đạo đi, vì đạo nào cũng tốt, cũng dạy ăn ngay ở lành”.

Sau khi học giáo lý và được Rửa tội anh chàng người lương đó có đức tin và sống đức tin hay không thì ta không biết. Nhưng rõ ràng là người nói “Đạo nào cũng tốt”, nhiều khi cũng là nói để biện minh cho một hành vi hay một quyết định của mình. Thực ra, mỗi người theo một đạo nào đó, đều cho rằng đạo mình là tốt nhất. Họ có thể nói rằng đạo khác cũng tốt, không xấu, nhưng đạo mình theo vẫn là tốt nhất.

Tôi cũng như vậy, chúng ta cũng vậy, vẫn tin rằng đạo Công Giáo là tốt nhất, vì không ai lại đi theo đạo tốt thứ nhì, thứ ba; vì chọn đạo là phải chọn đạo nào tốt nhất để mình sống cả đời.

Có nhiều lý do khiến chúng ta tin rằng đạo của mình là tốt nhất.

Riêng bài Tin Mừng hôm nay giúp tôi xác tín thêm rằng đạo Công Giáo là tốt nhất. Vì sao vậy?

Vì Lời Chúa dạy: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).

Lời dạy của Chúa Giêsu này cho thấy tình “yêu mến” là quan trọng, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).

Chữ “yêu mến” này cũng thường được nói trong các tôn giáo bằng những ngôn từ khác như: bác ái, từ bi hỷ xả, yêu thương, thương xót... Trong các tôn giáo nói chung, thường dạy về yêu mến tha nhân. Sự yêu mến này thể hiện qua việc ăn ngay ở lành. Yêu mến, ăn ngay ở lành đối với tha nhân, như với cha mẹ anh em, bạn hữu, hàng xóm láng giềng; giúp đở người nghèo đói, bệnh tật, người sa cơ thất thế...

Tuy nhiên Lời Chúa Giêsu ở đây không nói trực tiếp đến yêu mến tha nhân mà nói yêu mến Thiên Chúa.

“Ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).

Ngài nhấn mạnh đến mối liên hệ tình yêu giữa con người với Thiên Chúa. Ngài muốn mối liên hệ tình yêu này phải được thể hiện một cách mạnh mẽ. Và hạnh phúc mà ta gọi là “thiên đàng” của con người chính là được sống trong tình yêu với Thiên Chúa, được Thiên Chúa tỏ mình ra. Niềm hạnh phúc này có thể nói là niềm hạnh phúc tuyệt diệu, vô biên; một niềm hạnh phúc thần thánh, linh thiêng. Nó không đơn giản như kiểu nói phần thưởng thiên đàng cho kẻ ăn ngay ở lành, hay ngược lại, kẻ dữ bị phạt ở địa ngục, như kiểu nói hứa hẹn hay ngăm đe, vẫn thường nghe.

Đạo Công Giáo không nhấn mạnh đến sự “tôn thờ” Đấng Thần Linh Cao Cả, như thường thấy trong các tôn giáo khác, nhưng nhấn mạnh đến “yêu mến” Đấng Thần Linh Cao Cả. Ngay từ thời Cựu Ước Thiên Chúa đã truyền dạy trong sách Đệ Nhị Luật: “ Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5).

Thiên Chúa đòi chúng ta “yêu mến” Ngài “hết lòng hết dạ, hết sức”, chứ không đòi chúng ta “tôn thờ” Ngài hết lòng hết dạ, hết sức. Ngài không đòi chúng ta “tôn thờ” bằng những hành vi quỳ lạy, với những khấn vái: “Lạy Chúa, lạy Chúa” mà không có tình yêu mến Ngài.

Đến đây, ta có thể hỏi: “Vậy thì Đạo Công Giáo có vẻ duy Thiên?”. Câu hỏi có ý phê bình rằng Đạo Công Giáo chỉ đặt nặng lòng trí mình về Thiên Chúa, một vị Thần Cao cả xa xôi tận trời cao mà không lưu tâm đến con người, đến xã hội trần thế mà  mình đang sống. Đã có những phê bình như vậy, như nói rằng: “Người Kitô hữu sống cam chịu để được hưởng thiên đàng mai sau”.

Nói như vậy là chưa đi sâu vào giáo huấn của Kitô giáo. Ngay trong bài Tin Mừng hôm nay, chưa kể đến nhiều giáo huấn khác tương tự, sự “yêu mến” Thiên Chúa phải được thể hiện qua việc thực hiện các giới răn, như Chúa Giêsu dạy: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21).

Mà giữ các “Giới răn” của Thiên Chúa, cũng chính là giữ luật bác ái yêu thương. Nghĩa là, khi sống bác ái yêu thương tha nhân thì chính lúc ấy ta yên mến Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Như thế, tình yêu tha nhân chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.

Chính Đức Giêsu đã  “yêu mến” loài người chúng ta hết lòng hết dạ, hết sức đến nỗi đã chịu đóng đinh trên thập gía cho đến chết. Ngài đã chết vì yêu nhân loại tội lỗi và đồng thời cũng tỏ lộ tình yêu đối với Thiên Chúa Cha, là hết lòng hết dạ, hết sức.

Đạo nào cũng tốt, nhưng không có đạo nào lại thể hiện và giúp con người thể hiện được tình yêu hay cái tốt đến mức tuyệt hảo như đạo Công Giáo, vì tình yêu này được chứng thực nơi thập giá của Đức Kitô; vì không có đạo nào lại liên kết mật thiết giữa tình yêu giữa tình yêu đồng loại và tình yêu đối với Đấng Thần Linh Cao cả. Và, chính tình yêu này phát sinh ra hạnh phúc chân thật, vĩnh viễn muôn đời.

--------------------------------

 

PS 6-A124: Thần Khí Sự Sống


(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Tin mừng Ga 14:15-21 Tình yêu Thiên Chúa đang ra sức chiếu toả để kiến tạo một cộng đoàn yêu thương và công bằng, xoá bỏ bất công...

SUY NIỆM

 

Mỗi buổi sáng cầm tờ báo có lẽ người đọc nhận được nhiều nỗi muộn phiền hơn là niềm vui và PS 6-A124


Mỗi buổi sáng cầm tờ báo có lẽ người đọc nhận được nhiều nỗi muộn phiền hơn là niềm vui và hy vọng, bởi trang báo ngập tràn những tin tức về mối hiểm hoạ chiến tranh hạt nhân, tai nạn giao thông, cướp bóc, bất công, lừa lọc, ức hiếp, buôn lậu, tham nhũng, về các tệ nạn xã hội , nạn ấu dâm…. Có nghĩa là một xã hội in đậm hình ảnh của bóng tối, nơi đó vắng bóng ánh sáng được thắp lên bởi tình yêu Thiên Chúa, điều mà thế gian không thể đón nhận bởi thế gian không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô.

Qủa thật, khi tình yêu Thiên Chúa nhập thể đi vào đời, thì thế gian đã tìm cách tiêu diệt. Hêrôđê đã ra sức loại trừ khi ra “giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh” (Mt 2, 16); Và khi Tình yêu Thiên Chúa đang ra sức chiếu toả để kiến tạo một cộng đoàn yêu thương và công bằng, xoá bỏ bất công, đón nhận người bất hạnh, đem tin yêu đến cho những người nghèo khó, thì thế gian lại tỏ ra phẫn nộ cương quyết loại trừ,  các thượng tế và thủ lãnh của dân Do Thái không chấp nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, họ đã bắt nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (x. Lc 24, 20). Và khi loại trừ Tình yêu, thì đương nhiên hận thù xuất hiện, loại trừ Đấng ban sự sống, thì thế lực của sự chết sẽ hiện diện.

Càng ngày con người càng đối diện với bao nỗi sợ hãi giết chóc, đó là hậu quả của việc thế gian không đón nhận Đức Kitô, Lời yêu thương của Thiên Chúa. Lời đã đi vào trần gian bằng quyền năng sáng tạo của Thần Khí Thiên Chúa, chính Ngài là tác nhân của sự sống và an bìn,  bởi Ngài là nguồn mạch của Tình yêu Thiên Chúa. Vì thế gian khước từ Đức Kitô, nên thế gian cũng không thể nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa, và vì vậy thế gian không thể lãnh hội được sự sống mà Chúa Kitô mang đến.

Chúng ta, những Kitô hữu đã được Chúa trao ban sự sống qua Bí tích Rửa tội, cho nên chúng ta cũng đã nhận được Thần Khí của Ngài,  nhờ vậy chúng ta được dẫn đưa vào miền đất của sự sống và hạnh phúc. Thế nhưng, để được ở lại trong vùng đất này, từng người Kitô hữu được đòi hỏi phải thể hiện tình yêu đối với Chúa qua việc tuân giữ các giới răn của Người. Những giới răn đó không là ách nặng nề sơ cứng, nhưng đó là chất xúc tác làm cho những người thuộc về Chúa Kitô liên kết với nhau thành một Thân Thể sống động. Bởi giới răn Chúa không được viết bằng chữ nhưng bằng Thần Khí được tỏ lộ nơi Đức Giêsu Kitô. Do đó đã là Kitô hữu, cũng phải được hiểu đó là những con người có Thần Khí Thiên Chúa, tức là những con người luôn loại trừ bóng tối của hận thù, ghanh ghét, tham lam và tiếp tục tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa đến với mọi người như Chúa Kitô đã tỏ bày.

Lạy Chúa, Chúa đã đặt để Thần Khí Chúa trong chúng con, xin cho chúng con luôn ngoan ngoãn bước theo sự chỉ vẽ của Thần Khí Chúa, để chúng con đạt tới sự sống đời đời. Amen.

---------------------------------------

 

PS 6-A125: Chúa Nhật 6 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG ANH EM

Tin mừng Ga 15:18-21 Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều quí giá...

 

Trong cuốn sách The Living Stone có một câu truyện như sau: Jonathan làm được những việc phi PS 6-A125


Trong cuốn sách The Living Stone có một câu truyện như sau: Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy sắp lìa trần, ông cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ.  Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ: ”Hãy hành động vì lòng mến”.

Trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ, Ngài cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản của lòng mến:

”Ai nghe và vâng giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”.

Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều quí giá cho phép chúng ta tin rằng chúng ta đang yêu mến Chúa.

Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là một tình yêu luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình thương mến, sẵn sàng cho đi tất cả, chứ không dừng lại ở những rung cảm tự nhiên của con người.

Có câu chuyện kể rằng:

Một người mẹ đang thoi thóp nhìn năm đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong bữa ăn cho đến việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với nhau trong tình huynh đệ?

Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp bất hoà thường xuyên xảy ra giữa chúng?

Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ.

Tuy chúng không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và làm cho mẹ bất cứ điều gì mẹ muốn. Thế nên, dựa vào tình thương chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau. Lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”

Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.[1]

Chính Chúa Giêsu cũng có cùng tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ.

Nhưng ngọn lửa yêu thương Ngài đã nhọc công gầy dựng có thể sẽ lụi tắt. Thế nên, khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ, Chúa Giêsu nhắn nhủ họ những lời tâm huyết:

“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi...Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 33-35)

Điều cốt yếu trong giới răn của Chúa  đã được chính Chúa Giêsu xác định rõ ràng như sau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12:34). Ngài còn xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Như vậy, câu nói của Ngài “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”.

Nói khác đi, ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa.

Nói cách khác nữa, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa.

Thánh Gioan đã diễn giải điều này rõ hơn nữa:

“Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).

Lạy Cha, qua bài Tin Mừng hôm nay, con nhận ra rằng để được Chúa yêu mến, thì phải tuân giữ giới răn yêu thương của Đức Giêsu.

Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình, những người cùng làm việc với con trong xưởng thợ, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp hằng ngày.

Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.
-------------------
[1] Câu chuyện của Lm. Trần Ngà, CN 6A PS

-------------------------------------

 

PS 6-A126: Có Chúa, chúng ta không bao giờ mồ côi


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Có một người giáo dân nói với Tôi thế này: thưa cha, con đến một cha nọ để xin lễ cho các linh PS 6-A126


Có một người giáo dân nói với Tôi thế này: thưa cha, con đến một cha nọ để xin lễ cho các linh hồn mồ côi? Cha ấy nói làm gì có linh hồn mồ côi mà xin. Con nghe thấy mà ấm ức, con nghĩ các linh hồn mồ côi là các người tín hữu hay những người lương chết mà không ai cầu nguyện hay xin lễ cho, thì họ là kẻ mồ côi chứ gì nữa? Tôi bèn nói với chị ấy rằng chị ơi, ông cha đó nói đúng đó. Chị nói rằng các người chết không ai cầu nguyện và xin lễ là mồ côi chứ gì! Suy nghĩ của chị và rất nhiều người khác đồng ý quan niệm rằng người sống và người chết đều có cảnh mô côi vì chị và rất nhiều chịu ảnh hưởng phong tục anh em lương dân rồi. Phong tục đó như thế này: “Tín ngưỡng cổ truyền tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể về trời, hoặc đầu thai kiếp khác (làm người hoặc vật), hoặc bị đày xuống địa ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà người đó làm khi còn sống. Tuy nhiên, dân gian cũng tin rằng, nếu một người bị chết oan hoặc do tác động của những nghiệp xấu, các cô hồn không được hoặc chưa được cõi nào tiếp nhận, thì phải lang thang và chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống”. Vì tin như thế nên có việc cúng cô hồn, việc cúng này muốn để "cứu giúp" những linh hồn khốn khổ. Nhưng đồng thời, cúng cô hồn cũng có thể là một hình thức "hối lộ" để khỏi bị các oan hồn quấy phá, hoặc để được họ "hỗ trợ" (trích http://www.phongthuyvuong.com/phong-thuy-ung-dung/nghi-le/508-cung-co-hon.html).

Còn Công Giáo chúng ta không có ai qua đời mà phải mồ côi, không ai cứu, cầu nguyện, dâng lễ cho cả. Chúa cứu chứ sao không ai được! Vì chưng, Thứ nhất Lời Chúa trong Sách Ngôn Sứ Isaia dạy rằng: “Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng ĐỨC CHÚA đặt cho” (Is 62,2). Thứ hai, Thiên Chúa xuống thế làm người, Chúa Giêsu Kitô đã nói: “Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,39). Và trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phục sinh đã khẳng định với chúng ta: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (Ga 14,16-19). “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,10). Như vậy, Thiên Chúa thương và cứu hết mọi người, không trừ một ai bất kể lương giáo; Ngài cũng không để ai phải lang thang côi cút hay cô độc một mình cả.

Còn đối với Hội Thánh, Hội Thánh chúng ta không lúc nào cũng cầu nguyện cho mọi người còn sống hay đã qua đời. Cụ thể, từng giây, từng phút và từng giờ, Thánh Lễ luôn được cử hành Thánh lễ 24/24 khắp nơi trên trái đất này. Trong Thánh Lễ, chúng ta luôn cầu nguyện rằng: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”. “Chúng con nài xin Chúa thương xót tất cả chúng con, cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời, cùng với Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, các Thánh Tông Ðồ, và toàn thể các Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại, và cùng với các Ngài, chúng con được ca ngợi và tôn vinh Chúa, nhờ Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa” (Kinh Tạ Ơn II). Rồi lúc nào người giáo dân đọc kinh nguyện riêng mà lại không đọc cầu này để kết thúc giờ kinh của mình: “Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ, cho Các Đẳng Linh Hồn được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”. “Các đẳng linh hồn” đây chính là những người thân thuộc và toàn thể mọi người trên trần thế này đã qua đời. Và rồi, trong lời nguyện của Giờ Kinh Chiều mỗi ngày của giờ Kinh Phụng Vụ, các bậc tu trì hay giáo dân luôn cầu cho mọi người qua đời. 

Qua giòng thời gian, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn ở với con người chúng ta, Ngài không bỏ loài người dù loài người có bỏ Ngài. Cụ thể, thời Cựu ước, với ông Giôsuê, Ngài phán: “Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi”. Với Maisen, Ngài nói: “Ta luôn ở với ngươi”. Vào thời Tân ước, với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: “Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Và đây, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Còn chúng ta thì sao? Có lẽ nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã không tin Thiên Chúa thực sự hiện diện bên chúng ta và trong chúng ta. Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, thử thách hay đau khổ, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, lúc nào Chúa cũng ở gần chúng ta hơn bao giờ hết và nói rằng: “Thầy đây đừng sợ, hãy can đảm lên, ơn Thầy luôn đủ cho con”. Sở dĩ chúng ta không nhận ra Chúa là vì chúng ta đã không nhớ đến Ngài. Ngài đứng đó, giơ bàn tay nâng đỡ, mà chúng ta lại cho rằng không có Ngài và rồi chẳng chạy đến xin Ngài phù trợ qua việc tham dự hay cử hành các Bí Tích đem lại bình an và sức sống của Chúa.

Chúng ta hãy sự kiện các tông đồ đánh cá ở biển hồ Tibêria, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.

Chúng ta hôm nay là những người đã bước theo Chúa trên đường đời có những chông gai, những khúc quanh, những mất mát người thân yêu của chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng điều đó không quan trọng cho bằng việc ý thức Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta và tất cả mọi người, sống chết đều có nhau. Và một khi đã có Chúa ở với chúng ta, đi với chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ cô đơn hay mồ côi và có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ tìm ra được sức mạnh và nguồn bình an trong cuộc sống đời này và đời sau. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta xác tín rằng có Chúa là có tất cả vì vậy chúng ta hãy siêng năng đến với Chúa qua việc đọc kinh sáng tối hay tham dự cử hành các Bí tích để được Chúa ở cùng vì có Chúa chúng ta sẽ không bao giờ mồ môi. Allêluia.

-----------------------------------

 

PS 6-A127: Con mắt của trái tim


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Chúa Giêsu hôm nay nói: “Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con PS 6-A127


Chúa Giêsu hôm nay nói: “Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy”. Chúng ta cảm thấy dường như có một cái gì mâu thuẫn trong lời tuyên bố của Chúa Giêsu. Cùng một sự hiện diện mà thế gian thì không thấy Chúa còn chúng ta lại thấy Chúa là sao nhỉ? Cùng một Chúa Giêsu, mà có người thì xác tín Người vẫn hiện diện, trong khi kẻ khác lại nói: Người thuộc về dĩ vãng và đã qua rồi không còn hiện hữu nữa. Ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta cũng có thể bắt gặp những trường hợp tương tự, chẳng hạn một người đã chết, nhưng những người sống vẫn cảm thấy người ấy đang còn ở đâu đây, thật gần gũi cho nên mới có “câu Bác Hồ sống mãi mãi trong sự nghiệp chúng ta, hay Hồ Chí Minh muôn năm”. Một bà mẹ có thể nhìn thấy đứa con bà mới chôn cất nhưng bà  thấy từng sự vật, căn phòng, lối đi của con như đang sống bên bà. Vậy thì đâu là nguyên nhân tạo nên cái tình cảm, cái thấy tuy xa mà lại gần như thế?

Tôi xin thưa  chính tình yêu thương đã tạo nên cái điều lạ lùng ấy. Giữa những người thân thiết, cái chết nơi thân xác không phải là điều quyết định tạo nên sự chia cách, sự vắng mặt, chết thân xác nhưng linh hồn sống mãi mà hồn thì tinh anh, chỉ có mắt đức tin, con mắt tình yêu mới thấy người thân của mình đang ở bên mình mãi mãi dù thân xác đã xa cách vì thế với bài thơ “Từ ấy”, nhà thơ Tố Hữu viết rằng: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lý chói qua tim. Hồn tôi là một vườn hoa lá. Rất đậm hương và rộn tiếng chim... Tôi buộc lòng tôi với mọi người. Để tình trang trải với trăm nơi. Để hồn tôi với bao hồn khổ. Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. Tôi đã là con của vạn nhà. Là em của vạn kiếp phôi pha”.

Cho nên, Chúa Giêsu nói “Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy”. Cái thấy mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây, không còn là cái thấy bằng cặp mắt của thân xác vốn có những giới hạn của nó, mà là cái thấy bằng con tim, bằng yêu thương, bằng cảm thông. Chính vì thế, mà qua đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ yêu mến, nhờ yêu mến mà mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy mình, cũng như giữa người môn đệ và Thiên Chúa Cha trở nên gần gũi. Và hơn thế nữa, chính tình yêu mến ấy đã đưa tới sự hoà nhập: Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Vì thế, thấy bằng cặp mắt của con tim này sẽ giúp mối quan hệ mật thiết giữa chúng ta với sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh với cuộc đời của mỗi người Kitô hữu thật gần gũi, thân thương và trìu mến điều mà con mắt của thân xác không thể nào nhìn thấy cho nên, trong bài hát Chầu Thánh Thể chúng ta thường hát rằng mắt không thể thấy nhưng lòng vững tin.

Lòng yêu mến không thể không dẫn tới hành động. Người môn đệ yêu mến Thầy cũng có nghĩa là người môn đệ tuân giữ các giới răn, các lệnh truyền của Thầy. Thế nhưng các giới răn và lệnh truyền của Chúa Giêsu đó là trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự sau lại yêu người như minh ta vậy. Đúng thế, chính Chúa Giêsu và cuộc sống của Người đã trở thành những khuôn mẫu tuyệt vời nhất cho cuộc sống người tín hữu noi theo và bắt chước. Rất nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại nơi những giới răn và những lệnh truyền. Đồng thời những giới răn và những lệnh truyền cũng thường dừng lại ở những cái tối thiểu. Vì thế, việc sống đạo trở thành một bài toán khô khan và nghèo nàn. Người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim, bằng tình yêu mến. Bởi vì chính tình yêu mến này sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện thật gần gũi của Chúa Giêsu trong lòng cuộc sống chúng ta và mọi người xung quanh chúng ta.

Mùa Phục sinh là mùa nhắc chúng ta nhìn lại sự sống vĩnh cửu của chúng ta mai này. Lắm khi chúng ta sống èo uột chỉ vì không dám yêu thương, không dám hy sinh và không dám cho đi. Cho nên chỉ khi bắt đầu ra khỏi chính mình để sống mến Chúa và yêu người là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống của Thiên Chúa bùng lên mạnh mẽ nơi chúng ta. Thế giới hôm nay đang cố làm cho cuộc sống được đảm bảo an toàn hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn, nhưng con người vẫn sống trong lo sợ, nguy hiểm và may rủi rất cao do chiến tranh, khủng bố, tội ác, đói nghèo, bệnh dịch... cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đang đói khát sự sống đích thực. Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Giêsu Kitô phục sinh, chúng ta có thể trao ban cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ, hy sinh và sẻ chia tinh thần cũng như vật chất trong tình yêu Thiên Chúa và mọi người. Alleluia.

-----------------------------------

 

PS 6-A128: Lề luật và tình yêu

 

Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay là: "Nếu anh em yêu mến Thầy thì sẽ giữ các giới răn PS 6-A128


Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay là: "Nếu anh em yêu mến Thầy thì sẽ giữ các giới răn của Thầy". Lời dạy của Chúa Giêsu xem ra không êm tai mấy. Hình như giữa tình yêu và lề luật có vẻ như xung khắc nhau. Tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt. Tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái... Trong khi lề luật, các giới răn lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do, nhưng nhờ lề luật & tình yêu chúng ta mới biết đường dẫn tới hạnh phúc.

Nhìn vào đời sống thường ngày chúng ta sẽ thấy được: Có nhiều cách để nói lên tình yêu thương dành cho một người nào đó. Chẳng hạn khi yêu thương ai, ta có thể cầu nguyện cho họ, nghĩ tốt về họ và thầm mong cho họ được nhiều may mắn. Thế nhưng ý nghĩ và tư tưởng thì trừu tượng, khó kiểm chứng. Có một phương tiện chắc chắn nhất để biểu lộ tình yêu thương, đó là việc làm. Chẳng hạn, vâng lời cha mẹ là cách diễn tả tự nhiên lòng hiếu thảo và yêu mến của con cái. Và đối với Chúa, việc làm đẹp lòng Chúa hơn hết, chính là yêu mến và tuân giữ những điều Chúa truyền dạy. Do đó, lòng yêu mến Chúa thật sự đòi hỏi ta giữ các điều răn của Chúa cũng là điều rất tự nhiên.

