1. Xem ra đơn nhất thể thêm gì cho hữu thể. Vì tất cả mọi vật ở trong một giống nhất định do một cái gì được thêm vào cho hữu thể: hữu thể thì bao gồm tất cả mọi giống; nhưng đơn nhất thể ở trong một giống nhất định, vì là khởi thuỷ của số: số là một loại của lượng.
2. Cái gì phân chia một cái gì chung, thì được thêm vào cho nó. Nhưng hữu thể được phân chia bởi đơn nhất thể và phức số thể. Vậy đơn nhất thể thêm cái gì cho hữu thể.
3. Nếu đơn nhất thể không thêm vào cho hữu thể, thì đơn nhất thể và hữu thể phải có cùng một ý nghĩa. Nhưng thật là tầm phào, nếu nói hữu thể là hữu thể; bởi đó, gọi hữu thể là đơn nhất thể, thì cũng vậy. Nhưng việc này là sai lầm. Do đó, đơn nhất thể thêm gì cho hữu thể.
TRÁI LẠI
Denys nói: Không cái gì hiện hữu mà không là đơn nhất thể một cách nào đó (De Div. Nom., V,2); điều này sai lầm: giả như đơn nhất thể là một cái gì được thêm vào cho hữu thể, theo ý nghĩa hạn định hữu thể. Bởi đó, đơn nhất thể không phải là một cái gì thêm vào cho hữu thể.
TRẢ LỜI
Đơn nhất thể không thêm một thực tại nào cho hữu thể, nhưng chỉ là sự phủ định sự phân chia; vì đơn nhất thể có nghĩa là hữu thể không phân chia. Chính do đó, đơn nhất thể được khả hoán với hữu thể. Vì tất cả mọi hữu thể là đơn giản thể, hoặc phức tạp thể (hợp vật). Nhưng cái gì đơn giản thì không phân chia cả hai thể cách hiện thể và tiềm thể; đàng khác, cái gì phức tạp không có sự hiện hữu bao lâu các phần tử của nó phân chia; nhưng phức tạp hữu này hiện hữu, sau khi các phần của nó hoà hợp và cấu tạo nó. Do đó, sự hiện hữu của bất cứ vật gì, cốt ở tại sự không phân chia; và như thế, tất cả mọi vật giữ gìn đơn nhất tính của mình như giữ gìn sự hiện hữu của mình.
GIẢI ĐÁP
1. Những người nghĩ rằng đơn nhất thể khả hoán với hữu thể không thêm một thực tại nào cho hữu thể, không phân chia, thì cũng nghĩ như thế đối với đơn nhất thể làm khởi thuỷ cho số. Và bởi vì số được cấu tạo bằng đơn vị, họ nghĩ rằng các số là các bản thể của tất cả mọi vật. Avicenna, trái lại, nhận xét đơn nhất thể làm khởi thuỷ cho số thêm một thực tại vào cho bản-thể của các hữu thể, vì nếu không được thêm vào cho một thực tại như thế, thì số được tạo nên do các đơn vị, không phải là một loại trọng lượng, nên chủ trương đơn nhất thể khả hoán với hữu thể, thêm một thực tại cho bản thể của các hữu thể, như màu trắng thêm vào cho con người (Metaph. 3,3). Nhưng chủ trương này rõ ràng là sai lầm, vì mỗi vật là đơn nhất thể do bản thể của nó. Vì nếu một vật là đơn nhất thể do một vật nào khác mà không phải do chính bản thể của nó, và vật khác này lại là đơn nhất thể khác nữa, chúng ta phải đi đến vô cùng. Bởi đó, chúng ta phải chấp nhận ý kiến thứ nhất; do đó, chúng ta phải nói rằng đơn nhất thể khả hoán với hữu thể, không thêm thực tại cho hữu thể; tuy nhiên, đơn nhất thể làm khơỏi thuỷ cho số thì không thêm thực tại nào cho hữu thể vì nó thuộc về giống lượng.