Như vậy khi suy nghĩ kỹ ta sẽ thấy lời dạy của Chúa Giêsu rất hợp tình hợp lý. Có thể nói: yêu mến và giữ lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và rất tự nhiên. Tuân giữ các giới răn là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên trong. Và cũng thiếu sức sống khi giữ luật mà không có tình yêu. Không thể thiếu một trong hai. Không thể có tình yêu mà không có dấu hiệu gì được diễn tả ra bên ngoài.

Nếu đời sống chỉ có tình yêu mơ hồ, không được định hướng sẽ dẫn đến lối sống hoàn toàn dựa trên sở thích, cảm tính nhất thời. Ngược lại, đời sống sẽ trở nên nặng nề, máy móc nếu ta chỉ có cố gắng để vác cho xong cái ách lề luật. Một người trong tù cũng đang giữ luật, nhưng anh ta phải giữ luật trong đau khổ và nước mắt. Nhiều khi chính ta cũng đang tự giam mình trong một ngục tù vô hình của lề luật. Hoặc ta đang giữ luật trong sự kiêu ngạo như một Pharisêu. Tất cả những cách giữ luật đó không phải là điều Chúa Giêsu mong muốn.

Ta hãy nhìn vào gương thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ngài chu toàn mọi bổn phận cách thật hoàn hảo. Dù quét nhà, dù giặt dủ, dù làm vườn, dù dọn áo lễ, thánh nữ làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa. Ngài thường nói: “Hãy nhìn hạt sương buổi sáng. Hạt sương tầm thường chẳng có giá trị gì. Nhưng khi ánh nắng mặt trời chiếu vào, hạt sương toả sáng lóng lánh như hạt ngọc quí giá. Những việc chúng ta làm chỉ là những hạt sương tầm thường. Nhưng tình yêu là ánh sáng mặt trời làm cho những việc tầm thường trở nên giá trị". Việc giữ luật của chúng ta sẽ là tầm thường, nặng nề nếu không xuất phát từ tình yêu.

Còn Thánh Phanxicô Atsidi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một người bạn, người này nói với ngài rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa và giữ giới răn của Chúa được. Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què ngồi bên lề đường. Ngài dừng lại hỏi người hành khất: "Này anh, nếu tôi chữa cho anh thấy được và đi được thì anh có yêu mến tôi không?". Người hành khất trả lời: "Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài, mà tôi còn xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài". Nghe câu trả lời của người hành khất xong, thánh Phanxicô quay sang nói với người bạn: "Đó anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được mà còn hứa với tôi như thế huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn, Ngài còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh, vậy mà anh lại không yêu mến Chúa và sống theo lời dạy của Chúa sao?". Thiết tưởng lời của thánh Phanxicô cũng phải là tâm tình ta phải có trong đời sống của mình. Đó là thực sự yêu mến và giữ giời răn của Chúa để ta có được sự sống và hạnh phúc đích thực. Amen.

-------------------------------

 

PS 6-A129: Chúa Nhật 6 Phục Sinh


(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Lễ Ngũ Tuần, một biến cố quan trọng của Giáo Hội, sắp đến gần; vì thế, Phụng Vụ Lời Chúa Chúa PS 6-A129


Lễ Ngũ Tuần, một biến cố quan trọng của Giáo Hội, sắp đến gần; vì thế, Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh loan báo Chúa Thánh Thần, Thần Chân Lý.

Cv 8: 5-8; 14-17

Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật dân Sa-ma-ri trở lại đạo và lần đầu tiên kể ra bí tích Thêm Sức: thánh Phê-rô và thánh Gioan đến đặt tay trên những người đã chịu phép Rửa để họ được đón nhận Chúa Thánh Thần.

1Pr 3: 15-18      

Bài Đọc II, tiếp tục trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, nêu lên hy tế của Đức Giê-su, chết cho tội lỗi chúng ta, nhưng Thánh Thần đã phục sinh Ngài.

Ga 14: 15-21

Tin Mừng là đoạn trích dẫn diễn từ Cáo Biệt mà Đức Ki-tô ngỏ lời với các môn đệ Ngài, vào buổi chiều Tiệc Ly: Ngài hứa sai Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần Chân Lý đến ở với họ luôn mãi.

BÀI ĐỌC I (Cv 8: 5-8, 14-17)

Sau việc thiết lập bảy cộng tác viên, cuộc bách hại đã bất ngờ giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ tại Giê-ru-sa-lem. Khởi điểm là lời rao giảng của thánh Tê-pha-nô, một trong bảy cộng tác viên. Lời rao giảng táo bạo của thánh nhân khiến Thượng Hội Đồng phẩn nộ. Họ xúi dục dân chúng ném đá thánh Tê-pha-nô cho đến chết.

Nhiều môn đệ trốn chạy, nhất là những Ki-tô hữu theo văn hóa Hy lạp bị nhắm đến đặc biệt hơn. Trên con đường trốn chạy, đi đến đâu, họ đều làm chứng về Đức Ki-tô Phục Sinh đến đó: “Vậy những người phải tản mác khắp nơi loan báo Lời Chúa” (8: 4). Thế là Lời Chúa được loan truyền rộng rãi vượt ra bên ngoài thành đô Giê-ru-sa-lem. Chính trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, họ trở thành những nhà truyền bá Tin Mừng.

1. Công việc truyền giáo của phó tế Phi-líp-phê

Sau khi sơ tán khỏi Giê-ru-sa-lem, Phi-líp-phê, một trong bảy cộng tác viên, “xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Kitô cho dân chúng ở đó”. Tác giả không nói với chúng ta thành nào. Cuộc truyền giáo luôn luôn đạt được kết quả mỹ mãn. Dân chúng chú ý đến lời rao giảng của ông và bị lôi cuốn bởi những phép lạ ông thực hiện nên theo đạo rất đông. Như Đức Ki-tô và nhân danh Ngài, Phi-líp-phê thực hiện nhiều “phép lạ”. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Luca nói về việc chữa lành “những người bị bại liệt”, một từ ngữ chuyên môn, chứ không là những người bại liệt, một từ ngữ bình dân – cũng vậy, trong Tin Mừng của mình, thánh ký luôn luôn dùng thuật ngữ này, bởi vì thánh Lu-ca là thầy thuốc. Đây là một tiểu tiết mang lấy chữ ký của ngài.

“Trong thành, người ta rất vui mừng”. Đây cũng là một ghi nhận rất tiêu biểu của thánh Lu-ca. Những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, cả thành đều tràn ngập niềm vui thiên sai mà các ngôn sứ đã loan báo từ xưa. Niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh không những đã làm cho họ phấn chấn, mà ngay cả thân xác của họ cũng được phục hồi sức khoẻ.
2. Dân Sa-ma-ri đón nhận phép Thêm Sức

Sách Công Vụ nói đến hai lần: “Các Tông Đồ vẫn ở Giê-ru-sa-lem” (8: 1, 14) để nhấn mạnh rằng trong lúc bách hại, không một Tông Đồ nào rời bỏ Thành Thánh. Khi nghe biết dân Sa-ma-ri trở lại đạo, thánh Phê-rô và thánh Gioan đến tận nơi. Chúng ta đã thấy rồi, hai vị Tông Đồ này thường hoạt động cùng nhau.

Những ai đã chịu phép Thánh Tẩy, hai Tông Đồ đặt tay trên họ để Thánh Thần ngự xuống trên họ. Đó là cử chỉ bí tích mà sau này chúng ta gọi “Bí Tích Thêm Sức”, bí tích này hoàn thiện bí tích Thánh Tẩy bằng việc đặt tay ban Thánh Thần. Chỉ duy các Tông Đồ, những người kế vị Đức Giê-su, mới có đủ thẩm quyền ban Thánh Thần. Thế là biến cố ngày Ngũ Tuần một lần nữa được tái diễn ở một nơi khác ngoài Giê-ru-sa-lem, và cứ như thế ở bất cứ nơi nào mà Lời Chúa có dịp tràn đến.

BÀI ĐỌC II (1Pr 3 : 15-18)

Vào Chúa Nhật VI Phục Sinh này, Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư thứ nhất của thánh Phê-rô gởi những Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Đoạn trích này dọi chiếu vài tia sáng trên những thử thách mà họ phải chịu. Thánh Phê-rô an ủi và khích lệ họ. Họ phải chịu phỉ báng, vu khống, bị điệu ra trước tòa, bị trách cứ vì cách sống mới của họ, vân vân. Đây là những cuộc bách hại địa phương hoặc do những anh em đồng đạo Do thái trước đây của họ hay do đồng bào ngoại giáo trước đây của họ.

1. Hãy tôn kính Đức Kitô làm Chúa trong lòng anh em

Thánh Phê-rô khuyên nhủ họ. Lời mở đầu : “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn kính Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3: 14-15) gợi hứng từ bản văn của Is 8: 12-13, trong đó ngôn sứ I-sai-a xưa kia ngỏ lời với Giê-ru-sa-lem bị đe dọa và với vua A-khát sợ hãi và xao xuyến. Hoàn cảnh bấy giờ xem ra tương tự. Những người bị bách hại đừng khiếp sợ kẻ thù của họ. Họ không có bận lòng nào khác ngoài việc làm đẹp lòng Thiên Chúa.

2. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời

Sau khi khuyên nhủ một cách khái quát, thánh Phê-rô khuyên nhủ sát với thực tế hơn: “Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn anh em về niềm hy vọng của anh em”. Thánh nhân ám chỉ đến việc họ bị chất vấn trước thế quyền cũng như giáo quyền và khuyên họ hãy bênh vực niềm tin của họ, hãy biện minh niềm hy vọng của họ đối diện với những kẻ không tin.

Đây là lần đầu tiên thánh Phê-rô ban một lời khuyên như vậy cho thấy những hoàn cảnh khó khăn mà các Ki-tô hữu phải trải qua. Sau này trong những cuộc bách hại lớn lao như cuộc bách hại của hoàng đế Domitien (81-96) khắp Đế Quốc, lời khuyên nhủ như thế sẽ mặc lấy tính chất bi thảm.

Tiếp đó, trở lại chủ đề chạy xuyên suốt bức thư: “Phúc cho những ai bị bách hại vì công chính”, thánh nhân viết: “bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành còn hơn là vì làm điều ác”. Sau cùng, thánh Phê-rô một lần nữa viện dẫn Đức Giê-su như mẫu gương: Đức Giê-su, Đấng Công Chính đã chết cho những kẻ bất lương, nhưng Ngài đã chiến thắng sự chết, đó là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta.

Niềm an ủi mà vị thủ lãnh Giáo Hội muốn đem đến cho các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á bị đối xử bất công, cốt ở nơi lời giáo huấn căn bản này: Đức kiên nhẫn trong những trăm chiều thử thách dẫn họ đến cùng một vận mệnh vinh quang như vận mệnh của Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Ga 14: 15-21)

Chúng ta tiếp tục diễn từ Cáo Biệt của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài. Thấy họ xao xuyến trước lời loan báo về cái chết sắp đến của Ngài, Đức Giê-su nói với họ những lời an ủi và hứa với họ Ngài sẽ trở lại tìm họ để họ nên một với Ngài luôn mãi trong mối thâm tình với Cha Ngài (Chúa Nhật vừa qua). Chúa Giê-su lại còn hứa Ngài sẽ sai phái Chúa Thánh Thần đến ở với họ, đây là đối tượng của đoạn Tin Mừng Chúa Nhật này.

1. Trung tín trong tình yêu

Trước khi hứa sai Thánh Thần đến ở với họ, Đức Giê-su đòi hỏi họ hãy tuân giữ các điều răn của Ngài như bằng chứng tình yêu của họ đối với Ngài.

Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài theo cùng một mức độ như Đức Chúa đòi hỏi dân Do thái khi Người ban Lề Luật của Người cho họ. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi con người phải yêu mến Ngài như vậy. Đây là cách thức Đức Giê-su bày tỏ chân tính thần linh của Ngài. Nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh việc tuân giữ trong tình yêu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Đức Giê-su đòi hỏi họ yêu mến con người của Ngài chứ không là Lề Luật. Tất cả điểm nhấn của Ki-tô giáo đều tập trung vào luật mới mà Đức Ki-tô ban: không áp đặt từ bên ngoài, nhưng là hành vi thắm đẩm tình yêu, vì thế kêu gọi đi vào trong mối tương giao tình yêu với Thiên Chúa.

Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu đi đôi với hiểu biết và thực hành những điều răn (14: 15; 14: 21). Sự hiểu biết được nêu lên ở đây không đơn giản là tri thức, nhưng trào dâng từ cuộc sống xuất phát từ kinh nghiệm cụ thể. Đây là một sự hiểu biết thực tiển nẩy sinh từ cõi lòng sâu thẳm nhất. Đó là lý do tại sao, trong Tin Mừng Gioan, có mối gắn kết bền chặc giữa yêu mến, hiểu biết và tuân giữ các điều răn.

Bản chất tình yêu là muốn được sống cùng nhau, nên một với người mình yêu, không muốn xa lìa nhau. Khi người ta yêu nhau, người ta “đồng cảm” với nhau, người ta “biết” điều gì làm vui lòng người mình yêu mà không có bất kỳ ép buộc bên ngoài nào, người ta ra sức thực hiện bất cứ điều gì làm vui lòng người mình yêu, chu toàn ý muốn của người mình yêu. Tuân giữ là cách thức cụ thể thể hiện ra bên ngoài điều mình nghĩ, điều mình yêu. Đây là điều Đức Giê-su đã làm đối với Cha của Ngài (15: 10), người môn đệ cũng sẽ làm như vậy, bởi vì người ấy “đồ lại” cuộc sống của mình trên cuộc sống của Đức Ki-tô, sống cuộc sống của Đức Ki-tô, Đấng hiện diện ở cõi sâu thẳm của người môn đệ.

2. Đấng Bảo Trợ khác

Đối với những người bạn chí thiết của Ngài, nghĩa là những người thực sự yêu mến Ngài và bày tỏ tấm lòng yêu mến Ngài bằng việc tuân giữ các giới răn của Ngài, Đức Giê-su sẽ xin Cha Ngài sai Thánh Thần đến ở với họ luôn mãi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến với anh em luôn mãi”.

Qua từ ngữ đơn giản “Đấng Bảo Trợ khác” này, Đức Giê-su định nghĩa cả sứ mạng của Ngài lẫn sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Ngài đã đến để là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, chứ không là quan tòa của chúng ta, như thánh Gioan viết trong thư thứ nhất của mình: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính” (1Ga 2: 1-2). Chúa Thánh Thần được gọi là “Đấng Bảo Trợ khác” vì Ngài sẽ tiếp tục công việc này; Ngài sẽ phù trợ chúng ta và “ở với chúng ta luôn mãi”. “Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý, nên dịch là “trạng sư” mới đúng, vì trong Tin Mừng thứ tư diễn ra một phiên tòa giữa Đức Giê-su và thế gian. Trong Tin Mừng Gioan, từ ngữ “thế gian” mặc ý nghĩa tiêu cực, tức thế giới gian tà nằm dưới quyền thống trị của Xa-tan. Vì thế, thế gian không thể đón nhận Chúa Thánh Thần, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Đó là tất cả tấm thảm kịch của sự cứng lòng tin.

3. Thần Khí Sự Thật

Đấng Bảo Trợ khác này cũng được gọi Thần Khí Sự Thật (15: 26) đối lập với thế gian dối trá. Ngài ban phát sự thật và dẫn các môn đệ đến sự thật. Trong Tin Mừng Gioan, sự thật không là một phẩm chất luân lý, nhưng là một định nghĩa thậm chí về bản tính Thiên Chúa: Thiên Chúa là Sự Thật. Sự thật này được phơi bày ở nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngài cũng là sự thật, và sứ mạng của Ngài chính là bày tỏ sự thật cho con người, nghĩa là ban cho họ ơn cứu độ. Có nhiều cách nói, nhưng có chung một nghĩa: “sống trong sự thật” hay “sống trong Thiên Chúa”, hoặc “được cứu độ”.

Đấng Bảo Trợ khác này cũng là Thần Khí Sự Thật bởi vì Ngài là Một trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mới có thể cho các môn đệ biết chân tính của Đức Giê-su, mới có thể giúp cho các ông thật sự sống trong mối hiệp thông đích thật với Chúa Con và Chúa Cha. Thánh Thần của Đấng Phục Sinh mà Đức Giê-su sẽ ban cho các môn đệ để dẫn dắt họ vào trong sự thật toàn diện (hay ơn cứu độ trọn vẹn). Như vậy, các môn đệ sẽ có thể hiểu cụ thể con người và sứ mạng của Đức Giê-su, và hiện tại hóa ơn cứu độ của Ngài vào trong cuộc sống thường ngày của họ.

4. “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”

Từ “mồ côi” là lời nói trìu mến, được Đức Giê-su dùng rất nhiều lần, trong suốt diễn từ Cáo Biệt của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”.

Đoạn, cung giọng ngôn sứ lại được vang lên: Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Phần các con, các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống”. Thành quả Phục Sinh của Ngài sẽ là ân ban sự sống, sự sống Thiên Chúa mà Đức Giê-su sẽ ban phát một cách sung mãn.

“Vào ngày đó”: đây là cách nói của Cựu Ước. Chữ “ngày” chỉ một thời kỳ, thường nhất thời cánh chung. “Thời cánh chung” được kể ở đây khởi sự từ biến cố Phục Sinh. Lúc đó, các môn đệ sẽ kinh nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh ở nơi họ, sự hiện diện của một thế giới mới, sự hiện diện của Thần Khí trong một mối hiệp thông sâu thẳm tròn đầy tình yêu.

---------------------------------

 

PS 6-A130: Hứa ban Thần Khí


(Chú giải và Suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

CÂU HỎI GỢI Ý

 

Đoạn này nằm trong văn mạch nào? 2. Nhiệm vụ của Thần khí đối với các môn đồ sẽ hệ tại ở PS 6-A130


1. Đoạn này nằm trong văn mạch nào?
2. Nhiệm vụ của Thần khí đối với các môn đồ sẽ hệ tại ở điểm nào? Tại sao Chúa Giêsu gọi Ngài là “Đấng Bầu chữa khác”?  Có nhiều Đấng Bầu chữa sao?
3. Làm sao giải thích việc thế gian sẽ không còn thấy Chúa Giêsu, nhưng các môn đồ sẽ thấy Người (18- 20)? Chúa Giêsu ám chỉ đến loại trở về nào đây?
4. Câu 21 nói đến những lệnh truyền gì? Trong câu này phải chăng Chúa Giêsu xác nhận rằng tình yêu của chúng ta phải đi trước tình yêu của Người ?

CHÚ GIẢI

1. Đoạn này là một phần lấy trong diễn từ giã biệt đầu tiên 13, 31 – 14, 31). Cho nên phải nghiên cứu nó theo văn mạch diễn từ ấy.

“Ta ra đi và Ta sẽ trở lại” Diễn từ giã biệt đầu tiên mang chủ đề chính là sự ra đi và trở lại của Chúa Giêsu. Người sắp bỏ các môn đồ để chịu khổ nạn và chết (13, 33. 36). Nhưng việc ra đi này cũng là trở về với Cha (14, 12 ; x. 14, 2tt), là tôn vinh Cha và con  3, 31- 32), vì trong Chúa Giêsu, Cha tự tỏ mình như Thiên Chúa cứu độ. Vì thế nên đến giờ chết là giờ Người được tôn vinh, Chúa Giêsu thực sự trở thành đường dẫn về Chúa Cha (14, 2- 6) và là kẻ mặc khải Cha (14, 7- 11). Ngoài ra, việc trở về của Chúa Giêsu bên cạnh Cha cũng là trở về với các thuộc nhân của Người, chứ không phải chỉ là việc kéo ơn Thần khí khi được tôn vinh mà thôi (14,16-26 ; x. 7, 39). Thật vậy, chính Chúa Giêsu sẽ trở lại với môn đồ không phải chỉ vì một ngày kia Người sẽ đem họ đi với người (14, 3), nhưng vì họ sẽ thấy Người “một ít nữa” (14, 18- 19). Người sẽ tỏ mình (14, 21) và sẽ cùng Chúa Cha đến với họ (14, 23).

Một trong những câu cuối cùng của diễn từ giã biệt thứ nhất này tóm tắt lời hứa ấy như sau: “Các con đã nghe Ta bảo các con: Ta ra đi và Ta sẽ đến với các con” (14, 28). Thành thử diễn từ có mục đích chuẩn bị các môn đồ trước các biến cố sắp tới, nó cũng nhắm làm vững mạnh đức tin của họ đang bị lung lay vì lời loan báo ra đi và lời tiên đoán việc Giuđa phản bội (13, 21 -30) cùng Phêrô chối Thầy (13, 36- 38).

Diễn từ mang hình thức một cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và môn đồ. Nó mặc tính cách một bài quảng diễn theo 5 điểm (13, 31- 36b ; 13, 36b- 38 ; 14, 2- 6 ; 14, 7- 14 ; 14, 15- 24), điểm này bổ túc cho điểm kia và mỗi điểm gồm ba giai đoạn. Mỗi lần Chúa Giêsu đều khởi sự với một câu xác quyết huyền bí diễn tả bằng những ngôn từ song nghĩa mà các môn đồ không thể nắm được ý nghĩa đích thực, bấy giờ họ đặt câu hỏi. Và câu hỏi này cho Chúa Giêsu cơ hội để xác quyết lại và nói rõ tư tưởng của mình, đồng thời nâng các môn đồ lên lãnh vực của mầu nhiệm con người và công việc Người. Đây là phương pháp hành văn đặc thù của Gioan, một phương pháp ngoài ra còn mang ý nghĩa thần học sâu xa: tự sức nặng, các môn đồ, và cả chúng ta, chẳng tài nào thấu hiểu được ý nghĩa của các biến cố, ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa Giêsu. Đoạn văn của chúng ta thuộc về điểm thứ năm của diễn từ trong đó Chúa Giêsu hứa sẽ tỏ mình ra cho những ai yêu mến Người.

2. Ngược lại với thế gian, các môn đồ nhờ đức tin đã nhận ra bên cạnh họ sự hiện diện của Thần khí trong con người Chúa Giêsu. “Các con biết Ngài vì Ngài lưu lại nơi các con” (17b). Họ được hứa ban một sự hiện diện mật thiết hơn và hữu hiệu thực sự. Lời hứa này được thực hiện khi Chúa Cha sẽ thông ban Thần khí cho họ theo lời xin của Chúa Giêsu vinh hiển: Ngài sẽ ở với họ (16b), trong họ (17b).

Trong bốn đoạn khác, Chúa Giêsu chỉ cho biết nhiệm vụ của Thần khí đối với các môn đồ sẽ hệ tại điểm nào: Ngài sẽ đào sâu  đức tin của họ bằng cách làm cho họ hiểu, từ bên trong, cuộc đời và sứ điệp của Chúa Giêsu (14, 26 ; 16, 12- 15); Ngài sẽ củng cố họ vững vàng trước các đợt tấn công của thế gian và thúc đẩy họ làm chứng những gì đã biết (15,26-27); Ngài sẽ làm cho thế gian bất công đã từ khước Chúa Giêsu phải bẽ mặt (16, 7-11). Chính trong viễn tượng này mà Thần khí do Chúa Giêsu hứa ban là “Thần khí sự thật” (c. 17). Ngài sẽ đem mặc khải sự thật của Chúa Giêsu vào trong các tâm hồn, sẽ ban trí thông hiểu sâu sắc hơn về mầu nhiệm Chúa Giêsu, về đời sống, cử chỉ, lời nói của Người, như thế Người sẽ soi sáng các hoàn cảnh mới mà người Kitô hữu phải đương đầu. Đồng thời Người cũng là “Đấng bầu chữa” (5, 26 ; 16, 7 ; 1 Ga 2, 1), không dành riêng để chỉ Thánh Thần đâu. Trong 1 Ga 2, 1 , Chúa Kitô cũng là Đấng Bầu Chữa, nghĩa là Người biện hộ cho tội nhân bên cạnh Chúa Cha, và, trong bản văn chúng ta đang nghiên cứu đây, Thần khí được gọi là Đấng Bầu chữa khác, thay thế Chúa Kitô. Thành thử ý nghĩa nguyên thủy của từ ngữ vẫn được duy trì nhưng người ta chú trọng đến vai trò hơn là đến ngôi vị: Kẻ bầu chữa là người giúp đỡ, chuyển cầu, biện hộ hay là chứng nhân gỡ tội trước tòa án (x.15,26; 16,9; 1Ga 2, 1).

Để đứng vững trước những biến cố đau thương đang báo điềm và trước thời gian cô đơn, cái thời gian mà như số phận Chúa Kitô phải chịu, là thời gian bách hại, các môn đồ cần có một sự nâng đỡ, một người hướng dẫn, một vị bảo trợ. Cho đến bây giờ, Chúa Giêsu đã phù trợ họ duy trì họ hiệp nhất với nhau và giữ gìn họ cho Chúa Cha (17,12). Đàn chiên đã có thể tin tưởng vào chủ chăn của mình: Nhưng giờ đây, chủ chăn ra đi, nên họ cần người trợ giúp khác. Vì thế Chúa Cha sai Ngài đến, nhân danh Chúa Giêsu (14, 26), như kẻ th.ay thế Chúa Giêsu (x. 14, 13), để tiếp tục công việc của Người qua trung gian các môn đồ vậy.

3. Những câu làm thành đoạn văn chúng ta loan báo ba cuộc tỏ mình ba “lần đến”: việc ban Thần khí (cc.15-17), việc Chúa Giêsu trở lại bên cạnh các thuộc nhân của Người (cc. 18- 20), việc Người tỏ mình và cùng đến với Chúa Cha (cc.21-24). Không một cuộc tỏ mình nào trong ba lần đó tách rời một trong Ba Ngôi: Thần khí được Cha ban theo lời cầu xin của Chúa Giêsu; sự trở lại của Chúa Giêsu sẽ làm cho các môn đồ hiểu rằng Người hợp nhất với Cha, vì tình yêu của Người đối với môn đồ và tình yêu của Chúa Cha đối với họ chỉ là một; Người sẽ trở lại cùng với Chúa Cha. Tất cả đều cho thấy có một sự mạch lạc sâu xa giữa ba lần tỏ mình.

Trong cả ba trường hợp, việc tỏ mình nhằm cho các môn đồ chứ không nhằm cho thế gian (x.cc.17.19.22). Hạn từ sau cùng này ở đây chăng ám chỉ loài người mà “Thiên Chúa đã sai con Ngài đến để thế gian nhờ Người mà được cứu rỗi” (3,17 ; x.1, 29 ; 4, 42 ; 6, 33. 51 ; 12, 47), nhưng chỉ toàn thể những kẻ từ khước vị Thiên Chúa Cứu thế đó (ví dụ 1,10c ; 15, 1- 8t). Đoạn văn của chúng ta đây chứng nhận có một sự đối nghịch quyết hệt giữa thế gian ấy với Thiên Chúa. Đây là một thứ nhị nguyên, không phải thuộc lãnh vực “siêu hình”, như thể thế gian tự nguyên thủy là xấu, nhưng là một thứ nhị nguyên mà ta có thể gọi là “luân lý”. Có những người cố tình từ khước Thiên Chúa. Vì chẳng thừa nhận Chúa Giêsu và sứ điệp của Người, nên họ không tin vào Người (16, 9 ; 8, 23tt), không yêu mến Người (x.14, 22t), lại còn ghét Người nữa (15, 18). Tuy nhiên, Chúa Giêsu chẳng bảo rằng kẻ không tin kẻ đó chẳng có thể đạt đến đức tin và đức mến được đâu! Nhưng để đạt đến đó họ cần phải khước từ sự lệ thuộc vào thế gian. Tất cả đoạn văn chúng ta – ít nhất cách mặc nhiên – là một lời kêu gọi gửi đến mọi người để họ thực hiện một cuộc đổi đời cơ bản vậy.

Thành thử mặc dầu bản văn khởi sự với lời hứa ban Thần khí nhưng việc trở lại của Chúa Giêsu, như chúng ta đã bảo, vẫn được đặt lên hàng đầu, nếu chúng ta xét bài diễn từ trong toàn bộ của nó.

“Còn ít nữa thế gian sẽ chẳng thấy Ta” (c. 19a) . Do việc người chết đi mà, theo quan niệm của thế gian, Chúa Giêsu từ ấy thuộc về quá khứ. Nhưng cũng tại vì thế mà thế gian tự lên án chính mình: Chúa Giêsu sẽ không còn hiện diện cho họ nữa (so sánh với 7, 33t ; 21). Trái lại, đối với môn đồ, những tiếng “còn ít nữa” hàm chứa một lời hứa sẽ trở về (so sánh với 16, 16- 22): Chúa Giêsu sẽ trở về với họ (c. 18b). Xin lưu ý là trong câu này, việc trở lại được nhắc tới bằng động từ erchostai, động từ Gioan thường dùng để chỉ những lần hiện ra của Đấng Phục sinh (x.20,19.24.26). Đây có ý nói về hành động uy quyền tối cao của Chúa Phục sinh, của Chúa cánh chung, Đấng vẫn đến, mặc dầu cửa đóng kín nhưng Các môn đồ bấy giờ sẽ hưởng được một kinh nghiệm độc nhất vô nhị: “Các con sẽ thấy Ta sống”. Lời hứa ấy trở nên thực tại chiều ngày Vượt qua khi các môn đồ thấy Đấng phục sinh (x. 20, 20. 25)

Tuy nhiên chữ “các con sẽ thấy” không chỉ áp dụng cho việc quan sát bằng mắt và vào trạng huống Vượt qua mà thôi. Việc các môn đồ nhìn thấy Chúa Kitô còn là một nhận thức đích thực: nó đi liền với ý thức về sự hiệp nhất đời sống giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha, sự hiệp nhất mà các môn đồ sẽ đạt được nhờ Chúa Giêsu (c.20b). Họ cũng sẽ sống: “Các con sẽ thấy Ta sống, và các con cũng sẽ sống” (c.19b).

Các môn đồ sẽ hiểu được điều đó khi thấy Đấng phục sinh. Nhưng Chúa Giêsu đã bảo rằng Người sẽ không để họ mồ côi (c 18a). Lời hứa này cho thấy có một sự hiện diện mà lần hiện ra cuối cùng của Đấng phục sinh sẽ không chấm đứt. Trong ngày ấy Người nói, các con sẽ biết được là Ta ở trong Cha Ta, và các con ở trong Ta, và Ta ở trong các con” (c:20), “Ngày ấy” chỉ thời đại cánh chung khởi sự với việc Chúa được tôn vinh lúc Vượt qua và kéo dài suốt thời gian của Giáo Hội. Suốt thời gian chúng ta đang sống, thì Chúa vẫn đến và chúng ta vẫn thấy Người: không còn thấy như các môn đồ thấy Đấng phục sinh, nhưng là thấy bằng đức tin, là ý thức được một sự hiện diện và một sự thông hiệp đời sống. Tóm lại các câu 18-20 gợi lên vừa thực tại của các lần Chúa hiện ra sau khi sống lại, vừa kinh nghiệm sống của Giáo Hội sau biến cố Phục sinh.

4. Cái kinh nghiệm của Giáo Hội này cũng được mô tả ở (cc. 21) Chúa Giêsu loan báo Người sẽ tỏ mình (c.21b), hay, như đã nói rõ sau lời cắt ngang của Giuđa, là sẽ cùng với Chúa Cha trở lại (c 23b). Tỏ mình và trở lại cho riêng những ai yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu này hệ tại việc tuân giữ các lệnh truyền của Người (c.21 ; xin xem c. 15 trong đó “giữ lệnh truyền” không phải là hậu quả, nhưng chính là bản chất của tình yêu đối với Chúa Giêsu) hay !ời Người (cc.23t). Hình như “lệnh truyền” và “lời” đều chỉ cùng một thực tại: mặc khải của Chúa Giêsu xét như  là quy tắc hành động: “lời” nhấn mạnh đến yếu tố thứ nhất (mặc khải), “lệnh truyền” nhấn mạnh đến yếu tố thứ hai (quy tắc hành động).

Các bản văn khác của Gioan cho chúng ta biết các lệnh truyền này hệ tại điều gì: tình yêu huynh đệ (13, 34t ; 15,12- 24 ; 1 Ga 4,21), và lòng tin vào Chúa Giêsu như là Đấng được Cha sai đến (x. 16,27). Đó không phải là hai lệnh truyền tách rời nhau: tình yêu huynh đệ dựa trên lòng tin vào Chúa Giêsu, Đấng được sai đến để mặc khải và thực hiện tình yêu cứu độ của Chúa Cha cho hết mọi người. Nên, trong 1 Ga 3,23, đức tin và tình yêu huynh đệ được liên kết với nhau dưới một danh xưng “lệnh truyền”. Thành ra các môn đồ phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương họ (13, 34b ; 15, 12): nghĩa là theo gương người và còn hơn thế nữa, do bởi tình yêu của Người.

“Ai yêu mến Ta thì được Cha Ta yêu mến và Ta sẽ yêu mến kẻ ấy” (c. 21 ; x. c. 23a). Điều đó không có nghĩa là tình yêu của chúng ta có trước. Đúng hơn đây là một cuộc đối thoại tình yêu mà Chúa Cha và Chúa Giêsu đi bước đầu (x.1Ga 4,10. 19). Yêu mến Chúa Giêsu và do đó yêu mến anh em mình, tóm lại là tin vào anh yêu Thiên Chúa, là lãnh nhận tình yêu ấy, là đi vào trong sức năng động của nó và lưu lại trong đó: “Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng đã yêu mến các con. Hãy lưu lại trong lòng mến của Ta. Nếu các con giữ các lệnh truyền của Ta, các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta” (15, 9- 10a ; x. 17, 26). Đối với các môn đồ, tiếp nhận tình yêu của Chúa Cha mà Chúa Giêsu mặc khải, yêu mến anh em mình bằng tình yêu mà Chúa Giêsu yêu mến họ, là yêu mến Chúa Giêsu và Chúa Cha. Vì thế nên trong tình yêu này, sự hiện diện của Chúa Giêsu và của Chúa Cha được thể hiện. “Chúng Ta sẽ đến với kẻ ấy và sẽ đặt chỗ nơi mình họ” (c.23). Đây chính là một sự hiện điện hỗ tương: các môn đồ lưu lại trong tình yêu Thiên Chúa, và Chúa Cha cùng Chúa Giêsu đặt chỗ ở trong mình họ.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các lệnh truyền Ta”. Gioan không bao giờ cho phép tình yêu thoái hóa thành tình cảm suông hay xúc động thuần túy. Tình yêu được biểu lộ trong sự vâng phục. Điều này cũng đúng cho tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha (x. 15, 10).

“Đấng Bầu chữa khác”: Được vay mượn tư ngữ văn.g pháp luật tiếng Paraklêtos chỉ người được mời tới bên cạnh bị cáo để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự: thành thử nghĩa đầu tiên là trạng sư, người biện hộ. Từ đó, ta thấy xuất hiện nghĩa “Đấng An ủi hãy Đấng chuyển cầu. Nơi Gioan thì ý nghĩa pháp lý thắng thế. Thần khí giúp đỡ các môn đồ trong vụ án vĩ đại mà thế gian đeo đuổi chống lại họ, nhưng những tiểu dị vừa nêu trên có thể áp dụng và nhấn mạnh tùy trường hợp. Theo nghĩa Chuyển cầu, thì Chúa Giêsu cũng là Paraklêtos như Thần khí. Vậy nếu chỉ có một trung gian duy nhất là Chúa Giêsu (1Tm 2, 5), thì vẫn có hai Đấng bầu chữa: Chúa Giêsu, “luôn sống để cầu bầu cho chúng ta” (Dt 7,23) và Thần khí, “Đấng chuyển cầu cho ta bằng những tiếng rên khôn tả” (Rm 8, 26).

“Và Ngài ở trong các con”. Nhiều chỉ cảo và thủ sao có giá trị dùng động từ này ở thì tương lai: Ngài sẽ ở. Người ta có thể đưa ra nhiều lập luận vững chắc để bênh vực cho cả hai lập trường. Tuy nhiên, phần lớn các nhà chú giải gần đây xem ra thích cách đọc: Ngài ở hơn.

“Ta sẽ không bỏ các con mồ côi” Tiếng orphanos cũng được dùng cho các môn đồ không có thầy: xem Platon, Phédon 116a, trong đó các bạn hữu của Socrate được gọi là những orphanoi khi ông chết, và xem Lucien, De morte Peregrini 6.

“Ai yêu mến Ta, sẽ được Cha Ta vêu mến”. Gioan không muốn nói riêng tình yêu của Thiên Chúa bị lệ thuộc vào sự vâng phục của con người, điều ấy sẽ mâu thuẫn với 3, 16; 13, 34; 15, 9. 12; 17, 23. Tư tưởng của ông, trong lúc này, tập trung vào mối liên hệ hỗ tương giữa Chúa Cha, Chúa Con và các tín hữu -xem 13, 34. Bởi vì các môn đồ yêu thương lẫn nhau, nên dưới mắt người đời họ là những thành phần của gia đình Thiên Chúa; tình yêu của họ đối với Chúa Giêsu và sự hiệp nhất giữa họ với Người chứng tỏ là Chúa Cha yêu thương họ trong Người. Trước đó, xét như là thụ tạo, họ đã được Chúa Cha yêu mến rồi (1Ga 4, 10); nay với tư cách là Kitô hữu, họ còn hơn là một sự ngoại trưng của mầu nhiệm Nhập thể; họ là ngoại trưng của nhân cách tập thể của Đầu Nhiệm Thể.

KẾT LUẬN

Trong thời gian của Giáo Hội, thời gian chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn hiện diện với Cha Người và với Thần khí. Sự hiện diện ấy được thể hiện cho tất cả những ai mở lòng đón nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Nó là sự thông giao, thông hiệp, vì không phải là một hiện diện trừu tượng, “vô tính” nhưng hiện diện hỗ tương, hiện diện theo nghĩa mạnh của hạn từ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với chúng ta bây giờ gần gũi hơn, thắm thiết hơn, hữu hiệu hơn là khi Người còn tại thế, bởi vì nay Người hiện diện như Đấng được tôn vinh, như Chúa cánh chung hằng ban cho chúng ta Thần khí và làm cho chúng ta đi vào. trong sự thông hiệp đời sống với Chúa Cha. Vì vậy chúng ta phải nói đến một sự hiện diện trong khiếm diện. Nối tiếp cách hiện diện lịch sử của Chúa Giêsu, có một cách hiện diện mới là hiệp nhất với Chúa Giêsu và Chúa Cha, dưới sự hướng dẫn của Thần khí.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Trong bài Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, Chúa Giêsu hứa sai một Đấng Bầu chữa. Danh xưng lạ lùng này, vốn không có trong cách dùng thông thường của ngôn ngữ chúng ta, là chữ phiên dịch từ một kiểu nói Hy lạp có nghĩa được kêu tới bên cạnh…”; các tiếng đồng nghĩa với nó có thể là: người trợ giúp, trạng sư, kẻ nâng đỡ... Khi Chúa Giêsu nói đến một vị Bầu chữa khác, ta có thể nghĩ rằng chính Người là Đấng Bầu chữa đầu tiên là Vị rồi đây được sai đến với các sứ đồ sẽ làm cho họ hiểu hơn về Người; Ngài sẽ là kẻ mặc khải, bảo vệ Chúa Kitô trong tâm hồn người tín hữu chống lại các cơn cám dỗ và bách hại của thế gian.

2. “Thần khí... mà thế gian không thể lãnh nhận Tiếng “thế gian” ở đây phải hiểu là toàn bộ các quyền lực phản nghịch với Thiên Chúa và Đấng Kitô của ngài Thần khí của thế gian này thiết yếu là một não trạng bất nhất, một bầu khí thiêng liêng nhiễm độc do nhiều sai lầm và ngu đại, do óc kiêu căng cố chấp và tự mãn ngớ ngẩn, một thái độ tâm lý và luân lý đóng kín con người lại. Thế gian ấy không tin cả đến sự khả hữu thần tính của Chúa Kitô và bởi thế cũng chẳng tin việc Thần khí ngự đến. Ở chỗ khác, Chúa Giêsu có nói là Người sẽ cầu xin Chúa Cha che chở các môn đồ người, tức chúng ta hôm nay, cho khỏi thế gian tội lỗi này.

3. “Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến”. Chúng ta gặp lại ở đây, dưới hình thức rõ ràng và đánh động hơn, một trong những chân lý cơ bản thường năng được trình bày trong Tân ước. Tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu cấu tạo nên tương quan với Chúa Cha. Vâng giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu là vâng phục Chúa Cha; cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Chúa Cha; ca tụng Chúa Giêsu, tức nhìn nhận thực thể của Người trong niềm thán phục và vui mừng, là phó thác vào Chúa Cha.”Các con sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

4. Sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện của Người trong nội tâm còn quý trọng hơn. Như thánh Phaolô, chúng ta không nên tiếc vì đã chẳng sống vào thời của Tin Mừng. Thật là nguy hiểm khi chỉ biết Chúa Giêsu qua những vẻ bên ngoài theo xác thịt, mà không sống mật thiết với Người trong Thần khí.

5. Thánh Thần là hồng ân được ban cho chúng ta như hoa quả mà Chúa Kitô thâu lượm được nhờ cuộc Tử nạn của Người. Chính khi làm cho chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô mà Thánh Thần đặt trong chúng ta tâm tình con thảo mà Chúa Cha mong đợi nơi chúng ta. Như thánh Phêrô nói: “Tất cả những ai được Thần khí tác sinh, đều là con cái Thiên Chúa”. Quả thế, không phải anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nô lệ để mà phải sợ hãi; nhưng anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nghĩa tử làm cho chúng ta thốt lên: Abba, Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14- 16). “Ta sẽ không để các con mồ côi. Ta sẽ trở lại với các con”. Chúa Giêsu đã đến làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Cha Người. Người đã đến bằng con đường nhập thể để thực hiện kế hoạch tình yêu đó.

-------------------------------------

 

PS 6-A131: CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH NĂM A


 (14/05/2023)

LÔ-GÍCH CỦA TÌNH YÊU

[Cv 8,5-8.14-17; 1 Pr 3,15-18; Ga 14,15-21] 

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Thế giới loài người càng ngày càng phức tạp và nhiều xung đột vì mỗi người, mỗi nhóm người, mỗi PS 6-A131


Thế giới loài người càng ngày càng phức tạp và nhiều xung đột vì mỗi người, mỗi nhóm người, mỗi dân tộc sống theo một lô-gích riêng và các lô-gích ấy khó hòa hợp với nhau.

Các môn đệ Chúa Kitô cũng có lô-gích riêng của mình, lô-gích của tình yêu. Chính Chúa Giêsu Kitô đã xác định lô-gích ấy cho chúng ta:

 “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” Và “ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy."

Chúng ta chớ quên sống theo lô-gích của mình.

II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 8,5-8.14-17): "Các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần" Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Đức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả.

Khi các tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần.

2.2 Trong bài đọc 2 (1 Pr 3,15-18): "Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ

Thần Linh mà sống lại" Anh em thân mến, anh em hãy tôn thờ Chúa Kitô trong lòng anh em, hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Đức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em. Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác. Vì Đức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 14,15-21): "Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác" Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó".

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

- Là Thiên Chúa Cha, Đấng đã ban Thánh Thần cho các tín hữu miền Samari  qua việc đặt tay của các Tông đồ Phêrô và Gioan. Họ là những người đã tin đạo nhờ lời rao giảng của Tông đồ Philípphê và đã nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.

- Là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu chết một lần để chuộc tội nhân loại và đã phục sinh. Chính Người đã mặc khải và giảng giải cho các môn đệ về mối tương quan:

* giữa tình yêu và việc tuân giữ các điều răn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.”

* giữa Người (là Đấng ban giới răn) và những kẻ tuân giữ các điều răn: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy."

* giữa Thiên Chúa là Cha của Người và những kẻ giữ các điều răn: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến.”

* giữa Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác và những kẻ giữ các điều răn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.”

- Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở bên cạnh Chúa Cha và Chúa Con, Đấng luôn thúc đẩy và nâng đỡ những người tuân giữ các giới răn của Chúa Giêsu.

 

3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là hãy yêu mến Chúa Giêsu để được ban Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, được Chúa Cha và Chúa Giê-su yêu thương và được Chúa Giê-su tỏ mình ra. Yêu mến Chúa Giêsu không phải bằng tình cảm ủy mị, ướt át mà bằng những việc làm cụ thể là tuân giữ các giới răn, thực thi các lệnh truyền của Người.

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Chúa như con cái sống với cha mẹ, như người bạn sống với bạn mình, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục!

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa bằng cách nuôi dưỡng và tăng cường tình yêu đối với Chúa Giê-su Ki-tô, đối với Thiên Chúa. Nuôi dưỡng và tăng cường tình yêu ấy bằng/qua

- việc đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày;
- việc chia sẻ Lời Chúa trong nhóm nhỏ;
- việc tham dự các Khóa học hỏi và cầu nguyện Thánh Kinh;
- việc tham dự các buổi tĩnh tâm, linh thao, các khóa huấn luyện tâm linh;
- việc thực hiện các việc bác ái, từ bỏ và phục vụ tha nhân.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý:  ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]

5.1 “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã chết trên thập giá để cứu chuộc mọi người.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy"  Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Kitô hữu cảm nghiệm được hạnh phúc của những kẻ yêu mến Chúa Giêsu!

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.3 “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta,  để mọi người thể hiện lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa bằng cách tuân giữ các giới răn, thực thi các lệnh truyền của Chúa Giêsu Kitô! 

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.4 “Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chối bỏ và chống lại Thần Khí sự thật và bách hại các Kitô hữu và những kẻ ngay lành trong các xã hội loài người ngày hôm nay.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

Sàigòn ngày 10/05/2023
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

-----------------------------------

 

PS 6-A132: CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BẢO TRỢ

 

Xin Chúa cho chúng con được biết Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trở chúng con, và luôn tìm PS 6-A132


TMĐP- Xin Chúa cho chúng con được biết Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trở chúng con, và luôn tìm đến với Ngài, vì Ngài là Thần Khí sự thật, Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con.

Sau khi được gặp Đức Giêsu phục sinh và nhận ơn Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,1-4), các môn đệ không còn sợ hãi, nhát đảm, nhưng đi đến khắp các miền để rao giảng Đức Giêsu chịu đóng đinh đã sống lại từ cõi chết, và  nhiều người đã tin vào lời các ông loan báo về Nước Thiên Chúa, về danh Đức Giêsu Kitô và  xin chịu phép rửa.

Sách Công Vụ Tông Đồ kể về việc ông Philípphê đến rao giảng trong miền Samari và nhiều người Samari đã chứng kiến những dấu lạ ông làm và tin vào Đức Giêsu (x. Cv 8,5-8).

Như chúng ta biết, Samari là vùng đất mà con cái Ítraen không được bước vào, vì đối với người Do Thái truyền thống, người Samari bị coi là phường lạc giáo, quân ngoại đạo. Nhưng hôm nay, chính những người Samari “lạc giáo, ngoại đạo” lại vui vẻ đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu.

Nghe tin vui dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa, hai ông Phêrô và Gioan đã đến với họ để họ nhận được Thánh Thần, khi đặt tay trên họ (x. Cv 8, 14-17).

Như thế, công cuộc loan báo Tin Mừng đã bước thêm một bước dài quan trọng, đó là đến với các dân tộc ở vùng ngoại biên, và dân ngoại từ đây không còn ở ngoài tầm ngắm của Tin Mừng, nhưng là đối tượng của công cuộc loan báo Tin Mừng.