2. Không có gì ngăn cản một phân chia ở đàng này và không bị phân chia ở đàng khác, như cái gì phân chia theo số, thì không bị phân chia theo loại; như vậy, một vật là đơn nhất thể ở một đàng và phức số thể ở đàng khác. Nó bất phân cách đơn thường hay nó bất phân do yếu tố thuộc yếu tính của nó; (mặc dầu có thể nó bị phân chia theo những cái gì ở ngoài yếu tính của nó, như vật đơn nhất chủ thể, mà có nhiều tuỳ thể), hoặc nó bất phân cách hiện thể và bị phân chia trong yếu tính và bất phân trong trí năng hoặc trong nguyên lý, hoặc nguyên nhân. Nếu nó nhiều theo cách tuyệt đối, và đơn nhất cách tuỳ thể, như vật nhiều theo số, và đơn nhất theo loại, hoặc đơn nhất trong nguyên lý. Theo cách này mà hữu thể bị phân chia ra đơn nhất thể và phức số thể, dường như nó bị phân chia ra đơn nhất thể cách tuyệt đối và ra nhiều hữu thể cách tuỳ thể. Vì chính số nhiều không được bao hàm trong hữu thể, nếu nó không được bao hàm một cách nào đó trong đơn nhất thể. Bởi đó, Denys nói: không có một số nhiều nào mà không phải là đơn nhất thể một cách nào đó. Nhưng cái gì nhiều trong các phần của mình thì đơn nhất thể trong toàn thể của mình. Và cái gì nhiều trong các tuỳ thể thì đơn nhất thể trong chủ thể; và cái gì nhiều trong số thì đơn nhất thể trong loại; và cái gì nhiều trong loại thì đơn nhất thể trong giống; và cái gì nhiều trong sự tiến hành, thì đơn nhất thể trong nguyên lý (De Div. Nom. 13,2).
3. Do các sự trình bày ở trên, thì không phải là tầm phào, nếu nói hữu thể là đơn nhất thể, vì đơn nhất thể thêm một cái gì cho hữu thể đối với lý trí.
Xem ra đơn nhất thể và phức số thể không đối lập nhau. Vì không cái đối lập nào được chỉ về cho cái đối lập với nó. Nhưng tất cả phức số thể được chỉ về cho đơn nhất thể theo một thể cách nào đó, như thế ở Tiết 1. Bởi đó, phức số thể không đối lập với đơn nhất thể.
Không cái đối lập nào được cấu tạo bằng cái đối lập với nó. Nhưng phức số thể được cấu tạo bằng đơn nhất thể. Vậy đơn nhất thể không đối lập với phức số thể.
Mỗi vật có một cái đối lập. Mà cái đối lập với phức số thể là ít. Bởi đó, cái đối lập của phức số thể, không phải là đơn nhất thể.
Nếu đơn nhất thể đối lập với phức số thể, thì nó đối lập như cái bất phân đối lập với cái bị phân chia, và như thế, nó đối lập với phức số thể tình trạng không có đối lập với sự có: nhưng điều này phi lý, vì xảy ra đơn nhất thể đi theo sau phức số thể và được định nghĩa bởi phức số thể, trái lại, chính phức số thể được định nghĩa bởi đơn nhất thể: như thế có vòng luẩn quẩn trong định nghĩa không chấp nhận được. Vậy đơn nhất thể và phức số thể không đối lập nhau.
TRÁI LẠI
Các vật đối lập nhau trong ý tưởng, thì đối lập nhau. Nhưng ý tưởng về đơn nhất thể cốt ở tại sự bất khả phân; và ý tưởng về phức số thể chứa đựng sự phân chia. Vậy, đơn nhất thể và phức số thể đối lập nhau.
TRẢ LỜI
Đơn nhất thể đối lập với phức số thể, nhưng đối lập theo nhiều thể cách. Đơn nhất thể làm khởi thuỷ cho số, đối lập với phức số thể được coi là số, như vật đo lường đối lập với vật được đo lường. Vì đơn nhất thể bao hàm ý tưởng về vật đo lường đầu tiên; và số là phức số thể được đo lường bởi đơn nhất thể theo triết gia Aristote (Metaph. 9,1). Còn đơn nhất thể khả hoán với hữu thể, thì đối lập với phức số thể theo thể cách tình trạng không có như vật bất phân với vật bị phân chia.