Thực ra, các môn đệ đã được Đức Giêsu nói cho biết trước  bước tiến của công cuộc loan báo Tin Mừng này, mà ở đó, Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần sẽ đến với các ông: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.” (Ga 16,13-15).

Qua những lời này, Đức Giêsu khẳng định và giải thích nhiều điều mà có thể chúng ta chưa rõ, đó là:

Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một trong công cuộc tạo dựng và cứu độ nhân loại:

Có nhiều người nghĩ Ba Ngôi Thiên Chúa làm việc theo ca, nghĩa là mỗi Ngôi có giờ làm việc, có thời khắc hoạt động riêng và nhất đinnh, nên khi xong việc, hết giờ thì rời bỏ nhiệm sở, nhường lại chỗ làm việc cho Ngôi khác, như Đức Giêsu sau khi hoàn tất công cuộc cứu chuộc đã về trời, và để lại Giáo Hội, nhân loại cho Chúa Thánh Thần xử lý.

Nghĩ như thế là sai lầm nghiêm trọng, bởi Ba Ngôi là một, Ba Ngôi mật thiết kết hợp với nhau trong tất cả. Vì thế, Chúa Thánh Thần không tự mình đến, như Đức Giêsu đã quả quyết: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26), và Ngài cũng không đến để  thế vào sự vắng mặt của Đức Giêsu. Trái lại, Chúa Thánh Thần đến để làm hoàn hảo sự có mặt của Đức Giêsu, để  kiện toàn công trình của Đức Giêsu, để dẫn  tới  sự thật toàn vẹn của Đức Giêsu như chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi bào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,12-13).

Quả thực, nghe những lời này từ miệng Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa,  chúng ta không  thể nghi ngờ chân lý Ba Ngôi là một Thiên Chúa, và mọi hoạt động đều có mặt của cả Ba Ngôi.

Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ:

Sở dĩ Đức Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ Ngài: “Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn … và  loan báo cho anh em biết những gì sẽ xảy đến” (Ga 16,13), vì con đường sống đức tin của người Kitô hữu là con đường loan báo Tin Mừng. Nhưng để Tin Mừng được loan báo, người tín hữu, tức những người đã chịu phép rửa  nhân danh Đức Giêsu Kitô, sẽ được mời gọi dấn thân vào việc  bảo vệ kho tàng đức tin, là giáo huấn của Đức Giêsu.

Nói cách khác, sứ vụ loan báo Tin Mừng bao gồm công tác hộ giáo, nghĩa là trình bày giáo lý đức tin một cách chính xác và thuyết phục, điều mà tông đồ trưởng Phêrô viết trong thư gửi các tín hữu: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng” (1 P 3,15-16).

Đi xa hơn, thánh Tông Đồ  còn căn dặn người Kitô hữu trên đường truyền giáo phải biết cách đối phó với những kẻ ác tâm luôn tìm dịp để nguyền rủa, lăng nhục, và cách tốt nhất theo ngài, chính là “Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống, bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác” (1P 3,16-17).

Căn dặn các tín hữu như vậy, thánh tông đồ Phêrô đã chỉ nhắc lại lời Đức Giêsu đã cảnh báo  về số phận “những bước chân  gieo mầm Cứu Rỗi” của các môn đệ Ngài: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10,3). “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ… Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,17.19-20).

Xin Chúa cho chúng con được biết Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trở chúng con, và luôn tìm đến với Ngài, vì Ngài là Thần Khí sự thật, Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Ngài luôn có mặt để yêu thương, gìn giữ, bảo trợ như lời Chúa hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha  và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. “Người luôn ở giữa anh em và trong anh em” (Ga 14,16.17).

Jorathe Nắng Tím

----------------------------------

 

PS 6-A133: ƠN TA ĐỦ CHO CON


Lm.Jos Tạ duy Tuyền

 

Xưa rất trọng chữ tín, họ hiểu rằng : ‘Một lần bất tín, vạn lần bất tin’, nên thường dạy con cháu PS 6-A133


Xưa rất trọng chữ tín, họ hiểu rằng : ‘Một lần bất tín, vạn lần bất tin’, nên thường dạy con cháu: ‘Nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay’. Chữ Tín trong cuộc sống không chỉ là sự tôn trọng dành cho người khác mà đó còn là tôn trọng danh dự của chính bản thân mình. Khi ai đó không trọng chữ tín thì nhân cách người đó cũng bị hạ xuống thấp.

Nhưng đáng tiếc, với lối sống hiện sinh hôm nay đã có quá nhiều người sẵn sàng bán rẻ danh dự và nhân phẩm của mình khi không giữ chữ tín trong cuộc sống. Vợ chồng bất tín với nhau nên vẫn đầy rãy những vụ đánh ghen và  tệ hơn là đem nhau ra toà chia tay. Xã hội không có chữ tín nên đầy thị phi của lừa gạt, gian dối, buôn gian bán lận khiến con người chẳng dám tin ai!

Trong số những mẫu gương về chữ tín hiện đại người ta thường nói đến tỷ phú Lý Gia Thành. Ông đặt chữ tín trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Năm 1996, vị tỷ phú Hồng Kông đã gặp một biến cố lớn khi con trai của ông là Lý Trạch Cự bị một nhóm tội phạm bắt cóc đòi tiền chuộc. Chúng dặn ông không được phép báo cảnh sát, nếu không sẽ ngay lập tức xử lý con tin và Lý Gia Thành đã đồng ý.

Ngay khi bọn bắt cóc tới, chúng lùng sục khắp nơi vì nghi ngờ có cảnh sát đang ẩn núp xung quanh. Nhưng Lý Gia Thành chỉ nói: ‘Cả cuộc đời kinh doanh của tôi chẳng có thành tựu gì lớn, ngoại trừ chữ Tín trong từng lời nói của mình.’ Rồi ông để mặc bọn bắt cóc tìm kiếm khắp một vòng quanh nhà, mở cửa tất cả các phòng để tự kiểm chứng không có bóng dáng cảnh sát nào gần đây.

Bấy giờ, bọn bắt cóc yêu cầu 2 tỷ đô la Hồng Kông làm tiền chuộc. Lý Gia Thành chỉ có thể gấp rút chuẩn bị một nửa số tiền đó từ ngân hàng và hứa sẽ chuyển nốt một nửa còn lại đến tận tay bọn họ sau 2 ngày. Lúc đầu, đám bắt cóc còn bán tín bán nghi, nhưng sự thật sau đó đã chứng minh rằng, dù con trai đã trở về, vị tỷ phú Hồng Kông vẫn giữ đúng lời hứa và chuyển cho họ 1 tỷ đô la còn lại.

Khi được hỏi tại sao lại hành động như vậy, Lý Gia Thành đã khẳng định: ‘Chữ Tín là sinh mệnh thứ hai, một khi đã mất đi thì dù có đánh đổi bao nhiêu tiền bạc và công sức cũng không thể lấy lại được. Do đó, tôi đã bằng lòng điều gì, thì nhất định tôi sẽ thực hiện điều đó đến cùng.’ Đó chính là bản lĩnh giúp cho người đàn ông này xây dựng nên cả gia tài và sự nghiệp từ hai bàn tay trắng. Nó đại biểu cho một phần đạo đức, một phần nhân phẩm không thể thiếu của mỗi con người.

Cuộc đời ky-tô hữu chúng ta Chúa cũng đòi hỏi sống chữ tín với Chúa. Dù giữa cuộc đời đầy cám dỗ nhưng người tín hữu vẫn phải trung thành sống theo lời dạy của Chúa.  Đây là điều mà Chúa Giê-su trước khi về Trời đã căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”. Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giê-su, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người ky-tô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.

Nhìn vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ, khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ của tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác. Giữa một thế giới có quá nhiều cám dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa? Có lẽ vì nguyên nhân đó, mà Chúa Giê-su đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí đến cho chúng ta. Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng. Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng ta gặp gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa hằng: “Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”
Nguyện xin Chúa Ky-tô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Amen.

---------------------------

 

PS 6-A134: THẦY Ở CÙNG ANH EM


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Có bao lần ngụp lặn trong những lo âu, buồn chán, đau khổ, bi ai, thất vọng… ta có thể biết đến PS 6-A134


Có bao lần ngụp lặn trong những lo âu, buồn chán, đau khổ, bi ai, thất vọng… ta có thể biết đến lời hứa của Chúa: “Thầy ở với anh em” để ra khỏi những muộn phiền trong đời sống, hay ta cứ ở lỳ trong đó tìm lối giải thoát ngoài Chúa. Ta không thấy Chúa ở bên đời ta, không cùng Chúa để chính Chúa mới là Đấng giải thoát với cố gắng của ta.

Đau khổ, muộn phiền lấp đầy ngoài Chúa, ta tìm những thú vui khác để lấp đầy: mua sắm, đổ lỗi, tìm khoái lạc thể xác, những thứ thuốc an thần… Ngoài Chúa, ta tìm lồi thoát, nhưng càng có giải pháp ngoài Chúa, ta lại vấp phải nỗi buồn khác chồng chất thêm. Ngoài Chúa, ta vẫn cứ hoài mệt mỏi với những cố gắng tự thân, rồi buông trôi. Ngoài Chúa, ta đi tìm lời an ủi, khích lệ từ người thân chung quanh, nhưng cũng gặp phải nhiều lời gièm pha, chỉ trích và thêm lời chế giễu, bôi nhọ, xem thường. Ta rút lui với mình ta cũng nỗi buồn dẫn ta đến trầm cảm, tự kỷ, hay tìm đến những chất kích thích, ảo giác. Trong nhiều đau khổ của ta thường đến từ việc thương “cái tôi” của ta lớn quá. Tự xem mình là trọng tâm quan trọng hơn người khác, luôn hình dung, đặt điều, suy diễn những điều không thực sự diễn ra. Giống như một người ghen tuông, lúc nào cũng tưởng tượng người bạn đường phản bội, với những cảnh tượng ghê gớm, khoét sâu vào lòng của mình những đau đớn.

Có một nguyên tắc, Thánh Gioan kim khẩu nói rằng: “không ai có thể làm mình tổn thương, đau khổ, nếu mình không tự gây ra cho mình”. Nguyên nhân đau khổ do chính mình gây nên bởi chính “cái tôi” ích kỷ của mình. Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn, người khôn xây nhà trên đá, kẻ dại xây nhà mình trên cát. Người dại xây nhà mình trên những điều bấp bênh, nhẹ dạ, đồi bại, giận hờn, thù oán, vong thân, sẽ lãnh lấy hậu quả trên những nền tảng ấy. Ngay cả việc tự trách mình quá đáng cũng cần tiếp cận với việc biết tha thứ cho mình để đứng dậy làm lại những gì mới mẻ , tốt lành. Nếu cứ nghiền ngẫm và nghe dư luận phê phán mình thì chẳng bao giờ ra khỏi muộn phiền, đau khổ.

Như ông Gióp là một con người vững mạnh giữa những đau khổ tự nhiên kéo đến và cũng chẳng phải chịu những đau khổ từ những lời gièm pha chung quanh. Ông ý thức bản thân của mình, có đó rồi mất đó, ông nghiệm thấy điều Chúa ban cho rồi Chúa lấy lại cũng tùy thuộc vào Chúa. Lòng trông cậy của ông nơi Chúa có một điều rất đặc biệt, đó là kinh nghiệm về Thiên Chúa giữa đau khổ của mình: “Trước kia con chỉ biết Người qua người ta nói lại; bây giờ chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều con nói ra xin rút lại, con sấp mình hối lỗi, ăn năn” (Giop 42, 5). Ông nhận ra mình chỉ là cát bụi, không thể ngang hàng tranh luận cùng Thiên Chúa. Tất cả đều do sự tốt lành của Chúa, Người thử thách để ta được lớn lên trong phẩm cách làm người.

Thầy ở với anh em.

Ý thức việc “Chúa sống trong tôi” như Thánh Phaolô biểu hiện trong đời sống của ngài: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư?  Như đã viết: Vì Người chúng tôi bị sát phạt suốt ngày, chúng tôi bị kể như chiên lò sát. Nhưng trên các điều ấy hết thảy, chúng ta toàn thắng, nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8, 35 – 37).

Dù ta chưa biết Chúa nhiều như những nhà Thánh Kinh, hay thần học gia, hoặc những bậc tu hành đạo đức; nhưng với một đức tìn, niềm trông cậy và một lòng yêu mến, đơn sơ chân thành thôi, ta cũng nghiệm thấy tình thương của Chúa dành cho ta trong mọi nơi mọi lúc. Người vẫn ở bên ta như một người bạn thân thiết, hiểu rõ ta và luôn trợ giúp ta mọi mặt trên đường đời. Luôn cầu xin Chúa ban thêm niềm tin cho ta, để lòng trông cậy được thêm lên và lòng mến yêu được gia tăng. Một thời gian đặc biệt nào đó Chúa ban cho, ta cũng lại thưa lên: “không có gì tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô”.

Thầy vẫn ở với anh chị em. Người đang sống và luôn sống. Xin Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng con khi niềm tin yếu kém, khi sức mạnh tinh thần lụn bại, khi lòng yêu mến nhạt dần.

-----------------------------------

 

PS 6-A135: ĐƯỢC THẦY YÊU MẾN


Bông hồng nhỏ

 

Ai trong chúng ta cũng đều được Chúa Giêsu hết mực yêu thương. Người đã tự nguyện hiến dâng PS 6-A135


Ai trong chúng ta cũng đều được Chúa Giêsu hết mực yêu thương. Người đã tự nguyện hiến dâng chính mình, chịu đóng đinh và chết trên cây thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thánh Phêrô đã viết trong một lá thư của ngài rằng: “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi -Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh (1.Pr 3, 18). Vốn dĩ là  một kẻ bất lương nhưng đã được Thiên Chúa thương xót, tôi phải làm gì để đáp lại tình yêu bao la mà Thiên Chúa đã dành cho tôi?

          Đây là lời Chúa Giêsu đã ngỏ với tôi: “Nếu con yêu mến Thầy, con sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho con một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với con luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (x.Ga 14, 15-17a). Tôi nhận thấy tình yêu Chúa trong tôi ngày càng được đong đầy. Đó không chỉ là tình yêu tôi đã dành cho Chúa nhiều hơn, nhưng hơn hết là tình yêu Chúa dành cho tôi mỗi ngày một nhiều hơn. Không phải hôm qua Chúa yêu tôi ít hơn hôm nay, nhưng là hôm nay Chúa cho tôi cảm nhận được nhiều hơn tình yêu Ngài dành cho tôi. Ngài dành cho tôi một tình yêu duy nhất, tình yêu trước sau như một. Điều làm tôi hạnh phúc là tôi được chính Thần Khí của Thiên Chúa làm cho sống. Tôi nhận thấy trái tim mình mỗi lần biết yêu như Chúa đã yêu thì nó được mở rộng ra. Đó là khi tôi đón nhận và cầu nguyện cho một người mà tôi ít thiện cảm, tìm kiếm và ghi nhận điều tốt đẹp nơi người đã ghét bỏ tôi, tôi cầu nguyện và dâng một việc làm hy sinh âm thầm là dấu để tôi tập bỏ mình, bỏ ý riêng và bỏ cái tôi ích kỷ. Khi tôi yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương tôi thì tôi cảm nhận được một sự bình an lặng lẽ trong tâm hồn. Đã nhiều lần tôi tự hỏi: “Sao người ta lại bắt tôi phải khắc phục hậu quả do lỗi của chính họ?” Tôi nhận thấy một ánh sáng chiếu soi trong tâm hồn tôi. Có một câu hỏi khác đến trong tâm trí tôi: “Tại sao Chúa Giêsu lại phải chết vì tội lỗi của chính tôi?” Tôi thấy xấu hổ cho chính mình. Chúa Giêsu đã đón nhận tôi, yêu thương tôi ngay khi tôi còn là một kẻ bất lương. Vậy mà tôi lại không đón nhận người khác như Chúa đã đón nhận tôi ư!

          Chúa Giêsu đã nhờ Thần Khí mà phục sinh vinh hiển. Ai sống trong Thần Khí thì cũng sẽ được sống sự sống mới. Thần Khí làm cho tôi nên giống Chúa Giêsu. Người làm cho tôi nhớ lại mọi điều Chúa Giêsu đã dạy tôi, nhớ lại những kinh nghiệm được Chúa sửa dạy, được đón nhận tình yêu của Chúa; Người giúp tôi tăng thêm niềm tin yêu và phó thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Người luôn luôn thức tỉnh tôi, cho tôi sức mạnh và sự can đảm để đi theo con đường hẹp của Phúc Âm. Người hối thúc tôi đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu, quay trở về cùng Thiên Chúa sau mỗi lần sa ngã. Người đốt lòng tôi yêu mến Chúa Giêsu và cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi luôn là một người môn đệ được Chúa yêu.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã yêu con và không ngừng yêu thương con. Mỗi ngày, xin ban xuống trên con Thần Khí tình yêu của Chúa, để Người dạy con yêu Chúa và yêu người anh em. Mỗi lần con yêu thương như Chúa mời gọi là mỗi lần con cảm nhận rõ hơn tình yêu Chúa dành cho con. Chính khi con sống giới răn yêu thương là khi con được Chúa yêu mến và được Chúa tỏ mình ra. Amen.

--------------------------------

 

PS 6-A136: YÊU MẾN TRONG THẦN KHÍ


Anna Cỏ May

 

Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan có viết: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng PS 6-A136


Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan có viết: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,16). Chúa Giêsu cũng tự mình nói với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16). Ngài là Đấng Bảo Trợ cho các môn đệ và cho mọi người. Khi Ngài đi về với Chúa Cha, Ngài xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ khác cho các môn đệ. Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Người. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng vô hình, chỉ những ai có lòng khao khát tìm kiếm mới được nhận thấy.

Tuy nhiên trước những lời ấy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về lòng yêu mến được thực hiện như thế nào. Ngài nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Thước đo về lòng yêu mến của Chúa Giêsu không dựa trên số lượng, cân nặng của vật chất hay lời nói mà ở hành động, hành động ấy là tuân giữ các điều răn của Ngài. Vì chỉ khi các môn đệ có lòng yêu mến, đồng nghĩa họ có lòng tin nơi Thầy. Khi có lòng tin vào Thầy, Thần Khí mới sẽ đến ở giữa và ở trong tâm hồn các ông. Thần Khí xuất phát từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu mà đến với họ. Thần Khí sẽ giúp họ không còn sợ hãi hay mồ côi nữa, vì họ thấy Thầy trong chính họ (x. Ga 14,20).

Mỗi người Kitô hữu chúng ta đang được tiếp nối cuộc sống từ các môn đệ là sống trong Thần Khí khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và Bí tích Thêm Sức. Nhưng chúng ta có ý thức điều đó không? Chúng ta đã để cho mình sống trong tình yêu của Thiên Chúa không? Chúng ta có là người đang yêu mến Chúa hay chỉ yêu Chúa bằng cách thức chúng ta muốn? Đối với Chúa Giêsu, ai có và giữ các điều răn của Ngài, người ấy mới là kẻ yêu mến Ngài. Ai yêu mến Ngài thì sẽ được hưởng tình yêu của Chúa Cha và được Ngài yêu thương bằng việc Ngài tỏ mình ra cho người đó (x. Ga 14,21). Thánh Gioan cũng khẳng định: “Qủa thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người” (1Ga 5,3). Vì những lời của Chúa Giêsu là ý của Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Giêsu là một (x. Ga 10,30).

Lạy Chúa Giêsu! Chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng yêu thương chúng con. Ngài không để chúng con mồ côi nhưng luôn hiện diện với chúng con. Xin cho chúng con nhận ra tình yêu của Ngài và sẵn sàng tuân giữ các điều răn của Ngài trong sự soi dẫn của Thần Khí mới. Nhờ đó, chúng con được sống mật thiết trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

------------------------------------

 

PS 6-A137: CHIA SẺ NIỀM VUI


Lm Vũđình Tường

 

Cá nhân vui mừng khi đạt được thành quả tốt đẹp sau bao năm tháng khổ tâm luyện tập. Niềm vui PS 6-A137


Cá nhân vui mừng khi đạt được thành quả tốt đẹp sau bao năm tháng khổ tâm luyện tập. Niềm vui này được thân nhân, thân hữu và ngay cả các công dân khác mừng vui chung. Là thành viên của cộng đoàn Dân Chúa, Kitô hữu cùng đồng hành với các thành viên khác trong mọi vui buồn của cuộc sống. Đức Kitô là đầu, là thủ lãnh của cộng đoàn Dân Chúa. Ngài là nguồn sống, nguồn vui vô tận chung cho tất cả các Kitô hữu. Ngài tự nguyện gánh vác mọi tội lỗi và chết thay cho tha nhân. Qua Ngài, tha nhân nhận ơn trường sinh do Ngài ban. Kitô hữu cũng vui mừng đón nhận ơn đặc biệt Ngài ban, ơn lạ đó chính là Thánh Thần Chúa. Nếu Đức Kitô không hướng dẫn, Kitô hữu không thể biết có Thánh Thần Chúa. Kitô hữu vui mừng vì chính Đức Kitô xin Chúa Cha ban Thánh Thần Chúa cho các Kitô hữu. Điều Đức Kitô xin, Chúa Cha không bao giờ từ chối. Đức Kitô cho biết,Thánh Thần Chúa ngự trị thế giới nhưng thế giới không biết Ngài (Gn 14,17). Không biết bởi không nghe giáo huấn của Đức Kitô. Thánh Thần Chúa là nguồn tình yêu. Bởi từ chối thờ kính, yêu mến Đức Kitô, và không thương tha nhân nên không nhận biết Thánh Thần Chúa. Ơn đặc biệt Đức Kitô ban dành riêng cho những ai thành tâm yêu mến và tuân giữ giới răn yêu thương của Đức Kitô.

Trên thập giá, khi Đức Kitô lên tiếng ‘Lậy Cha, Con phó linh hồn Con tay Cha'( Lk 23,46). Người ta hiểu câu trên chính là câu nói cuối đời của Đức Kitô. Câu nói chấp nhận đầu hàng, chịu chết trước sức mạnh của quân La Mã. Kitô hữu hiểu Đức Kitô nói câu trên không mang í nghĩa đầu hàng, chấp nhận thất bại mà chính là tuyên ngôn của toàn thắng. Thứ nhất Đức Kitô chiến thắng sức mạnh của ma quỷ xuất hiện dưới hình thức cám dỗ, tội lỗi, để con người trở thành nô lệ cho cha quỷ. Thứ hai, Đức Kitô tiêu diệt sự sợ hãi do thần chết mang lại. Thần chết không còn độc quyền thống trị con người, nó bị Đức Kitô tiêu diệt khi Ngài sống lại từ cõi chết. Thứ ba, trước mặt quân lính La Mã và kẻ chống đối Đức Kitô, Ngài công khai tuyên bố họ có thể đóng đinh thân xác Ngài vào thập giá, nhưng hoàn toàn bất lực trước linh hồn Đức Kitô. Linh hồn Ngài thuộc về Chúa Cha và linh hồn đó tự do đi về cùng Chúa Cha. Quân lính và sức mạnh quân La mã không có khả năng kiểm soát, kiềm chế. Hiểu theo í nghĩa trên thì cái chết của Đức Kitô không phải là đầu hàng, không phải là kết thúc mà chính là khởi đầu cuộc sống mới. Cuộc sống toàn thiện, toàn mĩ trong nước Chúa. Xin phó linh hồn trong tay Chúa Cha chính là tuyên ngôn của sự sống mới, khởi đầu từ thập giá. Quả thực, Đức Kitô đã sống lại sau ba ngày an táng trong mộ. Ngài sống lại từ cõi chết, hiện ra và ở với các tông đồ một thời gian trước khi Thăng Thiên, về cùng Chúa Cha.