GIẢI ĐÁP
Không một khuyết phạt nào lấy đi hết sự hiện hữu của một vật, vì khuyết phạp có nghĩa là sự huỷ thể ở nơi chủ thể, theo Triết gia Aristote (Metaph., 9,1). Tuy nhiên, mỗi khuyết phạp lấy đi một cái gì của hiện hữu và như vậy, trong một hữu thể, vì lý do tính cách chung, xảy ra sự khuyết phạp hiện hữu, có nền tảng ở nơi hữu thể. Sự có nền tảng ở nơi hữu thể như thế này, không xảy ra đối với các sự khuyết phạp, về mô thể riêng biệt như thị giác, màu trắng, và các mô thể như vậy. Và cái gì ứng dụng đối với hữu thể, thì cũng ứng dụng cho đơn nhất thể và thiện thể, vì đơn nhất thể và thiện thể thì khả hoán với hữu thể; vì sự khuyết phạp, về sự thiện, thì có nền tảng ở nơi một thiện thể nào đó; cũng vậy một mất mát về đơn nhất tính, có nền tảng trong một đơn nhất thể nào đó, sự xấu có nền tảng trong một thiện thể nào đó, và phi hữu có nền tảng trong một hữu thể nào đó. Một cái đối lập không chỉ về cho cái đối lập với nó, vì một trong hai cái đối lập này là hữu thể đơn thường, còn cái đối lập kia là hữu thể tuỳ phương, như ở tiềm thể, không phải là hữu thể đơn thường, tức là không ở hiện thể, hoặc là cái gì hữu thể cách đơn thường trong giống bản thể, thì phi hiện thể, hoặc là cái gì hữu thể cách đơn thường trong giống bản thể, thì phi hữu cách tuỳ phương, về phương diện một vài hiện hữu tuỳ thể. Cũng vậy, cái gì tốt cách tuỳ phương, có thể xấu các đơn phương và trái lại. Và cũng thế, cái gì đơn nhất cách đơn phương, thì nhiều cách tuỳ phương và trái lại.
Cái toàn thể bao gồm hai thứ: toàn thể đồng chất và toàn thể dị chất. Toàn thể đồng chất gồm những phần giống nhau, tức là những phần có mô thể của cái toàn thể; thì dụ, mỗi phần của nước: đó là sự cấu tạo của liên tục thể với các phần của nó.
Toàn thể dị chất gồm các phần khác nhau. Mỗi phần của toàn thể dị chất, không có mô thể của cái toàn thể: thí dụ, không một phần nào của cái nhà là cái nhà, không một phần nào của con người là con người. Nhiều hữu thể thuộc về thứ toàn thể này. Vì mỗi phần của nhiều hữu thể không có mô thể của nhiều hữu thể, nên nhiều hữu thể được cấu tạo bằng các đơn vị như cái nhà hoặc những cái không phải là nhà; không phải các đơn vị cấu tạo nên nhiều hữu thể với tư cách chúng nó bất khả phân, nhưng tuỳ theo chúng nó là những hữu thể: như vậy, các phần của một cái nhà, tạo nên cái nhà trong tư cách chúng nó là những vật liệu, chứ không phải trong tư cách chúng nó không phải là những cái nhà.
Phải nói là phức số thể hiểu hai thể cách: một cách tuyệt đối: theo thể cách này, phức số thể đối lập với đơn nhất. Theo thể cách hai, phức số thể có nghĩa là một sự quá thái và đối lập với ít. Do đó, thí dụ, theo cách thể thứ nhất, số hai là phức số thể, chứ không theo thể cách thứ hai.
Đơn nhất thể đối lập với nhiều hữu thể theo thể cách khuyết phạp vì ý tưởng, nên nhiều hữu thể bao gồm sự phân chia. Do đó, sự phân chia có trước đơn nhất tính không phải cách đơn thường, nhưng theo thể cách lãnh hội của chúng ta; chúng ta lãnh hội đơn nhất tính qua các phức tạp hữu (hợp vật), chúng ta định nghĩa điểm là cái không có phần hoặc là khởi thuỷ của đường. Vậy nhiều hữu thể theo ý tưởng, nhiều hữu thể theo sau đơn nhất thể vì trí năng chúng ta chỉ lãnh hội kết quả của sự phân chia là nhiều hữu thể, bởi vì nó quy đơn nhất tính về cho mỗi phần bị phân chia. Bởi đó, đơn nhất thể được đặt vào trong sự định nghĩa của nhiều hữu để mà nhiều hữu thể không được đặt vào trong lời định nghĩa của đơn nhất tính. Nhưng sự phân chia xảy đến trong trí năng chúng ta do chính sự phủ định vì hữu thể. Như thế, trước tiên xuất hiện trong trí năng ta một hữu thể; thứ đến, hữu thể này không phải là hữu thể kia và như vậy, chúng ta lãnh hội sự phân chia, như là một hậu kết; thứ ba, xuất hiện ý tưởng về đơn nhất thể; thứ bốn thành ra có ý tưởng về nhiều hữu thể.
Có lời: Quả thực thần cũng lắm mà Chúa cũng nhiều (1Cr 8,5).