Đức Kitô về trời và ban Thánh Thần Chúa xuống trên các tông đồ, các Kitô hữu. Trái đất đầy ơn Thánh Thần Chúa. Ngoài Thánh Thần,

a/ Đấng tác tạo, chúng ta biết ở chương đầu của sách Sáng Thế Kí;
b/ còn có Thánh Thần Đức Kitô, trở về cùng Chúa Cha.
c/ Kitô hữu còn biết thêm về Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh sau khi Ngài sống lại từ cõi chết.
d/ Cuối cùng Kitô hữu còn có Đấng Bảo Trợ Đức Kitô ban.

Đấng Bảo Trợ không thay thế Đức Kitô nhưng làm công việc Đức Kitô khơi mào nơi trần thế. Đấng Bảo Trợ cùng đồng hành với các Kitô hữu để hướng dẫn, đào sâu và khai sáng những điều Đức Kitô hướng dẫn. Đấng Bảo Trợ làm sống lại giáo huấn của Đức Kitô trong tâm hồn các Kitô hữu. Đấng Bảo Trợ ban sức sống mãnh liệt sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Đấng Bảo Trợ tiếp tục đổi mới sức sống của Kitô hữu nơi trần thế. Đức Kitô về cùng Chúa Cha là tin vui cho Kitô hữu.

Thứ nhất, Đức Kitô làm trọn lời Hứa ban Đấng Bảo Trợ ở cùng Kitô hữu cho đến tận thế.

Thứ hai, Kitô hữu sống đời sống mới, đời sống được hướng dẫn và bảo trợ bởi Đấng Bảo Trợ.

Thứ ba, Đấng Bảo Trợ cùng đồng hành, ban sức mạnh, giúp kitô hữu trên đường lữ hành về nhà Cha. Thế hệ Kitô hữu tin theo Đức Kitô sau ngày Ngài về trời không thua thiệt thế hệ Kitô hữu tiên khởi bởi Kitô hữu của các thế hệ sau được Đấng Bảo Trợ hướng dẫn, chị dậy như chính Đức Kitô dậy. Qua Đấng Bảo Trợ Kitô hữu nhận biết Đức Kitô và Chúa Cha.

‘Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến ngưới ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy’. Gn 14,21.

Đấng Bảo Trợ khai sáng tâm trí Kitô hữu để họ yêu mến Đức Kitô hết tâm tình, và do đó ở cùng Đức Kitô và Ngài ở trong họ. Kitô hữu tôn thờ Thiên Chúa, không phải từ xa. Thiên Chúa đó ở rất gần, ngay trong tâm hồn, ngay trong tim họ. Kitô hữu không tôn thờ Đức Kitô đã chết ghi trong sử sách, mà tôn thờ Đức Kitô Phục Sinh, Đức Kitô sống đời sống mới, uy nghi, danh dự, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha, hiện đang sống trong tâm hồn các kitô hữu. Qua hành động bác ái, yêu thương và tha thứ, người ta nhận biết chúng ta là môn Đệ Đức Kitô Phục Sinh. Đấng liên kết Kitô hữu với Chúa Cha và với Thánh Thần Chúa, Đấng Bảo Trợ. Đó là niềm tin của các Kitô hữu.

---------------------------------

 

PS 6-A138: HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN


TRONG MẦU NHIỆM PHỤC SINH

        Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Cv 8:5-8, 14-17;  1 Pr 3:15-18;  Ga 14:15-21)

 

Vị lãnh đạo tài ba là người nhìn xa trông rộng, biết chuẩn bị cho tương lai.  Đây là điểm rõ ràng PS 6-A138


Vị lãnh đạo tài ba là người nhìn xa trông rộng, biết chuẩn bị cho tương lai.  Đây là điểm rõ ràng nhất khi chúng ta suy niệm về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nhờ cuộc Thương khó và Phục Sinh của Chúa Giê-su, rồi tiếp nối qua hành động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội.  Chúng ta đã có năm tuần lễ để chiêm niệm ý nghĩa mầu nhiệm Phục Sinh.  Bắt đầu hôm nay Phụng vụ Lời Chúa đưa ta đến với những đề tài về Chúa Thánh Thần.  Lời Chúa trước hết trình bày sinh hoạt của Chúa Thánh Thần trong việc tông đồ Phi-líp-phê rao giảng Tin Mừng tại Sa-ma-ri (bài đọc 1).  Tiếp theo là thư thứ nhất của thánh Phê-rô  nhắc nhở tín hữu hãy “ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô” để trả lời cho những kẻ chất vấn họ về niềm hy vọng được sống lại, vì chính Thánh Thần đã làm cho thân xác Đức Ki-tô được sống lại cũng sẽ cho ta được sống lại (bài đọc 2).  Sau cùng qua lời tâm sự với các tông đồ, Chúa Giê-su đã hứa xin Chúa Cha ban cho họ một “Đấng Bảo Trợ” là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn sống trong họ và liên kết họ với Người và với Thiên Chúa Cha (bài Tin Mừng).

Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội sau khi Chúa Ki-tô sống lại.  Có một điều thích thú là Phụng vụ Lời Chúa từ sau lễ Phục Sinh luôn trích sách Công vụ làm bài đọc 1 thay vì trích Cựu Ước.  Như ta đã biết, sách Công vụ là “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”, giống như sách Phúc Âm là Tin Mừng của Chúa Giê-su Ki-tô.  Sách thuật lại sinh hoạt của Giáo Hội sơ khai trong sức mạnh và dẫn dắt của Thánh Thần.  Đoạn Công vụ hôm nay kể lại hoạt động tông đồ của Phi-líp-phê.  Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì qua tông đồ Phi-líp-phê?   Nhờ bàn tay ngài, Chúa đã thực hiện “những dấu lạ”!  Những dấu lạ ấy là:  các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người, những kẻ tê bại và tàn tật được chữa lành.  Dân chúng Sa-ma-ri không những chứng kiến những dấu lạ, mà nhất là họ đã “một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê rao giảng”.  Đúng vậy, Chúa Thánh Thần đã dùng tông đồ Phi-líp-phê để loan truyền sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su cho dân chúng Sa-ma-ri.  Họ đã đón nhận lời giảng và chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.  Sau cùng từ Giê-ru-sa-lem, các tông đồ Phê-rô và Gio-an đã đích thân đến với họ, “đặt tay trên họ và họ nhận được Thánh Thần”.

Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn các Ki-tô hữu.  Chúng ta nhận biết những hoạt động tích cực của Chúa Thánh Thần trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội.  Nhưng hoạt động của Người cũng rõ ràng trong tâm hồn tín hữu nữa.  Đây là điều thánh Phê-rô khẳng định trong thư của ngài.  Ngài đã sớm nhận ra mối hiểm nguy cho đức tin của tín hữu khi họ “bị phỉ báng, vu khống và chất vấn về niềm hy vọng” của họ.  Vậy họ hy vọng điều gì?  Nhiều người đã hạch hỏi Ki-tô hữu:  Các anh các chị sống đức tin Ki-tô giáo vì hy vọng sẽ được sống lại trong ngày sau hết.  Vậy hy vọng ấy có thực không hay chỉ là điều hão huyền?  Do đó, để củng cố đức tin và niềm hy vọng của Ki-tô hữu, thánh Phê-rô đã nói đến vai trò của Thánh Thần.  Sở dĩ chúng ta “ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, chịu khổ vì làm việc lành theo ý Thiên Chúa” là vì ta hy vọng sẽ cùng được sống lại với Đức Ki-tô để hưởng phúc đời đời.  Vậy Đấng bảo đảm rằng hy vọng của ta không phải là hão huyền chính là Chúa Thánh Thần, Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.  Điều này thánh Phao-lô cũng đã quả quyết:  “Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:11).

Chúa Giê-su hứa ban Thánh Thần làm Đấng Bảo Trợ cho chúng ta.  Chúng ta đã nhận biết hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ của toàn thể Giáo Hội cũng như tâm hồn mỗi người chúng ta.  Nhưng trước khi ngự đến trong ngày lễ Ngũ Tuần thì Đấng Bảo Trợ ấy đã được Chúa Giê-su hứa ban:  “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”.  Chúa Thánh Thần được sai tới để “đến ở với anh em luôn mãi”.  Đúng thế, mục đích Thánh Thần đến ở với chúng ta là để giúp ta yêu mến Chúa Giê-su và tuân giữ các điều răn của Người.  Người đến với ta để khởi sự một đời sống mới theo các điều răn của Chúa Giê-su, một đời sống mà “thế gian không thể đón nhận”.  Rõ ràng sống theo Thần Khí của Chúa Ki-tô là đi ngược lại với lối sống của thế gian!  Do đó, Chúa Giê-su hứa ban cho ta Thánh Thần của Người là để Người “ở trong” chúng ta như sức sống và sức mạnh giúp ta kiên trì thực hành các điều răn của Người.  Nói khác đi, Chúa Thánh Thần ở trong tâm hồn ta chính là cách thức Chúa Giê-su Phục Sinh “ở lại” trong ta, để giúp ta tiếp tục con đường cứu độ Người đã mở ra cho ta và đưa ta đến với Thiên Chúa Cha vậy!
Sống sứ điệp Lời Chúa

          Thánh Phê-rô là người đầy kinh nghiệm về hoạt động của Chúa Thánh Thần khi ngài luôn kết hợp với Chúa Giê-su.  Ngài đã từng sống gắn bó với Chúa Giê-su, giờ đây nhờ Chúa Thánh Thần ngài tiếp tục ở lại trong Chúa Giê-su để hoàn tất sứ mệnh tông đồ.  Ngài đã “nhận lãnh” Thánh Thần của Chúa Ki-tô như sức mạnh nâng đỡ Người.  Chúng ta cũng đã nhận lãnh cùng một Thánh Thần ấy!

--------------------------------------

 

PS 6-A139: YÊU MẾN VÀ TUÂN GIỮ


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi chép lại trong hai chương 13 và PS 6-A139


Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi chép lại trong hai chương 13 và 14, cuối cùng Chúa đúc kết trong một lời khuyên ân cần : “Ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy“.                                          

Có câu chuyện “Cậu Bé Thủy Thủ” giàu ý nghĩa minh họa :

Cậu bé Louis, 15 tuổi, học nghề thuỷ thủ trên một chiếc tàu buôn. Một hôm, trời mưa to gió lớn làm cho các thuỷ thủ lạnh cóng và rét run. Viên thuyền trưởng đem rượu Whisky ra cho các thuỷ thủ uống để chống lạnh. Ông cũng đem rượu cho cậu bé Louis, nhưng cậu từ chối không uống. Viên thuyền trưởng ép cậu phải uống kẻo bị lạnh, nhưng Louis vẫn một mực từ chối. Vì tự ái, viên thuyền trưởng bắt cậu ra sàn tàu đứng ôm cột buồm suốt đêm.Sáng hôm sau, khi điểm tâm xong, viên thuyền trưởng mới chợt nhớ ra cậu bé Louis. Mọi người chạy lên sàn tàu thì thấy cậu bé đã ngất xỉu dưới chân cột buồm.Sau khi sưởi ấm và làm cho cậu bé tỉnh, viên thuyền trưởng mới dịu dàng hỏi : “Tại sao cháu lại cố chấp như thế ?”. Cậu bé trả lời : “Thưa ông, vì trước khi chết, mẹ cháu dạy cháu đừng bao giờ uống rượu. Và cháu đã hứa với mẹ điều ấy”. Viên thuyền trưởng ngạc nhiên hỏi : “Tại sao ?”. Cậu bé ngậm ngùi kể lại : “Cha cháu say sưa tối ngày vì rượu. Mỗi lần say, ông về đánh đập mẹ cháu, lấy đồ đạc trong nhà bán để uống rựơu. Mẹ cháu buồn quá sinh bệnh rồi chết. Cháu rất thương mẹ cháu. Xin ông đừng bắt cháu làm ngược lại những gì mẹ cháu đã dạy bảo”. Viên thuyền trưởng cảm động ôm lấy cậu bé và nói : “Con xứng đáng là con của ta, ta sẽ truyền nghề cho con”.

Cậu bé Louis vì thương mẹ nên đã vâng giữ lời mẹ dạy. Cậu vâng nghe lời mẹ vì yêu mến mẹ.

Tình yêu của mỗi tín hữu dành cho Chúa sẽ được thẩm định bằng việc tuân giữ Lời của Ngài. Tình yêu ấy được minh chứng bằng cuộc sống tốt lành hàng ngày.

“Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy”. Lòng yêu mến của mỗi tín hữu đối với Chúa chỉ có giá trị khi đi đôi với việc làm là “vâng giữ lời Chúa”.

Khi thực thi ý Chúa, người tín hữu nhận lãnh được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa : “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Câu nói này của Chúa Giêsu hướng chúng ta đến mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và nhất là ơn huệ Thánh Thần: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.Thánh Thần được ban chính là để làm chúng ta nhớ lại lời của Chúa Giêsu; như thế, chính khi chúng ta nhớ, hiểu và cảm nếm Lời Chúa trong cầu nguyện, trong thời gian tĩnh tâm, trong thánh lễ hằng ngày; khi để cho Lời Chúa trở thành lương thực, sự sống mỗi ngày của mình thì chúng ta đang chan hòa ơn Thánh Linh. Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, như thế tâm hồn mỗi người xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, thánh thiện, tốt đẹp, yêu thương, luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

“Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy“. Giữ lời của Thầy là chứng tỏ lòng thương mến của mình đối với Thầy. Lời cốt lõi của Thầy là các con hãy tuân giữ và thực thi giới răn yêu thương.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: Vạn sự đã do Tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về Tình yêu và đi vào trong Tình yêu (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống viên mãn.Thiên Chúa là dòng sông ân sủng. Khi kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho chúng ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta được sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua chúng ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

Những người yêu mến Chúa thì luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.

Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép:

“Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác…. Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng chia cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Ngài quả là người yêu mến Chúa thật và đã đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời.

Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa.

Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria. Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cưu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.

Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.

Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ: “Ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”.

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối: “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hiệp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con…

Lạy Chúa, chúng con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là chúng con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con xác tín rằng tình yêu của chúng con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp chúng con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.

Lạy Chúa, trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng con tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng con nhìn lên Mẹ như vị thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu như Mẹ là mẫu gương cho chúng con. Amen.

--------------------------------

 

PS 6-A140: THÁNH THẦN ĐẤNG BẢO TRỢ ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Nhìn vào Giáo Hội sơ khai, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sức sống mãnh liệt nơi các tín PS 6-A140


Nhìn vào Giáo Hội sơ khai, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sức sống mãnh liệt nơi các tín hữu. Từ mười hai tông đồ, gốc thuyền chài nhà quê, kém cỏi, đã được Thánh Thần sử dụng và biến các ông trở nên những con người miệt mài với sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho thế giới và biến đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Nhìn vào Giáo Hội, đặc biệt trong thời gian dịch bệnh này, chúng ta có thể thấy sự hoạt động mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần qua các sáng kiến mục vụ của Giáo Hội từ Giáo Hoàng cho đến các linh mục, các giáo xứ và giáo dân nhằm phục vụ dân Chúa và mọi người. Thánh Thần Đấng Bảo Trợ mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội vẫn không ngừng hoạt động cách mạnh mẽ, giúp Giáo Hội có thể thích ứng và đáp ứng cho việc phục vụ nhân loại trong thời đại mới này, nhằm đưa mọi người về với Thiên Chúa.

Trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu, trước khi chia tay với các môn đệ, Ngài hứa sẽ ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật…” Nói với các môn đệ về Đấng Bảo Trợ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho các ông về Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha sai đến để ở với các môn đệ luôn mãi. “Ngài là Thần khí của sư thật.” Ngài sẽ giúp các tông đồ của Chúa sống và làm chứng cho sự thật là chính Thiên Chúa. Những ai yêu mến sự thật, sống theo sự thật, thì sẽ đón nhận được Thần Khí Sự Thật, là đón nhận được chính Thiên Chúa. Trái lại, thế gian và ma quỷ thuộc về bóng tối, gian dối, chúng chống lại Thiên Chúa, từ chối ánh sáng và sự thật vì thế, thế gian không thể đón nhận được Thần Khí của sự thật. Chúa Giêsu còn giải thích thêm về sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần như một sức mạnh từ bên trong, đốt nóng tâm hồn và hướng dẫn mọi hoạt động của người tín hữu: “Người luôn ở giữa anh em và luôn ở trong anh em.” “Thánh Thần ở giữa anh em”, có nghĩa là Ngài sẽ là điểm quy tụ và liên kết mọi môn đệ của Chúa nên đồng tâm hiệp ý với nhau trong một đức tin và lòng mến. “Ngài ở trong anh em”, có nghĩa là Thánh Thần sẽ là nguồn động lực thúc đẩy và hướng dẫn người tín hữu đi theo đúng con đường Tin Mừng của Chúa Kitô.

“Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, nhưng anh em sẽ thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống… Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.” Với những lời này Chúa Giêsu cũng báo trước về việc Ngài sẽ thay đổi cách hiện diện với các môn đệ. Ngài sẽ không còn hiện diện cách thể lý với các môn đệ nữa, nhưng Ngài sẽ hiện diện bằng tình yêu, bằng sức sống của Ngài nhờ quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Cách hiện diện mới của Chúa Giêsu là một sự hiện diện gần gũi, mật thiết còn hơn hiện diện bằng xương thịt. Chúa Giêsu đã diễn tả sự mật thiết đó bằng từ “ở trong”: “Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.” Chúa Giêsu sẽ ở trong các môn đệ, nên một với các ông bằng quyền năng của Thánh Thần như một nguồn sức mạnh, nguồn năng lượng và là người dẫn đường giúp các tông đồ sống, hoạt động và đi theo sự hướng dẫn của Ngài.

Chính nhờ sự hiện diện của Thánh Thần trong tâm hồn, các tông đồ đã ra khỏi sự chật hẹp của căn phòng tiệc ly để đem Tin Mừng Phục Sinh đến với muôn dân. Những chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ, kể về hoạt động truyền giáo, xây dựng giáo đoàn của Phêrô và Phaolô. Hai ông trở nên như biểu tượng của Giáo Hội, như hiện thân của chính Chúa Kitô nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động trong các ông. Chúa Thánh Thần còn hoạt động trong các cộng đoàn tín hữu sơ khai, giúp họ sống trong bầu khí huynh đệ, yêu thương và một lòng một ý với nhau trong việc tham dự thánh lễ, cầu nguyện và làm việc bác ái. Đoạn sách hôm nay lại kể về hoạt động truyền giáo của tông đồ Philipphê, người đã từng xin với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con. Chúa Giêsu đả trả lời ông: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Con không tin Thầy ở trong Cha và Cha ở trong thầy ư?” Tông đồ Philipphê quả thật đã được ở trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở trong ông, vì thế ông đã miệt mài rao giảng cho dân vùng Samaria về Chúa Giêsu: “Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philipphê giảng bởi được nghe và chứng kiến những dấu lạ ông làm.” Nhân danh Chúa Giêsu, Philipphê làm nhiều dấu lạ như trừ quỷ, chữa lành bệnh tật khiến cho người dân trong thành rất vui mừng. Khi nghe biết dân Samaria đã tin vào Tin Mừng, ông Phêrô và Gioan đã đến với họ. Đến nơi, hai ông đã đặt tay, cầu nguyện cho họ để họ đón nhận được Thánh Thần, làm cho họ trở nên một cộng đoàn Giáo Hội.

Trong bài đọc hai, thánh Phêrô quả quyết cho chúng ta, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì cũng chính Ngài sẽ ban cho những người tin vào Chúa Phục Sinh sức sống của Ngài, giúp mở lòng đón nhận Đức Giêsu đến ở trong chúng ta. Một khi có Chúa Kitô ngự trong tâm hồn, cùng sống và hoạt động với mỗi người, chúng ta sẽ mạnh dạn, can đảm làm chứng về Chúa Phục Sinh cho mọi người chung quanh. Thánh Phêrô nhắn nhủ chúng ta: “Hãy tôn Người là Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với lòng kính trọng.” Thánh Phêrô còn nói thêm: “Anh em hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em sống ngay thẳng… họ phải xấu hổ vì những điều họ đã vu khống.”

Thưa quý OBACE, Đấng bảo Trợ là Chúa Thánh Thần đã được Chúa Giêsu xin với Chúa Cha và Thiên Chúa đã ban tặng cho thế giới. Đấng Bảo Trợ đã và còn đang hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và nơi mỗi tâm hồn con người. Tuy nhiên, vì Ngài là Đấng Bảo Trợ, Ngài chỉ có thể trợ giúp những ai khiêm tốn, sẵn sàng cậy nhờ đến Ngài và để cho Ngài hoạt động. Một khi ngoan ngoãn phó thác cho sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần sẽ ban sức mạnh cả thể xác và tinh thần giúp chúng ta có thể đương đầu với khó khăn thử thách cũng như những tấn công của thế gian, ma quỷ. Trái lại, Đấng Bảo Trợ sẽ không thể hoạt động nơi những tâm hồn kiêu căng cậy dựa vào sức riêng mình mà loại trừ Ngài ra khỏi tâm hồn.

Đấng Bảo Trợ sẽ trợ giúp chúng ta trong đời sống đức tin, biến chúng ta trở thành những học trò dễ bảo của Thánh Thần, Ngài sẽ giúp chúng ta gặp được Đức Giêsu Phục Sinh và làm cho Chúa Phục Sinh ở lại trong tâm hồn chúng ta. Thánh Thần sẽ biến chúng ta nên những thụ tạo mới, Ngài sẽ thanh luyện lòng trí và con người để chúng ta yêu mến gắn bó với Chúa Phục Sinh và trở nên những người làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới chung quanh.

Chúng ta đang sống trong thế giới hiện đại, sức ép của công việc, kinh tế đang đè nặng trên mỗi người. Trách nhiệm và bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con đang đòi hỏi chúng ta rất nhiều, khiến cho nhiều người đang cảm thấy mệt mỏi trong đời sống gia đình, trong công việc. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Ngài sẽ trợ giúp chúng ta sức mạnh, niềm vui và sự hăng say phấn khởi để chúng ta có thể chu toàn bổn phận của mình cách vuông tròn. Đừng ngại ngần để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và đừng từ chối Ngài, nhưng sẵn sàng vâng theo sự soi sáng của Ngài chúng ta sẽ được sống trong sức mạnh của Ngài và đạt được hạnh phúc đích thực.

Đấng Bảo Trợ là Sức Mạnh, là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, xin Ngài ban sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài trên chúng ta, giúp chúng ta có sức mạnh chống trả lại sự ươn hèn và cám dỗ của ma quỷ; đủ khôn ngoan sống theo sự hướng dẫn của Chúa, để có thể được ở với Chúa và ở trong Chúa là hạnh phúc đời đời. Amen.

-------------------------------------

 

PS 6-A141: THẦN KHÍ CHÚA


Trầm Thiên Thu

 

Thánh Gioan xác định: “Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí PS 6-A141


Thánh Gioan xác định: “Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.” (Ga 3:6) Cũng như gió, người ta có thể cảm nhận nhưng không thể thấy hoặc sờ được: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.” (Ga 3:8) Thật là kỳ diệu!

Gió thổi mát mọi người, không phân biệt ai – dù hiền nhân hay ác nhân, dù hữu thần hay vô thần. Đó là yêu thương, là đức mến, là đức ái, và cũng là lòng thương xót. Đạo Công giáo là “đạo yêu thương” vì “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Do đó, đức mến luôn quan trọng và cần thiết, bởi vì ở trên Nước Trời vẫn còn đức mến – dù không còn đức tin và đức cậy. (x. 1 Cr 13:13)

Như dạng mặc định được “cài đặt” sẵn, không thể chỉnh sửa: “Đời là bể khổ.” Vì thế, con người luôn cần yêu thương – yêu và được yêu. Cuộc sống không có tình yêu thương thì cũng như trái đất không có ánh mặt trời. “Vô tri bất mộ” là điều tất yếu. Không biết thì không mến, thậm chí còn có thể ghét, nhưng khi đã biết thì người ta cảm thấy mến. Lẽ thường ở đời là thế. Tuy nhiên, trước khi BIẾT thì phải MUỐN BIẾT, muốn biết thì mới cố gắng TÌM HIỂU, nhưng phải tìm hiểu kỹ lưỡng, thấu đáo, không thể hời hợt hoặc gặp chăng hay chớ. Một khi đã biết rõ rồi thì sẽ nảy sinh lòng yêu mến, và có thể say đắm – gọi là si tình (một dạng “điên” nhẹ). Mà đã yêu mến tức là đã thực sự tin tưởng. Mối liên kết rất lô-gích. Các thánh cũng đã “điên” nên mới yêu mến Chúa đến nỗi bỏ mọi sự – kể cả mạng sống. Điên thật!