Đơn nhất tính làm khởi thuỷ của số, không thể được chỉ về cho Thiên Chúa, vì lượng không được chỉ về cho Thiên Chúa. Cũng thế, đơn nhất thể khả hoán với hữu thể, cũng không được chỉ về cho Thiên Chúa, vì đơn nhất thể bao hàm sự khuyết phạp; mà tất cả mọi cái khuyết phạp đều là bất toàn: sự bất toàn sự bất toàn không thuộc chỉ về cho Thiên Chúa. Vậy, Thiên Chúa không đơn nhất.
TRÁI LẠI
Có lời ghi chép: “Hỡi Israel nghe đây! Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” (Đnl 6,4).
TRẢ LỜI
Người ta trình bày Thiên Chúa đơn nhất, do ba nguồn gốc:
Thứ nhất là do đơn nhất tính của Thiên Chúa: rõ ràng là cái lý do khiến một vật duy nhất, đó là một vật riêng biệt, không được chuyển thông cho nhiều vật: vì cái gì làm cho ông Socrates là một con người riêng biệt, chỉ được chuyển thông cho một cá nhân mà thôi. Bởi đó, nếu ông Socrates được là con người bởi cái làm cho ông thành ra con người riêng biệt này, như thế không thể có nhiều ông Socrates, cũng không thể có nhiều con người có cùng một cái như cái riêng biệt của ông Socrates. Vì thế, sự việc vừa nói càng thích hợp cho Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là chính cái bản tính của Thiên Chúa, tức là Thiên Chúa là Thiên tính, như đã trình bày ở trước (CH.3, t.3). Bởi đó, cũng theo một thể cách Thiên Chúa là Thiên Chúa và là Thiên Chúa này. Nên không có nhiều Thiên Chúa.
Thứ đến, vô cùng tính trong sự hoàn hảo của Thiên Chúa, chứng tỏ Thiên Chúa là đơn nhất. Đã minh chứng ở trước, Thiên Chúa bao hàm trong chính Thiên Chúa sự hiện hữu hoàn toàn nguyên vẹn. Vậy giả như có nhiều Thiên Chúa, tất nhiên các Thiên Chúa này phải phân biệt nhau. Cho nên mọi cái gì thuộc về Thiên Chúa này, thì không thuộc về Thiên Chúa kia. Thành ra có sự khuyết phạp: mỗi một trong các Thiên Chúa này tuyệt đối không hoàn hảo. Nếu điểm dị biệt này là một hoàn hảo, thì tất mọi Thiên Chúa khác thiếu đi một hoàn hảo. Do đó không thể có nhiều Thiên Chúa. Dường như chân lý này đã khiến các Triết gia thời cổ, khi đặt ra một nguyên lý vô cùng, thì chỉ đặt có một nguyên lý vô cùng duy nhất.
Nguồn gốc thứ ba, minh chứng Thiên Chúa đơn nhất, đó là đơn nhất tính của vũ trụ. Vì tất cả mọi vật hiện hữu, thì được nhận thấy là có sự sắp đặt trật tự quan hệ với nhau và phục vụ lẫn nhau. Nhưng các vật khác nhau, không cùng nhau vào trong cùng một trật tự, nếu chúng nó không được sắp xếp vào trật tự bởi một hữu thể duy nhất nào nó. Vì nhiều vật được xếp vào một trật tự bởi một hữu thể duy nhất tốt hơn là bởi nhiều hữu thể, vì đơn nhất thể là nguyên nhân nguyên thường tạo nên đơn nhất thể theo lời thường nói: mọi tác nhân tạo nên vật tương tự mình; còn nhiều hữu thể chỉ là nguyên nhân ngẫu trừ cho đơn nhất thể; theo mức độ chúng đơn nhất một cách nào đó. Cái gì thứ nhất, thì hoàn hảo nhất, và hoàn hảo cách nguyên thường, chứ không phải cách ngẫu trừ. Do đó, cái gì làm cho tất cả mọi sự vật xếp vào một trật tự đơn nhất mà thôi, cái đó là thứ nhất. Và cái thứ nhất này là Thiên Chúa.
GIẢI ĐÁP
Việc nói có nhiều Chúa, là do sự lầm lạc của một ít người thờ phụng nhiều thần mà nghĩ rằng các hành tinh, các định tinh là Thiên Chúa, và cả mỗi phần của vũ trụ cũng là Thiên Chúa. Bởi đó, thánh Tông đồ nói: Thiên Chúa của chúng tôi là Thiên Chúa đơn nhất (1Cr 8,6).