Không thể không điên. Vì Thánh Phaolô bảo: “Ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22) Nhưng mến Chúa thì phải yêu người. Đó là điều quan trọng, là hệ lụy tất yếu. Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Ga 4:20) Về vấn đề này, Thánh Sibyllina Pavia “mở rộng” thêm: “Ai không yêu mến anh em thì không thể trở thành anh dũng tử đạo.” Có tình yêu thì người ta có thể làm được mọi sự, kể điều lớn lao, đúng như Thánh Augustinô xác định: “Cứ yêu thật đi rồi muốn làm gì thì làm.” Với kinh nghiệm hoang đàng, thánh nhân đã nuối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới!” (Tự Thuật, số 10 & 27) Còn Mẹ Thánh Teresa Calcutta giải thích: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể.” Ôi, một chuỗi yêu thương kỳ diệu biết bao!

Kinh Thánh kể lại sự thật lạ lùng: “Ông Philípphê xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó. Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philípphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm.” (Cv 8:5-6) Họ không chỉ nghe đồn mà còn chứng kiến các dấu lạ do ông Philípphê đã thực hiện. Vì họ đã biết nên họ không thể làm ngơ, không thể không chú ý. Thật vậy, “các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám, nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng.” (Cv 8:7-8) Đó là chính Thiên Chúa hành động nơi ông Philípphê.

Ngày ấy, các tông đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa, các ông đã cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ để họ nhận được Thánh Thần. Kinh Thánh cho biết: “Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.” (Cv 8:16-17) Đó là Bí tích Thêm sức, loại bí tích cho chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần viên mãn. Nhờ Ngài mà chúng ta can đảm hành động, dám nói về sự thiện, đặc biệt là nói về Thiên Chúa.

Xưa nay chúng ta quen nói “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông minh, đạo đức, và kính sợ Chúa. Đó là cách nói của Kinh Thánh, vì số 7 là con số kỳ diệu của Kinh Thánh, thực ra Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó, mà là tất cả các ơn. Thật hạnh phúc được nhận biết Thiên Chúa, được yêu mến Ngài, và được lãnh nhận Chúa Thánh Thần: “Bình an cho anh em.” (Lc 24:36; Ga 20:19; Ga 20:20; Ga 20:26) Chắc chắn ai cũng cần bình an, muốn bình an thì phải có Chúa Thánh Thần.

Người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng đó, dù chỉ một giây, chắc chắn là vậy. Thế nên Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên mừng Danh Thánh rạng ngời, nào dâng lời ca tụng tôn vinh!” (Tv 66:1-2) Hòa chung niềm vui đó, chúng ta cũng hãy thưa cùng Thiên Chúa: “Vĩ đại thay, sự nghiệp của Ngài! Trước thần lực uy hùng, địch thù khúm núm. Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh. Đến mà xem công trình của Thiên Chúa: hành động của Người đối với phàm nhân thật đáng kinh đáng sợ!” (Tv 66:3-5) Giữa cuộc đời nhiêu khê này, chúng ta luôn được Chúa Giêsu động viên: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14:27)

Thiên Chúa toàn năng, chính Ngài “làm cho biển khơi hoá đất liền và dân Người đi bộ qua sông, việc Người làm đó khiến ta hoan hỷ. Chúa uy dũng hiển trị muôn đời; đôi mắt Người theo dõi chư dân, quân làm phản chớ có hòng nổi dậy!” (Tv 66:6-7) Lịch sử đã và đang chứng tỏ như vậy, không một thần linh nào có thể làm được các vĩ công như Thiên Chúa của chúng ta. Đó là niềm tin xác thực, không mơ hồ hoặc ảo tưởng.

Thực sự là một hồng ân cao cả đối với chúng ta khi nhận biết Ngài, yêu mến Ngài và tôn thờ Ngài, vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước (1 Ga 4:19) và yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1) – dù chúng ta chỉ là lũ tội nhân, là bọn bất lương. Và rồi vì thương xót kiếp khốn cùng của chúng ta, Chúa Cha đã bắt Con Một Yêu Dấu phải chết thay chúng ta, dù Người Con van xin nhưng Ngài vẫn “làm ngơ” chỉ vì muốn cứu độ chúng ta. Ơn cứu tử này quá lớn. Thật vậy, chính Ngài chọn chúng ta từ trước khi vũ trụ được tạo thành chứ không phải chúng ta chọn Ngài. (Ep 1:4) Tuy nhiên, ai từ chối Ngài là do mình tự chọn.

Thật tuyệt vời, vì Thiên Chúa của chúng ta tuyệt đối, vĩ đại, duy nhất, hết lòng bảo vệ chúng ta: “Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa.” (Đnl 32:10) Không chỉ vậy, tình thương đó còn được đóng ấn tín bằng lời “thề độc” này: “Kẻ nào động đến các ngươi là động đến con ngươi mắt Ta.” (Dcr 2:12) Ôi, lạy Chúa! Thực sự chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu thấu. Vì thế, tự mình phải mau mắn và hãnh diện chia sẻ niềm vui đó với người khác: “Xin chúc tụng Thiên Chúa đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng, lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình.” (Tv 66:20) Thật vậy, “muôn ngàn đời Ngài vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; 2 Sb 20:21; Er 3:11; 1 Mcb 4:24; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26)

Với thành ý nhắn nhủ, Thánh Phêrô nói: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống.” (1 Pr 3:15-16) Tại sao phải giữ “thẳng” mà không thể du di “cong” một chút? Giáo hoàng tiên khởi giải thích: “Bởi lẽ THÀ chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, CÒN HƠN là vì làm điều ác. Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.” (1 Pr 3:17-18) Rất rõ ràng. Cũng chính lòng mến đó được Chúa Thánh Thần không ngừng tác động.

Trong Việt ngữ, danh từ “chuỗi” thật hay, nói lên sự liên kết nối tiếp liên tục. Chuỗi tình yêu thương là chuỗi yêu mến, là chuỗi lòng thương xót, như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.” (Ga 14:15) Từ hệ lụy đó lại có mối liên kết khác: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (Ga 14:16-17) Giữa chúng ta luôn có Chúa Thánh Thần, cũng luôn có Chúa Giêsu. (x. Mt 28:20) Và tất nhiên cũng có cả Chúa Cha nữa. Trên cả tuyệt vời!

Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã hứa chắc: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em.” (Ga 14:18) Nhưng rồi Ngài bảo: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.” (Ga 14:18-20) Ôi chao, răng mà khó hiểu rứa tề? Nhưng không phải vậy, cứ bình tĩnh. Đó là Ngài muốn đưa chúng ta tới đức ái trọn vẹn, nhờ biết yêu mến mà chúng ta khả dĩ lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách viên mãn để đủ can đảm làm chứng về Thiên Chúa – Đấng Sự Thật, Ánh Sáng Thật, Sự Sống Thật, Con Đường Thật. Đó là hạnh phúc đích thực của mỗi tín nhân.

Về “chuỗi” yêu mến, Chúa Giêsu dẫn chứng rạch ròi: “Ai CÓ và GIỮ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14:21) Ngài tỏ mình cho mỗi người mỗi cách, mỗi người được nhận biết theo cách riêng, không ai giống ai, nhưng vẫn là MỘT Thiên-Chúa-Ba-Ngôi duy nhất. Nếu chưa hiểu và chưa cảm nhận, Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho, với điều kiện là phải thành tâm thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa.

Thánh Gioan định nghĩa ngắn gọn mà sâu sắc và trọn vẹn: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Vì thế, ai yêu mến Ngài thì tuân giữ Luật Ngài, luật đó là Luật Yêu, yêu Chúa thì phải yêu người. Hoàn toàn lô-gích. Yêu Chúa không khó bằng yêu người, chỉ cần thực hành “chuỗi yêu” trong 1 Cr 13 thì cũng cảm thấy “toát mồ hôi” rồi, vì yêu không thể nói suông mà phải thể hiện bằng hành động, thể hiện qua từng động thái nhỏ. Vả lại, tha nhân là huynh đệ của chúng ta và là những người có Thiên Chúa trong lòng – ngay cả những người tự xưng là vô thần. Ai sống yêu mến thì mới được lãnh nhận Thần Khí Sự Thật của Thiên Chúa – đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Đấng Kiến Tạo Hòa Bình, là Đấng An Ủi, là Đấng Bảo Trợ,…

Ngày xưa, khi chọn Bơxanên, con của Uri, con của Khua, thuộc chi tộc Giuđa, Thiên Chúa đã hứa với ông Môsê: “Ta sẽ ban cho nó dồi dào Thần Khí của Thiên Chúa để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật làm bằng vàng, bạc hay đồng, mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc.” (Xh 31:3-5) Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn không bao giờ sai. Ước gì mỗi chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Khí Chúa để làm vinh danh Chúa bằng chính khả năng riêng mà chúng ta lãnh nhận từ nơi Ngài. Đừng quên rằng chúng ta luôn phải “hết dạ tri ân.” (Cl 3:15)

Ơn Chúa chan hòa nhưng đôi khi chúng ta giả nai hoặc làm ngơ nên quên nói lời cảm ơn đối với Thiên Chúa (và cả với tha nhân nữa). Trong cơn đại nạn corona, có câu chuyện lưu truyền trên internet, mặc dù chưa kiểm chứng được tính xác thực, nhưng nội dung của nó rất đáng để chúng ta phải suy ngẫm.

Chuyện kể rằng: Một ông lão 93 tuổi người Ý phải nhập viện vì nhiễm bệnh, rồi sức khỏe cải thiện tốt, ông được thông báo cần thanh toán chi phí sử dụng máy trợ thở. Ông lão bỗng nhiên bật khóc, bác sĩ khuyên ông đừng khóc vì tờ hóa đơn. Nhưng ông lão trả lời: “Không phải tôi khóc vì tờ hóa đơn, tôi có thể thanh toán đầy đủ. Tôi khóc vì tôi đã hít thở bầu không khí của Thượng Đế 93 năm rồi mà chưa từng phải trả một đồng nào, còn sử dụng máy trợ thở một ngày ở bệnh viện phải trả 5.000F. Anh có biết tôi đã nợ Thượng Đế bao nhiêu tiền rồi không? Trước đây tôi chưa từng cảm ơn ngài vì điều ấy.”

Còn chúng ta, phải chăng chúng ta nên suy ngẫm về trận ôn dịch này từ góc độ mà bình thường chúng ta vẫn hay xem nhẹ? Hơi thở của chúng ta là không khí, là thần khí, liên quan Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu xác định: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63a) Và Lời Chúa cũng chính là “thần khí và sự sống.” (Ga 6:63b)

Lạy Thiên Chúa hằng sống, xin ban Thần Khí Sự Thật cho chúng con, xin khởi Lửa Mến trong chúng con, để chúng con biết truyền cảm hứng yêu thương tới tha nhân, xin giúp chúng con sống xứng đáng và được hưởng Giá Máu cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

------------------------------------------

 

PS 6-A142: NHÂN DANH CHÚA GIÊSU PHỤC SINH


Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 

Từ thuở sơ khai của Giáo Hội, trọng tâm lời giảng dạy của các tông đồ chỉ xoay quanh sự kiện PS 6-A142


Từ thuở sơ khai của Giáo Hội, trọng tâm lời giảng dạy của các tông đồ chỉ xoay quanh sự kiện Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và nay đang hiện diện giữa cộng đoàn những người tin. Các ông rao giảng điều này với niềm xác tín, và sẵn sàng lấy mạng sống của mình để chứng minh cho lời rao giảng của mình. Cũng như Chúa Giêsu thành Nagiarét khi còn sống trên trần gian đã làm những phép lạ để chứng minh quyền năng thiên linh của Người, các tông đồ cũng làm được những phép lạ để chứng minh điều các ông loan báo. Tuy vậy, nếu Chúa Giêsu làm những phép lạ bởi vì Người là Thiên Chúa, thì các tông đồ lại làm những phép lạ nhờ nhân danh Chúa Giêsu. Các ông đều xác tín một điều, các ông chỉ là dụng cụ của Chúa. Những điều kỳ diệu mà các ông có thể làm được là nhờ Đấng Phục Sinh đang hiện diện. Lời giảng dạy đầy xác tín của các tông đồ đã làm cho cộng đoàn tín hữu phát triển nhanh chóng, lan rộng sang cả những miền “ngoại giáo”. Tại Samaria, tông đồ Philipphê đã rao giảng và làm nhiều phép lạ, chữa nhiều chứng bệnh nan y khác nhau. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã diễn tả giai đoạn khởi đầu của Giáo Hội  rất lạc quan, vui tươi, hướng tới một viễn cảnh tốt đẹp (Bài đọc I).
 
Hai ngàn năm đã qua kể từ biến cố Phục sinh, cộng đoàn tín hữu, tức là Giáo Hội vẫn luôn tin rằng Đấng Phục sinh đang hiện diện và hoạt động. Cùng với Thánh Thần, Người đã hướng dẫn soi sáng và gìn giữ Giáo Hội trước phong ba bão táp của trần gian. Trong lời di ngôn của Chúa Giêsu vào cuối bữa Tiệc ly, Người đã kêu gọi các ông hãy tín thác nơi Chúa. Người cũng hứa sẽ không để các ông mồ côi. Chính Người sẽ ở với họ và ở giữa họ, mặc dù cách thế hiện diện của Người mang tính thiêng liêng vô hình. Cùng với Đấng Phục sinh, Thần Chân lý, tức là Ngôi Ba Thiên Chúa là ân ban của Chúa Cha, đến để ở cùng các môn đệ. Vai trò của Thần Chân lý là hướng dẫn Giáo Hội luôn đi theo sự thật, để rồi, giữa một cuộc đời đầy gian dối mưu mô mà vẫn luôn vững vàng. Nhân danh Chúa Giêsu, Giáo Hội vẫn đang làm những “phép lạ”, như những cánh tay nối dài của Đấng Phục sinh để đem tình thương cho người nghèo, bảo vệ người cô thế cô thân và nói lên tiếng nói chính nghĩa của mình.
 
Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, chúng ta lại tiếp tục được nghe những lời căn dặn thân tình của Người dành cho các môn đệ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Tình mến dành cho Chúa và nỗ lực cố gắng để thực thi Lời Người có tương quan biện chứng với nhau. Trong bối cảnh ngày nay, có nhiều người mến Chúa nhưng chỉ là lòng mến ngoài môi miệng và ngôn từ. Khi gặp thử thách gian nan, lòng mến giả tạo sẽ như một lớp sơn bị nước mưa cuốn trôi. Lòng mến đích thực không nhằm tìm kiếm những vụ lợi, nhưng yêu mến Chúa vì Chúa tốt lành, vì Chúa là Cha, là Đấng tác tạo nên chúng ta. Đương nhiên, khi cầu nguyện, người tín hữu vẫn có thể cầu xin bình an, may mắn, sức khỏe, của cải, con cái vì đó là những lời cầu xin chính đáng. Người có lòng mến Chúa đích thực vẫn an vui và cậy trông khi gặp thử thách. Giữa những đau thương, họ vẫn nhận ra tình yêu của Ngài, và luôn một niềm trung tín cậy trông.
 
Ở mọi nơi và mọi thời, Giáo Hội luôn hành động nhân danh Chúa Giêsu Phục sinh. Trong quá khứ, có những lúc Giáo Hội tự quy chiếu về mình như đích điểm và trung tâm. Những lúc ấy, Giáo Hội chuốc lấy mọi thất bại, vì đã lấn át vị trí của Chúa để tôn vinh chính mình. Giáo Hội là ai nếu không phải là mỗi người tín hữu chúng ta? Vì thế, chúng ta phải phản chiếu hình ảnh Chúa Giêsu trong đời sống của mình, để rồi, qua những hành vi cử chỉ của chúng ta, mọi người nhận ra Đấng Phục sinh đang hiện diện. Qua lối sống tốt lành, khiêm tốn, chúng ta có thể “sẵn sàng trả lời thỏa mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng” (Bài đọc II). Có biết bao câu hỏi đang được đặt ra liên quan đến sự hiện hữu của Chúa cũng như mục đích tối hậu của con người. Không thiếu những người còn mang đầy thành kiến với đức tin Kitô giáo. Có thể họ đã có lần chứng kiến những việc làm không tốt của người Công giáo, hoặc có thể hình ảnh về Giáo Hội nơi họ bị biến dạng, vì họ nghe tuyên truyền đến từ phía những người thù ghét Giáo Hội. Một cuộc sống yêu thương sẽ góp phần xóa đi những thành kiến ấy, đồng thời xây dựng mối thân thiện chan hòa, cùng hướng về Thiên Chúa là Cha chung của cả nhân loại.
 
Vinh dự của người tín hữu là được ở trong Chúa Giêsu và cùng với Người ở trong Chúa Cha. Khi được ở trong Chúa Cha, chúng ta tuy còn sống dưới thế mà đã được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Một khi ở trong Chúa Giêsu, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta, tức là chúng ta sẽ nhận biết Người và cảm nhận rõ nét hơn sự hiện diện của Người trong cuộc sống. Hãy sống và hành động nhân danh Chúa Giêsu, bắt chước Người như một khuôn mẫu hoàn hảo, để được nên đồng hình đồng dạng với Người.

--------------------------------

 

PS 6-A143: NGƯỜI YÊU MẾN


Bông Hồng Nhỏ

 

Tình yêu làm cho chúng ta lớn lên, giúp chúng ta có thể vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống. Có PS 6-A143


Tình yêu làm cho chúng ta lớn lên, giúp chúng ta có thể vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống. Có một tình yêu đẹp quả là một hạnh phúc lớn lao của con người. Khi tình yêu nơi ta bám rễ sâu và đủ trưởng thành, dù gặp sóng gió hiểm nguy cũng không sờn lòng nản chí, chẳng hề thoái lui và bỏ cuộc nhưng luôn tiến lên phía trước, thủy chung và son sắt tấm lòng.

Một chiều, ta bước đi miệt mài. Ghé vào quán nước, ta tìm hương trà ngày xưa cho thỏa nỗi nhớ mong. Tình cờ ta gặp một người bạn cũ. Hai người tâm sự rồi bạn mở lòng chia sẻ về sự khó bạn đang gặp. Chẳng là… bạn bị tình phụ. Quá đau đớn, vùng vẫy mà chẳng thể nào thoát ra được. Người ta bỏ bạn để đi theo một mối tình khác, còn trái tim bạn vẫn đầy ắp những hình ảnh tuyệt đẹp về họ. Ta ngồi đó, lặng lẽ lắng nghe, chia sẻ bằng ánh mắt cảm thông và thấu hiểu dù chẳng nói được những lời khuyên khôn ngoan.

Ta bước về trong bóng tối chập choạng. Lời Thầy từ đâu lại vang vọng trong tâm: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.” (Ga 14, 15). Ta bước đi, lòng không thôi khắc khoải về Lời ấy. Lời ấy đánh động trái tim ta khiến cho tâm trí ta hướng mắt vào hồn mình để dò xét. Tình yêu ta dành cho Thầy bấy lâu nhạt quá. Hóa ra, ta cũng chẳng hơn gì người đàn ông phụ tình kia. Ta cũng bỏ rơi Thầy từng ngày trong vô tâm, ta hỡ hững dù Thầy vẫn ở kề bên.

Có bao giờ Thầy để cho ta mồ côi đâu. Chỉ là vì ta quá mải mê với những sự trần thế mà bỏ quên Thầy. Thầy vẫn chờ đợi ta mãi, chờ hoài và luôn ở đó. Chẳng phải, Thầy đã tự nguyện đón nhận lấy sự khó cho ta được sự bình an và hoan lạc. Thầy đã mang vào thân mình những thương tích để ta được lành lặn. Thầy yêu ta đến cùng. Nếu ta yêu Thầy, hẳn ta đã dành cho Thầy chỗ quan trọng nhất trong tâm hồn ta. Có bao giờ, ta tôn Thầy là Chúa ngự trị trong lòng ta như lời khuyên của Thánh Phêrô? Quả thật, thân ta mỏng manh dễ vỡ và tình của ta cũng mong manh quá đỗi.

Nhìn về phía các Thánh, ta thấy lòng khâm phục quá. Ngày xưa, thánh Phêrô cũng từng chối Thầy đến ba lần. Ông chối Thầy trong sự sợ hãi và quá hoang mang. Đức Giêsu phục sinh lại hỏi ông ba lần: “Anh có mến Thầy không?”, một cử chỉ tha thứ. Ông được Thầy tỏ cho một tình yêu quá đỗi tuyệt đẹp. Ông đã vứt bỏ đằng sau những yếu đuối và lầm lỗi của quá khứ để bước trên con đường Thầy dọn sẵn cho ông: chông gai và thử thách, bởi ông là môn đệ của Thầy mà môn đệ thì không hơn Thầy được.

Nếu chỉ nhìn về những lầm lỗi và giới hạn của bản thân để sợ hãi và thoái lui thì ta đã thất bại hoàn toàn. Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và Ngài biết rõ sự yếu hèn của ta. Phải rồi, “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo. (1Ga 4,18). Kinh nghiệm của thánh Gioan dạy ta vượt lên trên sợ hãi. Chính thánh Phêrô cũng như các Tông đồ khác, các ngài đều kinh qua kinh nghiệm vượt lên trên sợ hãi và đón nhận một tình yêu viên mãn của Thầy.

Thiết nghĩ, nếu không có một sức mạnh nội tâm thì làm sao ta có thể vượt qua được mọi trở ngại của cuộc sống. Đường theo Thầy luôn có đó những gian nan và thử thách. Thử thách đến từ chính con người của ta. Bởi vậy Thầy đã chẳng dạy rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. (Mc 8, 34). Tình ta dù chẳng đẹp, thân ta dù yếu đuối, chỉ xin hai chữ “trung kiên” để theo Thầy. Sức mạnh nội tâm được kín múc từ những lần đến kề bên Chúa trong Bí tích Thánh Thể, từ những lần ta trao ban một cử chỉ yêu thương… Chính Chúa Thánh Thần- Đấng Bảo Trợ sẽ thánh hóa và làm mới tâm hồn chúng ta.  Chỉ khi đã bám rễ sâu trong tình yêu, ta mới có thể cảm nhận được mọi hương vị của tình yêu, tình yêu trong ta mới trưởng thành được. “Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14, 21). Thầy vẫn tỏ mình cho ta mỗi ngày. Nào, ta hãy để hồn mình thật lặng lẽ để lắng nghe tiếng nói của Thầy, cảm nhận sự hiện diện gần gũi và nên một trong tình yêu của Thiên Chúa.

Quỳ trước Thánh Thể, ta dâng lên Thầy người bạn bị tình phụ mà vẫn chờ mong sự trở về của người yêu. Ta cũng dâng lên Thầy những ai đang yêu biết trân trọng mối tình mình đang nắm giữ. Đặc biệt, ta dâng lên Chúa mối tình ta dành cho Thầy. Tự trong tâm hồn, ta đón nhận một điều mới mẻ mà từ trước đến giờ ta đã sống mà nay mới kết thành lời: “Tôi tìm thấy một hình hài yếu đuối trong tôi và tôi tìm thấy một Tình Yêu đã hiến trọn cho tôi.”