Cái đơn nhất làm khởi thuỷ cho số, không được chỉ về cho Thiên Chúa, nhưng chỉ về cho các vật chất thể mà thôi. Vì đơn nhất làm khởi thuỷ cho số, thuộc về giống toán học; môn toán học thì có chất thể trong sự hiện hữu, và được trừu xuất ra ngoài chất thể trong ý tưởng mà thôi. Còn đơn nhất khả khoán với hữu thể là cái gì siêu hình và không lệ thuộc vào chất thể trong sự hiện hữu của mình. Và dầu ở nơi Thiên Chúa không có sự khuyết phạp, nhưng theo thể cách lãnh hội của chúng ta, thì Ngài chỉ được chúng ta nhận biết theo đường lối khuyết phạp và trục xuất. Như vậy không phải là không có lý do mà một số từ ngữ, một cách khuyết phạp, được chỉ về cho Thiên Chúa, thí dụ, vô thể, vô cùng, và cũng theo cách đó, chúng ta nói Thiên Chúa đơn nhất.
Đơn nhất tính xuất hiện do tình trạng không có sự phân chia. Nhưng tình trạng khuyết phạp không có thể thêm lên hoặc bớt xuống. Bởi đó, Thiên Chúa không đơn nhất trong các vật khác cũng đều được gọi là đơn nhất.
Hơn nữa, không cái gì xem ra bất khả phân hơn sự vật bất khả phân cách hiện thể và tiềm thể, thí dụ, điểm và đơn vị. Nhưng một vật được nói là đơn nhất hơn theo mức độ nó là bất khả phân. Bởi đó, Thiên Chúa, không đơn nhất hơn là đơn vị đơn nhất và cái điểm là đơn nhất.
Cái gì hoàn hảo cách yếu tính, hoàn hảo tộc bực. Cho nên, cái gì đơn nhất cách yếu tính, thì đơn nhất tột bực. Mà tất cả mọi hữu thể là đơn nhất cách yếu tính theo lời nói của Triết gia (Metaph., 3,2). Bởi đó, tất cả mọi hữu thể là đơn nhất tột bực. Vậy Thiên Chúa không đơn nhất hơn bất cứ hữu thể đơn nhất nào khác.
TRÁI LẠI
Boèce nói: Trong tất cả mọi hữu thể, được gọi là đơn nhất, đơn nhất tính của Thiên Chúa chiếm điểm tột bực (Ce Consider, 5,8).
TRẢ LỜI
Đơn nhất thể là hữu thể bất phân, nếu vật nào đơn nhất tột bực, nó phải là đơn nhất tột bực và bất phân tột bực. Hai yếu tố này thuộc về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa hiện hữu tột bực, Ngài là hiện hữu lập hữu, không bị hạn định bởi bản tính nào được kết hợp với Ngài; vì Thiên Chúa là chính cái yếu tính lập hữu và vô hạn định tuyệt đối. Và Ngài là bất phân tột bực, không bị phân chia cách hiện thể và tiềm thể bởi một thể cách phân chia nào. Ngài hoàn toàn đơn giản, như đã trình bày ở trước (CH. 3, t.7). Vậy, rõ ràng Thiên Chúa là đơn nhất ở cực cấp.
GIẢI ĐÁP Dầu tất cả mọi tình trạng không có được nghiên cứu trong chính nó, chúng nó vẫn không chấp nhận hơn kém; nhưng vì đối lập của chúng lãnh nhận hơn kém, nên chính tình trạng không có cũng được lãnh nhận hơn kém. Vậy một vật hơn kém bị phân chia hoặc không phân chia chút nào, hoặc không thể phân chia chút nào, thì vật ấy được nói là hơn kém đơn nhất hoặc tột bực đơn nhất.
Điểm và đơn vị khởi thuỷ của số, không hiện hữu tột bực, bởi chúng nó chỉ có hiện hữu trong chủ thể nào đó. Bởi đó cả hai không phải là đơn nhất tột bực. Vì như chúng nó không phải là đơn nhất tột bực bởi có sự dị biệt chủ thể và tuỳ thể, thì chủ thể và tuỳ thể không phải là đơn nhất tột bực.
Dầu mỗi hữu thể đơn nhất trong bản thể của mình, nhưng tất cả mọi bản thể không phải làm nguyên nhân cho đơn nhất tính theo một thể cách bằng nhau, vì bản thể của một số vật thì hỗn hợp và bản thể một số vật khác thì không.