--------------------------------

 

PS 6-A144: CẬY TRÔNG


Lm. Trần Việt Hùng

 

Trước khi từ giã ra đi, Chúa thương nhủ bảo, thực thi đôi lời. Các con yêu mến trong đời, Giới PS 6-A144


Trước khi từ giã ra đi,
Chúa thương nhủ bảo, thực thi đôi lời.
Các con yêu mến trong đời,
Giới răn bác ái, là lời Thầy khuyên.
Chúng con tuân giữ luật truyền,
Yêu Thầy kính Chúa, tinh tuyền trí khôn.
Thầy về cùng Chúa chí tôn,
Xin Cha chúc phúc, cho hồn ân thiêng.
Thánh Thần Phù Trợ thiêng liêng,
Người là Chân Lý, ơn riêng chữa lành.
Thế gian chẳng biết Thánh Danh,
Chúng con nhận biết, thực hành yêu thương.
Luật Thầy truyền giữ tỏ tường,
Mến yêu sự thật, mở đường ta đi.
Dù cho cuộc sống khó nguy,
Đồng hành bên Chúa, sợ gì thế gian.
Cuộc đời muôn nỗi gian nan,
Có Thầy yêu mến, chứa chan phúc lành.
Cậy trông phó thác chân thành,
Yêu người mến Chúa, rạng danh sáng ngời.

Chúa Giêsu trước khi từ giã các môn đệ, Ngài đã ưu ái nhắn nhủ và mời gọi các môn đệ hãy yêu thương nhau. Chúa ra đi, nhưng không để các ông mồ côi. Chúa biết khi Ngài rời xa, các tông đồ sẽ buồn phiền. Ngài hứa sẽ ban Thánh Thần đến để thêm sức và dậy dỗ các ông tất cả.

Không buồn sao được khi Chúa từ giã ra đi. Tuy rằng, Chúa chỉ vắng mặt nơi thân xác, nhưng tinh thần Chúa luôn hiện diện bên cạnh. Trước khi ra đi, Chúa đã dậy dỗ các môn đồ cách cặn kẽ. Chúa trao ban quyền năng để phục vụ và xây dựng Giáo Hội. Chúng ta biết các tông đồ là những người chài lưới sống ở vùng quê và ít học. Nhận lãnh trách nhiệm lớn lao trong việc truyền rao tin mừng cứu độ cho muôn dân.

Các tông đồ không thể cậy dựa vào sức mình. Với sự đơn sơ và lòng nhiệt thành, các ngài đã ra đi làm nhân chứng cho Chúa. Mười một trong số 12 tông đồ đã lấy chính máu đào của mình chứng minh niềm tin vào Chúa Kitô sống lại. Các ngài theo chân Chúa, thánh giá vác mỗi ngày. Biết bao chống đối, biết bao gian khổ và biết bao thăng trầm, các ngài đã từng bước vuợt qua và vươn tới.  Không chùn bước khi gặp gian nan thử thách. Nhờ đâu các ngài có được sự can đảm như thế? Đó chính là ơn Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã hứa sai đến.

Vai trò Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong buổi sơ khai của Giáo Hội. Lửa yêu mến của Thánh Linh đã rực cháy trong tâm hồn của các tín hữu thời sơ khai. Dầu bị cấm cách, bị thiêu đốt, bị giam cầm, bị bách hại liên tục, các ngài luôn kiên cường làm chứng nhân cho Chúa sống lại. Các ngài đã xứng đáng lãnh nhận triều thiên vinh quang.

Triều thiên phải đổi bằng giá máu. Phải phấn đấu và tín trung cho đến cùng đường. Ai trong chúng ta cũng muốn được hạnh phúc và được đội triều thiên. Truyện kể: Trong giấc mơ, có một bà thấy mình bước vào cửa tiệm và ngạc nhiên thấy Chúa ngồi tại quầy hàng. Bà hỏi: Ở đây Chúa bán những món hàng nào? Chúa trả lời: Có tất cả các món hàng mà con mong muốn. Ngỡ ngàng quá sức! Bà định mua tất cả sự bình an, tình yêu và hạnh phúc. Bà muốn mua cho con cái và cho mọi người nữa. Chúa cười và nói rằng chắc bà hiểu lầm rồi, tiệm này không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống mà thôi.

Chúng ta đã lãnh nhận hạt giống đức tin, đức cậy và đức mến. Chúng ta hãy làm nẩy sinh những hoa quả tốt đẹp trong cuộc sống. Hạt giống có trổ sinh nhân đức hay không, tùy thuộc cuộc sống nơi mỗi người chúng ta. Xin Chúa tràn đổ ơn lành giúp chúng ta sinh hoa kết trái tốt đẹp.

--------------------------------

 

PS 6-A145: GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG


           Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

 

Ông Hancok, người Mỹ, là một tín hữu đạo hạnh gương mẫu, nhất là nhiệt thành với việc truyền PS 6-A145


Ông Hancok, người Mỹ, là một tín hữu đạo hạnh gương mẫu, nhất là nhiệt thành với việc truyền giáo. Vào thế chiến thứ II, gần nhà ông có một trung tâm huấn luyện quân đội. Hàng vạn lính Mỹ trong trại cần tới Tin Mừng Phúc Âm, nhưng viên chỉ huy không cho phép kẻ không phận sự được vào trại. Hancok nghĩ ra một cách để truyền giáo cho họ: Ông bỏ tiền thuê một hãng làm gương soi, ở mặt sau tấm gương ông cho in những lời này của Chúa: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình để những ai tin vào con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời”. Bên dưới lời Chúa, ông còn in thêm lời chỉ dẫn này: “Bạn muốn nhìn người Thiên Chúa yêu, hãy nhìn ở mặt bên kia tấm gương”.

Thật là ý nghĩa tuyệt vời, khi mỗi người lính nhìn vào tấm gương đều thấy người Thiên Chúa yêu không ai khác mà chính là họ.

Như những người lính kể trên, mỗi người tín hữu chúng ta đều là người được Thiên Chúa yêu.

            – Vì yêu, Chúa dựng nên mỗi người chúng ta.

            – Khi chúng ta tội lỗi, Chúa không bỏ mặc chúng ta rơi vào hố sâu hỏa ngục, lại sai Con Một Ngài xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại.

            – Vì yêu chúng ta, khi về trời, Ngài không để chúng ta mồ côi. Về trời rồi, Ngài sai Chúa Thánh Thần đến tiếp tục hướng dẫn ta.

            – Vì yêu con người, Chúa muốn con người được hạnh phcú, muốn được hạnh phúc, Ngài dạy con người phải tuân giữ giới răn của Ngài.

            ∙ Khi ban bố 10 giới răn của Chúa cho dân Do thái trên núi Sinai, Chúa sai ông Môisê nói với toàn dân rằng: “Ngươi hãy nói với toàn dân: ngày nào các ngươi tuân giữ giới răn của Ta, ngày đó các ngươi được hạnh phúc. Trái lại, ngày nào các ngươi không tuân giữ giới răn ta nữa, các ngươi sẽ trở thành người bất hạnh”.

            ∙ Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cũng dạy chúng ta: “Nếu các ngươi yêu mến Thầy, thì các ngươi tuân giữ giới răn Thầy”. Giới răn của Chúa Giêsu chính là giới luật yêu thương.

            – Giới răn thứ nhất Chúa dạy: “Hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết sức trên hết mọi sự”.

            ∙ Thật là bất hạnh cho con người, khi con người thay vì tôn thờ Chúa lại tôn thờ thụ tạo.

            ∙ Thật là bất hạnh cho con người, khi con người không giữa ngày Sabbat của Chúa.

            – Giới răn thứ hai Chúa dạy: “Hãy yêu mến anh em như chính mình ngươi”.

            ∙ Thật bất hạnh cho con người, khi con người không còn thảo kính cha mẹ.

            ∙ Thật bất hạnh cho con người, khi con người không còn tôn trọng nhau. Trái lại, tàn sát, giết chóc, gây chiến tranh.

            – Người mẹ đã từng dạy con: “Con đừng nghịch lửa kẻo phải bỏng, hoặc con đừng chơi dao kẻo đứt tay. Dạy như thế, người mẹ chỉ muốn sự lạnh, sự tốt cho con.

            – Thiên Chúa cũng chỉ vì yêu con người, nên dạy con người: Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hãy yêu anh em như chính mình.

            Bao lâu con người giữ giới răn Chúa sẽ được hạnh phúc. Bao lâu con người không giữ giới răn Chúa sẽ trở thành kẻ bất hạnh.

            Truyền thuyết kể lại: Thánh Gioan tông đồ khi tuổi già sức yếu không đứng lâu giảng dài được nữa. Khi giảng Ngài chỉ khuyên giáo dân: “Anh em hãy mến Chúa, yêu người”. Giáo dân nghe mãi lời giảng ấy nên thưa: “Thưa cha, chúng con biết cha giảng gì rồi, cha đừng nói nữa”. Ngài nói: “Nếu chúng con giữ được lòng mến Chúa yêu người, như thế là giữ trọn luật Chúa rồi!”.

--------------------------------

 

PS 6-A146: GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN


Lm. GB. Trần Văn Hào

 

Tuần trước, qua các bài đọc Lời Chúa, chúng ta đã suy niệm về mầu nhiệm Giáo hội với hai PS 6-A146


Tuần trước, qua các bài đọc Lời Chúa, chúng ta đã suy niệm về mầu nhiệm Giáo hội với hai đặc tính: Duy nhất và thánh thiện. Chúa nhật tuần này, chúng  ta có dịp đào sâu thêm về hai phẩm tính khác của Hội thánh,đó là đặc tính Công giáo và đặc tính Tông truyền. Cả bốn thuộc tính nơi Giáo hội mà chúng ta vẫn đọc trong kinh tin Kính đều có một yếu tố căn bản duy nhất, đó là Thánh Thần, hay Thần Khícủa Đấng Phục Sinh và cũng làĐấng hằng làm việc trong Giáo hội.

Giáo hội với Công  giáo tính.

Chúa Giêsu đem ơn cứu độ đến cho mọi người, không phân biệt mầu da,chủng tộc, ngôn ngữ hay văn hóa.Thánh Phaolô đã viết: “Trong Đức Kitô,không còn phân biệt Do Thái hay HyLạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ(Gal 3,28). Vì thế trong Giáo hội,tất cả chúng ta đều được chia sẻ chung một phẩm giá,là được trở nên con cái Thiên Chúa,và được đồng thừa tự với Đức Giêsu. Câu chuyện được thuật lại trong bài đọc 1 minh dẫn về xác tín này. Tác giả sách Tông đồ Công vụ thuật lại giai thoại Tông đồ Philip đã xuống  miền Samari rao giảng và nhiều người ở đó đã tin, đã lãnh nhậnThánh Thần và đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu(Cv8,14-17). Samari là vùng đất ngoại giáo.Người DoThái vẫn có mối thù truyền kiếp với cư dân Samari và quyết không độitrời chung với họ. Nhưng Thánh Thần đã tác động, nối kết những dị biệt lại, và hóa giải những xung khắc.Cư dân ở đây đã nghe Philipphê rao giảng về ĐứcKitô kèm theo những phép lạ mà vị tông đồ đã thực hiện. Cuối cùng nhờ Chúa Thánh Thần, họ đã được biến đổi.

Đặc tính Công giáo của mầu nhiệm Giáo hội được hiển thị rõ nét qua biến cố trên.Ngày nay, Giáo hội đã lan rộng đếnkhắpmọimiền trên khắp thế giới.

Giáo hội và tính Tông truyền.

Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội trên nền tảng các Tông đồ. Trong sách Khải huyền, Thánh Gioan đã thuật lại thị kiến khi Ngài chiêm ngắm Thành Thánh Giê-ru-sa-lem được đặt trên 12 móng có khắc tên 12 Tông đồ của Con Chiên(Kh 21,14). Sau khi sống lại, Chúa Giêsu cũng ban năng quyền tha tội cho các Ngài trong ngày Phục sinh. Trong nhãn quan thần học của Thánh Gioan, sự kiện Chúa Phục sinh – và thiết lập Hội thánh chỉ là một thực tại duy nhất. Cũng tương tự,Thánh Luca mô tả Hội thánh tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem luôn quy tụ chung quanh các Tông đồ và  lắng nghe lời dạy dỗ của các Ngài. Trong bài đọc 1 hôm nay,các Tông đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân Samari đã đón nhận lời Chúa,liền cử hai ông Phêrô và Gioan đến với họ. Hai vị tông đồ này là đại biểu Tông đồ đoàn đến đặt tay trên họ để trao ban Thánh Thần.

Hội thánh của Chúa Giêsu không phải là một tổ chức dân sự theokiểu xã hội trần thế, đặt nền tảng trên tính dân chủ. Trái lại,mọi quyền bính được trao ban từ trên, khởi đầu từ Đức Giêsu.Đức Giêsu trao năng quyền cho các Tông đồvà các tông đồ chuyển giao lại cho các Mục tử là các Giám mục để các Ngài coi sóc các cộng đoàn.Trong Giáo hội, không bao giờ có chuyện một Giám mục được dân bầu lên, nhưng chỉ duy nhất một mình Đức Thánh Cha đấng kế vị Thánh Phêrô, mới có thẩm quyền bổ nhiệm Giám mục. Vì vậy, giáo luật quy định rất rõ ràng,bất cứ một vụ phong chức Giám mục nào bất hợp pháp(illicit), tức là không phải do Đức Thánh Cha ủy quyền, thì vị được tấn phong lẫn vị chủ phong đều bị vạ tuyệt thông tiền kết, cho dù bí tích vẫn thành sự(valid). Trong lịch sử Giáo hội, cũng đã từng xảy ra nhiều trường hợp như thế. Hiện nay,việc giải quyết những rắc rối tại Giáo hội Trung quốc vẫn còn khá nan giải, vì việc chọn Giám mục vẫn còn bị chính quyền trực tiếp can thiệp vào.

Tình yêu: thẻ căn cước của mọi tín hữu trong Hội thánh.

Sống trong Giáo hội là nhiệm thể Đức Kitô,mọi Kitô hữu phải mang nơi mình một thẻ căn cước (identity card) chung, đó là sống tình yêu thương. Đây là điều mà Chúa Giêsu đã đề cập đến trong bài Tin mừng hôm nay. Trong diễn từ ly biệt trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ những lời tâm huyết khá dài về điều răn mới, là ‘Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu’. Để khai triển về luật yêu thương này, Chúa Giêsu đã mời gọi các môn sinh đi sâu vào tình yêu giữa Ngài với Chúa Cha như một nguyên mẫu. Đó không phải là những tình cảm hời hợt bên ngoài, nhưng đi sâu vào sự hiệp thông cách trọn vẹn,vì “Ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha Thầy yêu mến”.

Tình yêu là tên gọi của Thiên Chúa, và tình yêu cũng là thuộc tính căn bản của Ngài. Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan,vị tông đồ đã xác tín điều này. Giáo hội là nhiệm thể Đức Giêsu,nên sự sống của Giáo hội là sự sống của tình yêu phát nguyên từ nơi Thiên Chúa. Vì thế,Chúa Giêsu đã nêu bật tình yêu thông hiệp giữa Ngài với Chúa Cha như một nguyên mẫu để mời gọi các học trò đi sâu vào cảm thức thánh thiêng, hầu sống sung mãn ơn gọi tình yêu. Bài diễn từ ly biệt của Chúa Giêsu khá dài đã được thánh Gioan thuật lại, nhưng quy tóm về một thực tại duy nhất đó là sống mầu nhiệm yêu thương như một giới răn mới. Đây là quy chuẩn duy nhất để nhận ra những ai là môn đệ của Đức Kitô và là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm Ngài,là chính Giáo hội.

Kết luận

Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện,công giáo và tông truyền. Đây là những xác tín mà chúng ta vẫn thường lập lại khi đọc kinh Tin Kính. Sống trong một Giáo hội hữu hình với các cơ cấu hay phẩm trật, tất nhiên chúng ta dễ nhận ra những giới hạn do bản tính mỏng dòn của con người. Nhưng chúng ta vẫn thuộc về Giáo hội vô hình, một thực thể duy nhất, một dân tộc thánh thiện được khai sinh từ Đấng Phục sinh và cũng là đền thờ Giê-ru-sa-lem được xây trên nền móng 12 Tông đồ. Xác tín như thế sẽ làm tăng triển cảm thức thuộc về Giáo hội để chúng ta chung tay góp sức xây dựng nhiệm thể Chúa Giêsu ở trần thế, một cách cụ thể ngay tại Giáo hội địa phương mà chúng ta đang thông dự vào.

--------------------------------

 

PS 6-A147: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_A


Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”(Ga 14,21)

 

Tâm tình của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là tâm tình của một người sắp ra đi PS 6-A147


Tâm tình của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là tâm tình của một người sắp ra đi.

A. Chỉ  còn một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy.(Ga 14,19)

Lời tuyên bố của Chúa quả thực làm cho các môn đệ của Ngài hoang mang.

Thế nhưng đây mới chỉ là một vế trong sự bộc lộ về tương lai của Chúa chứ chưa phải là tất cả.

Vế thứ hai quan trọng hơn, an ủi hơn “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Thầy sẽ đến với các con. Các con sẽ thấy Thầy vì Thầy vẫn sống và các con cũng sẽ sống”(Ga 14,18)

Những lời này sẽ được cụ thể hóa sau khi Chúa từ cõi chết sống lại.

Chắc hẳn anh chị em hãy còn nhớ cách thức sinh hoạt của Chúa sau biến cố Phục Sinh như thế nào. Thánh Phaolô bảo là cuộc sống đó đã được biến đổi. Biến đổi để có thể, nói theo kiểu của cha Teihard de Chardin có mặt “tràn ngập, tràn lan, phủ đầy” khắp nơi một cách cụ thể còn hơn cả lúc Chúa chưa về trời như chính lời Chúa đã xác nhận: “Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”.

Bằng cách nào?

a/ Trước hết bằng Bí tích Thánh Thể.

 Với Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện tràn lan khắp địa cầu, qua đó con người có thể nhận ra Chúa đang thật gần gũi với mình.

b/ Qua hoạt động của Đấng phù trợ: Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục công viêc mà Chúa Giêsu đã khởi sự.

c/ Và mỗi khi một cộng đoàn yêu thương được hình thành “Ở đâu có hai ba người họp nhau lại để cầu nguyện thì có Thầy ở giữa”

B. Vấn đề còn lại là làm sao chúng ta có thể nhận ra được sự có mặt của Chúa trong cuộc đời của chúng ta?

Đây là cách thức chính Chúa đã chỉ cho chúng ta: “Ai đón nhận luật Thầy truyền và giữ các luật đó thì người ấy sẽ là kẻ mến Thầy và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến và Thầy sẻ tỏ mình ra cho người ấy”(Ga 14,21)

Như vậy là bằng cách sống Lời của Chúa, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta.

Nhà văn hào Léon Toilstoi, có viết lại một câu chuyện rất cảm động về một ông già nhà quê tên là Martin Avdiéitch làm nghề đóng giầy. Bác sống một cuộc đời rất hạnh phúc bên vợ con. Nhưng thật là không may cho bác. Ngoại trừ đứa con trai nhỏ còn tất cả vợ con bác đã bị chết trong một tai nạn bất ngờ. Thật là một đau khổ lớn lao. Tuy đau xót nhưng cũng may là còn một đứa sống sót an ủi bác. Thế nhưng như người đời thường nói: “Họa vô đơn chí”. Đứa con trai duy nhất của bác sau đó lâm bệnh và cuối cùng đã vội bước vào thế giới bên kia.

Martin tuyệt vọng. Bác trách Thiên Chúa và muốn kết thúc cuộc đời của mình.

May thay, vào ngày lễ Chúa Thánh Thần năm đó, một người bạn thân trên đường đi hành hương ghé qua thăm. Bác đem câu chuyện đau buồn của gia đình ra kể. Khi nghe xong, người bạn đã nói với bác:

– Chúng ta không có quyền xét đoán Thiên Chúa về những gì Ngài làm. Ngài đã định cho vợ con anh chết. Còn anh thì anh phải sống và như thế thì tốt hơn. Sở dĩ anh thất vọng và muốn chết như thế là bởi vì anh chỉ muốn sống cho bản thân, cho hạnh phúc riêng tư của anh thôi…..”

– Vậy thì tại sao người ta phải sống?

+ Chính cho Thiên Chúa mà người ta phải sống. Khi anh bắt đầu sống cho Ngài, anh sẽ không còn buồn phiền và anh sẽ có sức mạnh để vượt qua tất cả”.

Martin im lặng một lúc rồi hỏi

– Làm thế nào để sống cho Thiên Chúa?

+ À thì chính Chúa đã chỉ. Anh hãy mua một cuốn Thánh Kinh và hãy đọc ở trong đó, anh sẽ biết cách phải sống cho Thiên Chúa thế nào.

Bác đi mua ngay một cuốn Tân Ước và mỗi ngày bác đọc. Càng đọc, bác càng cảm thấy thấm thía.

Một buổi tối kia sau khi đọc xong, bác miên man suy nghĩ về những gì mình mới đọc. Suy nghĩ được một lúc thì tự nhiên bác cảm thấy thiu thiu muốn chợp mắt. Vừa thiu thiu muốn chợp mắt đi thì tự nhiên bác nghe thấy như có ai gọi mình:

– Martin!

Bác giật mình đứng dậy hỏi thật lớn:

– Ai đó?

Và bác nghe như thấy có tiếng bảo:

– Martin ơi! Ngày mai hãy nhìn ra đường. Ta sẽ đến thăm ngươi.

Sáng hôm sau bác dậy sớm, chuẩn bị nhà cửa gọn gàng khang trang rồi vừa làm việc vừa ngó ra đường qua tấm cửa kính đã được chùi sạch.

Mãi mà không thấy ai gõ cửa, mặc dầu có rất nhiều người qua đường.

Đến khoảng 9 giờ thì bác thấy một người bạn cũ là bác Nicolai. Bác khá già. Không vợ con. Bác phải làm nghề dọn tuyết để tự nuôi sống mình. Thấy bác mệt nhọc mà trời lại quá lạnh. Martin mời bác vào trong nhà, pha trà mời bác Nicôlai dùng. Cả hai sống với nhau những giờ phút thật ấm cúng và đầy tình thương.

Sau đó Bác Nicôlai từ giã rồi ra đi. Bác Martin tiếp tục công việc nhưng đôi mắt không quên nhìn ra cửa.

Một người đàn bà còn trẻ, ăn mặc rách rưới ẵm đứa con đi qua. Bác Martin nghe thấy tiếng đứa trẻ khóc và mẹ nó tìm cách dỗ nó nhưng không thành công. Bác vội vàng đứng dậy mở cửa lớn tiếng gọi:

– Bà kia! Tại sao ẵm con ở ngoài trời lạnh thế? Vào đây…Hãy ngồi gần lò sưởi và cho con bú!

– Thưa bác cháu không còn sữa vì từ chiều hôm qua đến giờ cháu không có gì ăn.

Bác Martin đi vào bếp, đem tất cả những gì bác có đưa đến cho người đàn bà.

Chị kể cho Bác nghe tất cả những sự vất vả chị phải chịu.

Sau khi đã chuẩn bị đủ đồ lạnh cho hai mẹ con, Bác tiễn hai mẹ con ra đi và không quên dúi vào tay người đàn bà một tờ giấy bạc 20 đồng để khi cần chị có thể dùng.

Chiều đến một bà già bán táo đi ngang qua. Lưng bà còn đeo theo một bó củi có lẽ bà đã kiếm được ở đâu đó. Tình cờ một thằng bé xuất hiện, lấm la lấm lét chộp lấy một quả táo và định tháo chạy nhưng không may cho nó, bà già đã nhanh tay hơn và nắm được nó. Hai người ở trong một thế phải đấu tranh.

Martin ra can thiệp. Ông xin bà cho ông được trả tiền quả táo và ông trao quả táo cho thằng bé trước sự ngỡ ngàng của nó.

Trời đã tối nhưng ông cũng vẫn còn chờ.

Trong lúc như nửa tỉnh nửa mơ, Bác Martin thấy có người xuất hiện trước mắt.

  – Bác Martin này, bác có nhận ra tôi không?

  – Nhưng người là ai vậy?. Bác hỏi.

Một bóng người vụt qua mắt bác. Đó là bác Nicôlai, người dọn tuyết.

Và một tiếng khác: “và cũng chính là tôi đây”. Rồi từ góc nhà hiện ra khuôn mặt của bà mẹ và đứa con. Bà mẹ mỉm cười và đứa bé cũng mỉm cười. Rồi hình họ cũng tan biến.

“Và cũng chính là ta”. Lại một tiếng nói nữa. Đó là bà già bán táo và thằng bé. Cả hai đều cười và rồi cũng biến đi.

Martin cảm thấy sung sướng. Ông làm dấu thánh giá, đeo kính vào và đọc tiếp đoạn Kinh Thánh ông đang đọc dở dang: “Ta đói, các người đã cho Ta ăn. Ta khát ….”

Ở cuối trang ông dừng lại thật lâu ở những dòng chữ này: “Những gì các ngươi làm cho một một người bé nhỏ trong các anh em của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25).

Ông tự nghĩ trong lòng: Giấc mơ đã không đánh lừa ông. Và ông đã không lầm khi nghĩ rằng chính Chúa đã đến nhà ông và ông đã được đón tiếp Ngài.

--------------------------------

 

PS 6-A148: THÁNH THẦN – ĐẤNG BẢO TRỢ


JM. Lam Thy

 

Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/PS – Ga 14, 15-21) nối tiếp bài Tin Mừng CN V/PS (Ga 14, 1- PS 6-A148


Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/PS – Ga 14, 15-21) nối tiếp bài Tin Mừng CN V/PS (Ga 14, 1-14). Ở bài Tin Mừng Chúa nhật trước, Đức Giê-su Ki-tô tiên báo Người sẽ trở về cùng Chúa Cha và căn dặn các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 1-3). Các môn đệ (tiêu biểu là Tô-ma và Phi-lip-phê) vẫn tỏ ra rất hoang mang, lo sợ, không hiểu Thầy về cùng Chúa Cha là như thế nào, bằng con đường nào và nhất là Thầy có còn trở lại với các môn đệ nữa hay không? Đó cũng là tâm lý thông thường của người đời. Và cũng vì thế nên Đức Ki-tô phải trấn an: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” (Ga 14, 15-16).

Trong những Lời dạy của Đức Ki-tô, Người luôn luôn nói đến Người là Mục tử nhân lành chăn dắt và bảo vệ đoàn chiên, đồng thời Người còn là “cửa chuồng chiên” để đón nhận, nuôi dưỡng và bảo vệ những con chiên trong ràn chiên của Thiên Chúa. Đón nhận, nuôi dưỡng, chăn dắt và bảo vệ thì chính Người là Đấng Bảo Trợ (bảo vệ, trợ giúp) của đoàn chiên. Vì thế, nay Người phải trở về cùng Chúa Cha, nên Người mới hứa là “sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Điều kiện để có được “Đấng Bảo Trợ khác”, ấy là: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15); và chỉ “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14, 21). Nói cách cụ thể, Chúa muốn các môn đệ thể hiện đức tin của mình (yêu Chúa) bằng hành động (tuân giữ các điều răn Chúa dạy). Rõ ràng có một mối liên hệ chặt chẽ giữa lòng yêu mến Chúa và sự tuân giữ các điều răn của Người: Nếu yêu thì sẽ tuân giữ Có tuân giữ mới thực là yêu.

Vậy thì các điều răn Chúa dạy là gì? Và giữ các điều răn ấy thế nào để chứng tỏ là mình yêu Chúa thực sự? Các điều răn Chúa dạy thì nhiều lắm, nhưng chung quy chì là một “Điều răn trọng nhất: Mến Chúa yêu người”. Có một thắc mắc như một vấn nạn luôn ám ảnh con người nhưng chẳng ai dám nói ra, đó là: Con yêu Chúa vì Chúa yêu con đến độ hy sinh cả mạng sống mình, nhưng con yêu người thì chẳng hiểu người có yêu con không? Và cũng chính vì thế nên thế giới này không lúc nào yên. Khổ một nỗi là các nhà lãnh đạo quốc gia lúc nào cũng mạnh miệng cổ võ hoà bình trong khi ngòi nổ chiến tranh vẫn âm ỉ ngay tại quốc gia mình. Các nhà đấu tranh chính trị cũng luôn luôn nhân danh hoà bình và công lý để đấu tranh đòi công lý hoà bình bằng bom đạn, bằng những vũ khí giết người tối tân. Rồi thì khủng bố, tàn sát xảy ra nhan nhản khắp nơi cũng nhân danh công lý hoà bình!

Biết rõ được tâm lý con người hay thắc mắc như vậy và khi nói yêu Chúa thì rất mạnh miệng, nhưng nói đến yêu người thì lại ngập ngừng… hãy đợi đấy (!), nên Đức Ki-tô mới dạy: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”, mà điều răn của Thầy là: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12), cũng bởi vì “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Và cái hệ luận tất yếu phải là: Nếu yêu Chúa thì sẽ tuân giữ điều răn của Chúa Có tuân giữ điều răn của Chúa mới thực là yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Chỉ có như thế mới có hy vọng Đấng Bảo Trợ khác sẽ đến thanh tẩy và ban hồng ân cùng dũng khí, bởi Người chính là Ðấng Bào Chữa, Ðấng An Ủi, Thần Chân Lý – Người chính là nguồn hồng ân sự sống, sự thật, sự hiệp nhất yêu thương, là Chúa Thánh Thần vậy. Tất cả quy về một điểm chung nhất: Tình Yêu Thiên Chúa.

Thánh sử Gio-an khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu, và hễ ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy. Căn cứ vào điều này mà tình yêu đã nên hoàn hảo với chúng ta: đó là chúng ta được mạnh dạn trong ngày phán xét, vì Đức Giê-su thế nào thì chúng ta cũng như vậy ở thế gian này.” (1Ga 4, 16-17). Đó chính là trọng tâm của đức tin Ki-tô Giáo: Hình ảnh con người và con đường của họ khơi nguồn từ hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu. Cái chết khổ nhục của Đức Giê-su Ki-tô trên thập giá là tột đỉnh của Tình Yêu Thiên Chúa, trong đó, Người trao ban chính mình để nâng con người dậy và cứu rỗi họ. Đây là tình yêu ở dạng thức cao nhất. Khi chiêm niệm cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu của Chúa Ki-tô, người Ki-tô hữu khám phá ra con đường theo đó cuộc sống và tình yêu của mình phải dõi bước theo: CON ĐƯỜNG GIÊ-SU.

Nói đến Tình Yêu là nói đến trao và nhận. Thiên Chúa Cha trao ban cho con người biết bao ân huệ là vì yêu thương, nhất là khi Người ban chính Con Một là Chúa Giê-su làm giá chuộc muôn người khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Giờ đây đến lượt Đức Giê-su Thiên Chúa hứa ban Chúa Thánh Thần là ân huệ mà “thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết” (Ga 14, 17). Vậy thì người Ki-tô hữu đã nhận và nhận rất nhiều Tình Yêu vô lượng của Thiên Chúa, lẽ nào không biết đáp trả ân tình cao vời khôn ví đó? Mà cách đáp trả duy nhất chỉ có thể là “yêu Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn” bằng cách “tuân giữ các điều răn Chúa dạy: Mến Chúa yêu người”.

Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est” (số 18) đã phân giải tỏ tường: “Tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu tha nhân vì thế là không thể tách rời, chúng hình thành một giới răn duy nhất. Nhưng cả hai sống từ tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Nó không còn là vấn đề một “lệnh truyền” áp đặt từ bên ngoài và đòi hỏi một điều bất khả thi nữa, nhưng là một kinh nghiệm yêu đương, tự do cho đi từ bên trong, một tình yêu tự bản chất cần phải được chia sẻ với những người khác. Tình yêu triển nở qua tình yêu. Tình yêu là “thần thánh” vì nó đến từ Thiên Chúa và kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa; qua tiến trình hiệp nhất này tình yêu biến chúng ta thành một “chúng tôi”, vượt qua sự chia rẽ của chúng ta và làm cho chúng ta nên một, cho đến khi Thiên Chúa là “tất cả trong mọi sự” (1Cr 15, 28).”

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng dạy: “Trong mọi tình huống của con người, ghi dấu bởi sự mong manh, bởi tội lỗi và cái chết, Tin Mừng không chỉ đơn giản là một ngôn từ, nhưng là một chứng từ yêu thương vô điều kiện và tín trung: đó là ra khỏi chính mình để đến gặp gỡ người khác, gần gũi với người bị cuộc sống làm thương tổn, là chia sẻ với người túng thiếu, là ở bên những ai đau yếu, già cả hay bị loại trừ… “Hãy đến và xem!”: Tình yêu thì mạnh hơn, tình yêu làm cho hy vọng nở hoa nơi sa mạc.” (Sứ điệp Phục Sinh Urbi et Orbi 2014). Rõ ràng bao trùm lên tất cả là Tình Yêu, là “tất cả trong mọi sự” đều quy hướng về Thiên Chúa Tình Yêu.

Chính vì Tình Yêu nên Ba Ngôi đã hiệp nhất nên Một Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm Ba Ngôi cực thánh. Một Chúa Ba Ngôi đã thể hiện rõ ràng trong Ngôi Lời nhập thể ở tất cả những hoạt động cũng như lời giảng dạy của Người. Điều đó cho thấy Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn hiệp cùng Chúa Cha ở trong Chúa Con vậy. Ngay từ trong Cựu Ước, Chúa Thánh Thần đã là “Lời và Hơi Thở của Thiên Chúa là nguồn gốc của sự hiện hữu và sự sống mọi thụ tạo.” (Tv 33, 6; 104, 30; St 1, 2; 2, 7; Gv 3, 20-21; Xh 37, 10). Sang đến Tân Ước thì Đức Ki-tô luôn dạy dỗ môn đệ về Thần Khí Sự Thật. Không những chỉ là Lời giảng dạy, mà chính Đức Giê-su cũng chịu sự tác động mãnh liệt của Thần Khi (khi Người sinh ra tại hang đá Bê-lem, khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan, khi Người được Thàn Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ, khi Người biến hình trên núi Ta-bo, khi cầu nguyện kể cả khi Người tử nạn trên Gôn-gô-tha).

Đó là lý do cho thấy Giáo hội đã tuyên xưng Đấng Bảo Trợ mà Đức Giê-su Ki-tô hứa ban bằng 8 biểu tượng: Nước, Lửa, Xức Dầu, Áng Mây và Ánh Sang, Ấn Tín, Bàn Tay, Ngón tay, Chim Bồ Câu (Giáo Lý HTCG, số 694-701). Tất cả 8 biểu tượng đều thể hiện rõ rệt Tình Yêu Thiên Chúa. Trong ánh sáng Phục Sinh huy hoàng, người Ki-tô hữu hãy cầu xin Đấng Phục Sinh ban ngọn Lửa Mến để sưởi ấm tâm hồn, soi tỏ đường đi, và nhất là hun đúc dũng khí để tiến bước trên đường thực thi sứ vụ “đem Tình Yêu đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc”. Hãy tin tưởng và cầu nguyện, vì “Dù bị tội lỗi và cái chết làm biến dạng, con người vẫn “là hình ảnh Thiên Chúa”, là hình ảnh Chúa Con, nhưng “bị tước mất Vinh Quang Thiên Chúa” (Rm 3, 23), không còn “giống Thiên Chúa”. Lời hứa với Áp-ra-ham khai mạc nhiệm cục cứu độ cuối nhiệm cục này, chính Chúa Con sẽ đảm nhận “hình ảnh” (Ga 1, 14; Pl 2, 7) và tái tạo lại nét “giống” Chúa Cha bằng cách hoàn trả cho con người Vinh Quang là Thánh Thần “ban sự sống”. (Giáo lý HTCG, số 705).

Nói tóm lại, Đấng Bảo Trợ mà Đức Giê-su hứa sẽ xin Chúa Cha ban cho các môn đệ chính là Chúa Thánh Thần – ngọn Lửa Mến luôn thắp sáng niềm tin, sưởi ấm tâm hồn, hun đúc dũng khí người Ki-tô hữu trên hành trình thi hành sứ vụ (thực hành các điều răn của Thầy Chí Thánh). Hãy cầu xin với chính Đấng Phục Sinh hằng sẵn sàng ban cho môn đệ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 22), để được Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ đến thanh tẩy tâm hồn, soi sáng trí khôn, canh tân đời sống, gia tăng Lửa Mến, hiệp nhất muôn lòng.

Lạy Chúa! Xưa Chúa đã phán: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16, 13). Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí soi sáng cho chúng con hiểu được “sự thật toàn vẹn” về Đức Thánh Linh. Ôi! Lạy Chúa Thánh Thần! Xin thắp sáng trong lòng chúng con chứng từ yêu thương vô điều kiện và trung tín – là ngọn Lửa Mến – để chúng con vượt qua “cái tôi vị kỷ”, ra khỏi chính mình mà đến với anh em chúng con, nhất là những người nghèo khó, cô đơn, bệnh tật, già yếu, đặc biệt là những người bị xã hội bỏ rơi trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

--------------------------------

 

PS 6-A149: HỨA BAN THÁNH THẦN


P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn

 

Trang Tin Mừng hôm nay ( Ga 14, 15 -21) cho chúng ta một “ Chúc Thư “ tiếp theo của Chúa Giêsu PS 6-A149


Trang Tin Mừng hôm nay ( Ga 14, 15 -21) cho chúng ta một “ Chúc Thư “ tiếp theo của Chúa Giêsu, trong phần “ Chúc Thư “ nầy, có thể nói là phần hay nhất, tâm huyết nhất của Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ của Người, từ Gioan chương 14 -17. Ba chương liên tiếp, ghi lại những  “Lời Chúc Thư” của Chúa Giêsu để lại cho các Tông Đồ.

Theo đó, có thể nói trong Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Ga 14 , 15 -21) cho chúng ta ba ý chính:

Thứ nhất : Điều kiện để được yêu mến Chúa Giêsu .
Thứ hai : Hứa ban Thánh Thần
Thứ ba : Mạc khải ( Mặc khải ) sự hiệp thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa với những ai được kết hợp với Chúa Giêsu.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một sự mạc khải trọn vẹn, một niềm tin vững chắc, vì phàm nhân được chính Thiên Chúa cho kết hợp vì tình Ngài yêu thương con người một cách kỳ lạ, được Chúa Giêsu tỏ cho biết.

Vâng, triển khai Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một chiều kích tâm linh sâu sắc, bởi vì không có tình yêu nào chân thật, chân chính, vạn đại cho bằng  “điều “mà  được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là “ tình yêu”. Vâng, tình yêu là đề tài muôn thuở, mà phàm nhân không thể đón nhận trọn vẹn tại bất cứ nơi đâu , nếu như Thiên Chúa không trao ban. Vậy, Thiên Chúa đã trao ban một tình yêu duy nhất là Đức Kitô –Giêsu, Con Một thiên Chúa.

Theo đó, điều mà Chúa Giêsu “tâm huyết” cho các môn đệ của Người trong đó có chúng ta là một sự mạc khải trọn vẹn tình yêu duy nhất và vô biên bởi Thiên Chúa là Cha toàn năng, trong tình yêu ấy có một sự hiệp nhất kỳ diệu, siêu nhiên, mầu nhiệm đó là Thiên Chúa Ba Ngôi.

Ba Ngôi Thiên Chúa là Đấng trở nên tự có duy nhất , hằng hữu, vô biên, toàn năng để sinh ra muôn vật trong đó có con người là loài được mang hình ảnh Thiên Chúa ( có hữu hình).

Từ sự vô biên thông ban cho loài thụ tạo một sự ưu ái đặc biệt, mà ta gọi là tình yêu. Tình yêu vô biên không chiếm hữu như tình yêu xác thịt , mà là thông truyền sự sống, thông ban yếu tố Thần linh. Nên chi, theo đó, Lời Chúa là một trong những sự “thông ban“đó. Như vậy, từ câu 16, chính Chúa Giêsu nói : “ Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với an hem luôn mãi” ( c 16).

Vậy ,  “Đấng Bảo Trợ” khác sẽ ở cùng các môn đệ luôn mãi, chính là “Chúa Thánh Thần “. Như vậy, khi Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, có nghĩa là nơi trần thế , Người đã hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc, thì Chúa Thánh Thần sẽ hiện diện cách cụ thể để điều khiển con thuyền Hội Thánh. Như vậy, ý nghĩa trên không còn xa lạ gì với người Kitô hữu nữa. Bởi vì, xuất phát từ câu Lời Chúa ( Ga 14, 16). Theo đó, đặc điểm Chúa Thánh Thần đến với những ai tìn vào Đức Kitô, và nhờ đó, những ai chưa tin vào Đức Kitô, thì Chúa Thánh Thần chính là “Người nhạc trưởng” sẽ hướng dẫn họ trở thành chứng nhân Tin Mừng Nước Trời.

Vâng, yếu tố kỳ lạ nầy, trải qua bao thế hệ, Lời Hứa ban Thánh Thần của Chúa Giêsu hôm nay cho chúng ta một niềm xác tín vững chắc. Đó là gương các thánh, các ngài không tự mình làm được, nhưng , qua Lời của Chúa Giêsu, các ngài biết “đón nhận “ Chúa Thánh Thần, để Ngài hun đúc tâm can hầu trở nên khí cụ bình an của Chúa. Vâng , điều kiện để yêu mến Chúa Giêsu là tuân giữ các điều răn của Người, nhưng, nếu chúng ta không được ban Chúa Thánh Thần, mặc nhiên, chúng ta khó tuân giữ. Vì , Chúa Thánh Thần hun đúc và làm nên những điều lạ lùng, trải qua lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có biết bao điều kỳ diệu mà nhân thế không thể làm được, nhưng những người để cho Thánh Thần hướng dẫn có thể làm được mọi sự lạ lung, mà quen gọi là ”thánh”.

Vâng, gần đây nhất, ngay tại Việt Nam nầy, có một vị linh mục vừa qua đời vào ngày 10/05/2017, đó là cha Augustino Nguyễn Viết Chung, một cựu phật tử, có học vị là bác sĩ. Người đã cống hiến cuộc đời còn lại của mình để tìm gặp Chúa và đã gặp được Người ở tuổi 39, sau đó tiếp tục dấn thân vào con đường tu trì, để tiếp tục phục vụ Thiên Chúa qua người nghèo 23 năm và trong Thiên Chức linh mục 14 năm. Vừa kết thúc cuộc hành trình 62 năm tại dương thế. Cuộc đời cha Chung có thể nói là một cuộc đời được chính Chúa Thánh Thần viết lên một hành trình để treo gương , vì những nhân đức có thể nói “anh hùng” của cha là do chính Chúa Thánh Thần tác động. Một luồng gió tự nhiên thổi vào tâm hồn một chàng “sinh viên phật tử”, làm cho nó bùng phát lên một “ngọn lửa siêu nhiên” rực cháy trong linh hồn của một con người muốn bước theo Đức Kitô, để rồi sau đó, muốn dâng hiến trọn vẹn hơn trong đời sống thánh hiến. Và rồi trong hành trình “ngắn ngủi” của đời thánh hiến, cha Chung lại như bị” thiêu đốt” trọn vẹn để trở nên một tông đồ của Chúa Thánh Thần, cuối cùng phần thân xác được trở nên “tro bụi” đích thực . Như vậy, có thể nói, nếu như có “một luồng gió” khác của Chúa Thánh Thần, cha Chung có thể được tuyên thánh, vì cuộc đời cha như một vị thánh. Vâng, theo đó, thánh là những người được “Lửa Thánh Thần “ hun đúc. Mong thay !

Vâng, Lời Chúa hôm nay, chính là Chúa Giêsu muốn “tiết lộ” trọn vẹn sự thông hiệp cho tất cả những ai bước theo Người một chân lý hiệp thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa, Đấng đã ban Thánh Tử Giêsu cho nhân thế, để Người đến thế gian bày tỏ mầu nhiệm chân lý là Ba Ngôi Thiên Chúa, trong sự hiệp thông Thần Tính cao siêu ấy, Người tỏ cho thế gian biết và cho những ai “TIN” vào Người được hiệp thông trọn vẹn. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị trong sự hiệp nhất Ba Ngôi./. Amen.

--------------------------------

 

PS 6-A150: NẾU CON


Anna Cỏ May

 

Làn gió nhẹ lướt nhẹ qua khe cửa sổ. Tiếng ai đó vang lên: “Nếu con nghe lời mẹ thì con đâu PS 6-A150


Làn gió nhẹ lướt nhẹ qua khe cửa sổ. Tiếng ai đó vang lên: “Nếu con nghe lời mẹ thì con đâu bị thi rớt”. Một lời nói chua chát, trách móc của người mẹ về đứa con không chịu vâng lời mẹ. Cô bé thì nhận lấy kết quả không mong muốn. Và từ “nếu” chúng ta còn hay dùng trong giao tiếp, lúc nhờ một ai giúp mình hay một câu nói vui với nhau…

Bài Tin Mừng hôm nay, lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ sự ấm áp, thân thiện. Ngài nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”(x. Ga 14,15). Ngài dùng từ ngữ quen thuộc để nói với các môn đệ về sự yêu mến và tình yêu. Ngài diễn tả tình yêu tự do, không có chút trách móc. Một lời nói âu yếm và ẩn sâu sự khao khát của Ngài nơi các môn đệ. Sự khao khát ấy cũng không áp đặt các môn đệ mà cho các ông hoàn toàn tự do lựa chọn và quyết định về tình yêu. Khi chúng ta yêu một ai thì chúng ta luôn lắng nghe và làm theo những lời người mình yêu. Vì thế, Chúa Giêsu nói như vậy cũng để đánh vào tâm lý và thức tỉnh tình yêu trong tâm hồn các môn đệ.

Bầu khí trầm lặng, cõi lòng lâng lâng, các môn đệ chìm đắm trong lời của Chúa Giêsu. Ngài tiếp tục nói về tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ hai phía là chính Ngài và các môn đệ. Tình yêu của Ngài là hy sinh trên thập giá. Tình yêu với lời hứa ban Đấng Bảo Trợ. Ngài cũng không để các môn đệ mồ côi mà luôn ở giữa và ở trong các môn đệ. Đó là một tình yêu luôn tỏ mình ra cho người yêu thấy mọi sự. Tình yêu là từ bỏ và cho đi để người yêu được hạnh phúc. Tình yêu không có giới hạn cũng không có gì ngăn cản được và một tình yêu, yêu hết tất cả. Tình yêu có sự liên kết trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Đối với các môn đệ, Ngài chỉ mong các ông: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”(x. Ga 14, 21). Cũng lời nói này, Ngài cho các môn đệ biết Ngài sẽ dựa vào điều Ngài nói để xác định ai là kẻ yêu mến Ngài thực sự. Khi các môn đệ thực sự yêu mến Ngài thì các ông sẽ được gia tăng tình yêu của Chúa Cha và được nhìn thấy tất cả mọi sự nơi Ngài.

Ngày hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe để cùng với Giáo Hội thực hiện các điều răn Chúa trao ban cho chúng ta. Những điều răn ấy là điều nào? Mỗi chúng ta hãy nhớ lại và đi tìm cho mình. Bởi vì có đi tìm thì tình yêu của chúng ta đối với Chúa mới thật sự xứng đáng. Tình yêu sẽ sinh động và bền vững nếu chúng ta thực hành các điều răn ấy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ phận chúng con yêu đuối và chóng quên. Chúng con thích đi tìm và giữ những điều ở thế gian, mà lãng quên các điều răn của Ngài. Xin cho chúng con gia tăng lòng yêu mến, biết tìm kiếm các điều răn của Chúa, gạt bỏ những lo lắng xao xuyến sự đời để chuyên chăm thực thi ý Chúa. Nhờ đó, chúng con được chìm đắm trong tình yêu của Chúa. Amen.

------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây